Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

TIỂU LUẬN vấn đề ý THỨC TRONG tâm lý học, ý NGHĨA đối với VIỆC xây DỰNG ý THỨC xã hội mới CHO QUÂN NHÂN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.9 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
Trong tâm lý học ý thức là một vấn đề vô cùng quan trọng, sự quan trọng đó
được A.N Lêonchiev khẳng định rằng: Hệ thống liên hệ của khoa học tâm lý
không thể được xây dựng bên ngoài lý thuyết khoa học – cụ thể về ý thức.
Sự ra đời của phạm trù ý thức trong tâm lý học là một quá trình phát triển lâu
dài, là sự đấu tranh về thế giới quan và phương pháp luận của nhiều dòng phái tâm
lý và nhiều tác giả. Trên cơ sở nền tảng triết học Mác và phương pháp luận duy
vật biện chứng, tâm lý học mác xít ra đời đã giải quyết một cách triệt để vấn đề ý
thức với tư cách là một phạm trù của tâm lý học.
Trong giai đoạn hiện nay, khoa học tâm lý đang trải qua giai đoạn phát
triển tích cực, thể hiện ở việc mở rộng các vấn đề nghiên cứu, làm phong phú
các phương pháp nghiên cứu và tư liệu thực tế. Hình thành các xu hướng mới
và tăng cường mối liên hệ với thực tiễn, đây chính là những điều kiện mới để
tiếp tục phát triển lý luận chung của tâm lý học. Song bất kỳ lĩnh vực nghiên
cứu nào, trong điều kiện nào thì những phạm trù trong tâm lý học mác xít nói
chung và phạm trù ý thức nói riêng luôn là lý luận gốc cho việc nghiên cứu,
phát triển khoa học tâm lý.
Ý thức không chỉ là một phạm trù của tâm lý học mà còn là một phạm trù
quan trọng của triết học. Với cách tiếp cận của người học tập nghiên cứu tâm lý
học mác xít, trong phạm vi bài tiểu luận này, xin được trình bày một số nghiên cứu
cơ bản về ý thức trong tâm lý học theo quan điểm tâm lý học mác xít và vấn đề rút
ra trong xây dựng ý thức xã hội mới cho người quân nhân hiên nay.

1


NỘI DUNG
1. Vấn đề ý thức trong tâm lý học
Lịch sử nghiên cứu về ý thức có thể nói trước hết được các nhà triết học khám
phá nghiên cứu và trở thành một trong những phạm trù trung tâm của triết học. Song
để đi sâu, lý giải những hiện tượng đa dạng, phong phú về đời sống tinh thần của con


người thì các vấn đề ý thức được tiếp cận ở góc độ khác, góc độ khoa học tâm lý, cho
dù nó còn mờ nhạt, chưa thực sự rõ nét. Đó chính là những tư tưởng của Platon hay
Aristot về linh hồn, ý niệm; những quan niệm này về mặt tích cực đã thấy được một
khía cạnh quan trọng trong nhận thức rằng con người không chỉ khám phá, nhận thức
thế giới mà còn nhận thức chính bản thân mình (tự ý thức). song mặt hạn chế lại
không phân biệt được ý thức với tâm lý mà lại đồng nhất chúng với nhau.
Trong giai đoạn thế kỷ XVII, thế kỷ XVIII, với những thành tựu của khoa học
tự nhiên, thành tựu trong sinh lý học, vấn đề ý thức dần được nghiên cứu một cách rõ
ràng và trở thành đối tượng nghiên cứu của tâm lý học. Thành tựu tâm lý học nổi bật
trong giai đoạn này là thuyết phản xạ gắn liền với tên tuổi của Descartes với châm
ngôn nổi tiếng “tôi suy nghĩ tức là tôi tồn tại”. với cách tiếp cận của ông và giá trị của
thuyết phản xạ đã đặt nền móng cho tư tưởng quyết định luận duy vật trong nghiên
cứu ý thức con người. Cũng chính từ sự kiện này đã xuất hiện nhiều học thuyết
nghiên cứu về nguồn gốc, bản chất của ý thức như thuyết liên tưởng với quan điểm
không tồn tại thế giới khách quan, chỉ có một thế giới cảm giác. Con người trực tiếp
tri giác tư tưởng của mình.
Tuy rằng những nghiên cứu về ý thức trong giai đoạn này còn mang tính
chất duy tâm, nội quan song những đóng góp của nó là đáng kể, thúc đẩy cho sự
ra đời của các dòng phái khách quan trong nghiên cứu về ý thức.
Trước sự ra đời của các dòng phái tâm lý học khách quan, sự kiện năm 1879
tại Leipzing Wundt tổ chức ra phòng thực nghiệm đầu tiên và đưa tâm lý học
chính thức trở thành khoa học độc lập. Tâm lý học của Wundt coi ý thức là phạm
2


trù trung tâm của tâm lý học, ông quan niệm tất cả các hiện tượng tâm lý đều ở
trong vòng các hiện tượng tinh thần của con người và đều xuất phát từ ý thức.
Wundt coi tâm lý là cái thứ nhất, mọi cái trong thực tại đều bắt nguồn từ ý thức. Ý
thức của con người hoàn toàn đóng kín và mỗi người tự hiểu lấy chính mình,
không ai có thể hiểu mình bằng chính bản thân mình.

