Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận Triết học Mác Lênin Nguồn gốc, bản chất, vai trò của ý thức và các giải pháp nâng cao tính tích cực, sáng tạo trong học tập của sinh viên hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.04 KB, 16 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Học phần: Triết học Mác- Lênin

ĐỀ TÀI: Nguồn gốc, bản chất, vai trò của ý thức và các
giải pháp nâng cao tính tích cực, sáng tạo trong học tập
của sinh viên hiện nay.


2

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………. 3
Chương I: Lý luận về nguồn gốc, bản chất, vai trò của ý thức theo chủ
nghĩa duy vật biện chứng…………………………………………………...4
1. Khái niệm ý thức………………………………………………………….4
2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc của ý
thức…………………………………………………………………………...4
3. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về bản chất của ý
thức…………………………………………………………………………...6
4. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vai trò của ý thức….8
Chương II: Liên hệ thực tiễn và các giải pháp nâng cao tính tích cực,
sáng tạo trong học tập của sinh viên hiện nay…………………………......8
1. Thực trạng biểu hiện tính tích cực, sáng tạo trong học tập của sinh
viên hiện nay……………………………………………………………........8
2. Các giải pháp nâng cao tính tích cực, sáng tạo trong học tập của sinh
viên...............................................................................................................................................................11
3. Liên hệ bản thân..........................................................................................................................13
KẾT LUẬN...........................................................................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................16




3

MỞ ĐẦU
Trong lịch sử Triết học, ý thức và nguồn gốc, bản chất và vai trị của ý
thức ln là một trong những vấn đề đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và duy
tâm. Trên cơ sở những thành tựu của Triết học duy vật, của khoa học, của
thực tiễn xã hội, triết học Mác – Lênin đã làm sáng rõ những vấn đề trên. Áp
dụng ý nghĩa của vấn đề đó vào học tập, hiện nay, tình hình học tập của sinh
viên đang có nhiều tín hiệu tích cực. Một phần lớn sinh viên rất tích cực, sáng
tạo trong học tập trên trường cũng như các hoạt động ngoại khóa. Nhìn vào
thực tế, sinh viên đã đạt được nhiều thành quả đáng khen ngợi, nhất là trong
tình hình dịch Covid-19 phức tạp như thế này thì việc sáng tạo trong học tập
lại được phát huy cao độ hơn. Thế nhưng, bên cạnh đó vẫn tồn tại tình trạng
tiêu cực trong tính tích cực, sáng tạo của sinh viên. Trước hiện trạng đó, em
chọn đề tài “Nguồn gốc, bản chất, vai trò của ý thức và các giải pháp nâng cao
tính tích cực, sáng tạo trong học tập của sinh viên hiện nay” để làm rõ những
vấn đề trên. Đề tài này sẽ giải quyết những nội dung cơ bản về lý luận nguồn
gốc, bản chất và vai trò của ý thức theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, đồng
thời giải quyết vấn đề liên quan là tính tích cực, sáng tạo trong học tập của
sinh viên. Bên cạnh đó, với các phương pháp luận phân tích, tổng hợp, so
sánh, đề tài sẽ đúc rút được những ý nghĩa, vai trò quan trọng của chủ nghĩa
duy vật biện chứng về ý thức, giúp người đọc bổ sung kiến thức lý luận về
chủ nghĩa Mác Lê-nin. Mặt khác, tiểu luận sẽ chỉ rõ thực trạng của sinh viên
trong học tập về tính tích cực, sáng tạo, từ đó đưa ra các biện pháp cơ bản và
liên hệ đến bản thân em trong giai đoạn hiện nay.


4


NỘI DUNG
Chương I: Lý luận về nguồn gốc, bản chất, vai trò của ý
thức theo chủ nghĩa duy vật biện chứng
1. Khái niệm ý thức
Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác-Lenin là một phạm trù song
song với phạm trù vật chất. Theo đó, ý thức là một phạm trù được quyết định
bởi phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách
quan vào bộ óc con người thơng qua lao động và ngôn ngữ và các cơ quan xã
hội, đồng thời ý thức có sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan biện
chứng với vật chất (vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của
ý thức và quyết định ý thức nhưng không thụ động mà có thể tác động trở lại
vật chất qua hoạt động của con người).
2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc của ý
thức
Ý thức có hai nguồn gốc: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
2.1.

