Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Đề án dự báo về nền nông nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.91 KB, 33 trang )

Đề án dự báo

Lời nói đầu
Cây lúa ln giữ vị trí trung tâm trong nơng nghiệp và kinh tế Việt Nam.
Hình ảnh đất Việt thường được mơ tả như là một chiếc đòn gánh khổng lồ với hai
đầu là hai vựa thóc lớn là ĐBSH và ĐBSCL. Sản xuất lúa gạo đóng vai trị đặc
biệt quan trọng trong phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn Việt Nam.
Khoảng 80% trong tổng số 11 triệu hộ nông dân tham gia sản xuất lúa gạo, chủ
yếu dựa vào phương thức canh tác thủ công truyền thống. Do sản xuất lúa gạo là
nguồn thu nhập và cung cấp lương thực chính của các hộ nơng dân, nên chính
sách phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn gắn liền với phát triển ngành
hàng lúa gạo. Trong gần ba thập kỷ qua nhờ có đổi mới cơ chế quản lý, Việt Nam
đã đạt được những thành tựu lớn trong sản xuất lúa gạo , không những đáp ứng
đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước mà hàng năm còn xuất khẩu được 3-4 triệu tấn
gạo. Tuy nhiên ngành lúa gạo Việt Nam vẫn còn có nhiều khó khăn và thách
thức, đặc biệt là dưới sức ép cạnh tranh ngày một tăng của quá trình hội nhập
quốc tế. Hiện nay năng suất lúa bình quân chung của cả nước đạt khoảng 4,5 tấn/
ha, song giữa các vùng sinh thái khác nhau lại có sự chênh lệch đáng kể về năng
suất lúa . Ở các vùng đồng bằng một số hộ nông dân trồng lúa đã đạt được năng
suất rất cao, 10-12 tấn/ha, trong khi đó năng suất lúa ở các vùng trung du miền
núi và các vùng đất cát duyên hải thường lại rất thấp, chỉ đạt bình quân khoảng
trên 2 tấn/ha. Luợng gạo tham gia vào lưu thông chủ yếu từ hai nguồn cung cấp
chính là Đồng Bằng sơng Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng .Trên thực tế, các
vùng sản xuất nông nghiệp nằm ngồi các châu thổ lớn đều khơng có gạo dư
thừa, ngoại trừ một vài năm gần đây ở một số địa phương vùng cao, nông dân
được mùa do thời tiết thuận lợi, nên lượng gạo sản xuất đã vượt mức tiêu dùng
địa phương. Sản xuất lúa gạo ở các vùng duyên hải và trung du miền núi chủ yếu
nhằm đáp ứng nhu cầu lương thực tại chỗ, mang tính tự cung tự cấp, và vẫn cịn
tình trạng một số hộ nơng dân khơng đủ lương thực cho gia đình từ một đến hai
tháng trong năm. Thiếu việc làm để đảm bảo thu nhập ổn định và thiếu vốn để
mua vật tư thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp đang là những trở ngại lớn


trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn Việt Nam.
Xuất khẩu gạo trong những năm qua đã đạt được những thành tựu đáng kể,
mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước phục vụ cơng nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước và cho chính ngành nơng nghiệp. Tận dụng lợi thế so sánh khi đất
nước gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, trong những năm tới, xuất khẩu
gạo sẽ là một trong những ngành mũi nhọn đưa Việt Nam tiến nhanh trên con
đường hội nhâp với khu vực và thế giới.

Page 1 of 33

1


Đề án dự báo

Chương I: Khái quát chung về nền nông nghiệp Việt Nam:
I. Đặc điểm NNNT Việt Nam :
1. Nơng nghiệp nước ta đang từ tình trạng lạc hậu, tiến lên xây dựng nền
nơng nghiệp sản xuất hàng hóa theo định hướng XHCN
Đặc điểm này cho thấy xuất phát điểm của nền nông nghiệp nước ta khi
chuyển lên xây dựng, phát triển ngành nơng nghiệp sản xuất hàng hóa là rất thấp
so với các nước trong khu vực và thế giới. Đến nay nhiều nước có nền kinh tế
phát triển, nơng nghiệp đã đạt trình độ sản xuất hàng hóa cao, nhiều khâu cơng
việc được thực hiện bằng máy móc. Năng xuất ruộng đất và năng xuất lao động
đạt trình độ cao, tạo ra sự phân cơng lao động sâu sắc trong nơng nghiệp và tồn
bộ nền kinh tế quốc dân. Tỉ lệ dân số và lao động nông nghiệp giảm xuống cả
tương đối và tuyệt đối. Đời sống người dân nông nghiệp và nông thôn được nâng
cao ngày càng xích gần với thành thị.
Trong khi đó, nơng nghiệp nước ta với điểm xuất phát còn rất thấp, cơ sở vật
chất cịn nghèo nàn, kết cấu hạ tầng nơng thơn cịn yếu kém, lao động thuần nơng

cịn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lao động xã hội, năng xuất ruộng đất và năng
xuất lao động còn thấp… Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, khẳng định
phát triển nền nông nghiệp nhiều thành phần và hộ nông dân được xác định là
đơn vị tự chủ, nông nghiệp nước ta đã có bước phát triển và đạt được những
thành tựu to lớn, nhất là về sản lượng lương thực. Sản xuất lương thực chẳng
những trang trải được nhu cầu trong nước, có dự trữ mà cịn dư thừa để xuất
khẩu. Bên cạnh đó một số sản phẩm khác cũng phát triển khá như cà phê, chè,cao
su, hạt điều… đã và đang là nguồn xuất khẩu quan trọng. Nông nghiệp nước ta
đang chuyển từ tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa. Nhiều vùng của đất nước
đang chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng giảm tỉ
trọng sản phẩm nông nghiệp tăng sản phẩm phi nông nghiệp.
Để đưa nền kinh tế nông nghiệp nước ta phát triển trình độ sản xuất hàng hóa
cao, cần thiết phải bổ sung và hoàn thiện chiến lược phát triển nông nghiệp và
nông thôn. Khẩn trương xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp và hệ
thống kết cấu hạ tầng ở nông thôn phù hợp. Bổ sung hồn thiện và đổi mới hệ
thống chính sách kinh tế nơng nghiệp nhằm tiếp tục giải phóng sức sản xuất, tạo
động lực thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển. Tăng cường đào tạo và bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ KH-KT, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh
cho nông nghiệp và nông thôn.
2. Nền nông nghiệp nước ta là nền nông nghiệp nhiệt đới có pha trộn tính
chất ơn đới nhất là ở miền Bắc và được trải rộng trên 4 vùng rộng lớn, phức
tạp: trung du, miền núi, đồng bằng và ven biển.
Đặc điểm này đem lại cho nông nghiệp nhiều thuận lợi cơ bản, đồng thời
cũng có khó khăn rất lớn trong q trình phát triển sản xuất nơng nghiệp. Thời
tiết nước ta có những thuận lợi rất cơ bản. Đó là lượng mưa bình quân hàng năm
tương đối lớn, đảm bảo nguồn nước ngọt rất phong phú cho sản xuất và đời sống,
có nguồn năng lượng mặt trời dồi dào( cường độ, ánh sáng, nhiệt độ trung bình
hằng năm là 23°C…) tập đồn cây trồng và vật ni phong phú, đa dạng. Nhờ
những thuận lợi cơ bản đó mà ta có thể gieo trồng và thu hoạch quanh năm với
Page 2 of 33


