Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

tiểu luận xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới, cơ hội và thách thức cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.28 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN KINH TẾ QUỐC TẾ
Đề tài: Tác động của các xu hướng vận động của nền kinh tế thế
giới đến Việt Nam đưa lại cho Việt Nam những cơ hội, thách thức
như thế nào trong việc hoạch định, tổ chức thực hiện các chính
sách kinh tế của Việt Nam.
Hà Nội – 03/2014
Giáo viên hướng dẫn : GS . TS Đỗ Đức Bình
Nhóm thực hiện
Lớp
: Nhóm 4
: Cao học 22K
Nền kinh tế thế giới ngày nay đang chịu sự tác động của rất nhiều
nhân tố khác nhau, cả nhân tố kinh tế, kỹ thuật, xã hội, chính trị cũng như các
nhân tố tự nhiên. Sự vận động của nền kinh tế thế giới cũng diễn ra với nhiều xu
thế khác nhau, thậm chí chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Từ những năm 80 của thế
kỷ XX cho tới thế kỉ XXI, nền kinh tế thế giới vẫn vận động theo bốn xu thế
chính và ngày càng trở nên đa dạng, sâu sắc hơn. Trong bài tiểu luận này, nhóm
4 sẽ đi đến trình bày những cơ hội cũng như thách thức của Việt Nam dưới tác
động của 4 xu thế trên cũng như đưa ra một số giải pháp kiến nghị.
Xu hướng 1: Cách mạng khoa học & công nghệ diễn ra như vũ
bão làm cho từng quốc gia có những thay đổi đột biến.
Cuộc cách mạng khoa học & công nghệ trên thế giới tiếp tục phát triển với nhịp
độ ngày càng nhanh, có khả năng tạo ra những thành tựu mang tính đột phá, khó
dự báo trước và có ảnh hưởng to lớn tới mọi mặt của đời sống xã hội loài người.
Nhờ những thành tựu to lớn của khoa học & công nghệ, đặc biệt là công nghệ
thông tin - truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, v.v , xã hội
loài người đang trong quá trình chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang thời
đại thông tin, từ nền kinh tế dựa vào các nguồn lực tự nhiên sang nền kinh tế


dựa vào tri thức, mở ra cơ hội mới cho các nước đang phát triển có thể rút ngắn
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Khoa học và công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,
hàng đầu. Sức mạnh của mỗi quốc gia tuỳ thuộc phần lớn vào năng lực khoa học
& công nghệ. Lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, giá lao động rẻ ngày
càng trở nên ít quan trọng hơn. Vai trò của nguồn nhân lực có trình độ chuyên
môn, có năng lực sáng tạo, ngày càng có ý nghĩa quyết định trong bối cảnh toàn
cầu hoá kinh tế.
Thời gian đưa kết quả nghiên cứu vào áp dụng và vòng đời công nghệ
ngày càng rút ngắn. Lợi thế cạnh tranh đang thuộc về các doanh nghiệp biết lợi
dụng các công nghệ mới để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới, đáp ứng nhu
cầu đa dạng và luôn thay đổi của khách hàng. Với tiềm lực hùng mạnh về tài
chính và khoa học & công nghệ, các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia đang
nắm giữ và chi phối thị trường các công nghệ tiên tiến.
Để thích ứng với bối cảnh trên, các nước phát triển đang điều chỉnh
cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ có hàm
lượng công nghệ cao, công nghệ thân môi trường; đẩy mạnh chuyển giao những
công nghệ tiêu tốn nhiều nguyên liệu, năng lượng, gây ô nhiễm cho các nước
đang phát triển. Nhiều nước đang phát triển dành ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực
khoa học & công nghệ trình độ cao, tăng mức đầu tư cho nghiên cứu và đổi
mới công nghệ, nhất là một số hướng công nghệ cao chọn lọc; tăng cường cơ sở
hạ tầng thông tin - truyền thông; nhằm tạo lợi thế cạnh tranh và thu hẹp khoảng
cách phát triển.
 Cơ hội
Đảng và Nhà nước luôn coi trọng sự nghiệp phát triển khoa học &
công nghệ, Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định phát triển khoa học & công
nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng
và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ nhất, trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, với đường lối đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, nước ta có cơ hội thuận lợi để tiếp thu

