Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Luận văn Phân tích tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.58 KB, 24 trang )

Đề tài môn học GVHD: Trần Đình Khôi
Nguyên

ĐỀ TÀI
“ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH QUẢN LÝ
VÀ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG
TRONG DOANH NGHIỆP ”

Giáo viên hướng dẫn : Trần Đình Khôi Nguyên
Họ tên sinh viên : Lê Thị Thu Hà

SVTH: Lê Thị Thu Hà - 26K6.3 1
Đề tài môn học GVHD: Trần Đình Khôi
Nguyên
PHẦN II: PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH QUẢN LÝ VỐN TẠI DOANH NGHIỆP 9
Số dư bình quân các khoản phải thu KH 15
2. Các biện pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển của vốn lưu động:21
SVTH: Lê Thị Thu Hà - 26K6.3 2
Đề tài môn học GVHD: Trần Đình Khôi
Nguyên
LỜI MỞ ĐẦU
Vốn là một phạm trù kinh tế hàng hoá, là một yếu tố quan trọng
trong việc quyết định đến vấn đề sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và
sản xuất như thế nào. Vì vậy nên bất kỳ một Doanh nghiệp nào muốn
tồn tại, phát triển đều phải quan tâm đến vấn đề tạo lập, quản lý và sử
dụng vốn sao cho có hiệu quả nhằm đạt mục tiêu hoá lợi nhuận.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là mục tiêu phấn đấu lâu dài
của mỗi Doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn nói chung và hiệu quả
sử dụng vốn lưu động nói riêng gắn liền với hoạt động sản xuất kinh
doanh của Doanh nghiệp. Nhà nước tạo môi trường hành lang kinh tế
cho các Doanh nghiệp hoạt động đồng thời cũng tạo áp lực cho các


Doang nghiệp. Để tồn tại và đứng vững trên thị trường các Doanh
nghiệp phải chú trọng đến đến vấn đề sử dụng vốn sao cho có hiệu
quả nhất. Trên thực tế có rất nhiều Doanh nghiệp đã đưa ra những
phương thức, biện pháp huy động vốn và sử dụng vốn một cách năng
động có hiệu quả, bên cạnh đó cũng có những doanh nghiệp lâm vào
tình trạng khó khăn, mất dần vốn do công tác quản lý và sử dụng vốn
không hiệu quả, thiếu chặt chẽ
Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng của công tác sử dụng
vốn lưu động tại Doanh nghiệp. Em đã quyết định chọn đề tài:
“ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN LƯU
ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP ”. Nội dung của đề tài ngoài
phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo đề tài gồm ba phần :
Phần I : Tổng quan về vốn lưu động.
Phần II : Phân tích tình hình quản lý vốn tại doanh nghiệp.
Phần III: Những giải pháp nhằm đấy nhanh tốc độc lưu chuyển
vốn lưu động trong doanh nghiệp.
Em xin cảm ơn thầy Trần Đình Khôi Nguyên đã tận tình hướng
dẫn em thực hiện đề tài này. Với thời gian nghiên cứu và lượng kiến
thức tích luỹ còn có hạn, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng đề tài này
không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp
ý kiến của các thầy cô và bạn bè để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Đà Nẵng, tháng 8 năm 2007
SVTH: Lê Thị Thu Hà
SVTH: Lê Thị Thu Hà - 26K6.3 3
Đề tài môn học GVHD: Trần Đình Khôi
Nguyên
PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ VỐN LƯU ĐỘNG
I. Vốn lưu động là gì?
Để tìm hiểu vốn lưu động là gì trước hết chúng ta hãy tìm hiểu