Nguồn gốc tự nhiên

Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: Bộ óc người (cơ quan phản ánh) và sự
tác động của thế giới khách quan lên bộ óc người. Đó là nguồn gốc tự nhiên
của ý thức.
Về bộ óc người: Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức
cao là bộ óc người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần
kinh của bộ óc. Bộ óc càng hoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc
càng có hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu sắc. Điều này
lý giải tại sao q trình tiến hố của lồi người cũng là q trình phát triển
năng lực của nhận thức, của tư duy và tại sao đời sống tinh thần của con
người bị rối loạn khi sinh lý thần kinh của con người khơng bình thường do bị

tổn thương bộ óc.


5

Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình
phản ánh năng động, sáng tạo. Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật
chất. Đó là năng lực giữ lại và tái hiện lại của hệ thống vật chất này những
đặc điểm của hệ thống vật chất khác khi hai hệ thống vật chất đó tác động lẫn
nhau. Kết quả phản ánh phụ thuộc vào cả vật tác động và vật nhận tác động.
Vật nhận tác động sẽ mang thông tin của vật tác động.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật
chất khác trong quá trinh tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh là
thuộc tính của tất cả các dạng vật chất song phản ánh được thể hiện dưới
nhiều hình thức. Cùng với sự phát triển của thế giới vật chất thuộc tính phản
ánh của nó cũng phát triển từ thấp lên cao: phản ánh vật lý, phản ánh hoá học
– hai dạng phản ánh này có tính chất thụ động chưa có định hướng lựa chọn.
Phản ánh sinh học đặc trưng cho thế giới tự nhiên sống. Hình thức phản ánh
sinh học cũng có những hình thức khác nhau như kích thích – tức là phản ứng
trả lời tác động của mơi trường bên ngồi đối với cơ thể sống; cảm ứng – đó
là sự phản ứng thể hiện sự nhạy cảm đối với sự thay đổi của môi trường; phản
ánh tâm lý động vật – là sự phản ánh có tính chất bản năng do nhu cầu trực
tiếp của sinh ly cơ thể và do quy luật sinh học chi phối. Phản ánh ý thức của
con người – là hình thức phản ánh cao nhất chỉ có ở con người. Nó là thuộc
tính của một dạng vật chất đặc biệt, có tổ chức cao là bộ óc người. Có thể nói,
ý thức bắt nguồn từ thuộc tính của vật chất – thuộc tính phản ánh – phát triển
thành. Đây là q trình hết sức lâu dài. Chính bộ óc người (cơ quan phản ánh)
và sự tác động của thế giới khách quan lên bộ óc người là nguồn gốc tự nhiên
của ý thức.
2.2.


Nguồn gốc xã hội

Theo triết học Mác-Lênin, có hai yếu tố quyết định trực tiếp đến sự hình
thành và phát triển của ý thức đó là lao động và ngôn ngữ.


6

Lao động là q trình con người sử dụng cơng cụ tác động vào giới tự
nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người.
Đây cũng là quá trình làm thay đổi cấu trúc cơ thể, đem lại dáng đi thẳng bằng
hai chân, giải phóng hai tay, phát triển khí quan, phát triển não bộ. v.v...
của con người. Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới
khách quan làm thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu,
những quy luật vận động của nó, biểu hiện thành những hiện tượng nhất định.
Những hiện tượng ấy thông qua hoạt động của các giác quan tác động vào bộ
óc người, tạo ra khả năng hình thành lên những tri thức nói riêng và ý thức nói
chung. Tóm lại, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới
khách quan thơng qua q trình lao động.
Ngơn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thơng tin mang nội
dung ý thức. Khơng có ngơn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện. Sự ra
đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính
tập thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động nảy sinh ở họ nhu cầu
phải có phương tiện để giao tiếp, trao đổi tư tưởng. Nhu cầu này làm ngôn
ngữ nảy sinh và phát triển ngay trong quá trình lao động. Nhờ ngôn ngữ con
người đã không chỉ giao tiếp trao đổi mà còn khái quát, tổng kết, đúc kết thực
tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ thế hệ này qua thế hệ
khác.
Như vậy nguồn gốc cơ bản, trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra

đời và phát triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội.
3. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về bản chất của ý thức
3.1. Ý thức là sự phản ánh, cái phản ánh, còn vật chất là cái được
phản ánh.
Cái được phản ánh (tức vật chất) tồn tại khách quan, bên ngoài và độc
lập với cái phản ánh (tức ý thức). Ý thức là hình ảnh tinh thần của sự vật
khách quan. Vì vậy, khơng thể đồng nhất hoặc tách rời ý thức với vật chất. Ý


7

thức là cái phản ánh thế giới khách quan, nhưng lại thuộc phạm vi chủ quan,
khơng có tính vật chất. Nó là hình ảnh phi cảm tính của các đối tượng vật chất
có tồn tại cảm tính.
3.2.

Ý thức là sự phản ánh có tính chủ động, năng động, sáng tạo.

Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở
khả năng hoạt động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp
nhận thông tin, chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ
sở những thông tin đã có nó có thể tạo ra những thơng tin mới và phát hiện ý
nghĩa của thông tin được tiếp nhận. Tính chất năng động, sáng tạo của sự
phản ánh ý thức cịn được thể hiện ở q trình con người tạo ra những giả
tưởng, giả thuyết, huyền thoại,… trong đời sống tinh thần của mình hoặc khái
quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng các mơ hình tư tưởng, tri thức
trong các hoạt động của con người.
3.3.

Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.


Điều đó có nghĩa ý thức là hình ảnh về thế giới khách quan, hình ảnh ấy
bị thế giới khách quan quy định cả về nội dung, cả về hình thức biểu hiện
nhưng nó khơng cịn y ngun như thế giới khách quan mà nó đã cải biến
thơng qua lăng kính chủ quan của con người. Theo Mác: ý thức “chẳng qua
chỉ là vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi
trong đó”.
3.4.

Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội.

Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự
chi phối không chỉ của các quy luật sinh học mà chủ yếu là của các quy luật
xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã
hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu
cầu của thực tiễn xã hội.
Như vậy, quan điểm trên của triết học Mác về nguồn gốc và bản chất của
ý thức hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa duy tâm coi ý thức, tư duy là cái có


8

trước, sinh ra vật chất và chủ nghĩa duy vật tầm thường coi ý thức là một dạng
vật chất hoặc coi ý thức là sự phản ánh giản đơn, thụ động thế giới vật chất.

4. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vai trò của ý thức
Vai trò đầu tiên của ý thức là khẳng định vật chất là nguồn gốc khách
quan, là cơ sở sản sinh ra ý thức, còn ý thức chỉ là sản phẩm, là sự phản ánh
thế giới khách quan trong nhận thức và hành động của con người thì phải xuất
phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và hành động theo hiện thực khách

quan.
Ý thức có vai trị tích cực trong sự tác động trở lại đối với vật chất, phép
biện chứng duy vật yêu cầu trong nhận thức và trong hoạt động Ý thức con
người cần phải nhận thức và vận dụng quy luật khánh quan một cách chủ
động, sáng tạo, chống lại thái độ tiêu cực, thụ động.
Tóm lại, việc tìm hiểu và phát huy vai trị của ý thức sẽ giúp chúng ta
phát huy tính năng động sáng tạo của bộ óc con người, phát huy vai trị của
con người để cải tổ thế giới quan cũng như khắc phục các tính bảo thủ, tiêu
cực thiếu tính sáng tạo của con người.

Chương II: Liên hệ thực tiễn và các giải pháp nâng cao tính tích cực,
sáng tạo trong học tập của sinh viên hiện nay.
1. Thực trạng biểu hiện tính tích cực, sáng tạo trong học tập của sinh
viên hiện nay.
1.1. Biểu hiện tích cực
Tính tích cực, sáng tạo là một trong những kỹ năng học tập, ảnh hưởng
trực tiếp đến hiệu quả và chất lượng của sinh viên trong q trình học tập tại
trường. Mơi trường cao đẳng, đại học hình thức học chủ yếu của sinh viên là
tự học, tự nghiên cứu. Đặc biệt khi các trường đại học, cao đẳng thực hiện