2


Đề án dự báo

nhiều cây trồng và vật nuôi phong phú, có giá trị kinh tế cao, như cây cơng
nghiệp lâu năm, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả.
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, điều kiện thời tiết khí hậu nước ta cũng có
nhiều khó khăn lớn như: mưa nhiều và lượng mưa thường tập trung vào tháng ba
trong năm gây lũ lụt ngập úng. Nắng nhiều thường gây nên khơ hạn có nhiều
vùng thiếu nước cho cả người vật ni sử dụng. Khí hậu ẩm ướt, sâu bệnh, dịch
bệnh dễ phát sinh và lây lan gây ra những tổn thất lớn đối với mùa màng.
Trong quá trình đưa nơng nghiệp nước ta lên sản xuất hàng hóa, chúng ta tìm
mọi cách để phát huy những thuận lợi cơ bản và hạn chế những khó khăn do điều
kiện khắc nghiệt của thiên nhiên gây ra đảm bảo cho nơng nghiệp phát triển
nhanh chóng và vững chắc.
3. Trong thời kì đổi mới, nơng nghiệp nước ta đã có nhiều đổi thay và đạt
được nhiều thành tựu to lớn.
 Với diện tích đất nơng nghiệp rộng lớn, kĩ thuật canh tác liên tục được đổi
mới làm cho sản lượng nông nghiệp tăng cao, không những giải quyết được vấn
đề lương thực trong nước mà còn phục vụ cho xuất khẩu đem lại nguồn thu lớn
cho quốc gia
 Trong thời kì dài, nông nghiệp nước ta là nông nghiệp độc canh lúa nước, từ
khi giải quyết được vấn đề lương thực mới có điều kiện để đa dạng hóa theo
hướng giảm tỉ trọng cây lương thực, tăng tỉ trọng cây công nghiệp, cây ăn quả.
 Lương thực dồi dào, nguồn thức ăn phong phú đã tạo điều kiện để phát triển
chăn ni. Trâu, bị, lợn, chăn ni gia cầm đang phát triển mạnh về số lượng và
chủng loại, cùng với phương thức chăn nuôi truyền thống, nông dân đã tiếp thu
phát triển chăn nuôi kiểu công nghiệp. Những năm gần đây thủy sản đã có bước

phát triển đáng kể, cơng tác nuôi trồng thủy sản được coi trọng, nhất là vùng ven
biển.
 Từ nền nông nghiệp tự cung tự cấp chuyển sang sản xuất hàng hóa, nơng
nghiệp nước ta đã và đang từng bước hình thành các vùng sản xuất chuyên mơn
hóa với quy mơ lớn. Thành cơng lớn nhất trong việc xây dựng chun mơn hóa
phải kể đến là cây cà phê, cây cao su…
 Nơng nghiệp đã góp phần quan trọng trong việc tăng nguồn hàng xuất khẩu,
tăng nguồn ngoại tệ cho đất nước. Với quan điểm xuất khẩu để tăng trưởng kinh
tế, nơng nghiệp nước ta đã có những tiến bộ và chuyển biến tích cực. Năm 2000
kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đã tăng lên 4,308 tỉ USD
 Công nghiệp và dịch vụ nông thôn đã bắt đầu khởi sắc, những ngành nghề
và làng nghề truyền thống được khôi phục và phát triển. Hệ thống dịch vụ được
mở rộng, thông qua các chợ, cửa hàng, các tụ điểm dân cư, các thị trấn, thị tứ
đang trở thành những nơi giao lưu kinh tế văn hóa của các làng xã để tiếp cận với
thị trường. Bộ mặt nông thôn nhiều nơi đã đổi mới, đời sống vật chất và tinh thần
được cải thiện rõ rệt.
4. Các vùng sản xuất lúa của Việt Nam:

Page 3 of 33

3


Đề án dự báo

Hai vùng sản xuất lúa chính của Việt Nam là Đồng bằng sông Hồng và Đồng
bằng sông Cửu Long. Mặc dù hai châu thổ này chỉ chiếm khoảng 15% tổng diện
tích nhưng đã sản xuất ra trên 2/3 sản lượng gạo của cả nước, ngồi ra cịn sản
xuất cây ăn quả, chăn ni gia đình và thuỷ sản. Vùng Đơng Bắc và Tây Bắc có
tỉ lệ người nghèo cao, nhiều núi đồi và là nơi sinh sống của nhiều dân tộc thiểu

số. Trồng ngô, chăn nuôi, cây ăn quả và nghề rừng là các hoạt động nông nghiệp
khá phổ biến. Vùng duyên hải Bắc và Nam Trung Bộ có diện tích hẹp với nhiều
núi đồi, sản xuất lúa gạo qui mô nhỏ, chăn nuôi và thuỷ sản là các ngành sản xuất
quan trọng. Tây Nguyên là cao nguyên trù phú chủ yếu tập trung cho sản xuất cà
phê và các cây công nghiệp. Đông Nam Bộ, vùng đất bao quanh thành phố Hồ
Chí Minh, có mức độ đơ thị hố cao và là nơi tập trung nhiều cơ sở chế biến
nông sản, sản xuất nông nghiệp khá đa dạng, bao gồm cây công nghiệp, cây ăn
quả, chăn nuôi tập trung và thuỷ sản. Rải rác ỏ các vùng này đều có các cánh
đồng trồng lúa tưới, lúa rẫy và lúa nước trời.
5. Các giống lúa chủ yếu của Việt Nam :
Việt Nam trồng khá nhiều loại giống lúa khác nhau, tuỳ thuộc vào điều kiện
của từng vùng sinh thái và từng mùa vụ. Các tỉnh phía Bắc sử dụng nhiều loại
giống lúa nhập từ Trung Quốc và lúa ưu thế lai (chủ yếu là do khả năng thích
ứng của các giống lúa Trung Quốc với điều kiện đất đai khí hậu của miền Bắc),
trong khi đó các tỉnh phía Nam lại trồng nhiều giống lúa IR có nguồn gốc từ Viện
lúa quốc tế (IRRI). Mặc dù có hàng trăm giống lúa khác nhau, nhưng chỉ có 10
giống lúa được trồng phổ biến nhất, chiếm tới 60% tổng diện tích gieo trồng lúa
cả nước. Trong số các giống lúa cịn lại, mỗi giống chỉ chiếm khơng q 1% tổng
diện tích gieo trồng. Theo điều tra của Bộ Nơng nghiệp & PTNT năm 2000, cả
nước mỗi vụ trồng trên 200 giống lúa khác nhau. Tuy nhiên số lượng giống lúa
được trồng ở từng vùng và từng vụ có khác nhau. Vụ Đơng-Xn ở miền Trung
có số lượng giống lúa ít nhất, nhưng cũng đã là 131 giống lúa khác nhau.
Hiện nay các tỉnh phía Bắc chủ yếu trồng các giống lúa lai và lúa thuần Trung
Quốc (khoảng 60% diện tích). Khang Dân 18 và Q5 là hai giống lúa trồng tương
đối phổ biến trong vụ Đông-Xuân (15 và 12%) và vụ Mùa (18 và 14%).
Đối với nông dân miền Trung, giống lúa IR có vị trí quan trọng hơn. Hai
giống lúa được trồng nhiều nhất là IR17494 và Khang Dân 18 chiếm 21% và
13% trong vụ Đông-Xuân và koảng 12% và 8% trong vụ Hè-Thu.
IR50404 và OM1490 là hai giống lúa được trồng nhiều nhất ở các tỉnh phía
Nam, chiếm khoảng 16% trong vụ Đông-Xuân và 15% trong vụ Hè-Thu. Mặc dù

giống IR64 là giống lúa chính phục vụ cho xuất khẩu nhưng chỉ chiếm 9-11%
diện tích gieo trồng trong vụ Đông-Xuân và Hè Thu ở miền Nam.
II. Sản lượng lúa Việt Nam:
1. Diện tích gieo trồng