xem vốn lưu động được xuất phát từ đâu. Như chúng ta biết ở Việt
Nam, theo luật doanh nghiệp thì: Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế,
có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt
động kinh doanh. Với cách hiểu như trên thì doanh nghiệp là đơn vị
kinh doanh, mục đích chính là thực hiện các hoạt động kinh doanh để
tìm kiếm lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường, với sự đa dạng của
các thành phần kinh tế và quyền tự do kinh doanh của cá nhân, tập thể
đã tạo ra sự đa dạng của các loại hình doanh nghiệp. Điều này đã đặt
ra cho các doanh nghiệp những trăn trở, thách thức, không ngừng tìm
hiểu nhu cầu của thị trường. “ Bán ra cái gì thị trường cần chứ không
phải bán cái gì của doanh nghiệp có”.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh bao giờ cũng cần ba yếu tố:
Đối tượng lao động, tư liệu lao động và sức lao động. Có thể nói quá
trình sản xuất kinh doanh chính là sự kết hợp các yếu tố đó để tạo ra
hàng hoá, dịch vụ. Khác với tư liệu lao động thì đối tượng lao động
chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất. Khi tham gia vào quá trình sản
xuất, đối tượng lao động không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu,
mà giá trị của nó chuyển dịch một lần vào giá trị của sản phẩm, và
được bù đắp khi doanh nghiệp bán được sản phẩm thu tiền về.
Đối tượng sản xuất: Gồm những vật tư dự trữ để phục vụ cho
quá trình sản xuất được liên tục như: nguyên vật liệu chính, vật liệu
phụ, nhiên liệu những vật tư đang nằm trong quá trình chế biến như
sán phẩm dở dang, bán thành phẩm và những tư liệu không đủ tiêu
chuẩn là tài sản lưu động còn gọi là công cụ lao động nhỏ.
Tài sản lưu động lưu thông bao gồm các sản phẩm hàng hoá
cho tiêu dùng, các loại vốn bằng tiền, các khoản vốn trong thành toán,
chi phí chờ kết chuyển, chi phí trả trước.
Như vậy. Để tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh, Tài sản
lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông luôn vận động tuần

hoàn và chuyển hoá cho nhau. Chính đặc điểm quy luật này làm cho
quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục. Trong điều kiện
của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ. Để hình thành tải sản lưu động sản
suất và tài sản lưu thông đòi hỏi doanh nghiệp phải ứng trước ra một
SVTH: Lê Thị Thu Hà - 26K6.3 4
Đề tài môn học GVHD: Trần Đình Khôi
Nguyên
số vốn nhất định để đầu tư vào các tài sản này.Vốn này được gọi là
vốn lưu động của Doanh nghiệp. Vốn này luôn vận động, thay đổi
hình thái biểu biện và trải qua ba giai đoạn vận động như sau:
Giai đoạn một (T-H): Doanh nghiệp dùng tiền để mua các loại
đối tượng lao động để dự trữ cho hoạt động sản xuất.
Giai đoạn hai (H - SX - H’): Doanh nghiệp dùng số nguyên liệu
đã dự trữ cho sản xuất để tiến hành sản xuất sản phẩm. Các vật tư dự
trữ được đưa vào sản xuất và trải qua nhiều công đoạn các sản phẩm
mới được tạo ra.
Giai đoạn ba (H’ - T’): Doanh nghiệp tiến hành tiêu thụ sản
phẩm và thu tiền về. Ở giai đoạn này thì kết thúc một vòng tuần hoàn,
vốn lưu động đã từ hình thái vốn hàng hoá thành phẩm chuyển sang
hình thái tiền tệ.
Từ những lý luận trên, chúng ta có thể suy ra định nghĩa vốn lưu động
như sau: Vốn lưu động là một bộ phận vốn tham gia trong quá trình
sản xuất kinh doanh của một Doanh nghiệp. Tồn tại ở các khâu dự
trữ vật tư, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
Một vòng tuần hoàn vốn lưu động bắt đầu từ khi mua vật liệu
đưa vào sản xuất, đến khi có sản phẩm đưa vào lưu thông, thu tiền là
kết thúc. Số ngày luân chuyển một lần của vốn lưu động càng ngắn,
hoặc số vòng quay của vốn lưu động càng nhiều thì hiệu suất sử dụng
của vốn lưu động càng cao.
II/ Vai trò và đặc điểm của vốn lưu động:

2.1/ Vai trò của vốn lưu động đối với hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường:
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp
cần phải có hàng hoá, dịch vụ đầu vào hay dịch vụ mà các doanh
nghiệp mua sắm để sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh của
họ. Các hàng hoá đầu vào được kết hợp với nhau tạo ra hàng hoá, dịch
vụ đầu ra - đó là hàng loạt các hàng hoá, dịch vụ có ích được tiêu
dùng hoặc được sử dụng cho quá trình sản xuất kinh doanh khác. Như
vậy trong một thời kỳ nhất định, các doanh nghiệp đã chuyển hoá
hàng hoá, dịch vụ đầu ra để trao đổi (bán) và được mô tả như sau :
Hàng hoá và dịch vụ (mua vào)
Sản xuất - chuyển hoá
SVTH: Lê Thị Thu Hà - 26K6.3 5
Đề tài môn học GVHD: Trần Đình Khôi
Nguyên
Hàng hoá và dịch vụ (bán ra)
Trong vốn lưu động có một loại tài sản đặc biệt đó chính là tiền.
Tiền cho phép các Doanh nghiệp mua hàng hoá, dịch vụ cần thiết để
tạo ra những hàng hoá và dịch vụ phục vụ cho mục đích trao đổi. Mọi
hoạt động trao đổi đều được thực hiện thông qua trung gian tiền. Ở
giai đoạn một thì doanh nghiệp dùng tiền để mua các loại đối tượng
lao động để dự trữ cho sản xuất. Như vậy ở giai đoạn một thì vốn lưu
động đã chuyển từ hình thái tiền tệ sang hình thái vật tư hàng hoá. Ở
giai đoạn hai thì doanh nghiệp dùng số vật tư hàng hoá đã dự trữ để
tiến hành sản xuất sản phẩm, ở giai đoạn này vốn lưu động từ hình
thái hiện vật này chuyển sang hình thái hiện vật khác là các sản phẩm
để phục vụ người tiêu dùng. Sang giai đoạn ba thì vốn lưu động đã từ
hình thái hiện vật chuyển sang lại hình thái tiền tệ T’, mà lượng tiền
T’ này lớn hơn lượng tiền T ban đầu thì Doanh nghiệp đã tạm thời
thành công trong kinh doanh. Quá trình sản xuất kinh doanh của

doanh nghiệp diễn ra không ngừng và có tính chất chu kỳ thành chu
chuyển vốn.
Vậy muốn cho quá trình sản xuất được liên tục, doanh nghiệp
phải có đủ vốn lưu động đầu tư cho từng khâu để cho vòng tuần hoàn
về chu chuyển vốn được tạo ra nhanh hơn, nhiều thuận lợi hơn. Nếu
như doanh nghiệp không đủ vốn lưu động thì việc tổ chức sản xuất
kinh doanh, sử dụng vốn gặp nhiều khó khăn và đó chính là nguyên
nhân làm cho quá trình sản xuất bị trở ngại hoặc gián đoạn.
2.2/ Đặc điểm chu chuyển của vốn lưu động:
Đặc điểm nổi bật của vốn lưu động là không ngừng tuần hoàn và
chu chuyển giá trị từ hình thái tiền tệ tuần tự qua các giai đoạn khác
nhau và biến đổi hình thái biểu hiện để cuối cùng trở về hình thái
vốn bằng tiền như ở điểm xuất phát nhưng lớn hơn về chất và
lượng.Ta có thể hình dung trình tự vận động của vốn lưu động như
sau:
• Doanh nghiệp lấy tiền mua nguyên vật liệu để sản xuất hàng
hoá dịch vụ, nếu chưa trả tiền ngay thì tạo nên những khoản
phải trả.
• Lao động được sử dụng để chuyển đổi nguyên vật liệu thành
những sản phẩm, dịch vụ hàng hoá cuối cùng.
SVTH: Lê Thị Thu Hà - 26K6.3 6
Đề tài môn học GVHD: Trần Đình Khôi
Nguyên
• Doanh nghiệp tiến hành bán hàng hoá, hình thành nên những
khoản phải thu của khách hàng.
• Trong quá trình vận động nói trên, doanh nghiệp thanh toán
những khoản phải trả và tiến hành thu tiền của những khoản
phải thu thì quá trình sản xuất kinh doanh cũ kết thúc và quá
trình xản xuất kinh doanh mới bắt đầu theo một chu kỳ được
lặp lại

T (H) (SX) (H’) (T’)
(Tiền) (Vật tư) (Sản xuất) (Thành phẩm) (Tiêu
thụ)