Có thể thấy quan niệm của Wundt về phạm trù ý thức thực chất là quan niệm
duy tâm, tuyệt đối hóa ý thức, đồng nhất tâm lý với ý thức nên không thấy được
mối quan hệ tâm lý – ý thức với bên ngoài. Chính vì vậy khi giải thích về nguồn
gốc, bản chất của ý thức lại theo quan niệm duy tâm nội quan, rơi vào vòng luẩn
quẩn đó là: họ mong muốn đi tìm hiểu, nghiên cứu tâm lý người khác, hay ít nhất
cũng là những người mong muốn tìm ra con đường, phương pháp để nghiên cứu
các hiện tượng tâm lý lại chính là người thừa nhận rằng: tâm lý của ai chỉ có người
đó mới biết được, người khác chỉ nghe người ta kể lại rồi lý giải theo cách này hay
cách khác một cách hoàn toàn chủ quan.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tâm lý học nội quan không còn đứng vững;
tâm lý học rơi vào khủng hoảng. Trong tình hình đó các dòng phái tâm lý học
khách quan ra đời với xu hướng phủ nhận tâm lý học nội quan và tham vọng đưa
tâm lý học thoát khỏi cuộc khủng hoảng về thế giới quan, phương pháp luận song
chính những dòng phái này lại thể hiện quan điểm phiến diện về ý thức. Tâm lý
học hành vi thì gạt bỏ ý thức khỏi đối tượng nghiên cứu của tâm lý học, phủ nhận
phạm trù ý thức. Họ tuyên bố chỉ quan tâm đến hành vi của con người. Phân tâm
học thì lại chủ tương nghiên cứu vô thức, coi vô thức là cái quyết định mọi biểu
hiện của đời sống tâm lý con người, ý thức chỉ là cái thư yếu, là một phần rất nhỏ
chịu sự quy định của cái vô thức.
Có thể thấy rằng trong lịch sử các tư tưởng tâm lý học, thái độ đối với vấn đề
ý thức đã có thay đổi, và sự thay đổi ở đây khá đột ngột. Từ việc khẳng định vấn
đề này hầu như là vấn đề duy nhất đến chỗ tuyên bố ý thức là điều hư cấu, giả tạo.
3


Như đã biết, tâm lý học nội quan cho rằng ý thức là bản thể độc lập và xem xét tất
cả các quá trình tâm lý như chức năng của ý thức. Trong cuộc đấu tranh vì những
phương pháp khoa học khách quan đã có những ý định bỏ hẳn vấn đề ý thức. Ý
thức được “tuyên bố” là tiếng vọng, dư âm yếu ớt, là lãng quên, là tâm hồn đang
biến mất trong bầu không khí triết học. Người ta khẳng định rằng chính khái niệm

ý thức “nhất định dẫn đến phép siêu hình” vì thế, đã đề nghị loại bỏ tất cả những
điều nói đến ý thức (Watson). Có ý kiến cho rằng ý thức là thuật ngữ rất mơ hồ, vì
thế “không nên định nghĩa tâm lý như một khoa học về ý thức”.
Cần thừa nhận rằng tâm lý học phương Tây trong thời gian dài chịu ảnh
hưởng rất lớn của chủ nghĩa hành vi và chủ nghĩa thực dụng, hiện nay mới phục
hồi vấn đề ý thức. Tuy nhiên, ở đây ý thức chủ yếu được xem như một biểu hiện
đặc biệt của cá nhân, gắn liền với sự tích luỹ, biến đổi và tổ chức kinh nghiệm cá
thể, hoặc như là sự thể hiện mối liên hệ tinh thần giữa mọi người.
Trong một cuộc tranh luận rộng rãi về ý thức, nó được xác định như tri thức
chung. Một số đại biểu của xu hướng phân tâm cho rằng ý thức là kết quả biến đổi
của vô thức trong liệu pháp tâm lý. Ở một số quan niệm khác, ý thức được xem
xét như việc cá nhân đối chiếu kinh nghiệm chủ quan của mình với các khuôn mẫu
do xã hội đưa ra.
Chủ nghĩa hành vi cấp tiến giải thích ý thức như sự chế định tạo tác của
hành vi ngôn ngữ. Skinner cho rằng, ý thức chỉ xuất hiện khi cá nhân làm chủ
ngôn ngữ đặc trưng cho cộng đồng nào đó và bắt đầu thể hiện trạng thái cá nhân
của mình ở cấp tri thức mà cộng đồng đó làm chủ.
Một cách lý giải khác thể hiện ở chỗ, ý thức được tuyên bố như là tri thức
nội tâm hay chính kiến được thể hiện, trước hết ở việc chính mình bằng cách nhập
tâm tất cả những quan sát hành động mà người khác thực hiện với họ. Thực chất,
ở đây ý thức được thay thế bởi tự ý thức.

4


Ý thức còn được xem như tổng của cảm tưởng, ý nghĩ và tình cảm tạo nên
cá nhân. Đó là một tâm thế tròn vẹn nhằm thống nhất các thời điểm của đời sống
trí tuệ của cá nhân (Phingarett, Langis, Rid). Sự thống nhất của ý thức quy định sự
“nhạy cảm” của cá nhân đối với thành tựu của chính họ. Tất cả các thời điểm của
đời sống trí tuệ của cá thể được thống nhất lại vì chỉ khi diễn ra trong cùng một cơ

thể, chúng tạo ra một phần ý thức cá nhân, cá nhân tạo ra các thời điểm đó dường
như từ bên trong. Cùng với vấn đề trọn vẹn của cá nhân, vấn đề phân đôi của ý
thức được nghiên cứu (Xperi, Pucheti,v.v…) trong trạng thái phân ly thôi miên,
trong thủ thuật rạch mép.
Trong tất cả cách tiếp cận trên, ý thức được coi như một cái gì đó xuất phát
từ kinh nghiệm cá nhân, như các yếu tố của đời sống nội tâm của họ – cảm tưởng,
tâm trạng, ý nghĩ...
Với sự ảnh hưởng mạnh mẽ của xu hướng khách quan được phổ biến rộng rãi
vào nửa đầu thế kỷ XX, trong cuộc đấu tranh làm sáng rõ những vấn đề lý luận,
phương pháp luận, tâm lý học mác xít đã bảo vệ vấn đề ý thức trên lập trường duy
vật và xác định hướng nghiên cứu khoa học của phạm trù này.
Tâm lý học Mác xít xem ý thức là chức năng của não, là sự phản ánh đời
sống của con người. Ý thức thể hiện năng lực nhận thức cao nhất của con người về
thế giới, là hình thức phản ánh cao nhất, khác về chất so với phản ánh chung. Ý
thức là sự phản ánh tích cực, chủ động, sáng tạo.
Như vậy điều nhận thấy đầu tiên trong quan niệm về ý thức của tâm lý học
Mác xít là xác định nguồn gốc, bản chất của ý thức; và đây cũng là những cơ sở
đầu tiên, quan trọng để chống lại các quan điểm duy tâm, nội quan về ý thức;
những quan điểm loại bỏ ý thức ra khỏi tâm lý học.
Để lý giải bản chất, nguốn gốc của ý thức, các nhà tâm lý học mác xít dựa
trên nền tảng triết học của Mác khi cho rằng: Để nắm được nguồn gốc, bản chất
của ý thức như là sự phản ánh của đời sống, cần phải phân tích xã hội, quy luật
5