Page 4 of 33

4


Đề án dự báo

Sự thay đổi diện tích trồng lúa của Việt Nam có thể chia làm 3 giai đoạn. Giai
đoạn từ năm 1979 đến năm 1989, diện tích và sản lượng lúa ổn định, nhưng kết
quả đạt mức thấp, với diện tích khoảng 5,4-5,8 triệu ha và sản lượng cao nhất đạt
18 triệu tấn. Giai đoạn Đổi Mới từ năm 1990-1999, diện tích và sản lượng lúa
tăng trưởng mạnh. Diện tích lúa tăng từ 6 triệu ha năm 1990 lên 7,66 triệu ha vào
năm 1999, mức cao nhất trong lịch sử lúa gạo Việt Nam. Năm 1998 là năm đầu
tiên sản lượng lúa đạt trên 30 triệu tấn, cao hơn 70% so với mức 19 triệu tấn của
năm 1990.
Trong giai đoạn 2002-2007, diện tích lúa cả nước thu hẹp 292.000 ha. Xu
hướng giảm diện tích lúa diễn ra ở hầu hết các vùng trên cả nước, trừ hai vùng
Tây bắc và Tây Nguyên. Trong giai đoạn này, diện tích lúa ĐBSH giảm nhiều
nhất, hơn 105.000 ha, ĐBSCL giảm hơn 62.000 ha, Bắc Trung bộ giảm 39.000
ha, Đông Nam bộ giảm 30.000 ha, Đông Bắc giảm 20.000 ha, Nam Trung bộ
giảm 7.000 ha. Diện tích lúa thu hẹp chủ yếu là do giảm diện tích lúa vụ mùa, lúa
vụ ba do các địa phương chuyển đổi diện tích lúa năng suất thấp sang các cây
trồng có giá trị kinh tế cao hơn. Trong tổng diện tích lúa giảm của cả nước giai
đoạn 2002-2007, diện tích lúa mùa giảm chiếm tới 75% (giảm 220.000 ha), diện
tích lúa đơng xn giảm chiếm 16% (47.400 ha), và cịn 8% là phần diện tích

giảm lúa hè thu (26.000 ha). Theo số liệu của ước tính của Bộ NN&PTNT, tổng
diện tích lúa năm 2007 chỉ đạt khoảng 7,2 triệu ha, mức thấp nhất kể từ năm
1997 đến nay. Trong đó, diện tích lúa đơng xn 2,98 triệu ha, thấp hơn khoảng
20.000 ha so với diện tích lúa đơng xn bình qn hàng năm giai đoạn (19972007). Diện tích lúa hè thu năm 2007 đạt 2,26 triệu ha, xấp xỉ diện tích lúa hè thu
bình qn hàng năm trong 10 năm trở lại đây. Năm 2007, năm đầu tiên trong lịch
sử trồng lúa Việt Nam, diện tích lúa mùa giảm xuống mức thấp nhất đạt mức
1,95 triệu ha, giảm hơn nửa triệu ha so với năm 1997, và giảm gần 1 triệu ha so
với năm 1986.
Vụ đơng xn 2006- 2007, diện tích lúa cả nước đạt 2.984 ha, giảm 4.000 ha
so với năm trước, trong đó trong đó diện tích lúa đơng xn miền Bắc 1.136
nghìn ha, giảm 11,2 nghìn ha, miền Nam gieo 1848,2 nghìn ha, tăng gần 8 nghìn
ha.
Diện tích gieo cấy lúa hè thu và lúa mùa đều thấp hơn cùng kỳ năm trước, do
các địa phương tiếp tục chuyển một phần diện tích lúa năng suất thấp sang gieo
trồng cây cơng nghiệp, cây ăn quả, rau màu và nuôi trồng thuỷ sản. Theo báo cáo
của các địa phương, tính đến trung tuần tháng 8 cả nước đã gieo cấy được 2014,7
nghìn ha lúa hè thu, bằng 89,7% cùng kỳ năm trước, trong đó đồng bằng sơng
Cửu Long đã gieo cấy 1619,6 nghìn ha, bằng 87,8%. Lúa mùa cũng đã gieo cấy
được 1418,3 nghìn ha, bằng 95,9%, trong đó các địa phương phía Bắc gieo cấy
1149,8 nghìn ha, bằng 96,7%; các địa phương phía Nam gieo cấy 268,5 nghìn ha,
bằng 92,7%.
Lúa là cây trồng chính, là nguồn thu nhập chính của trên 10 triệu hộ nông dân
cả nước. Trong 20 năm đổi mới, sản xuất lúa tăng trưởng liên tục cả diện tích,
năng suất và sản lượng. Năm 1976, diện tích gieo trồng lúa chỉ có 5,28 triệu hécta, năng suất bình qn 24 tạ/héc-ta/vụ và sản lượng 11,8 triệu tấn, đến năm 2006
đạt tương ứng đã lên tới 7,3 triệu héc-ta; 47,7 tạ/héc-ta và 35,8 triệu tấn. Xu
hướng giảm diện tích gieo trồng lúa cả nước liên tục trong các năm tiếp theo với
Page 5 of 33

5



Đề án dự báo

quy mô và tốc độ khác nhau, chủ yếu theo hướng giảm diện tích gieo cấy lúa vụ
3 và vụ mùa năng suất thấp, chuyển một phần đất lúa năng suất thấp, đất khô hạn
chuyển sang trồng màu, đất trũng và đất ven biển chuyển sang nuôi trồng thủy
sản, chủ yếu ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long , đất lúa ven đô thị năng
suất thấp chuyển sang trồng rau, hoa, cây ăn quả điển hình là ở các tỉnh đồng
bằng sơng : các tỉnh Nam Trung Bộ chuyển dịch cơ cấu từ ba vụ lúa ngắn ngày
sang hai vụ lúa trung ngày cho tổng sản lượng ổn định và cao hơn sản xuất ba vụ
lúa ngắn ngày.

Diện tích trồng lúa Việt Nam ( nghìn ha )

Diện tích

m

Chia ra
Tổng
số

199
0

604
2,8

199
1


630
2,8

199
2

647
5,3

199
3

655
9,4

199
4

659
8,6

199
5

676
5,6

199
6


700
3,8

199
7

709
9,7

199
8

736
2,7

199
9

765
3,6

200
0
Page 6 of 33

766
6,3

Lúa

Đ_X
207
3,6
216
0,6
227
9,0
232
3,6
238
1,4
242
1,3
254
1,1
268
2,7
278
3,3
288
8,9
301
3,2

Lúa
H_T
121
5,7
138
2,1

144
8,6
154
9,1
158
6,1
174
2,4
198
4,2
188
5,2
214
0,6
234
1,2
229
2,8

Lúa
mùa
275
3,5
276
0,1
274
7,7
268
6,7
263

1,1
260
1,9
247
8,5
253
1,8
243
8,8
242
3,5
236
0,3
6


Đề án dự báo

200
1

749
2,7

200
2

6,9
750


4,3
200

3

200
200
6

bộ
2007

5,5

234

203
7,8

231
7,4

298
8,5

210
0,6

9,3
299


720
1,0

236

294

732

210
9,3

6,2

2,1

4,8

232

297

732

217
7,6

0,0


8,5

9,2

229

302

744

222
5,0

3,7

2,9

5,3

5

303

745

200

221
0,8


3,0

2,2

4

305

201
1,9

220
4,8

200
7,7
Nguồn tổng cục thống kê

2. Năng suất
Năng xuất lúa trong thời kỳ đổi mới đã liên tục gia tăng mặc dù diện tích đất
gieo trồng có xu hướng bị thu hẹp do tốc độ cơng nghiệp hóa quá nhanh. Trong
mỗi thời kỳ, năng xuất của các địa phương có sự tăng giảm khác nhau song nhìn
chung cả nước năng xuất lúa đã có bước tăng trưởng đáng kể.

Bảng năng xuất lúa Việt Nam (tạ/ha)


m

CẢ

NƯỚ
C

199
5

36,
9

199
6

7
199

Page 7 of 33

37,
38,

Đồng
bằng
sông
Hồng
44,
4
28,
2
28,


Duyên
hải
Nam
Trung
Bộ
33,
5
36,
2
36,

Tây
Nguyê
n
24,
4
21,
9
22,

Đồng
bằng
sông
Cửu
Long
40,
2
40,
1
39,

7


Đề án dự báo

7

8
199

8

6
199

9
0

41,

200

42,

200

45,

200
3


46,
4

200
4

48,
6

200
5

48,
9

200
6

48,
9

200

49,
8

3

37,


50,
4

42,
6

50,
9

48,
7

3
49,

56,
7

39,

47,

58,

46,
8

5


3

0

38,

47,

54,

46,
2

6

1

3

32,

46,

57,

42,
2

5


0

8

35,

42,

54,

42,
3

7

8

8

33,

41,

56,

40,
9

2


2

4

30,

39,

53,

40,
7

8

8

4

9

39,

54,

8
22,

0


2

3

9

2

54,

42,

1
36,

8

6

4

1

8
32,

6

0
200


7

1
39,

48,
3

41,
9

50,
6

Nguồn tổng cục thống kê
3. Sản lượng
Sản lượng lúa từ mức 11,8 triệu tấn năm 1976, tăng lên tới 17 triệu tấn năm
1986 và vượt ngưỡng 20 triệu tấn vào năm 1992, nhanh chóng đạt trên mức 30
triệu tấn năm 1998, và duy trì trên mức 35 triệu tấn cho đến nay, sau khi đạt mức
sản lượng lúa cao nhất 36,15 triệu tấn năm 2004. Năm 2005 sản lượng lúa cả
nước đạt 35,86 triệu tấn. Năm 2006 sản lượng lúa cả nước đạt 36,2 triệu tấn .
Năm 2007 ước sản lượng lúa cả nước đạt 37 triệu tấn, trong đó, lúa đơng xn
17,7 triệu tấn, lúa hè thu 10,6 triệu tấn, lúa mùa 8,7 triệu tấn