tri thức khoa học, công nghệ, các nguồn lực và kinh nghiệm tổ chức quản lý tiên
tiến của nước ngoài để nhanh chóng tăng cường năng lực khoa học & công nghệ
quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học &
công nghệ hiện đại, nước ta có thể đi thẳng vào những công nghệ hiện đại để rút
ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và khoảng cách phát triển kinh tế
so với các nước đi trước. Với tiềm năng trí tuệ dồi dào, nếu có một chiến lược
phát triển nguồn nhân lực đúng đắn, nước ta có thể sớm đi vào một số lĩnh vực
của kinh tế tri thức.
Thứ ba, quá trình đổi mới đất nước đã tạo ra những tiền đề mới cho
sự phát triển khoa học và công nghệ của nước ta trong thời gian tới. Nền kinh tế
nước ta có tốc độ tăng trưởng cao, liên tục trong thời gian qua là điều kiện thuận
lợi để tăng đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ, đồng thời thúc đẩy đổi
mới công nghệ và ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ trong nền kinh tế,
nhất là trước sức ép về cạnh tranh trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế.
 Thách thức
Thứ nhất, Việt Nam là nước nghèo, vốn đầu tư hạn hẹp, trình độ phát
triển kinh tế và khoa học và công nghệ còn có khoảng cách khá xa so với nhiều
nước trên thế giới và trong khu vực. Trong khi bối cảnh phát triển năng động và
khó dự báo cả về khoa học & công nghệ và kinh tế của thế giới hiện đại, khả
năng nắm bắt thời cơ và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài tuỳ thuộc nhiều vào
trình độ và năng lực khoa học và công nghệ của quốc gia. Do đó, chúng ta chưa
nâng cao được năng lực và tận dụng được lợi thế của khoa học và công nghệ từ
các nước đi trước.
Thứ hai, nguồn nhân lực giá rẻ, tay nghề thấp. Trong khi xu thế phát
triển của thế giới là nền kinh tế tri thức, lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên,
giá lao động rẻ dần nhường chỗ cho lợi thế về nguồn nhân lực có trình độ
chuyên môn giỏi, có năng lực sáng tạo. Nước ta nếu không sớm chuyển đổi cơ
cấu ngành nghề, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của lực lượng lao
động thì sẽ không có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực về thu hút