khách quan sự phát triển của nó. Ý thức theo Mác ngay từ đầu là sản phẩm của xã
hội, và nó vẫn là sản phẩm xã hội chừng nào còn có sự tồn tại của con người. Tính
chất chế định về mặt xã hội của ý thức được đề cập nhiều trong các công trình
nghiên cứu nhưng chỉ có chủ nghĩa Mác, với cách hiểu duy vật và khoa học về xã
hội đã chỉ ra sự liên hệ khăng khít với sản xuất vật chất, với thực tiễn xã hội.

Khi bàn về vấn đề nguồn gốc và bản chất của ý thức, các nghiên cứu luôn
dựa trên quan điểm của Mác cho rằng: ý thức của con người được hình thành một
cách khách quan thông qua hoạt động xã hội và là sản phẩm của xã hội, chứ tuyệt
nhiên không phải là cái có sẵn. ý thức không phải cái gì khác hơn là sự tồn tại của
ý thức, nghĩa là ý thức bản thân nó luôn tồn tại khách quan; nó có nguồn gốc từ
hiện thực khách quan: “ý thức không phải là cái gì khác hơn là tồn tại được ý thức,
mà tồn tại của người ta là quá trình thực tế của đời sống người ta” và “ý thức của
chủ thể đó chỉ là cái bên ngoài được phản chiếu vào mà thôi”, chứ không phải tự
thân bên trong con người theo kiểu “tự sản sinh” như quan niệm của Hêghen : “ý
thức con người hình thành không phải theo cách chìm đắm trong cái âm thầm
không bộc lộ ra của tính trực tiếp, không phải trong trạng thái vô vị không hoạt
động, mà là trong lao động, trong bản thân hoạt động cải tạo thế giới của con
người”, mà là theo công thức nổi tiếng trong “Tư bản” của Mác: “Bằng cách biến
đổi tự nhiên bên ngoài con người, đồng thời biến đổi bản tính của chính mình”.
Khi con người tham gia vào các quá trình hoạt động thực tiễn xã hội (bao gồm cả
hoạt động thuần tuý lý luận), thì con người luôn nhập vai với tư cách là chủ thể
của hoạt động có ý thức, nhưng con người không thể tách mình biệt lập ra khỏi
môi trường đó, mà ngược lại con người đã bị “khách quan hoá”- nghĩa là con
người không thể tự ý hành động một cách chủ quan mà do chính những quy luật
xã hội quyết định và kết quả khách quan của hoạt động của chủ thể là do những
quan hệ xã hội khách quan quyết định: các sản phẩm hoạt động của chủ thể về
thực chất là sản phẩm của hoạt động xã hội: “mỗi một tư tưởng mà tôi diễn đạt ra
6


đều mang một ý nghĩa khách quan, một ý nghĩa khách quan do nhu cầu xã hội mà
có, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh khách quan đó tôi diễn đạt nó, chứ không tuỳ thuộc
vào ý định và cứ nguyên chỉ có chủ quan thúc đẩy tôi đi đến có tư tưởng đó;
những sản phẩm hoạt động lý luận cũng như những sản phẩm thực tiễn của tôi về
mặt nội dung khách quan thực chất là sản phẩm của hoạt động hội”. Xét về mặt

bản chất của ý thức là ở chỗ: trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, trực
tiếp là quá trình con người hoạt động tác động cải tạo tự nhiên, hoàn cảnh được
nghiệm thấy trong ý thức của mình như một thái độ, nghĩa là thái độ thực sự của
con người đã trở thành trung gian thông qua sự phản ánh của tinh thần. Sự phản
ánh đó được thực hiện trong ngôn ngữ, thông qua ngôn ngữ và được ngôn ngữ ghi
lại với tính cách là cái vỏ vật chất của ý thức; đồng thời, ngay chính cả ngôn ngữ
cũng là sản phẩm tất yếu của hiện thực khách quan. Khi nói về vấn đề này, Mác
viết : “cả đến bản thân ngôn ngữ mà nhà tư tưởng dùng để hoạt động,- được cung
cấp cho tôi với tính cách là một sản phẩm xã hội, mà tồn tại của bản thân tôi cũng
là hoạt động xã hội; cho nên, cái mà tôi làm ra từ trong con người của tôi là cái mà
tôi làm ra cho xã hội, từ trong bản thân tôi, trong khi tôi có ý thức về tôi như một
thực thể xã hội” và đối với Mác, ngôn ngữ là “ý thức thực sự thực tiễn tồn tại đối
với những người khác và do đó cũng tồn tại đối với tôi”.
Như vậy, về bản chất, ý thức con người không phải là cái gì trừu tượng và
khó hiểu; nó không phải là thứ được tự sản sinh ra theo kiểu “gan tiết ra mật”
ngay chính trong chủ thể; nó lại càng không phải do thần linh hay thượng đế
sinh ra, mà ý thức là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan của một
dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao nhất đó là óc người. Cũng như tâm lý
người nói chung, ý thức mang bản chất xã hội rất sâu sắc- ý thức là sản phẩm
cao nhất của phản ánh và hoạt động xã hội của con người, nghĩa là ý thức chịu
sự quy định và chi phối của điều kiện và hoàn cảnh xã hội lịch sử nhất định;