Sản lượng lúa Việt Nam (nghìn tấn )

Page 8 of 33

8



Đề án dự báo

Sản lượng
Chia ra

m

Tổng
số

199
0

1922
5,1

199
1

1962
1,9

199
2

2159
0,4


199
3

2283
6,5

199
4

2352
8,2

199
5

2496
3,7

199
6

2639
6,7

199
7

2752
3,9


199
8

2914
5,5

199
9

3139
3,8

200
0

3252
9,5

200
1

3210
8,4

200
2

3444
7,2


200
3

3456
8,8

200
4

3614
8,9

200
5

3583
2,9

200
6
Sơbộ
2007

3584
9,5
3586
7,5

Lúa
Đông

xuân
7865,
6
6788,
3
9156,
3
9035,
6
1050
8,5
1073
6,6
1220
9,5
1331
0,3
1355
9,5
1410
3,0
1557
1,2
1547
4,4
1671
9,6
1682
2,7
1707

8,0
1733
1,6
1758
8,2
1702
4,0

Lúa Hè
thu
4090,
5
4715,
8
4907,
2
5633,
1
5679,
4
6500,
8
6878,
5
6637,
8
7522,
6
8758,
3

8625,
0
8328,
4
9188,
7
9400,
8
1043
0,9
1043
6,2
9693,
9
1011
1,6

Lúa
mùa
726
9,0
811
7,8
752
6,9
816
7,8
734
0,3
772

6,3
730
8,7
757
5,8
806
3,4
853
2,5
833
3,3
830
5,6
853
8,9
834
5,3
864
0,0
806
5,1
856
7,4
873
1,9
Nguồn tổng cục thống kê

Page 9 of 33

9



Đề án dự báo

Chương II: Đặc điểm thị trường gạo
I. Các chủng loại chủ yếu và công nghệ chế biến của gạo Việt Nam:
1. Các mặt hàng chủ yếu
Gạo chất lượng cao của VN có 2 loại: gạo có phẩm chất tốt và gạo thơm, gạo
đặc sản như: Nàng Thơm Chợ Đào (Long An), gạo Nàng Nhen (An Giang)...
Hiện tại, sản lượng gạo thơm VN đang cung ứng cho thị trường khoảng
100.000 tấn/năm nên khả năng phát triển ở thị trường này chỉ giới hạn ở mức từ
100.000 – 200.000 tấn/năm. Trong khi đó, thị trường thế giới đang cần khoảng
26 triệu tấn gạo dài các loại/năm, trong đó gạo dài thường chiếm khoảng 20 triệu
tấn/năm.
2. Công nghệ chế biến
Ngành chế biến xay xát lúa gạohiện đang trong quá trình chuyển từ chủ yếu
dựa vào chế biến quy mô nhỏ phục vụ tiêu dùng nội địa (có ít các nhà máy xay
qui mô lớn phục vụ xuất khẩu) tiến tới một mơ hình chế biến cơng nghiệp hiện
đại hơn, với nhiều nhà máy chế biến quy mơ lớn. Trình độ công nghệ áp dụng
trong chế biến lúa gạo của Việt Nam hiện vẫn lạc hậu, chất lượng gạo chế biến
thấp, tỉ lệ hao hụt lớn và tỉ lệ gạo vỡ cao. Một trong những ngun nhân chính
làm chậm q trình hiện đại hố cơng nghệ ngành chế biến lúa gạo là thiếu vốn
đầu tư. Hệ thống cung cấp tín dụng chính thức ưu tiên phục vụ cho các doanh
nghiệp quốc doanh và chưa phát huy được khả năng cạnh tranh có hiệu quả của
khu vực kinh tế tư nhân. Hơn nữa, phần lớn các hợp đồng chính phủ được giao
cho các công ty quốc doanh thực hiện, nên khả năng mở rộng hoạt động xuất
khẩu của khu vực kinh tế tư nhân không tương đồng.
Công nghệ sau thu hoạch và tổ chức thị trường lúa gạo đang bộc lộ nhiều mặt
hạn chế: sản xuất manh mún theo từng hộ cá thể, giống lúa bị pha tạp, hạt lúa
nhiều lúc bị mất phẩm chất do phơi sấy không đúng kỹ thuật, doanh nghiệp xuất

khẩu phải mua lúa qua các hàng xáo... dẫn đến chất lượng hàng hóa khơng ổn
định
Chất lượng gạo ngoài việc phụ thuộc rất lớn vào chất lượng giống lúa, biện
pháp canh tác, yếu tố đất đai, vấn đề nước tưới, thì mức độ đầu tư và trình độ
cơng nghệ chế biến lúa gạo đang giữ vai trò quan trọng giúp gạo Việt Nam tiếp
cận thị trường thế giới. Nếu như trong thập kỷ 90 của thế kỷ trước, tỷ lệ thu hồi
gạo trắng trong quá trình xay xát, chế biến chỉ đạt ở mức 54 – 57%, thì sang
những năm đầu thế kỷ 21, tỷ lệ này đã được nâng lên đáng kể, dao động ở mức

Page 10 of 33

10


Đề án dự báo

61-62% (trong vụ hè thu) và đạt cao hơn trong vụ đông xuân, khoảng 63-64%,
giúp nâng sản lượng gạo hàng năm đạt khoảng 21-22 triệu tấn.
Nhìn chung hiện nay, tỷ lệ thu hồi gạo trắng từ gạo lứt đạt 65%. Còn ở
ĐBSCL năm 2007, tỷ lệ thu hồi gạo qua chế biến trong vụ đông xuân thường cao
hơn so với trong vụ hè thu. Cụ thể, tỷ lệ cám và tấm chiếm khoảng 16% (trong
vụ đông xuân), 18% cám và tấm (vụ hè thu), còn lại là gạo trắng (30 % tấm). Tùy
theo yêu cầu của thị trường xuất khẩu về chất lượng gạo (tấm 5%, 10%, 15%,
25%) mà các doanh nghiệp sử dụng thiết bị và điều khiển dây chuyền sản xuất
khác nhau. Thông thường, nếu chế biến gạo 5% tấm, tỷ lệ thu hồi gạo trắng từ
gạo lứt là 60%, lấy gạo 15% thì tỷ lệ là 65%, gạo 25% thì tỷ lệ thu hồi là 75% tỷ
lệ thu hồi gạo thành phẩm. Đối với 1 số các doanh nghiệp chế biến có quy mơ
chế biến tương đối lớn, có trang bị máy tách màu, tách hạt trong dây chuyền chế
biến gạo, gạo thành phẩm đạt độ tấm 5%. Bình quân nguồn vốn đầu tư một dây
chuyền sản xuất hồn chỉnh từ 1,5-1,9 tỷ đồng.