9

phương thức đào tạo tín chỉ thì tính sáng tạo, tích cực và chủ động lại càng
quan trọng và cần thiết đối với sinh viên.
Trong suốt những năm vừa qua, tính tích cực và sáng tạo trong học tập
của sinh viên nhà trường đã được cải thiện rất nhiều, cụ thể:
Trong giờ học tập trên lớp: Khi giảng viên nêu câu hỏi gợi mở, nêu tình
huống có liên quan đến nội dung bài học, sinh viên mạnh dạn trình bày, phát
biểu theo lập luận, suy nghĩ của bản thân trên cơ sở kiến thức và kinh nghiệm

đã có. Hay trong q trình giảng bài, sinh viên có thể phát hiện ra những tình
huống phát sinh và nêu hướng giải quyết theo cách hiểu cá nhân dựa trên kiến
thức nền tảng đã được học, được trải nghiệm. Sinh viên hiện nay trả lời các
câu hỏi của giảng viên không phụ thuộc vào sách vở quá nhiều, chủ động
chọn lọc và tìm hiểu kiến thức quả internet. Đặc biệt, hiện nay có khá nhiều
sinh viên lựa chọn việc tự học thông qua mạng xã hội Youtube, Facebook hay
trên kênh truyền hình VTV7,… Điều này đã thể hiện rõ tính tích cực học tập,
đam mê học hỏi và sáng tạo của sinh viên.
Trong giờ thực hành: sinh viên được thâm nhập thực tế, được củng cố và
mở rộng kiến thức đã học. Qua các giờ học tập đó, sinh viên có thêm kiến
thức nền tảng để sáng tạo, bày tỏ ý kiến cá nhân của mình. Ví dụ như cuộc thi
“Khoa học và công nghệ cho giảng viên trẻ và sinh viên năm 2021”, sinh viên
các trường Đại học đã tích cực hưởng ứng với hơn 460 đề tài tham dự của
sinh viên. Dù ảnh hưởng của dịch Covid-19 nhưng tinh thần học hỏi và sáng
tạo của sinh viên vẫn bùng cháy, các sản phẩm dự thi ở nhiều lĩnh vực khác
như: Khoa học Tự nhiên; Khoa học Xã hội; Khoa học Y Dược; Khoa học
Nông nghiệp; Kỹ thuật Công nghệ; Khoa học nhân văn. Sau 2 vòng xét giải
nghiêm túc, khách quan, Ban tổ chức đã quyết định trao giải cho 49 cơng trình
của giảng viên trẻ; trong đó 8 cơng trình đạt giải Nhất, 4 giải Nhì và 21 giải
Ba. 07 cơ sở giáo dục đại học được nhận Bằng khen của Bộ GDĐT về thành
tích nghiên cứu khoa học của giảng viên trẻ tham gia Giải thưởng năm


10

2021. Giải thưởng dành cho sinh viên được trao cho 118 đề tài; trong đó có 6
giải Nhất; 21 giải Nhì; 39 Giải Ba; cịn lại là Khuyến khích.
Câu chuyện về sinh viên sáng tạo cũng là một điểm sáng. Lần đầu tiên
Hội Sinh viên Việt nam tổ chức cuộc thi "Ý tưởng sáng tạo khởi nghiệp sinh
viên", thu hút hơn 500 ý tưởng, trong đó có những ý tưởng tốt được hỗ trợ