7


trong xã hội có giai cấp, ý thức mang tính chất giai cấp rất sâu sắc và tồn tại cả
trong ý thức cá nhân và ý thức xã hội.
Dựa trên quan niệm của Mác: “Lao động trước hết là quá trình được thực
hiện giữa con người và thiên nhiên, quá trình mà trong đó con người bằng hoạt
động của chính mình quy định, điều khiển và kiểm tra sự trao đổi vật chất giữa họ

và tự nhiên. Chính con người chống đối lại vật chất thiên nhiên, họ như sức mạnh
tự nhiên. Để chiếm đoạt vật chất thiên nhiên ở dạng có lợi cho cuộc sống riêng của
mình, con người làm cho những sức mạnh tự nhiên thuộc thân thể họ như: tay,
chân, đầu vận động. Khi tác động vào thiên nhiên bên ngoài nhờ sự vận động đó
và khi thay đổi thiên nhiên, con người đồng thời thay đổi cả chính nguồn gốc của
mình. Con người phát triển sức mạnh tiềm tàng trong thiên nhiên và bắt trò chơi
của sức mạnh đó phục tùng quyền lực của bản thân mình”. Và tiếp nữa: “Con nhện
thực hiện thao tác, giống như thao tác của ngời thợ dệt, và con ong với việc xây
dựng tổ sáp của mình làm hổ thẹn một số nhà kiến trúc sư. Nhưng một nhà kiến
trúc tồi nhất, ngay từ đầu được phân biệt với một con ong giỏi nhất ở chỗ, trước
khi xây tổ bằng sáp họ đã xây dựng nó trong đầu mình. Kết quả thu được cuối quá
trình lao động đã có ngay từ đầu của quá trình đó trong sự tưởng tượng của con
người, tức là một cách lý tưởng. Con người không chỉ thay đổi hình thức của
những cái được thiên nhiên tạo ra, trong những cái được thiên nhiên tạo ra, con
người đồng thời thực hiện mục đích có ý thức của mình. Mục đích đó như là quy
luật xác định phương thức và tính chất hoạt động của con người và con người cần
phải bắt ý chí của mình tuân theo mục đích đó”. Theo đó ý thức trong tâm lý học
được nghiên cứu trong mối quan hệ khăng khít với hoạt động để phân tích làm rõ
hoạt động của con vật với hoạt động có ý thức của con người.
Ở động vật, cái tâm lý được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt
động sống mang tính chất thích nghi, như là yếu tố thích nghi với môi trường xung
quanh. Sự khác biệt cơ bản giữa phương thức tồn tại của con người và phương
8


thức tồn tại của con vật ở chỗ. Con người cải tạo thiên nhiên xung quanh trong
quá trình lao động, tạo nên những phương tiện sống hay nói một cách khác trong
hoạt động của con người luôn có sự chỉ đạo của ý thức.
Như vậy, với lý luận này đã có cơ sở khoa học để luận giải về nguồn gốc
của ý thức đó chính là lao động. Chính lao động đã thay đổi cấu trúc hình thái và

sinh lý cơ thể, đồng thời làm nảy sinh, phát triển các phẩm chất, năng lực tâm lý.
Bên cạnh lao động thì ngôn ngữ cũng có vai trò quan trọng trong sự hình thành ý
thức bởi ngôn ngữ chính là phương tiện để con người lĩnh hội kiến thức, kinh
nghiệm; chính ngôn ngữ là công cụ để con người nhận thức thế giới khách quan.
Sự hình thành ý thức xét về phương diện tiến hóa cá thể cần nghiên cứu mối quan
hệ giữa ý thức cá nhân và ý thức xã hội.
Trong lý giải sự hình thành ý thức cá nhân có nhiều cách tiếp cận khác nhau
song cách tiếp cận được phổ biến khá rộng rãi là cách tiếp cận khẳng định sự bắt
chước, lây lan, ám thị: thuyết phục là phương thức cơ bản của sự phát triển ý thức
cá nhân. Trong Tâm lý học nước nhà người đầu tiên bắt đầu nghiên cứu những
phương thức này là Becherev, Plêkhanovv.v…
G.Tacder cho rằng bắt chước có vai trò quan trọng trong việc cá nhân lĩnh
hội kinh nghiệm xã hội lịch sử. Ông tuyệt đối hóa tư tưởng này, gắn cho bắt chước
ý nghĩa của cơ chế tổng hợp của cuộc sống xã hội. Tiếp nhận tư tưởng này,
Becherev đồng thời mở rộng khái niệm về “công cụ của xã hội”. Bên cạnh bắt
chước, ông còn đưa cả hiện tượng cảm ứng, ám thị, sự thuyết phục. Ông cũng có ý
định rất thú vị là nghiên cứu những “công cụ” đó bằng thực nghiệm. Tuy nhiên,
Becherev xem những cơ chế đó là tự nhiên. Plêkhanov phê phán cách giải thích
mang tính tự nhiên của họ trong các tác phẩm của Tacder. Cho rằng, bắt chước
thực sự là một cơ chế chung nào đó của sự phát triển tâm lý - ý thức. Ông nhấn
mạnh rằng tác dụng của cơ chế đó được xác định bởi điều kiện lịch sử cụ thể của
cuộc sống xã hội. Các cá nhân khác nhau bắt chước cái gì và bắt chước như thế
9


nào, điều đó phụ thuộc vào vị trí của họ trong hệ thống quan hệ xã hội. Plêkhanov
cũng khẳng định rằng, cùng với bắt chước còn tồn tại cơ chế khác đối lập với bắt
chước đó là phản đối được tạo ra bởi sự thay đổi tương xứng. Chúng ta thấy rằng,
tư tưởng của Plêkhanov về cơ chế liên hệ một cách biện chứng các mặt đối lập
trong tính chất quy định của sự phát triển tâm lý có ý nghĩa quan trọng đối với tâm