Ví dụ như Cơng nghệ xay xát và đánh bóng gạo của TIGIFOOD hiện nay
được trang bị dây chuyền hiện đại, tiên tiến, đồng bộ của các hãng nổi tiếng về
cung cấp các thiết bị phục vụ cho lĩnh vực gạo (Sinco, Satake, Bùi Văn Ngọ,…)
và 05 máy tách màu điện tử 20tấn/giờ, đảm bảo chế biến được cả các loại gạo
cao cấp cung cấp cho các thị trường khó tính. Hiện tại, TIGIFOOD có 17 dây
chuyền lau bóng có cơng suất 300.000 tấn/năm, 3 máy sấy cám có cơng suất
12.000 tấn/năm và tích lượng hệ thống kho tàng 60.000 tấn được bố trí trên
47.949 m2 ở những vùng trọng điểm lương thực của tỉnh Tiền Giang. 100% kho
được trang bị hệ thống băng tải xuất nhập hàng hóa tiên tiến với năng lực nhập
xuất hàng hoá trên 3.000 tấn/ngày.
II. Đặc điểm thị trường trong nước
1. Nhu cầu tiêu thụ :
Theo số liệu công bố của Tổng cục Thống kê, tiêu dùng gạo bình quân đầu
người Việt Nam đạt 150kg/năm, giảm 12% so với mức tiêu dùng gạo bình quân
của 10 năm trước. Xu hướng giảm tiêu dùng gạo là xu hướng chung của các nước
châu Á nói chung, do sự phát triển của kinh tế đã giúp người tiêu dùng tiếp cận
đến các loại thực phẩm khác, và tiêu dùng gạo bình qn đầu người có xu hướng
giảm khi thu nhập tăng lên. Theo đó, tiêu dùng gạo cho lương thực năm xấp xỉ ở
mức 10-11 triệu tấn.
Theo số liệu của Báo cáo gạo tháng 8/2007 của Ban kinh tế nông nghiệp thế
giới, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, tổng tiêu dùng gạo trong nước của Việt Nam năm
2007 dự kiến 18,75 triệu tấn, tăng so với mức 18,4 triệu tấn năm 2006 và 18,25
triệu tấn năm 2005, do dân số Việt Nam tăng 1 triệu người mỗi năm trong hai
năm 2006 và 2007.
Tiêu dùng gạo bình quân đầu người đạt 155,6 kg/năm 149 kg/người/năm, 126
kg/năm và 124 kg/năm vào năm 1992, 1998, 2002, 2004. Mức tiêu dùng gạo
cũng khác nhau giữa các nhóm hộ có thu nhập khác nhau. Số liệu thống kê tiêu
dùng gạo của 5 nhóm phân vị. Thì 20% nhóm hộ giàu nhất có mức tiêu dùng gạo
thấp nhất, 20% nhóm hộ nghèo nhất có mức tiêu dùng gạo thấp thứ hai. 20%
nhóm ở giữa, nhóm có mức thu nhập trung bình, tiêu dùng gạo nhiều nhất.

Mức tiêu dùng gạo cũng khác nhau giữa các vùng. Miền núi phía bắc và
ĐBSCL là hai khu vực có mức tiêu dùng gạo bình quân đầu người cao nhất cả
Page 11 of 33

11


Đề án dự báo

nước, trong khi đó, tiêu dùng gạo bình qn đầu người của Nam Trung Bộ và
Đơng Nam Bộ thấp nhất.
2. Khả năng cung cấp đảm bảo an ninh lương thực quốc gia
Sự "tăng tốc" của sản xuất thóc gạo trong những năm qua cho phép chúng ta
vui mừng, tự hào bởi sự tăng trưởng này tạo lợi thế cho việc thực hiện an ninh
lương thực trong nước, thu nhiều ngoại tệ để quay lại thực hiện công nghiệp hóa
- hiện đại hóa ngành trồng lúa nói riêng, cơng nghiệp hóa hiện đại hóa ngành
cơng nghiệp và khu vực nơng thơn nói chung. Nhưng chỉ nói đến mặt tăng trưởng
thì chưa thể được gọi là đã bảo đảm an ninh lương thực. Bởi quan niệm toàn diện
về an ninh lương thực ngày nay của mỗi quốc gia không chỉ là sản xuất ra lượng
lương thực để đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng mà cần phải quan tâm đến cả 3 vấn
đề
 Vấn đề sản xuất: Phải có đủ lương thực
 Vấn đề phân phối: phải có hệ thống cung ứng đến nay người tiêu dùng với
giá cả mà cả người bán lẫn người ma chấp nhận được.
 Vấn đề thu nhập: Phải tạo điều kiện để mọi người có việc làm, có thu nhập
để có đủ tiền mua lương thực đáp ứng nhu cầu của bản thân và gia đình họ.
Ở nước ta, tuy đã sản xuất ra lượng lương thực đủ dùng nhưng ở một số vùng
ở miền Bắc, miền Trung sản xuất lương thực không ổn định; việc điều hòa lương
thực giữa các vùng, miền từ nơi thừa đến nơi thiếu chưa tốt, dẫn đến có thời điểm
ở những vùng nhất định, giá lương thực tăng cao ảnh hưởng trực tiếp đến mức

tiêu dùng lương thực của dân cư - đặc biệt là tầng lớp có thu nhập chưa cao. Một
điểm rất đáng quan tâm là thu nhập của một bộ phận dân cư còn quá thấp ngưỡng cửa của tạm đủ ăn và thiếu đói nên khả năng mua thêm lương thực
phịng khi đói hoặc khi thị trường gây đột biến giá tăng cao là rất hạn chế.
Thực trạng đó cho thấy rõ cả 3 mặt của vấn đề an ninh lương thực đều cần
luôn luôn được quan tâm thông qua việc kiến tạo các chính sách, cơ chế tạo nên
một mơi trường thuận lợi, để góp phần thúc đẩy thực tiễn xử lý có hiệu quả cả 3
vấn đề nêu trên. Để bảo đảm thực hiện mục tiêu an ninh lương thực trong điều
kiện của Việt Nam, chúng tôi cho rằng cần giải quyết các vấn đề sau:
- Về sản xuất: Xây dựng quy hoạch và ổn định vùng đất trồng lương thực;
nghiên cứu lai tạo và tuyển chọn giống mới có năng suất, chất lượng cao thích
hợp với từng vùng sinh thái; chuyển giao những tiến bộ kỹ thuật, cách làm ăn
tiên tiến, kinh nghiệm quản lý giỏi cho người sản xuất. Đầu tư cơ sở hạ tầng và
ưu tiên cho vùng nghèo thiếu lương thực nhằm tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy
giao lưu điều hòa lương thực giữa các vùng, miền trong nước. Tiếp tục hịan
thiện các chính sách hỗ trợ nhu thuế, đất đai, tín dụng, thị trường... thực hiện tốt
các định mức kinh tế kỹ thuật, chi phí chi ra gắn liền với hiệu quả nhằm tạo ra
được khối lượng lương thực có mức giá thành hợp lý.
- Về phân phối: Sản xuất nơng nghiệp nói chung, sản xuất lương thực nói
riêng phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, lại mang nặng tính mùa vụ, tính
Page 12 of 33

12


Đề án dự báo

vùng miền do đó dẫn đến giá cả lương thực giảm khi được mùa, khi thu hoạch rộ,
ở những vùng sản xuất tập trung gây thiệt hại cho người sản xuất lương thực; giá
tăng khi mất mùa, khi giáp hạt, ở những vùng sản xuất không tập trung thiếu
lương thực gây khó khăn cho người tiêu dùng. Điều đó địi hỏi phải tổ chức tốt

mạng lưới lưu thơng lương thực, đa dạng hóa các hình thức, thành phần cung
ứng, tháo gỡ những ràng buộc thị trường để điều chuyển từ vùng thừa đến vùng
thiếu, vùng trồng lương thực đến vùng không trồng lương thực, vùng sản xuất
nông nghiệp đến vùng phi sản xuất nông nghiệp. Tổ chức tốt việc dự trữ lưu
thơng điều hịa mùa vụ, ứng cứu kịp thời với những biến động bất lợi của thị
trường gây ra những cơn sốt giá cả. Phải định hướng cân đối lượng lương thực
đảm bảo đủ lượng tiêu dùng trong nước, không xuất khẩu quá khả năng. Tổ chức
tốt việc xuất khẩu, chống cạnh tranh không đúng pháp luật, sử dụng các chính
sách bảo trợ lợi ích người sản xuất và người tiêu dùng lương thực.
- Về thu nhập: Muốn có thu nhập chính đáng ổn định thì điều kiện tiên quyết
là phải có việc làm; muốn có thu nhập cao thì làm việc phải có năng suất, chất
lượng hiệu quả phù hợp với đòi hỏi của thị trường. Việc làm hiện nay đang là vấn
đề rất bức xúc. Tỷ lệ thất nghiệp đang rất lớn. Con đường để giải quyết việc làm
hiện nay khơng có cách nào khác là phải tổ chức phát triển sản xuất, phát huy
mọi nội lực đất đai, tiền vốn, con người... để đẩy mạnh sản xuất. Cởi trói hết mọi
ràng buộc, tháo gỡ hết khó khăn cho sản xuất: phát triển kinh tế nơng thơn đa
dạng. Có chính sách để mọi thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất
thu hút nhân lực.
An ninh lương thực ngày nay là mối quan tâm của cả nhân loại. Nó đã trở
thành yêu cầu mang tính pháp lý của mỗi quốc gia. Việt Nam cũng khơng thể
thốt ly vấn đề này trong q trình thực hiện mục tiêu cơng nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước.
Căn cứ vào tình hình sản xuất, tiêu dùng lương thực, mục tiêu an toàn lương
thực quốc gia, thời hạn lưu kho và quy trình cơng nghệ bảo quản, hàng năm Cục
Dự trữ quốc gia phối hợp với các bộ, ngành có liên quan trình Thủ tướng Chính
phủ quyết định các chỉ tiêu kế hoạch về lương thực dự trữ quốc gia, trong đó có
mức dự trữ; cơ cấu thóc - gạo; lượng mua vào; lượng bán ra…
Những năm trước, trong điều kiện diễn biến thuận lợi về thời tiết, khí hậu, an
ninh chính trị, mức dự trữ an toàn tại Cục Dự trữ quốc gia tương đương tổng tiêu
dùng của cả nước trong 3 tháng. Tuy nhiên, con số thực tế còn cao hơn rất nhiều