đầu tư và các công nghệ tiên tiến từ bên ngoài.
Thứ ba, trong quá trình hội nhập quốc tế về kinh tế và khoa học &
công nghệ, nước ta đang đứng trước những khó khăn về chuyển đổi và xây dựng
những thể chế mới về kinh tế, thương mại, tài chính, ngân hàng, sở hữu trí tuệ,
v.v phù hợp với thông lệ quốc tế. Tình trạng này nếu không sớm vượt qua sẽ
cản trở sự thành công của quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Trước những cơ hội và thách thức trên đây, nếu không có những
quyết sách đột phá về đổi mới thể chế kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý khoa
học và công nghệ, những biện pháp mạnh mẽ tăng cường năng lực khoa học và
công nghệ quốc gia, thì nguy cơ tụt hậu kinh tế và khoa học & công nghệ ngày
càng xa và tình trạng lệ thuộc lâu dài vào nguồn công nghệ nhập là khó tránh
khỏi.
Xu hướng 2: Toàn cầu hóa, khu vực hóa, quốc tế hóa đời sống
kinh tế chính trị của thế giới và quốc gia đang diễn ra với tốc độ quá nhanh
và quy mô rất lớn, phạm vi rất rộng
Toàn cầu hóa là kết quả tất yếu của sự phát triển mạnh mẽ của lực
lượng sản xuất trong các nền kinh tế riêng biệt, từ đó quá trình này dẫn đến sự
phá vỡ biệt lập của từng quốc gia, tao ra mối liên hệ gắn kết, tương tác và phụ
thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc trên quy mô toàn cầu trong sự vận
động, phát triển. Kinh tế thị trường khẳng định được ưu thế của mình và phát
tán ra nhiều quốc gia trên thế giới. Nó tạo động lực phát triển và mở rộng quan
hệ giữa các quốc gia, trước hết là các quan hệ kinh tế, sau đó tới các quan hệ
khác như chính trị, văn hóa…. Hệ thống kinh tế thị trường ngày càng phát triển
theo hướng mở và không bị giới hạn bởi các đường biên giới và ranh giới dân
tộc, chủng tộc và tôn giáo. Đó là môi trường thuận lợi cho quá trình tự nhiên
xích lại gần nhau của các cộng đồng dân cư trên toàn thể thế giới.
Toàn cầu hóa tác động đến nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có quá
trình dân chủ hoá đời sống xã hội. Nó tác động mạnh đến quá trình dân chủ hoá
trong lĩnh vực tài chính và vốn đầu tư quốc tế, mở ra khả năng thực tế cho quá
trình dân chủ hoá trong việc tiếp cận và tiếp nhận các công nghệ mới, dân chủ

hoá thông tin, phản ánh một quá trình mà thông quá đó thị trường và sản xuất ở
nhiều nước khác nhau đang trở nên ngày càng phụ thuộc lẫn nhau. Tác động của
các hành vi kinh tế toàn cầu dẫn tới hệ lụy của hệ thống chính trị thế giới, ngược
lại chính trị có tác động to lớn đối với kinh tế. Toàn cầu hóa ngày nay về bản
chất chính là sự tăng trưởng của hoạt động kinh tế nói chung đã vượt khỏi biên
giới quốc gia và khu vực.
Tác động của toàn cầu hoá hiện nay đến quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội
diễn ra cả theo hướng tích cực lẫn theo hướng tiêu cực, vừa tạo cơ hội cho sự
phát triển, sự tiến bộ, vừa làm nảy sinh không ít những thách thức mà thế giới
nói chung và riêng Việt Nam nói riêng phải đối mặt và sớm tìm cách giải quyết
để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
 Cơ hội
Thứ nhất, toàn cầu hoá, khu vực hoá, quốc tế hoá đời sống làm cho
phát triển kinh tế được trọng tâm, mở rộng hội nhập, tăng cường hợp tác, tham
gia vào liên minh khu vực và thế giới. Vì thế mà chúng ta một mặt có thể phát
huy được lợi thế so sánh, thúc đẩy việc tham gia phân công lao động quốc tế,
tranh thủ lợi ích của việc phân bổ nguồn tài lực hợp lý, bên cạnh đó có thể thúc
đẩy quá trình chuyển giao công nghệ, giúp cho nước ta có thể khai thác nguồn
đầu tư khoa học – công nghệ từ các nước khác theo phương châm đi tắt, đón
đầu, rút ngắn thời gian xây dựng và phát triển đất nước.
Thứ hai, nó thúc đẩy sự phát triển kinh tế, thương mại và hoàn thiện
hệ thống pháp luật theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo ra
khả năng thực thi các luật lệ kinh tế khách quan trong một không gian toàn cầu
rộng lớn, thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài đến với môi trường kinh doanh ở
Việt Nam hơn.
Thứ ba, toàn cầu hoá tạo điều kiện cho việc giao lưu văn hoá và tư
tưởng rộng rãi giữa các nước trong khu vực và trên thế giới, làm cho con người
xích lại gần nhau hơn
Thứ tư, toàn cầu hóa tạo nhiều cơ hội đầu tư mới, tăng nhanh vòng
vốn, tạo điều kiện để đa dạng hóa các loại hình đầu tư, từ đó nâng cao hiệu qua