lý học. Có cơ sở cho rằng tham gia vào cơ chế quy định phát triển tâm lý có các
cặp cơ chế có liên quan biện chứng với nhau: bắt chước và kháng cự, ám thị và
chống ám thị, lây lan và cơ chế chống lại sự lây lan. Sự kết hợp cụ thể những cơ
chế khác nhau phụ thuộc vào điều kiện xã hội của đời sống cá nhân.
Bắt chước, ám thị, thuyết phục – tất nhiên đó là những phương thức cơ bản
–của tính quy định xã hội về sự phát triển tâm lý cá nhân và cá nhân tiếp thu kinh
nghiệm xã hội. Nhưng tâm lý học không thể chỉ hạn chế ở chỗ xác nhận chúng.
Nhiệm vụ của tâm lý học là phải khám phá ra chính quá trình thực hiện những
phương thức đó, phạm vi và điều kiện hành động của từng phương thức, khám phá
ra các quy luật mà sự phát triển các phương thức đó và chức năng thực sự của
chúng trong sự hình thành ý thức cá nhân.
Hướng khác phân tích cơ chế hình thành ý thức được Vưgôtxki đưa ra trong
quan niệm của ông về chức năng tâm lý cấp cao. Vưgôtxki là người có công lao
đầu tiên trong việc xác định vị trí vai trò của ý thức với tư cách là phạm trù của
tâm lý học. Trong bài báo “ ý thức như một vấn đề của tâm lý học hành vi” ông
nêu ra những luận điểm quan trọng trong nghiên cứu về ý thức: Ý thức là vấn đề
trung tâm, là đối tượng nghiên cứu của tâm lý học; muốn nghiên cứu ý thức phải
nghiên cứu cấu trúc của hành vi, ý thức là một vấn đề của cấu trúc hành vi; bản
thân ý thức là sản phẩm của sự phản ánh tâm lý ở trình độ cao nhất của dạng vật
chất có tổ chức cao nhất là óc người; trong nghiên cứu tâm lý, ý thức con người
phải nghiên cứu trong hoạt động, thông qua hoạt động. Đi vào những nghiên cứu
cụ thể khi luận giải về sự hình thành ý thức cá nhân Vưgôtxki dựa trên công trình
10


của trường phái xã hội học Pháp, trường phái “Tâm lý học hình ảnh hành động”
và trường phái Piagiê, Vưgôtxki đưa ra luận thuyết cho rằng “tất cả các chức
năng tâm lý cấp cao thực chất là đều quan hệ mang tính chất nhập tâm của trật
tự xã hội.
Quan điểm về vai trò quy định của các quan hệ xã hội trong sự phát triển ý

thức cá nhân có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với tâm lý học Mácxít. Rất tiếc
Vưgôtxki chỉ chú ý đến những mối quan hệ được hình thành giữa người lớn và trẻ
em. Cụ thể hóa quan điểm chúng về vai trò quy định của quan hệ xã hội theo
phương diện tâm lý học, Vưgôtxki khẳng định rằng, sự biến đổi các quan hệ xã
hội. Sự nội tâm hóa chúng là cơ chế quan trọng nhất thực hiện chức năng đó trong
phát triển tâm lý cá thể. Trong quan niệm của Vưgôtxki nói đến quan hệ xã hội
nhưng vẫn còn chưa rõ những quan hệ xã hội nào được nói đến, và vì thế chưa rõ
rằng, luận thuyết được đưa ra về sự biến đổi quan hệ thành chức năng tâm lý là
luận thuyết cơ bản ở mức nào? Thực chất sự biến đổi quan hệ thành chức năng
tâm lý, tức là nhập tâm hóa cũng chưa được làm rõ.
Trong tâm lý học Liên Xô, phương pháp nghiên cứu có hiệu quả nhất là
phương pháp nghiên cứu sự quy định ý thức cá nhân từ phía xã hội. Phương pháp
này đã đưa ra phạm trù hoạt động. Theo phương pháp này, ý thức theo bản chất
của nó được hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động xã hội. Nguyên tắc
thống nhất của ý thức và hoạt động được hình thành. Trong nhiều năm liên tục nó
được đưa vào trong các nghiên cứu lý thuyết, thực nghiệm cũng như nghiên cứu
ứng dụng. Các nhà nghiện cứu khác nhau khám phá nguyên tắc này theo cách
khác nhau. Nhưng quan điểm chung thể hiện ở sự khẳng định: cá nhân tiếp thu
những gì mà xã hội tạo ra qua hoạt động và trong hoạt động.
Về vấn đề tự ý thức được I.I. Trécnôcôva nghiên cứu một cách đầy đủ. Trên
cơ sở khái quát nhiều công trình nghiên cứu, bà đã chỉ ra rằng, sự phát triển tự ý
thức diễn ra những giai đoạn giống như các giai đoạn nhận thức của con người về
11


thế giới khách quan – Từ tự cảm giác sơ đẳng đến tự tri giác, tự hình dung ý kiến
và khái niệm về mình.
Tự ý thức không phải là một quá trình độc lập nào đó, tồn tại cùng hoặc
song song với ý thức. Ý thức là một cấp độ phản ánh đặc biệt. Tuy nhiên, không
nên cho rằng, ý thức là một tầng bổ sung nào đó, được xếp trên cấp độ nhận cảm –