Quá trình tuần hoàn chu chuyển của vốn lưu động
Sự biến đổi các giai đoạn đó gọi là sự tuần hoàn của vốn lưu
động, sự tuần hoàn liên tục không ngừng của nó tạo thành một vòng
tuần hoàn và được gọi là vòng chu chuyển của vốn lưu động. Có
những đặc điểm sau:
+ Về hiện vật: Thay đổi hình thái vật chất trong quá trình sản xuất
kinh doanh, trong từng chu kỳ kinh doanh.
+ Về mặt giá trị: chuyển một lần giá trị của vốn vào giá thành sản
phẩm do nó tạo ra và thu hồi về khi tiêu thụ sản phẩm để mua lại các
yếu tố của tài sản lưu động cho chu kỳ tiếp theo.
Với đặc điểm của vốn lưu động như trên, công tác quản lý vốn
lưu động phải được quan tâm chú trọng từ việc lập kế hoạch nhu cầu
vốn đến nhu cầu huy động và sử dụng vốn như thế nào để phù hợp với
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Thường xuyên kiểm
tra giám sát và có biện pháp kịp thời để vốn không bị ứ đọng, tăng
nhanh tốc độ chu chuyển vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
III/ Kết cấu vốn lưu động và đặc điểm của các yếu tố :
Kết cấu vốn lưu động phản ảnh các thành phần và mối quan hệ
tỷ lệ giữa các thành phần trong tổng số vốn lưu động của doanh
nghiệp. Ở các doanh nghiệp khác nhau thì kết cấu vốn lưu động cũng
không giống nhau.
3.1/ Vốn bằng tiền :
SVTH: Lê Thị Thu Hà - 26K6.3 7
Đề tài môn học GVHD: Trần Đình Khôi
Nguyên
Vốn bằng tiền là tài sản tồn tại trực tiếp dưới hình thức giá trị bao

gồm tất cả các loại tiền do ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành
kể cả ngân phiếu và các loại ngoại tệ, vàng bạc, đá quý. Vốn bằng
tiền được chia thành ba loại:
• Tiền mặt
• Tiền gửi ngân hàng
• Tiền đang chuyển
Vốn bằng tiền là loại tài sản linh hoạt nhất, sự luân chuyển của nó
có liên quan hầu hết các giai đoạn sản xuất kinh doanh chính của
doanh nghiệp như thanh toán tiền mua hàng cho người bán hoặc trả
các khoản nợ phải trả và cũng có thể dễ dàng chuyển đổi thành các
loại tài sản khác. Do vậy trong hoạt động sản xuất kinh doanh đơn vị
cần phải có một lượng tiền nhất định.
3.2/ Các khoản phải thu:
Chủ yếu là các khoản phải thu của khách hàng thể hiện số tiền
mà khách hàng nợ doanh nghiệp trong quá trình bán hàng hoá và dịch
vụ dưới hình thức “bán trước trả sau”. Đây là những khoản tiền mà
doanh nghiệp chưa thu tiền được từ khách hàng theo chính sách tín
dụng thương mại.Các khoản phải thu trong nội bộ doanh nghiệp và
những khoản phải thu khác.
Ngoài ra trong một số trưòng hợp mua sắm vật tư hàng hoá
doanh nghiệp cần phải ứng trước tiền cho người bán
Độ lớn và cơ cấu của những khoản phải thu này là luôn luôn
biến đổi vì vậy cần phải theo dõi để quản lý phù hợp.
3.3/ Hàng tồn kho:
Là những khoản vốn lưu động có hình thái hiện vật cụ thể thuộc
quyền sở hữu, quản lý và sử dụng của doanh nghiệp.Trong quá trình
luân chuyển của vốn lưu động phục vụ cho sản xuất kinh doanh thì
việc tồn tại vật tư hàng hoá dự trữ tồn kho là những bước đệm cần
thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hàng hoá
tồn kho được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm:

• Nguyên vật liệu.
• Công cụ dụng cụ.
• Sản phẩm dở dang .
• Hàng mua đang đi đường.
• Thành phẩm
• Hàng gửi đi bán
SVTH: Lê Thị Thu Hà - 26K6.3 8
Đề tài môn học GVHD: Trần Đình Khôi
Nguyên