vừa hạn chế rủi ro đầu tư
 Thách thức
Bên cạnh những ưu điểm, toàn cầu hoá đang đặt ra cho các nước trên
thế giới nói chung và Việt nam nói riêng những thách thức và nguy cơ hết sức
to lớn:
Thứ nhất, toàn cầu hoá làm cho chúng ta phải đối mặt với những vấn
đề chung trong sự phát triển kinh tế quốc gia, như những vấn đề sinh thái, ô
nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên, vấn đề dân số và sức khoẻ cộng đồng,
sự phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội và tội phạm mang tính quốc tế vì thế mà
vấn đề đặt ra cần giải quyết của toàn cầu hoá, khu vực hoá, quốc tế hoá đó là
phải bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng
tiền.
Thứ hai, thách thức nghiêm trọng của toàn cầu hoá chính là với chủ
quyền quốc gia. Sự hội nhập về kinh tế tăng lên sẽ kéo theo sự hội nhập về chính
trị. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia
dân tộc được coi trọng và chú ý hơn là sự độc lập hoàn toàn của các quốc gia đó.
Có thể nói, không có và không thể có một quốc gia đứng độc lập hoàn toàn tách
biệt khỏi với thế giới bên ngoài trong bối cảnh toàn cầu hoá.
Thứ ba, ở mỗi quốc gia, sự "phân phối" lợi ích của toàn cầu hoá là
không đồng đều. Ở Việt Nam cũng thế, toàn cầu hóa khiến cho một bộ phận dân
cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá;
nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên,
phân hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi
và an sinh xã hội đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ trương của
Đảng: "Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển".
Xu hướng 3: Nền kinh tế thế giới đang chuyển từ đối đầu sang
đối thoại, từ biệt lập tách biệt sang hợp tác để tạo ra sự ổn định tương đối
cùng phát triển

Ngày nay, phần lớn các quốc gia phụ thuộc vào nước ngoài để bổ
xung nguồn cung ứng nguyên liệu và lương thực, thực phẩm sống còn khác.
Những thoả thuận của GATT: Xem xét lại các hàng rào thuế quan, là những
ranh giới kinh tế của một nước, nó kìm hãm và là trở ngại cho sự phát triển
thương mại quốc tế. Những thách thức chiến lược chủ yếu lâu dài đã dịch
chuyển từ bàn cờ địa lý chính trị sang bàn cờ địa lý kinh tế. Ranh giới về kinh tế
giữa các quốc gia xét về tổng thể mà nói đã bị mờ nhạt. Nhiều quan hệ mới về
kinh tế nổi lên giữa các nước đan xen chặt chẽ với nhau tạo thành tổng thể của
nền kinh tế thế giới. Mọi tranh chấp về lợi ích đều được hoá giải bằng thương
lượng kinh tế.
Các tổ chức kinh tế, tài chính như IMF, WB, G8 (Câu lạc bộ những
nước công nghiệp phát triển), London club, Paris club, đã đứng ra làm người
giúp đỡ trực tiếp hay gián tiếp tác động đến mọi nền kinh tế của các nước để
hướng các quốc gia này về một kiểu kinh tế thị trường toàn cầu nhằm phục vụ
lợi ích cho tất cả các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Các
quan hệ kinh tế nổi cộm lên vẫn là quan hệ giữa các nước phát triển và
đang phát triển. Các nước phát triển vốn có công nghệ và kinh nghiệm
quản lý còn các nước đang phát triển có nguồn nhân lực dồi dào, trẻ, có khả
năng tiếp thu nhanh, Quan hệ này bổ xung cho nhau tạo nên một môi trường
kinh tế thế giới mới. Do đó, xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới chuyển dần
từ đối đầu sang đối thoại, cùng hợp tác phát triển. Điều này đã đem lại nhiều cơ
hội cũng như thách thức cho Việt Nam.
 Cơ hội
Thứ nhất, Nền kinh tế thế giới chuyển từ đối đầu sang đối thoại, từ
tách biệt sang hợp tác chính là cơ hội để Việt Nam thiết lập các mối quan hệ hài
hòa cùng phát triển với các đối tác, bình thường hóa quan hệ với các quốc gia
từng có mối quan hệ căng thẳng với Việt Nam như Mỹ, Trung Quốc.
Thứ hai, Là cơ hội để Việt Nam tìm kiếm các đối tác tin cậy dựa trên
cơ sở hai bên cùng có lợi, tận dụng các mối quan hệ hợp tác để thúc đẩy phát
triển kinh tế.