do chưa tính đến lượng dự trữ tại các tổng cơng ty lương thực, tại các công ty
lương thực cấp tỉnh, và tại kho của nhà máy…
Trong bối cảnh khủng hoảng an ninh lương thực thế giới hiện nay, chắc chắn
Chính phủ sẽ có điều chỉnh mức dự trữ. Nhắc lại, chỉ riêng trong năm 2007 lượng
gạo tồn kho của Việt Nam đã tăng thêm 400 ngàn tấn.
3. Giá cả:
Page 13 of 33

13


Đề án dự báo

Giá lúa gạo trong nước được điều chỉnh hoàn toàn theo cơ chế thị trường, do
các yếu tố cung-cầu quyết định. Ngay từ khâu đầu tiên của chuỗi giá trị gạo,
quan hệ mua bán gạo giữa nông dân trồng lúa với thương lái đã được tạo dựng
trên cơ sở thuận mua vừa bán. Nhà nước hỗ trợ thị trường bằng việc cung cấp
thông tin. Hiện nay nhiều tổ chức đang cung ứng thông tin thị trường lúa gạo rất
tốt cho người dân như: bản tin lúa gạo tuần của Trung tâm Thông tin Phát triển
NNNT, giá thị trường lúa gạo của Trung tâm Tin học và Thống kê, Trung tâm
Thơng tin Thương mại…
4. Các chính sách liên quan đến sản xuất lúa gạo ở Việt Nam:
Từ khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới vào năm 1986, chính phủ Việt Nam đã xây
dựng nhiều chính sách theo hướng kinh tế thị trường. Các chính sách tác động
đến sản xuất lúa gạo và thúc đẩy nông dân gia tăng sản xuất là các chính sách về
sử dụng đất, đầu tư, thương mại và thị trường.
Chính sách đất đai
Trong thời kỳ chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường, Việt
Nam đã bước đầu trao quyền sử dụng đất cho nông dân. Luật Đất đai năm 1988
được xem như một trong những bước tiến quan trọng nhất. Nông dân được

quyền sử dụng đất từ 10 đến 15 năm; nông hộ được tự chọn loại cây trồng và
quyết định số lượng sản phẩm bán ra thị trường. Luật Đất đai được sửa đổi năm
1993 cho phép nông dân tự do lựa chọn loại sử dụng đất với thời gian sử dụng
được tăng lên 20 năm đối với các loại cây hàng năm và 50 năm đối với cây lâu
năm; cho phép "trao đổi, chuyển nhượng, cho thuê và thế chấp" quyền sử dụng
đất. Phản ứng tích cực của nông dân được thể hiện qua sản lượng lúa gạo liên tục
tăng trong suốt thập niên vừa qua. Gần đây chính phủ đã có chủ trương khuyến
khích sản xuất nơng nghiệp hàng hố qui mơ lớn thơng qua việc phát triển trang
trại, đồng thời cho phép việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất trên cơ sở tập trung
ruộng đất và giảm đất lúa.
Chính sách đầu tư và tín dụng
Những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực cải tạo hệ thống
thuỷ lợi. Đầu tư trong ngành nông nghiệp tập trung chủ yếu vào cơ sở hạ tầng hỗ
trợ sản xuất và phát triển nông thôn. Trong thập niên 90, đầu tư vào thuỷ lợi
chiếm khoảng 70% tổng đầu tư của ngành nông nghiệp, chủ yếu tập trung cho
lúa, nhất là ở ĐBSCL. Cần có các nghiên cứu chi tiết đánh giá hiệu quả của đầu
tư này.Về tín dụng nông thôn, hiện nay hệ thống hỗ trợ tài chính nơng thơn chính
thức có Ngân hàng Nơng nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (VBARD),
Ngân hàng Việt Nam cho Người nghèo và Quỹ tín dụng nhân dân (PCF). Mục
tiêu của hệ thống hỗ trợ tài chính nơng thơn chính thức là (i) đảm bảo đầu vào
cho sản xuất nông nghiệp; (ii) tăng cường công nghệ sau thu hoạch và xuất khẩu
nơng sản; (iii) hỗ trợ đa dạng hố nông nghiệp; (iv) cải tạo hạ tầng cơ sở nông
thôn; (v) giảm nghèo và giảm thiên tai. Chính sách tín dụng bảo đảm cho nông
dân vay vốn trực tiếp và hỗ trợ nông dân nghèo vùng sâu, vùng xa và vùng cao.
Page 14 of 33

14


Đề án dự báo


Tỷ lệ cho vay đối với các hộ gia đình trồng lúa tăng từ 5 triệu đồng tới 10 triệu
đồng mà khơng cần thế chấp.
Chính sách về vật tư nông nghiệp
Trước đổi mới, vật tư nông nghiệp được phân phối thông qua hợp tác xã.
Trong thời kỳ đổi mới, vai trò của hệ thống hợp tác xã suy giảm, vật tư được
bn bán tự do, vai trị của kinh tế tư nhân trong phân phối vật tư nơng nghiệp
trở nên quan trọng. Thuế nhập khẩu phân bón hầu như khơng đáng kể. Chính phủ
cũng khuyến khích nơng dân cải thiện giống lúa bằng cách bãi bỏ thuế nhập khẩu
giống, trợ giá giống lai và trợ cước vận chuyển giống nhằm đạt mục tiêu 70%
giống lúa mới. Chính phủ cịn thực hiện các chính sách trợ cước vận chuyển vật
tư cho miền núi và trợ giá nhiên liệu.
Chính sách phân phối lúa gạo trong nước.
Hệ thống phân phối gạo ở Việt Nam rất phức tạp, với nhiều mối liên kết phức
tạp giữa các đại lý, nông dân, người thu mua, người xay xát, người bán buôn, bán
lẻ và các doanh nghiệp nhà nước. Từ thập niên 80, chính sách đổi mới đã đóng
góp tích cực vào sự phát triển của hệ thống phân phối gạo tự do ở Việt Nam.
Những cản trở thị trường trong nước đã bị dẹp bỏ, cho phép cạnh tranh tự do
giữa các đại lý. Khu vực kinh tế tư nhân ngày càng giữ vai trò quan trọng, hiện
nay chiếm khoảng 95% thị phần trong nước, làm vai trò của doanh nghiệp nhà
nước trên thị trường lúa gạo trong nước giảm đi.
Chính sách thương mại quốc tế.
Đầu những năm 90, để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, Chính phủ Việt
Nam đã kiểm sốt hồn tồn lượng gạo xuất khẩu thơng qua giấy phép và hạn
ngạch xuất khẩu, và chỉ cho phép doanh nghiệp nhà nước xuất khẩu gạo. Từ
1991 đến 1993, cả nước chỉ có 40 cơng ty xuất khẩu gạo, chủ yếu là ở phía Nam.
Hệ thống xuất khẩu gạo trong giai đoạn đó khơng có hiệu quả và ảnh hưởng bất
lợi tới thu nhập của nông dân. Đến năm 1997, chỉ cịn 17 cơng ty xuất khẩu gạo.
Từ năm 1998 trở lại đây, để tăng cường hiệu quả xuất khẩu gạo, chính phủ cho
phép tư nhân tham gia các hoạt động thương mại quốc tế. Năm 1999, các công ty

liên doanh đã được phép xuất khẩu gạo nếu tìm được đối tác. Đến năm 2000, cả
nước đã có 47 cơng ty xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, thị phần của công ty tư nhân
trong tổng lượng gạo xuất khẩu vẫn còn nhỏ. Năm 1998, các doanh nghiêp tư
nhân chỉ xuất được 185.000 tấn gạo, chiếm khoảng 4% ngoài tổng số 4 triệu
tấn.
III. Thị trường thế giới:
1. Các quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới
10 quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới 2003
Page 15 of 33