Đối với doanh nghiệp thương mại thì hàng tồn kho chính là hàng
hoá.
Nguyên vật liệu dự trữ không trực tiếp tạo ra lợi nhuận nhưng nó
đảm bảo nhu cầu vật tư hàng hoá trong sản xuất kinh doanh, có vai trò
rất lớn để cho quá trình sản xuất kinh doanh tiến hành được bình
thường.
3.4/ Tài sản lưu động khác:
Là những khoản chi phí lớn hơn thực tế đã phát sinh liên quan
đến nhiều chu kỳ kinh doanh nên được phân bổ vào giá thành sản
phẩm của nhiều kỳ kinh doanh như: sữa chữa lớn TSCĐ, chi phí thuê
tài sản, … Ngoài ra tài sản lưu động khác còn phản ảnh gía trị các
khoản thuộc tài sản lưu động nhưng chưa tính vào các chỉ tiêu nêu
trên bao gồm những khoản như đầu tư ngắn hạn như đầu tư chứng
khoán ngắn hạn, cho vay ngắn hạn, tạm ứng, tài sản thiếu chờ xử lý,
các khoản thế chấp, ký quỹ, ký cược ngắn hạn…
PHẦN II: PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH QUẢN LÝ VỐN TẠI
DOANH NGHIỆP
I/ Phân tích cơ cấu vốn lưu động của doanh nghiệp:
Cơ cấu vốn lưu động trong doanh nghiệp phản ảnh tỷ trọng của
các thành phần vốn bằng tiền, các khoản phải thu, hàng tồn kho và tài

sản lưu động khác. Ở mỗi doanh nghiệp thì cơ cấu vốn lưu động của
các doanh nghiệp là khác nhau, không giống nhau do đặc điểm về
ngành nghề kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh ở mỗi đơn vị là khác
nhau. Ngoài ra, ở mỗi đơn vị thì công tác quản lý hàng tồn kho, công
tác bán hàng và chính sách quản lý công nợ cũng không giống nhau.
Chính vì vậy cơ cấu vốn lưu động là không giống nhau.
Ta có thể xem xét một vài tỷ trọng sau:
Tỷ trọng hàng tồn kho:
Hàng tồn kho
Tỷ trọng hàng tồn kho = x 100%
Tổng tài sản

Hàng tồn kho
Hay = x 100%
Tổng tài sản ngắn hạn
SVTH: Lê Thị Thu Hà - 26K6.3 9
Đề tài môn học GVHD: Trần Đình Khôi
Nguyên
Hàng tồn kho là một khái niệm rộng bao gồm các loại dự trữ
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: nguyên liệu
vật liệu, công cụ dụng cụ, thành phẩm, sản phẩm dở dang Nó đảm
bảo cho tiến trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được hoạt
động liên tục. Chính vì vậy dự trữ hàng tồn kho hợp lý là mục tiêu
hướng đến của nhiều doanh nghiệp vì nếu dự trữ hàng tồn kho quá
mức sẽ gây gia tăng chi phí bảo quản và dẫn đến hiệu quả sử dụng
vốn thấp. Nhưng ngược lai nếu doanh nghiệp dự trữ quá ít hàng tồn
kho thì cũng gây ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất và tiêu thụ của doanh
nghiệp. Như vậy, không có một chuẩn mực nhất định nào đặt ra cho
vấn đề dự trữ hàng tồn kho tuy nhiên tuỳ theo đặc thù hoạt động của
doanh nghiệp mà vấn đề dự trữ hàng tồn kho sẽ nhiều hay ít. Thông

thường thì trong các doanh nghiệp thương mại hàng tồn kho chiếm tỷ
trọng tương đối lớn hơn so với các loại tài sản khác vì hàng tồn kho là
đối tượng kinh doanh chính của các doanh nghiệp này. Tỷ trọng hàng
tồn kho ở những đơn vị sản xuất có chu kỳ sản xuất kinh doanh dài thì
cũng tương đối cao như các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp
đóng tàu, khai thác dầu mỏ, xây lắp điện vì lượng sản phẩm đang
chế tạo có thể tồn tại trong một khoảng thời gian tương đối dài.
Nhưng ngược lại ở những đơn vị kinh doanh dịch vụ, du lịch, khách
sạn, giải trí thì hàng tồn kho chiếm tỷ trọng tương đối thấp
Bên cạnh đó, chính sách dự trữ là tính thời vụ trong hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp cũng làm ảnh hưởng đến vịêc dự trữ
hàng tồn kho. Chẳng hạn, do xuất hiện tình trạng mất cân đối về vấn
đề cung - cầu của vật tư, hàng hoá trên thị trường đã làm cho các
doanh nghiệp đầu cơ, tích trữ vật tư hàng hoá cũng làm cho tình trạng
hàng tồn kho tăng lên. Một số các doanh nghiệp thực hiện tốt phương
thức quản trị kịp thời trong cung ứng, sản xuất và tiêu thụ sẽ dẫn đến
chỉ tiêu này thấp.
Ngoài ra, tỷ trọng hàng tồn kho cao hay thấp còn phụ thuộc vào
mối tương quan tăng trưởng của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp nếu
hoạt động trong một thị trường độc quyền về sản phẩm hàng hoá dịch
vụ và doanh thu của doanh nghiệp đó liên tục tăng trưởng trong nhiều
năm thì có thể gia tăng dự trữ để đáp ứng nhu cầu của thị trưòng, hoặc
một doanh nghiệp hoạt động trong một thị trường mới bùng nổ và
doanh thu cũng tăng trưởng trong nhiều kỳ thì cũng có thể gia tăng
hàng tồn kho để cung ứng kịp thời hàng hoá ra thị trường, đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng. Ngược lại, nếu một doanh nghiệp đang ở trong tình
SVTH: Lê Thị Thu Hà - 26K6.3
10
Đề tài môn học GVHD: Trần Đình Khôi
Nguyên