Thứ ba, Quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, sự ra đời và lớn
mạnh của các Hiệp hội, hiệp định trong khu vực cũng như toàn thế giới đã mang
lại nhiều cơ hội phát triển cho các nước thành viên. Và Việt Nam cũng vậy, khi
gia nhập ASEAN, WTO Việt Nam có cơ hội được tiếp cận với thị trường hàng
hóa và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên, được hưởng những đặc quyền về
thuế suất.
Thứ tư, Việt Nam đã đang và sẽ nhận được nhiều sự giúp đỡ, hỗ trợ
của các bạn bè trên thế giới thông qua các khoản viện trợ không hoàn lại và viện
trợ hoàn lại.
 Thách thức
Thứ nhất, Cùng với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, nền kinh tế Việt
Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường khu vực và thế
giới.
Thứ hai, Thách thức trong việc hoạch định chính sách, thực hiện tái
cơ cấu nền kinh tế, thực hiện quản lý kinh tế minh bạch và hiệu quả.
Xu hướng 4: Khu vực châu Á – Thái Bình Dương là một khu vực
có nhiều quốc gia rất năng động, có tốc độ phát triển kinh tế khá ổn định và
đây là trung tâm văn minh của loài người
Sức hút khu vực Châu Á - Thái Bình Dương gồm nhiều quốc gia và
vùng lãnh thổ nằm phần lớn ở châu Á, các nước nằm trong vành đai Thái Bình
Dương kéo dài từ châu Đại Dương đến Nga, vòng xuống phía tây châu Mỹ. Khu
vực có ba quốc gia có diện tích lớn nhất thế giới, bốn trong số những quốc gia
đông dân nhất thế giới, ba cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới. Về chính trị,
khu vực tập trung ba trong số năm Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc, bảy trên mười cường quốc quân sự hàng đầu thế giới. Về quy mô kinh
tế, tính riêng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của 21 nền kinh tế thành viên Diễn
đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) chiếm 54% tổng GDP
thế giới, tổng lượng hàng hóa và dịch vụ thương mại chiếm tới 44% thế giới.
Bước vào thế kỷ 21 đến nay, châu Á - Thái Bình Dương luôn là khu vực tăng
trưởng nhanh nhất thế giới. Theo thống kê, giai đoạn 2007 - 2012, mặc dù tăng