cảm giác, biểu tượng và lôgic, ngôn ngữ của phản ánh tâm lý. Ý thức nói lên phẩm
chất của các cấp độ phản ánh tâm lý khác nhau, nói lên hình thái lý tưởng của nó
được cá nhân tiếp thu trong quá trình phát triển của cá nhân trong xã hội.
Ý thức phản ánh tồn tại. Nhưng không nên cho rằng ở mọi thời điểm ý thức
hoàn toàn tương ứng với tồn tại. Đó không phải là cái bóng, không phải là hình
ảnh trực tiếp, nó không nhắc lại nguyên bản sự kiện mà là sự phản ánh sáng tạo.
Trong quá trình phát triển cá nhân, mối liên hệ bên trong của ý thức cá nhân,
“lôgic riêng” đặc thù được hình thành. Hình thái phản ánh lý tưởng tạo cho chủ
thể độc lập tương đối với những thời điểm tức thời. Hành vi của cá nhân trong
từng thời điểm được xác định không chỉ bởi thời điểm đó mà cả bởi lịch sử trước
đó và sự tưởng tượng về tương lai, bởi suy nghĩ, mục đích, ý nghĩ, sự hồi tưởng và
sự hình dung về nguyên tắc hành động thế giới quan… Tóm lại, tất cả những điều
đó tạo nên cái gọi là “thế giới bên trong” của cá nhân. Cần phải thấy rằng khái
niệm “thế giới bên trong” dường như đôi khi không tương hợp với khái niệm phản
ánh. Tuy nhiên, trong thực tế, biểu hiện đúng nhất là phản ánh nhưng có tổ chức
phức tạp, “được tích lũy” trong diễn biến cuộc sống, bao gồm nhiều cấp độ của
chiều sâu và bề rộng của cái được ý thức và không được ý thức, của khái quát lý
thuyết và kinh nghiệm. Chính thế giới bên trong nói lên tính độc đáo của cá nhân
và nét đặc thù của nó. Nét đặc thù đó được thể hiện ở những hiện tượng đơn giản
của phản ánh chỉ ở mức trong đó các hiện tượng gắn liền với thế giới bên trong
của cá nhân.

12


Tất cả những đặc điểm cơ bản của ý thức cá nhân: tính tích cực, hình thái
phản ánh lý tưởng, tính phản xạ và tính liên kết bên trong được hình thành và phát
triển trong quá trình sống của cá nhân trong xã hội. Chỉ có thể phát hiện ra các quy
luật khách quan mà ý thức cá nhân phải tuân thủ bằng con đường nghiên cứu sự
phát triển cá nhân trong xã hội – nghiên cứu chủ thể thực hiện hoạt động giao tiếp

và nhận thức.
Có lẽ vấn đề ý thức được thể hiện sáng rõ nhất trong những nghiên cứu của
X.L. Rubinstêin. Dựa trên cơ sở nền tảng triết học Mác – Lênin ông đã luận giải
một cách khoa học vấn đề ý thức và khẳng định vị trí của phạm trù này đối với sự
phát triển của khoa học tâm lý.
X.L.Rubinstêin phê phán tâm lý học nội quan của Wundt, đem đồng nhất
tâm lý với ý thức; coi nhiệm vụ của tâm lý học là nghiên cứu các hiện tượng ý
thức trong khuôn khổ của ý thức cá thể, ý thức đóng kín mà chỉ chủ thể mới hiểu.
Thực chất đây là quan điểm duy tâm, nội quan; lý giải hiện tượng tâm lý trong một
vòng luẩn quẩn không lối thoát. Tâm lý học hành vi thì lại quá đề cao hành vi con
người mà loại bỏ ngay hiện tượng ý thức trong nghiên cứu. Chính vì quan niệm
này mà đồng nhất hành vi con người với con vật, biến hành vi, hoạt động của con
người như một cái máy mà không có sự tham gia, điều chỉnh của ý thức, không
tính đến yếu tố ý thức. Như vậy yếu tố xã hội ở đâu, yếu tố có vai trò gì đối với
hoạt động của con người, chính câu hỏi này đòi hỏi cần phải nghiên cứu tâm lý nói
chung và ý thức nói riêng một cách có hệ thống, khoa học.
Rubinstein viết “kết quả là hoạt động bị mất hết tính chất xã hội và nội
dung tâm lý; từ lĩnh vực xã hội và tâm lý, hoạt động hoàn toàn bị liệt xuống lĩnh
vực sinh lý”. Trong khi thuyết tinh thần thì quá nhấn mạnh yếu tố tinh thần, ý
thức, thì phân tâm học lại không quan tâm đến ý thức, chỉ nghiên cứu lĩnh vực vô
thức. Rõ ràng rằng đây là cuộc khủng hoảng về thế giới quan, phương pháp
luận cũng như xác định đối tượng trong nghiên cứu tâm lý.
13


Một số tác giả khác như K. Buyle và K.N. Coocnhilov với ý định xây
dựng xu hướng tâm lý học mới song họ lại đem gộp những dòng phái tâm lý
học trước đó với mục đích để bổ sung cho nhau. Họ cố ý liên kết cách tiếp cận
đối tượng của cả thuyết nội quan, hành vi và tinh thần; coi chúng như là ba mặt
của cùng một đối tượng thống nhất của tâm lý học. Xu hướng này ngay lập tức

thể hiện rõ quan điểm chủ quan, máy móc trong nghiên cứu tâm lý nói chung và
ý thức nói riêng.
Trường phái xã hội học, đại biểu là E. Đuychkhêm với luận điểm về tính
chất xã hội của ý thức, nhưng Ông cho rằng ý thức là một cấu thành của xã hội và
quy ý thức vào hệ tư tưởng; còn Ch.Blon-đen lại cho rằng: ý thức hoàn toàn không
tương ứng với thực tại tâm lý; H.Wan-lon thì cho rằng: ý thức và tâm lý là hai lĩnh
vực hoàn toàn xa lạ nhau, không liên quan gì đến nhau, cái nọ nằm ngoài cái kia.
Theo Rubinstein thì vấn đề không phải là ở chỗ đem kết hợp quan niệm về ý thức
của tâm lý học nội quan với quan niệm hành vi chủ nghĩa về hoạt động của con
người, mà cần loại bỏ những quan niệm đó, cải tạo nhận thức về ý thức cũng như
về hoạt động của con người đã hình thành trong các quan niệm tâm lý học đó và
chính điều ấy đã khiến cho tâm lý học đi vào khủng hoảng. Ông khẳng định muốn
thoát khỏi cuộc khủng hoảng phải đoạn tuyệt với những sai lầm, hạn chế của các
trường phái trên: Cần phải nhận thức đúng đắn về tâm lý- ý thức và hoạt động của
con người; nhận thức đúng đắn về mối quan hệ giữa ý thức và hoạt động, đó là
mối quan hệ biện chứng; không được tách rời ý thức với hoạt động, mà phải coi ý
thức là một thành tố quan trọng của hoạt động của con người.
Như vậy, một thức tế đã chứng minh tất cả các trường phái tâm lý học
trước Mác đều phản ánh không đúng bản chất xã hội của ý thức; hoặc là tuyệt đối
hoá, hoặc không tính đến hay xem xét một cách phiến diện các yếu tố xã hội với
tính cách là nguồn gốc xã hội của ý thức.