hiện thực hóa. Cũng là lần đầu tiên trong nhiệm kỳ, chủ đề "Sinh viên sáng
tạo" được chọn 2 lần/2 năm học, mở ra không gian sáng tạo cho các bạn.
Trong các hoạt động ngoại khóa: sinh viên năng nổ, nhiệt tình tham gia
vào các hoạt động của trường, của Đoàn Thanh niên và Hội Sinh viên. Các
hoạt động tình nguyện có sự góp mặt của sinh viên ngày một nhiều hơn. Điển
hình là phong trào "Sinh viên 5 tốt" tạo sức lan tỏa mạnh mẽ trong sinh viên,
là thành cơng lớn trong hoạt động khuyến khích sự tích cực, sáng tạo trong
sinh viên. Từ bước đệm của nhiệm kỳ trước đến nhiệm kỳ này, sức lan tỏa,
các giá trị phong trào mang lại được các bạn sinh viên đón nhận tích cực hơn,
được nhà trường, xã hội ghi nhận. Qua phong trào, sinh viên hoàn thiện bản
thân, rất nhiều tiêu chí phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động hiện đại.
Bên cạnh đó, các hoạt động giáo dục về lòng yêu nước, ý thức chủ quyền biển
đảo, nâng cao bản lĩnh chính trị có nhiều chuyển biến tích cực, ý thức trách
nhiệm cộng đồng của sinh viên được thể hiện rõ hơn thông qua các hoạt động
tình nguyện.
1.2. Biểu hiện tiêu cực
Bên cạnh những biểu hiện tích cực đáng khen ngợi, vẫn cịn một số hành
động tiêu cực trong học tập của sinh viên nên chưa thể phát huy tính tích cực,
sáng tạo, cụ thể là:
Tình trạng thụ động trong học tập của sinh viên hiện nay: làm thêm, dạy
kèm, bán hàng, tiếp thị dẫn đến lơ là học tập, hoặc không theo nổi chương
trình học đại học là những lý do sinh viên bị buộc thôi học. Nguyên nhân ở
đây là do sinh viên khơng chịu tìm tịi sách, tài liệu phục vụ cho chuyên môn


11

của mình (mặc dù trong phương pháp giảng dạy đại học nhiều thầy cô lên lớp
chỉ hướng dẫn và đưa ra những tư liệu, đầu sách cần thiết cho sinh viên tìm
kiếm tham khảo) và tâm lí quen với việc đọc - chép. Từ đó dẫn đến thực trạng

thụ động trong học tập của phần lớn sinh viên hiện nay.
Từ thực tế trên cho thấy bên cạnh chương trình học tập đại học hiện nay
đã nặng nề, thì cơng cụ để truyền tải kiến thức hiện nay còn nhiều hạn chế. Số
sinh viên tìm đến thư viện khơng nhiều, chỉ lác đác vài bạn đến thư viện
những ngày bình thường và có nhiều hơn một chút khi mùa thi đến.
Trong khi đó, giờ giảng dạy của giảng viên trên lớp vẫn xuất hiện tình
trạng thầy cứ nói cịn trị thì ngủ, hoặc trị làm việc riêng, sử dụng điện thoại
khơng quan tâm đến bài giảng, khơng tích cực xây dựng bài. Vì vậy, sinh viên
khơng tiếp thu được kiến thức nên khơng thể phát huy tính sáng tạo của mình.
Mặt khác, phần lớn sinh viên chưa có kế hoạch tự học khoa học, lúng
túng trong việc xác định phương pháp tự học phù hợp cho mình và cho từng
mơn học cụ thể nhất là đối với sinh viên năm nhất vì các em vẫn quen với
cách học tập của bậc Trung học phổ thơng. Sinh viên chưa có thói quen đọc
tài liệu và nghiên cứu mà chủ yếu dựa vào những bài giảng và tài liệu do
giảng viên cung cấp, chưa biết cách tổng hợp kiến thức thu thập được qua
việc nghiên cứu tài liệu. Nguồn tài liệu tham khảo cho mơn học cịn hạn chế,
sinh viên chủ yếu dựa vào tài liệu do giảng viên cung cấp hoặc tham khảo tài
liệu trên Internet, khơng có nhiều tài liệu chính thống để cho sinh viên tham
khảo khi nghiên cứu.
2. Các giải pháp nâng cao tính tích cực, sáng tạo trong học tập của sinh
viên
Thứ nhất là, giảng viên cần quan tâm phát hiện và giúp sinh viên hình
thành động cơ, thái độ học tập đúng đắn. Động cơ và thái độ học tập đúng đắn
quyết định phần lớn đến tích tích cực học tập của sinh viên. Muốn giáo dục,
hình thành động cơ học tập đúng đắn cho sinh viên giảng viên cần phải hiểu