trưởng kinh tế toàn cầu đi xuống, tổng lượng kinh tế của các quốc gia mới nổi ở
khu vực này lại tăng thêm gần 50%, tỷ trọng trong nền kinh tế thế giới cũng gia
tăng.
Với đặc điểm địa lý, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và tiềm
năng phát triển to lớn, khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục trở thành
trọng tâm địa chính trị toàn cầu trong thế kỷ 21.
Như vậy, với vị trí địa lý nằm trong khu vực châu Á – Thái Bình
Dương đã đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội cũng như thách thức trong việc
hoạch định và thực thi các chính sách kinh tế.
 Cơ hội
Đặc biệt, vào năm 1998, khi Việt Nam chính thức là thành viên của tổ
chức hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), đã đem lại cho chúng
ta nhiều cơ hội trong phát triển kinh tế.
Thứ nhất, tiếp cận tốt hơn với nhiều nguồn vốn, công nghệ kỹ thuật
hiện đại và kiến thức quản lý khoa học. APEC là khu vực có tổng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài lớn nhất vào Việt Nam với tổng số hơn 75% và cũng là khu
vực có vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam lớn nhất (khoảng
50% dẫn đầu là Nhật Bản). Chính nguồn vốn này đã giúp Việt Nam có những
bước tiến vượt bậc trong tăng trưởng và phát triển kinh tế trong giai đoạn qua
(với mức tăng trưởng trung bình là hơn 7%, tỷ lệ đói nghèo giảm, đời sống nhân
dân được cải thiện đáng kể). Bên cạnh đó, việc nằm trong khu vực châu Á –
Thái Bình Dương – trung tâm văn minh, phát minh trí tuệ, Việt Nam có cơ hội
được tiếp thu và chuyển giao những tiến bộ khoa học kĩ thuật, được học hỏi
những kinh nghiệm quản lý của các cường quốc trên thế giới. Từ đó, đã giúp
Việt Nam nâng cao được chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là lực lượng quản
lý, đem lại hiệu quả cao hơn trong việc hoạch định và thực thi các chính sách
kinh tế. Thể hiện qua các dự án nâng cao kiến thức và kinh nghiệm hội nhập cho
các cán bộ làm công tác hội nhập của Việt Nam thông qua quỹ APEC.
Thứ hai, nâng cao năng lực quản lý kinh doanh, mở rộng quan hệ
thương mại và đầu tư, thâm nhập thị trường. Việc nằm trong khu vực châu Á –

Thái Bình Dương đã đem lại cơ hội to lớn cho Việt Nam trong quá trình hội
nhập về thương mại và đầu tư (xuất khẩu của Việt Nam vào khu vực này năm
2012 vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất với 50% tổng kim ngạch xuất khẩu tương
đương 57.3 tỷ USD, gấp 2.53 lần kim ngạch xuất khẩu sang thị trường châu Âu,
và tăng 2.51 lần xuất khẩu sang thị trường châu Mỹ). Đồng thời, với việc tự do
hóa thương mại, các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng
đã giúp cải thiện năng lực quản lý kinh doanh cũng như cạnh trạnh cho các
doanh nghiệp trong nước. Bên cạnh đó là việc chuyển giao về nguồn lực thể
hiện qua việc rất nhiều công ty, ngân hàng thương mại thuê các chuyên gia từ
các nước thuộc khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã giúp cho trình độ của
nhân lực Việt Nam được nâng cao và hiệu quả kinh tế ngày càng cao.
Thứ ba, tạo ra những quan hệ quốc tế mới, những khả năng mới cho
sự phát triển. Điển hình là vào ngày 13/11/2010 Việt Nam tuyên bố tham gia
vào hiệp định hợp tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) với tư
cách thành viên đầy đủ sẽ giúp Việt Nam có thêm điều kiện, tranh thủ hợp tác
quốc tế để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, triển khai chiến lược
hội nhập quốc tế nói chung và chiến lược đối ngoại ở khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương nói riêng, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đồng
thời, thông qua Hiệp định TPP, Việt Nam sẽ có cơ hội đàm phán để Hoa Kỳ mở
cửa thị trường cho hàng hóa của Việt Nam, tạo cú hích mạnh để thúc đẩy xuất
khẩu, kiềm chế nhập siêu. Bên cạnh đó, việc tham gia Hiệp định TPP sẽ góp
phần thúc đẩy hơn nữa đầu tư của Hoa Kỳ và các nước vào Việt Nam.
 Thách thức
Bên cạnh như cơ hội tiềm năng thì Việt Nam cũng gặp những thách
thức không nhỏ khi nằm trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Thứ nhất, Việt Nam có khoảng cách khá xa về trình độ phát triển so
với các nước trong khu vực nên dễ bị rơi vào thế yếu và phải chịu nhiều thua
thiệt trong cạnh tranh. Đặc biệt, việc cam kết và thực hiện các cam kết sâu và
rộng trong khuôn khổ đàm phán Hiệp định TPP sẽ đặt ra những thách thức
không nhỏ, đặc biệt là sức ép về mở cửa thị trường, cạnh tranh đối với các