14


Từ quá trình tìm hiểu các dòng phái, các xu hướng nghiên cứu khác nhau về
tâm lý học nói chung và phạm trù ý thức nói riêng có thể rút ra một số vấn đề rằng:
Ý thức là một vấn đề trung tâm, quan trọng không chỉ đối với tâm lý học
mà còn là phạm trù chủ đạo trong triết học. Những nghiên cứu về ý thức trong triết
học xuất hiện ngay từ thời cổ đại và dựa trên nền tảng đó các nhà tâm lý học đã

dần dần làm sáng tỏ phạm trù này, tách nó ra khỏi triết học và trở thành đối tượng
của tâm lý học. Quá trình phát triển đó là quá trình đấu tranh gay gắt giữa các
dòng phái tâm lý dẫn đến sự phủ định, bài trừ lẫn nhau trong các nghiên cứu. Song
tựu chung lại, chúng ta có thể thấy những xu hướng nghiên cứu ý thức ngoài mác
xít đều chưa lý giải được một cách khoa học về hiện tượng ý thức, về nguồn gốc,
bản chất của ý thức. Họ thường rơi vào những sai lầm căn bản như quá tuyệt đối
hóa vấn đề ý thức hoặc xem nhẹ, thậm chí loại bỏ ý thức trong nghiên cứu tâm lý;
bên cạnh đó lại có những xu hướng đồng nhất tâm lý với ý thức.
Tâm lý học mác xít ra đời như một đòi hỏi tất yếu trong lịch sử phát
triển của tâm lý học. Trên cơ sở nền tảng triết học Mác – Lênin, phương pháp
luận duy vật biện chứng các các nhà tâm lý học mác xít đã có những lý giải
khoa học, đúng đắn về nguồn gốc, bản chất của ý thức; đồng thời các nhà tâm
lý học mác xít đã đặt phạm trù ý thức trong mối quan hệ với các phạm trù hoạt
động, giao tiếp nhân cách. Đặc biệt trong đó, ý thức cần phải được gắn chặt với
phạm trù hoạt động, nghiên cứu ý thức phải nghiên cứu trong hoạt động và
thông quá hoạt động. Đây chính là quan điểm quyết định luận duy vật trong lý
giải hiện tượng mà các trường phái tâm lý trước đó cho rằng nó là đóng kín, là
không thể hiểu - hiện tượng ý thức.
2. Ý ngĩa của vấn đề trong xây dựng ý thức xã hội mới cho quân nhân hiện nay.
Lý luận về ý thức chỉ ra rằng, trong nghiên cứu ý thức cá nhân cần đặt nó
trong mối quan hệ với ý thức xã hội, vì thực tế cuộc sống chỉ ra rằng, ý thức xã hội
tác động mạnh mẽ đến sự phát triển tâm lý. Các dạng hình thức khác nhau của ý
15


thức xã hội bằng cách này hay cách khác tham gia vào hệ thống các yếu tố quy
định sự phát triển tâm lý – ý thức cá nhân, ảnh hưởng thực sự lên sự hình thành
thế giới quan, tâm thế xã hội và thái độ cá nhân chủ quan của họ, điều khiển hành
vi cá nhân trong xã hội. Xã hội phát triển tạo ra các cơ quan chuyên môn, có
nhiệm vụ cơ bản là hình thành ý thức cá nhân cũng như ý thức xã hội, đó là hệ

thống giáo dục, nghệ thuật, tư tưởng.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, xây dựng ý thức xã hội mới là
hết sức cần thiết, là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên cơ
sở phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vận dụng sáng tạo vào
phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp chặt chẽ giữa
xây và chống.
Xây dựng ý thức xã hội mới chúng ta cần phải đẩy mạnh xây dựng đời sống
kinh tế mới, văn hóa mới, con người mới. Không ngừng xây dựng ý thức giai cấp
hệ vô sản, đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục ý thức xã hội mới.
Nhiệm vụ này không phải của riêng ai, của riêng một cơ quan tổ chức nào mà
là nhiệm vụ của toàn đảng, toàn dân và toàn quân; trong đó xây dựng ý thức xã hội
mới cho người quân nhân có ý nghĩa quan trọng trong góp phần tăng cường ý thức
giai cấp hệ vô sản, đồng thời xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị.
Chúng ta thấy rằng trong sự phát triển của mỗi cá nhân, ngoài những yếu tố
thuận lợi về chủ thể, họ còn bị chi phối bởi quan điểm tư tưởng, tình cảm, tâm
trạng, truyền thống của cộng đồng tức là bị chi phối bởi ý thức xã hội. Ý thức xã
hội lành mạnh, tiến bộ sẽ tạo điều kiện cho ý thức cá nhân phát triển và ngược lại.
Như vậy, để xây dựng ý thức xã hội mới cho người quân nhân trước hết cần
xây dựng đời sống mới, văn hóa mới, con người mới. Theo lý luận về ý thức đã
trình bày thì ý thức được hình thành trong hoạt động, do đó muốn có ý thức xã hội
mới thì cần phải xây dựng đời sống mới. Đời sống mới của người quân nhân
không phải là thay đổi toàn bộ đời sống hiện tại mà đời sống mới được hiểu là
16