12

được động cơ học tập của họ. Phát hiện được động cơ học tập của sinh viên

trong quá trình tổ chức hoạt động học tập, giao tiếp sư phạm bằng cách quan
sát, điều tra các biểu hiện về nhu cầu, hứng thú, thái độ tiến hành các hành
động học tập. Từ đó có biện pháp, uốn nắn tư vấn hình thành động cơ nhận
thức và động cơ nghề nghiệp đúng đắn cho sinh viên.
Thứ hai là, Đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học theo
hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của sinh viên. Để nâng cao tính tích
cực học tập của sinh viên, về phương pháp và hình thức tổ chức giảng dạy.
Giảng viên cần:
Tăng cường sự kết hợp các phương pháp dạy học khác nhau, đặc biệt
giảng viên cần tăng cường sử dụng các phương pháp dạy học theo hướng tích
cự hóa hoạt động nhận thức của người học như: Phương pháp dạy học nêu
vấn đề, thảo luận nhóm, tăng cường liên hệ thực tế…cũng như tăng cường
ứng dụng các phương tiện hiện đại vào dạy học nhằm khơi gợi hứng thú học
tập, khả năng tư duy sáng tạo của người học. Cụ thể hóa tri thức, tăng cường
tính thực tiễn trong nội dung các bài giảng.
Trong quá trình giảng dạy, giảng viên tổ chức hoạt động học tập, nội và
ngoại khóa đa dạng, phong phú: Học tập trên lớp, tham gia hội thi, tổ chức
các câu lạc bộ học tập, giải quyết các nhiệm vụ học tập có liên quan đến
chương trình bộ mơn, từ đó nâng cao nhận thức về đối tượng của hoạt động
học tập bộ môn sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, làm cho ý nghĩa của môn học trở
thành ý nghĩa thiết thân của sinh viên, đồng thời hướng dẫn sinh viên cách
thức học tập hợp lý, khoa học, góp phần nâng cao chất lượng học tập bộ mơn.
Thứ ba là, hướng dẫn phương pháp học tập đại học cho sinh viên. Đổi
mới phương pháp dạy học phải gắn liền với đổi mới phương pháp học tập.
Học tập ở môi trường Đại học khác với học ở phổ thông. Để giúp cho sinh
viên có phương pháp học tập phù hợp nhằm mang lại chất lượng và hiệu quả
cao trong học tập, người giảng viên phải hướng dẫn cho sinh viên phương


13


pháp học tập bộ mơn mà mình phụ trách. Có như vậy mới đảm bảo được việc
lĩnh hội tri thức môn học một cách sâu sắc và bền vững.
Thứ tư là, thư viện trường cần có đủ sách, báo tạp chí…cho sinh viên
đọc tham khảo nghiên cứu. Để học tập đạt kết quả tốt nhất địi hỏi sinh viên
khơng những nghiên cứu kỹ nội dung trong giáo trình của mơn học, mà còn
phải nghiên cứu thêm các tài liệu, sách báo, tạp chí có liên quan đến mơn học.
Chính vì vậy việc trang bị đầy đủ sách, báo, tạp chí trong thư viện trường cho
sinh viên mượn đọc tham khảo là rất cần thiết. Việc đọc thêm các tài liệu,
không những giúp sinh viên mở rộng thêm kiến thức mà còn giúp sinh viên
thấy được ý nghĩa thực tiễn của mơn học, từ đó góp phần nâng cao hứng thú
học tập của sinh viên.
Thứ năm là, hướng dẫn cách sinh viên vận dụng, ứng dụng những kiến
thức đã học vào thực tiễn. Mục đích của dạy học khơng chỉ dừng lại ở việc
truyền đạt tri thức, kỹ năng kỹ xảo, mà còn phải giúp sinh viên biết cách vận
dụng những tri thức, kỹ năng kỹ xảo đã học được vào giải quyết các vấn đề
trong công việc, trong cuộc sống. Đây cũng là cách giúp sinh viên thấy được
ý nghĩa thực tiễn và sự cần thiết của môn học.
Thứ sáu là, giảng viên bộ môn, cố vần học tập cần nhiệt tình quan tâm,
tham vấn cho sinh viên, giúp họ giải quyết những khó khăn trong học tập
cũng như trong cuộc sống.
3. Liên hệ bản thân
Là sinh viên Học viện Ngân hàng, em nghĩ mình cần làm những điều sau
để nâng cao tính tích cực, sáng tạo trong học tập:
Một là, xây dựng tinh thần học tập chủ động, nghiêm túc trong việc học
tập trên trường để nâng cao trình độ. Rèn luyện tính tự học một cách chủ
động, nhất là đối với các môn chuyên ngành để rút ra bài học cho công việc
trong tương lai.