doanh nghiệp của Việt Nam, vốn còn yếu, khả năng quản lý còn nhiều bất cập.
Nếu không có sự chuẩn bị tốt, nhiều ngành sản xuất và dịch vụ có thể sẽ gặp khó
khăn. Tuy nhiên, đây là con đường mà sớm hay muộn Việt Nam cũng phải đi
qua để chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công, theo hướng nâng cao giá trị gia
tăng, chất lượng và hiệu quả của tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, cơ chế thị trường ở hầu hết các nước trong khu vực đã hình
thành từ nhiều thập kỷ, trong khi đó cơ chế thị trường ở Việt Nam còn sơ khai,
thị trường thiếu đồng bộ, hệ thống chính sách kinh tế chưa ổn định, môi trường
pháp luật chưa hoàn thiện. Trong quá trình hội nhập với các nước trong khu vực
chúng ta phải cố gắng rất nhiều để điều chỉnh và thích nghi. Ví dụ để thực thi
cam kết trong Hiệp định TPP, Việt Nam có thể sẽ phải điều chỉnh, sửa đổi nhiều
quy định pháp luật về thương mại, đầu tư, đấu thầu, sở hữu trí tuệ…
Thứ ba, khả năng tiếp nhận các nguồn vốn đầu tư trực tiếp và gián
tiếp cũng như công nghệ của Việt Nam còn yếu mặc dù đã có những chuẩn bị từ
trước. Tình hình này dẫn đến việc Việt Nam rất dễ bị thua thiệt, lấn át trong làm
ăn và do đó có nguy cơ rơi vào nợ chồng chất hoặc trở thành thị trường "xuất
khẩu ô nhiễm môi trường" của các nước phát triển hơn. Thể hiện qua việc một
số doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đã gây những tác
động tiêu cực đến môi trường sinh thái Việt Nam, như vụ việc gây ô nhiễm
nước sông Thị Vải của Vedan. Hay một số doanh nghiệp thực hiện hành vi
chuyển giá để trốn thuế tại Việt Nam.
Thứ tư, đòi hỏi trình độ cán bộ quản lý và nguồn nhân lực chất lượng
cao. Với việc tham gia ngày càng sâu và rộng vào khu vực châu Á Thái Bình
Dương, để có thể rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực buộc Việt
Nam phải sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực về con
người. Nếu như trình độ cán bộ quản lý không được nâng cao thì việc hoạch
định, tổ chức thực hiện các chính sách sẽ gặp khó khăn như đường lối chính
sách không hợp lý, quản lý hoạt động kinh tế không minh bạch, công bằng, dẫn
đến việc chúng ta không tận dụng được những lợi thế to lớn khi nằm trong khu
vực châu Á – Thái Bình Dương. Muốn phát triển và có thể tiếp thu được tinh