trạng kinh doanh suy thoái, làm ăn không hiệu quả thì tỷ trọng hàng
tồn kho cũng có khuynh hướng giảm.
Tỷ trọng nợ phải thu khách hàng
Nợ phải thu
Tỷ trọng nợ phải thu = x 100%
Tổng tài sản
Tỷ trọng nợ phải thu khách hàng là một bộ phận thuộc tài sản
lưu động của doanh nghiệp, phát sinh trong quá trình bán hàng hoá do
doanh nghiệp bán chịu cho khách hàng. Để xem xét tỷ trọng nợ phải
thu của doanh nghiệp tăng hay giảm thì chúng ta phải xem xét đến
nhiều khía cạnh sau:
Thứ nhất, phụ thuộc vào phương thức bán hàng của doanh
nghiệp.Thông thường, ở các doanh nghiệp bán lẻ: bán hàng thu tiền
ngay thì tỷ trọng khoản phải thu khách hàng thấp. Ngược lai, ở những
doanh nghiệp bán buôn: thì tỷ trọng các khoản phải thu khách hàng
chiếm tỷ trọng cao.
Thứ hai, chính sách tín dụng bán hàng của doanh nghiệp, thể
hiện qua thời hạn tín dụng và mức tín dụng cho phép đối với từng
khách hàng. Vì tín dụng bán hàng là phương thức kích thích việc tiêu
thụ cho nên ở những doanh nghiệp mà thời hạn tín dụng dài, số dư nợ
định mức cho phép cho khách hàng cao thì tỷ trọng các khoản phải
thu chiếm tỷ trọng lớn. Bên cạnh đó, doanh thu tiêu thụ của doanh
nghiệp tăng liên tục trong nhiều năm cũng làm cho các khoản nợ phải
thu khách hàng lớn.
Ngoài ra, nợ phải thu khách hàng chiếm tỷ trọng lớn mà không
phải là các nguyên nhân vừa nêu trên thì đây là điều đáng cảnh báo
cho doanh nghiệp. Vấn đề quản lý và sử dụng vốn chưa được tốt.
Doanh nghiệp cần tìm hiểu nguyên nhân để có các biện pháp điều
chỉnh kịp thời như: giảm mức dư nợ định mức cho khách hàng thanh
toán chậm, ngưng cung cấp hàng hoá dịch vụ, bán các khoản nợ cho

công ty quản lý nợ hoặc là phải nhờ đến sự can thiệp của pháp luật.
II/ Phân tích tốc độ lưu chuyển của vốn lưu động:
2.1/ Phân tích tốc độ lưu chuyển của vốn bằng tiền:
Việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm vốn lưu động được thể hiện
trước hết ở tốc độ lưu chuyển vốn lưu động của doanh nghiệp nhanh
SVTH: Lê Thị Thu Hà - 26K6.3
11
Đề tài môn học GVHD: Trần Đình Khôi
Nguyên
hay chậm. Vốn lưu động lưu chuyển càng nhanh thì hiệu suất sử dụng
vốn lưu động của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
Tốc độ lưu chuyển của vốn lưu động được đo bằng hai mục tiêu là số
vòng quay vốn lưu động và số ngày của 1 vòng quay vốn lưu động. Số
vòng quay vốn lưu động phản ánh số vòng quay vốn được thực hiện
trong một thời kỳ nhất định, thường tính trong 1 năm. Nếu số vòng
quay tăng chứng tỏ vốn lưu động được luân chuyển với một tốc độ
càng cao và càng có lợi cho kết quả sản xuất kinh doanh. Nói cách
khác, vòng quay vốn lưu động tăng thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động
tăng và ngược lại. Công thức như sau:
Doanh thu thuần trong kỳ
Số vòng quay = (vòng/kỳ)
VLĐ (H
VLĐ
)
Vốn lưu động bình quân trong kỳ