những hoạt động sống phù hợp, đáp ứng được với những yêu cầu phát triển của
kinh tế xã hội. Muốn có đời sống mới, văn hóa mới, con người mới thì cần xây
dựng môi trường sống lành mạnh; tổ chức hoạt động cho người quân nhân một
cách khoa học, phong phú, phản ánh đầy đủ những đòi hỏi của môi trường quân
đội cũng như đòi hỏi của xã hội. Mặt khác, cần phải hiểu xây dựng đời sống đó

chính là quan tâm đến đời sống vật chất cho người quân nhân. Ý thức luôn bị chi
phối bởi những điều kiện sinh hoạt vật chất, cho nên trên thực tế những biểu hiện
lệch lạc trong đời sống tinh thần đều có nguồn gốc từ đời sống vật chất.
Xây dựng ý thức xã hội mới cũng cần chú ý đến việc kế thừa những giá trị
truyền thống của quân đội, đó không chỉ là sự bảo lưu, giữ gìn các giá trị truyền
thống mà còn tiếp thu chọn lọc các giá trị tinh thần của xã hội cũng như những giá
trị được du nhập từ bên ngoài. Những giá trị truyền thống cốt lõi như trung với
Đảng, hiếu với dân, lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tinh thần đoàn kết đùm
bọc giúp đỡ lẫn nhau, tinh thần hy sinh cho sự nghiệp giải tộc, trong điều kiện
hiện nay nó cần được thể hiện ở tinh thần cần cù sáng tạo, ý chí quyết tâm vượt
khó để cải tạo cuộc sống, phát triển kinh tế. Tinh thần đoàn kết cần được thể hiện
sở sự đồng thuận trong giải quyết lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, xóa bỏ mặc
cảm về bản thân, gia đình.
Để quá trình xây dựng ý thức xã hội mới cho người quân nhân đạt hiệu quả
cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, phát huy vai trò của các tổ chức, các
phương tiện thông tin đại chúng trong đơn vị. Trong công tác tư tưởng cần giao
tiếp, lắng nghe tâm tư nguyện vọng và những vướng mắc trong tư tưởng của chiến
sĩ để giải đáp; phát huy vai trò của các tổ chức, phương tiện thông tin đại chúng để
tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng, đồng thời đấu tranh với những luận
điệu sai trái của kẻ thù. Cần phải có những phương pháp giao dục tuyên truyền
phù hợp, đặc biệt là sử dụng các phương pháp tâm lý xã hội trong tác động đến
người quân nhân.
17


Xây dựng ý thức xã hội mới cho người quân nhân là quá trình phức tạp nhằm
khắc phục ở người quân nhân những tư tưởng, thói quen, tập quán sinh hoạt lạc
hậu; làm thất bại âm mưu tấn công vào mặt trận tư tưởng của các thế lực thù địch
và kế thừa những giá trị truyền thống tích cực của quân đội và của dân tộc.
Qua đây cũng cần phải khắc phục những biểu hiện của việc coi nhẹ công tác

tư tưởng, coi nhẹ việc giáo dục ý thức xã hội chủ nghĩa cho người quân nhân bởi
lý luận rằng môi trường quân đội là môi trường đặc thù, người quân nhân hoàn
toàn miễn dịch với tác động của xã hội.

18


KẾT LUẬN
Nghiên cứu về các phạm trù cơ bản của tâm lý học nói chung và phạm trù
ý thức nói riêng điều nhận thấy rõ nét rằng sự phát triển của phạm trù ý thức
trong tâm lý học luôn gắn liền với sự ra đời, hình thành và phát triển của khoa
học tâm lý.
Ngay từ ban đầu trong nghiên cứu về phạm trù ý thức đã diễn ra cuộc đấu
tranh gay gắt giữa các quan điểm, dòng phái tâm lý. Sự đấu tranh trong giai đoạn
này do sai lầm về phương pháp luận nên chưa thể làm sáng tỏ được phạm trù ý
thức, mặt khác đưa tâm lý học rơi vào khủng hoảng về thế giới quan và phương
pháp luận. Tuy nhiên, xét ở một góc độ nào đó, lại là tín hiệu tích cực tạo ra sự
phát triển cho nghiên cứu về ý thức nói riêng và tâm lý nói chung (kích thích, thúc
đẩy các trường phái nghiên cứu). Chỉ khi tâm lý học mác xít ra đời thì lúc đó ý
thức mới chính thức được coi là đối tượng nghiên cứu của tâm lý học, là một
phạm trù của tâm lý học.
Nghiên cứu phạm trù ý thức cần phải đặt nó trong mối quan hệ với các
phạm trù hoạt động, giao tiếp, nhân cách; xem đây là mối quan hệ biện chứng
không thể tách rời. Trên cơ sở đó, trong học tập nghiên cứu các hiện tượng tâm
lý cần phải nắm chắc và dựa vào các phạm trù cơ bản này. Đồng thời, phải luôn
đứng trên lập trường quan điểm quyết định luận duy vật trong xem xét các hiện
tượng tâm lý người.

19



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A.N. Leonchiev, Hoạt động – ý thức – nhân cách (sách dịch), Nxb Giáo dục, H
1989.
2. A.N. Leonchiev, Một số công trình Tâm lý học, Nxb Giáo dục, H 2003.
3. B. Ph. Lomov, Những vấn đề lý luận và phương pháp luận tâm lý học (sách
dịch), Nxb ĐHQG, H 2000.
4. Bản thảo kinh tế - triết học, Nxb Sự thật, H 1962.
5. Các lý thuyết phát triển tâm lý người, Nxb ĐHSP, H 2003.
6. Lịch sử tâm lý học và tâm lý học quân sự, Nxb QĐND, H 2003.
7. Những vấn đề Tâm lý học trong các tác phẩm của C.Mác, HVCTQS, 1984
8. Tâm lý học Liên Xô, Nxb Tiến bộ, H 1978.
9. Tâm lý học, Những cơ sở lý luận và phương pháp luận, HVCTQS, 1984.
10. Tuyển tập Phạm Minh Hạc, Nxb CTQG, H 2006.

20



×