hoa về khoa học công nghệ của khu vực, chúng ta buộc phải có một nguồn nhân
lực chất lượng cao. Tuy nhiên, hiện nay chất lượng nguồn nhân lực của Việt
Nam còn hạn chế, mặc dù chúng ta đang ở thời điểm dân số vàng nhưng lao
động phổ thông là chủ yếu, lao động có tay nghề còn thiếu, chúng ta vẫn phải
phụ thuộc vào lực lượng lao động trình độ cao của các nước trong khu vực cho
những vị trí chuyên gia. Điều này dẫn đến kỹ năng, kim nghiệm về quản lý, tổ
chức trong các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn
chế, và chúng ta vẫn bị phụ thuộc bởi các nước trong khu vực.
Một số giải pháp kiến nghị
Trước những thách thức, khó khăn trong quá trình hội nhập nền kinh
tế với thế giới, Việt Nam cần có những biện pháp hữu hiệu để có thể tận dụng
được những lợi thế từ quá trình thay đổi của thế giới và phát triển đất nước giàu
mạnh hơn. Dưới đây là một số giải pháp kiến nghị mà nhóm đưa ra:
Thứ nhất, phát triển khoa học công nghệ, tăng cường ứng dụng khoa
học công nghệ trong mọi linh vực của nền kinh tế, coi đây là động lực then chốt
của quá trình phát triển nhanh và bền vững. Hướng trọng tâm hoạt động khoa
học, công nghệ vào phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển theo chiều
sâu góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả và nâng cao sức cạnh
tranh của nền kinh tế. Thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ: nâng cao năng lực, đổi
mới cơ chế quản lý, đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ, tăng cường hội
nhập quốc tế về khoa học, công nghệ. Tăng nhanh năng lực khoa học, công nghệ
có trọng tâm, trọng điểm. Phát triển đồng bộ và sử dụng có hiệu quả cơ sở vật
chất và nguồn nhân lực. Đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ
chế hoạt động khoa học, công nghệ. Đẩy mạnh nghiên cứu - triển khai, ứng
dụng công nghệ; phát triển hợp lý, đồng bộ khoa học xã hội, khoa học tự nhiên,
khoa học kỹ thuật và công nghệ. Chú trọng phát triển các ngành, lĩnh vực khoa
học, công nghệ làm nền tảng cho phát triển kinh tế tri thức như: công nghệ thông
tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ môi trường
Thứ hai, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Chuyển
đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển

hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng
cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững. Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng
tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ
cấu lại doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội
địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền
kinh tế; phát triển kinh tế tri thức. Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường,
phát triển kinh tế xanh.
Thứ ba, Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có giá
trị cao, tiềm năng lớn và có lợi thế cạnh tranh quốc gia. Tập trung phát triển một
số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như du lịch,
hàng hải, hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin, y tế. Hình thành một số
trung tâm dịch vụ, du lịch có tầm cỡ khu vực và quốc tế. Mở rộng thị trường nội
địa, phát triển mạnh thương mại trong nước; đa dạng hoá thị trường ngoài nước,
khai thác có hiệu quả các thị trường có hiệp định mậu dịch tự do và thị trường
tiềm năng, tăng nhanh xuất khẩu, giảm nhập siêu cả quy mô và tỉ trọng, phấn
đấu cân bằng xuất nhập khẩu. Chủ động tham gia vào mạng phân phối toàn cầu,
phát triển nhanh hệ thống phân phối các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh ở cả
trong và ngoài nước, xây dựng thương hiệu hàng hoá Việt Nam.
Thứ tư, Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập, nâng cao vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy
và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; tạo môi trường hòa
bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Tăng cường quan hệ hữu nghị,
hợp tác với các nước láng giềng. Nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, góp phần
xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và phát triển nhanh, bền vững. Phát huy vai
trò và nguồn lực của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài vào phát triển đất
nước. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút
mạnh các nguồn vốn quốc tế; thu hút các nhà đầu tư lớn, có công nghệ cao, công
nghệ nguồn; mở rộng thị trường xuất khẩu.

Thứ năm, Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và
phát triển nhanh giáo dục và đào tạo. Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là
yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu
lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan
trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Đào tạo nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển
của các lĩnh vực, ngành nghề. Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Thứ sáu, Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình, dự án. Các dự án
đầu tư xây dựng mới phải bảo đảm yêu cầu về môi trường. Khắc phục suy thoái,
bảo vệ môi trường và cân bằng sinh thái, nâng cao chất lượng môi trường. Quản
lý, khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất, nước, khoáng sản và các
nguồn tài nguyên thiên nhiên khác. Hạn chế và tiến tới không xuất khẩu tài
nguyên chưa qua chế biến. Chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi
trường. Thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững; từng bước phát triển năng
lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ
môi trường, phát triển các dịch vụ môi trường, xử lý chất thải.

×