15


Đề án dự báo

1
2
3
4
5

Thái Lan
Việt Nam
Ấn Độ
Mỹ
Trung Quốc

7.750.000 tấn
4.250.000 tấn
4.000.000 tấn

3.400.000 tấn
2.250.000 tấn

6
Pakistan
1.100.000 tấn
7
Miến Điện
1.000.000 tấn
8
Uruguay
650.000 tấn
9
Ai Cập
400.000 tấn
10
Argerntina
350.000 tấn
Theo VietNamNet, 4/4/2003
Dự báo của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ
Thái Lan, nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, dự tính niên vụ 2003 sản
xuất được 24,6 triệu tấn, thấp hơn so với mức 25 triệu tấn niên vụ trước do ảnh
hưởng của thời tiết khô hạn. Mặc dù vậy, xuất khẩu gạo của nước này dự tính
vẫn đạt 7,5 triệu tấn, ngang với mức kỷ lục hồi năm ngoái và tăng 0,5 triệu tấn so
với mức 7 triệu tấn đã đề ra trong năm nay.
Ấn Độ vẫn duy trì được vị trí nước xuất khẩu gạo chủ chốt trong năm 2003.
Sản lượng gạo niên vụ tới của nước này dự đốn sẽ giảm xuống cịn 78 triệu tấn,
so với 91,6 triệu tấn niên vụ 2001-2002. Do vậy, xuất khẩu gạo năm tới của Ấn
Độ sẽ giảm xuống còn 4 triệu tấn, so với mức dự kiến 5,5 triệu tấn năm 2002.
Trong niên vụ tới, giá xuất khẩu của Ấn Độ vẫn có sức cạnh tranh khá lớn so với

gạo của Việt Nam và Thái Lan nhờ chính sách hỗ trợ của Chính phủ.
Pakistan dự kiến xuất khẩu 1,25 triệu tấn trong năm 2002 và 1 triệu tấn trong
năm 2003.
Trong năm tới, khối lượng gạo xuất khẩu của Trung Quốc dự đoán sẽ tăng
thêm 500.000 tấn, lên 2 triệu tấn.
Hiện nay, lượng xuất khẩu của Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ, Pakistan và
Trung Quốc chiếm khoảng 65% trong tổng số 25 triệu tấn của cả thế giới.

Page 16 of 33

16


Đề án dự báo

2. Nhu cầu tiêu thụ của thế giới
a) Các nước nhập khẩu gạo
Indonesia, nước nhập khẩu gạo lớn nhất thế giới, sẽ mua khoảng 3 triệu tấn
trong niên vụ 2002-2003. Theo nguồn tin của chính phủ, Indonesia sẽ nhập khẩu
của các nước theo tỷ lệ: Thái Lan 30%, Việt Nam 27%, Ấn Độ 16% và Myanmar
10%.
Ngoài Indonesia, các nước nhập khẩu khác ở châu Á đều giữ nguyên mức
nhập trong năm tới. Riêng Bangladesh có thể sẽ nhập tới 500.000 tấn, tăng
100.000 tấn so với năm nay do lượng dự trữ ở mức thấp, trong khi sản lượng chỉ
tăng nhẹ trong niên vụ này.
Các nước ở khu vực châu Phi như Nigeria dự đoán vẫn nhập khẩu 1,5 triệu
tấn; trong khi Senegal chỉ 750.000 tấn trong năm tới, giảm 250.000 tấn so với
năm nay.
Tại khu vực Trung Đơng, Ảrập Xêut dự tính nhập khẩu 1 triệu tấn, tương
đương với mức nhập khẩu năm nay.

Nhập khẩu gạo của các nước Mỹ Latinh sẽ giảm 100.000 tấn xuống còn 2
triệu tấn, do sản lượng của khu vực dự tính tăng thêm 250.000 tấn lên 14,4 triệu
tấn trong niên vụ tới. Riêng Brazil sẽ giảm nhập 200.000 tấn, xuống còn 400.000
tấn.
Tại Bắc Mỹ, nước Mỹ dự kiến sẽ tăng chút ít mức nhập khẩu gạo lên 430.000
tấn. Trong khi Mexico vẫn duy trì mức nhập khẩu từ Mỹ là 500.000 tấn

Page 17 of 33

17


Đề án dự báo

b) Nhu cầu thế giới
Hiện nay, nhu cầu về gạo trên thế giới rất lớn và rất đa dạng. Mỗi thị trường
có nhu cầu riêng về từng loại gạo. Chẳng hạn, thị trường châu Phi thì chủ yếu
tiêu thụ các loại gạo cứng và gạo đồ; thị trường Philippines và Indonesia tiêu thụ
gạo dài thường... Muốn mở rộng thị trường xuất khẩu gạo cần phải đa dạng hóa
sản phẩm và tập trung vào sản xuất các loại gạo mà thị trường đang có nhu cầu
nhiều.
3. Khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam
a) Chất lượng
Nhược điểm lớn của gạo xuất khẩu Việt Nam là thường xuyên bị lẫn lộn
nhiều giống, tạp hạt có màuTheo phân tích của Vụ Xuất nhập khẩu (Bộ Thương
mại), mặt hàng gạo Việt Nam đang có nguy cơ giảm dần các lợi thế cạnh tranh
do tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch cao, công nghệ chế biến thấp, đồng thời chưa xây
dựng được thương hiệu xứng tầm. Các chuyên gia thuộc Vụ Xuất nhập khẩu đã
chỉ ra rằng, tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch cao cũng như chưa có một ngành cơng
nghiệp chế biến sau gạo phát triển, chính là lý do khiến gạo Việt Nam mất dần

lợi thế cạnh tranh.
Ở Thái Lan, tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch chỉ khoảng 7-10%. Còn ở Việt Nam,
tỷ lệ này chiếm tới 13-16%. Cịn về cơng nghệ chế biến, mặc dù các nhà máy chế
biến gạo xuất khẩu của Việt Nam có cơng nghệ và thiết bị ở trình độ tương
đương với Thái Lan, song 80% lượng thóc của Việt Nam lại được xay xát và chế
biến tại các cơ sở nhỏ và các hộ nông dân không được trang bị đồng bộ về phơi
sấy và kho chứa nên chất lượng gạo chế biến giảm đi rất nhiều.
Hay như công nghệ chế biến sau gạo, phần lớn công nghệ này ở Việt Nam chỉ
đạt trình độ thủ cơng sản xuất gạo thơ phục vụ trong nước. Trong khi ở Thái Lan,
ngoài phục vụ một lượng đơng đảo khách du lịch nước ngồi cũng như xuất khẩu
gạo nguyên hạt chất lượng cao thì hằng năm, quốc gia này cịn xuất khẩu khoảng
150 nghìn tấn sản phẩm chế biến từ gạo, thu về khoảng 78 triệu USD, tương
đương giá trị của 0,5 triệu tấn gạo xuất khẩu.
Phẩm cấp thấp và sự kém đa dạng về chủng loại cũng là một bất lợi lớn của
gạo Việt Nam. Theo số liệu nghiên cứu của Vụ Xuất nhập khẩu, trong khi gạo
chất lượng cao (5-10% tấm) của Việt Nam được đánh giá là đã tăng đáng kể từ
14,2% năm 1990 lên hơn 40% vào năm 2000 thì ở Thái Lan, tỷ lệ này thường
xuyên chiếm trên 70% tổng lượng xuất khẩu và tiếp tục tăng do các nhà sản xuất
nước này đang nghiên cứu để cho ra đời những giống mới có chất lượng cao hơn.
b) Giá bán
Giá xuất khẩu gạo phụ thuộc chặt chẽ vào giá gạo thế giới nhưng nhìn chung
có xu hướng tăng. Theo Tổng cơng ty Lương thực miền Nam, năm 2001 giá bình