14

Hai là, rèn luyện đạo đức, phẩm chất tốt, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí
Minh và chủ nghĩa Mác – Lênin để xây dựng và bảo vệ Nhà nước Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Thấy rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình để từ đó đề cao
việc học tập cũng như tính tích cực, sáng tạo trong học tập.
Ba là, tích cực tham gia vào các hoạt động của Hội Sinh viên Việt Nam,
của Đoàn Thanh niên, các Câu lạc bộ trong và ngoài Học viện Ngân hàng.
Việc tham gia vào các hoạt động này sẽ giúp bản thân em linh hoạt hơn, có
nhiều kinh nghiệm hơn, khơng chỉ về mặt xã hội mà còn về học tập. Trong
quá trình hoạt động, em có thể học hỏi các tấm gương tiêu biểu hay các anh
chị khóa trên về kiến thức chuyên môn cũng như kĩ năng sống,…
Bốn là, tận dụng những thành quả của nhân loại về khoa học, cơng nghệ,
thơng tin để học tập, từ đó thực hiện sáng tạo, tích cực trong học tập. Hiện
nay, với sự bùng nổ của cơng nghệ thơng tin, cùng với đó là độ phủ song rộng
lớn của Internet thì việc học tập một thứ gì đó rất dễ dàng. Dựa vào lợi thế
này, bản thân em luôn cố gắng lĩnh hội kiến thức mọi lúc, mọi nơi, không chỉ
ở trên thư viện nhà trường mà cả trên nền tảng Youtube, Facebook, …
Bên cạnh đó, hiện nay có rất nhiều cuộc thi sáng tạo dành cho sinh viên
như cuộc thi “Ý tưởng Khởi nghiệp sinh viên Học viện Ngân hàng – Startup
BA 2021”, cuộc thi “Khoa học và công nghệ cho giảng viên trẻ và sinh viên
năm 2021”,… Bản thân em cũng tham gia đăng kí dự thi để phần nào thể hiện
ý tưởng của mình, cũng là góp một phần nhỏ sự tích cực, nhiệt huyết của tuổi
sinh viên.


15

KẾT LUẬN
Phát huy tính tích cực, sáng tạo của sinh viên trong dạy học nói chung và

trong mơn Triết học Mác Lê-nin nói riêng là khơng chỉ nhiệm vụ của sinh
viên Học viện Ngân hàng, mà còn là vấn đề cấp bách đối với tất cả sinh
viên Việt Nam hiện nay. Thơng qua việc phát huy tính tích cực, sáng tạo,
sinh viên sẽ có cơ hội bộc lộ năng lực tư duy, năng lực học tập, làm việc
cũng như các kĩ năng, phẩm chất của mình để nâng cao trình độ của bản
thân. Khi được phát huy tối đa tính tích cực, sáng tạo sinh viên sẽ trở nên
năng động hơn trong vai trò là chủ thể tiếp nhận tri thức để chuyển nó
thành vốn tài sản riêng của mình, góp phần lớn lao vào cơng cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Từ những vấn đề nói trên, chúng ta phải ý thức được
tầm quan trọng của chủ nghĩa Mác Lê-nin, có cái nhìn đúng đắn về ý thức,
đồng thời ra sức học tập, sáng tạo trong công cuộc “trồng chữ, trồng người”
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng răn dạy.


16

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hoài Nam, Cao Thị Quyên (2014). Nâng cao hứng thú học tập
cho Sinh viên Trường Cao đẳng nghề. Tạp chí Khoa học, Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội.
2. Nguyễn Ngọc Bảo (1995), Phát huy tính tích cực, tính tự lực của học
sinh trong quá trình dạy học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội.
3. Trần Bá Hoành (2006), Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và
sách
4. Giáo khoa, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
5. Trần Thị Minh Hằng (2011), Tự học và yếu tố tâm lý cơ bản trong tự
học của sinh viên Sư phạm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Trần Thu Hương (2007). Tính tích cực học tập của sinh viên Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Tạp chí Tâm lí học, số 10.
7. Vũ Trọng Rỹ (1994), Một số vấn đề lý luận về rèn luyện kỹ năng học

tập cho học sinh, Viện KHGD, Hà Nội.



×