Page 18 of 33

18


Đề án dự báo


quân xuất khẩu gạo của Việt Nam là 168 USD/tấn, năm 2005 là 269 USD/tấn. 3
tháng đầu năm 2007 giá là 291 USD/tấnNếu chấp nhận giá rẻ hơn để tập trung
vào sản xuất và xuất khẩu các loại gạo thường chúng ta được nhiều cái lợi: các
loại gạo thường tuy giá có thấp hơn gạo thơm nhưng năng suất cao, ít sâu bệnh,
khơng tốn nhiều chi phí và cơng chăm sóc. Mặt khác, sức cạnh tranh trên thị
trường thế giới lại cao.
Theo Bộ Công thương, từ đầu năm tới nay, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam
luôn tăng khá mạnh. Nếu như đầu tháng giêng năm nay, gạo 5% tấm giá chỉ 355
USD/tấn thì tới ngày 4/2, mức giá xuất khẩu của loại gạo này đã lên tới 400
USD/tấn, tăng 95-100 USD/tấn so với cùng kỳ năm ngoái từ - mức giá cao kỷ lục
mới của gạo xuất khẩu. Dưới đây là bảng giá gạo Việt Nam xuất khẩu (tham
khảo) tính đến đầu tháng 2/2008.

Chủng loại gạo

Thời gian giao hàng
Tháng 2/2008

Tháng 3/2008

5% tấm

400 USD/T

410 USD/T

10% tấm

395 USD/T


405 USD/T

15% tấm

390 USD/T

400 USD/T

c) Thị trường
Thị trường xuất khẩu gạo chủ yếu của Việt Nam là châu Á (chiếm 61,58%
kim ngạch xuất khẩu), châu Phi (17,13 %), châu Mỹ (trên 14,73 %) và các Châu
lục khác như Trung Đông (4,2%), châu Âu, châu Úc (2,36%).
Trong quý I/2007, xuất khẩu gạo sang thị trường Inđônêxia là tăng mạnh,
tăng 442% về lượng và 521% về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngối. Trong khi
đó, xuất khẩu gạo sang các thị trường lớn như Philippines, Malaysia, Nhật Bản
đều giảm mạnh. Có tới 75% lượng gạo xuất khẩu trong 3 tháng đầu năm là các
loại gạo trắng cấp thấp, trong đó gạo trắng 15% tấm xuất khẩu sang Indonesia
chiếm tỷ trọng cao nhất, 56% tổng lượng gạo xuất khẩu, đứng thứ hai là gạo 25%
tấm xuất khẩu sang thị trường Philipin, chiếm 19% tổng lượng gạo xuất khẩu.
Sau 2 tháng đầu năm yên tĩnh, xuất khẩu gạo cao cấp 5% tấm, 10% tấm, gạo
thơm 5% tấm, gạo tẻ hạt dài sang các thị trường châu Phi, Malaysia, Nhật Bản
phục hồi mạnh trong tháng 3, tuy nhiên vẫn chỉ đạt tỷ trọng rất thấp, lượng gạo
xuất khẩu sang thị trường Gana chiếm 3%, sang Nhật Bản chiếm 2%, trong tổng
lượng gạo xuất khẩu 3 tháng đầu năm.
Sáu tháng đầu năm 2007, các thị trường nhập khẩu gạo lớn của Việt Nam vẫn
tập trung ở khu vực Châu Á chiếm 76,58%, trong đó riêng xuất khẩu sang
Indonesia và Philippines chiếm 67%. Philippines đang vượt qua Indonesia dẫn
đầu về lượng và kim ngạch nhập khẩu gạo từ Việt Nam. Theo thời hạn giao hàng
Page 19 of 33


19


Đề án dự báo

của hai hợp đồng xuất khẩu gạo đã ký kết, từ tháng 2 đến tháng 6, Việt Nam đã
xuất khẩu 889 nghìn tấn gạo 25% tấm cho Philippines.
Xuất khẩu gạo Việt Nam sang Indonexia đứng hàng thứ hai, với tổng số 644
nghìn tấn gạo, chủ yếu là loại gạo 15% tấm sang Indonesia, kim ngạch đạt 766,5
triệu USD, tăng 70% so với cùng kỳ năm ngoái. Thị trường Inđơnêsia trở thành
thị trường gạo xuất khẩu chính của Việt Nam, chiếm 1/3 lượng gạo XK, tăng hơn
7 lần so với cùng kỳ năm trước.
Phần còn lại xuất sang Châu Phi (14,32%), Châu Mỹ (5,9%) và một lượng
nhỏ sang các thị trường khác. Trong số 10 nước nhập khẩu gạo Việt Nam chỉ có
Inđơnêsia tăng đột biến và Singapo tăng 6%, còn lại các nước khác đều giảm
mạnh: Nga giảm 75%, Cu Ba giảm 67%, Nam Phi giảm 58%, Nhật Bản giảm
52%, Trung Quốc giảm 40%, Malaysia giảm 31%, việc suy giảm ở hầu hết các
thị trường chủ chốt có thể gây bất lợi cho việc XK gạo của Việt Nam trong năm
tới.
Tổng Công ty Lương thực Miền Nam tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh
vực xuất khẩu gạo năm 2007. Trong tổng lượng gạo xuất khẩu 6 tháng đầu năm,
lượng gạo xuất khẩu của Vinafood II chiếm tỉ trọng 57% tổng lượng gạo xuất
khẩu của cả nước, tiếp theo là Tổng công ty Lương thực Miền Bắc chiếm 10%
cịn lại các doanh nghiệp khác. Tính đến cuối tháng 8 năm 2007, tổng lượng gạo
Vinafood II xuất khẩu đạt 3,32 triệu tấn, chiếm tỷ trọng 92,2 % tổng lượng gạo
xuất khẩu của cả nước; tổng lượng gạo xuất khẩu 25% tấm sang thị trường
Philippines đạt trên 798 nghìn tấn, chiếm tỷ trọng 68,3% tổng lượng gạo cả nước
xuất khẩu sang thị trường này trong 8 tháng đầu năm 2007.
Trong tháng 6/2008, Cuba đã vượt qua Philippines để trở thành thị trường
xuất khẩu gạo lớn nhất của nước ta, với lượng tiêu thụ gạo đạt 85.200 tấn, trị giá

102,6 triệu USD, tăng 27,9% về lượng và tăng 48,1% về trị giá so với tháng
5/2008. Tính chung 6 tháng đầu năm, xuất khẩu gạo sang thị trường này đạt
336.575 tấn với giá trị 296,8 triệu USD tăng 203,9% về lượng và tăng 699,4% về
giá trị so với cùng kỳ năm 2007.
Thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của nước ta là Philipines lại giảm mạnh, đạt
61.542 tấn với trị giá 58,3 triệu USD. Tuy nhiên, tổng lượng gạo xuất khẩu của
Việt Nam trong 6 tháng đầu năm sang thị trường này lên tới 1.101.806 tấn với trị
giá 633,6 triệu USD, tăng 40,7% về lượng và tăng 158,6% về trị giá so với cùng
kỳ năm 2007.
Đáng chú ý, xuất khẩu gạo sang thị trường Angola với mức tăng đột biến tới
148,1% về lượng và tăng 224,3% về trị giá so với tháng trước đạt 25.600 tấn với
trị giá 19,4 triệu USD. Xuất khẩu gạo sang thị trường Nga cũng có mức tăng vọt,
đạt 8.097 tấn, trị giá 5,768 triệu USD tăng 129,5% về lượng và tăng 137% về trị
giá so với tháng 5/2008. Nâng tổng lượng xuất khẩu gạo của nước ta sang thị
trường này đạt 36.426 tấn, trị giá 20,21 triệu USD tăng 168,4% về lượng và tăng
316% về giá.
Đặc biệt, thị trường Ba Lan là thị trường có kim ngạch khơng cao nhưng lại là
thị trường có sự tăng trưởng mạnh nhất với mức tăng 153,9% về lượng và
187,9% về trị giá so với tháng trước đạt 438 tấn với trị giá 3,6 triệu USD tăng tới
1.099,9% về lượng, tăng 2.218,1% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái.

Page 20 of 33

20



×