Trong đó :
VLĐ đầu kỳ + VLĐ cuối kỳ
VLĐ bình quân =
2

Chỉ tiêu này cho thấy số vòng quay của vốn lưu động trong kỳ
phân tích hay một đồng vốn lưu động bỏ ra thì đảm nhiệm bao nhiêu
đồng doanh thu thuần. Trị giá của vốn lưu động càng lớn thì chứng tỏ
rằng vốn lưu động quay vòng càng nhanh. Đó là kết quả của việc quản
lý vốn lưu động tốt ở từng khâu dự trữ, tiêu thụ và thanh toán, tạo tiền
đề cho tình hình tài chính lành mạnh. Góp phần nâng cao hiệu suất sử
dung tài sản và khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này thay
đổi không những phụ thuộc vào doanh thu mà còn phụ thuộc vào sự
tăng giảm từng loại tài sản lưu động của doanh nghiệp
Công thức số ngày của 1 vòng quay vốn lưu động : (N
VLĐ
)
Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết để vốn lưu động quay
được một vòng. Thời gian một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ
lưu chuyển vốn càng cao và ngược lại.
360
N
VLĐ
= (Vòng/kỳ)
Số vòng quay VLĐ trong 1 năm
SVTH: Lê Thị Thu Hà - 26K6.3
12
Đề tài môn học GVHD: Trần Đình Khôi
Nguyên
Hay:
Vốn lưu động bình quân
N
VLĐ
= x 360 (ngày/vòng)
Doanh thu thuần

Trong công thức trên doanh thu thuần là doanh thu bán hàng mà
doanh nghiệp thực hiện trong năm trừ đi các khoản giảm trừ doanh
thu (bao gồm giảm giá hàng bán, giá trị hàng bán bị trả lại và các
khoản thuế gián thu mà doanh nghiệp phải nộp cho ngân sách nhà
nước). Trong trườg hợp doanh nghiệp áp dụng thuế GTGT theo
phương pháp khấu trừ thì được xác định bằng doanh thu thuần tính
theo giá bán chưa có thuế GTGT đầu ra của doanh nghiệp.
+ Mức tiết kiệm (-) hay lãng phí (+) VLĐ ở kỳ này so với kỳ trước .
Doanh thu thuần kỳ này
V
TK (+,-)
= x (K
1
– K
0
).
360
hoặc
M
1
V
TK(+,-)
= V
LĐ1

L
0
Trong đó: V
TK(+,-)
: Mức tiết kiệm hay lãng phí VLĐ ở kỳ này

so với kỳ trước.
M
1
: Doanh thu thuần kỳ này .
L
0
: Số lần luân chuyển VLĐ ở kỳ gốc.
V
LĐ1
: Vốn lưu động bình quân kỳ này.
K
1
: Kỳ luân chuyển VLĐ kỳ này.
K
0
: Kỳ luân chuyển VLĐ kỳ gốc.
Để biết có một đồng doanh thu thì phải tốn bao nhiêu đồng vốn
lưu động ta còn có công thứ tính hệ số đảm nhiệm vốn lưu động. Đây
là chỉ tiêu nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn lưu động. Hệ
SVTH: Lê Thị Thu Hà - 26K6.3
13
Đề tài môn học GVHD: Trần Đình Khôi
Nguyên
số này càng nhỏ thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng
càng cao và vốn được tiết kiệm càng nhiều. Và được tính bằng:
Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Hệ số đảm =
nhiệm VLĐ Tổng doanh thu thần trong kỳ
2.2/ Phân tích tốc độ lưu chuyển hàng tồn kho:
Vòng quay hàng tồn kho phán ánh sự luân chuyển hàng tồn

kho trong doanh nghiệp. Nếu vòng quay hàng tồn kho càng cao thì số
ngày cần thiết để quay vòng hàng tồn kho càng ít, chứng tỏ việc quản
lý và dự trữ hàng tồn kho của đơn vị hoạt động tốt. Doanh nghiệp có
thể rút ngắn được chu kỳ kinh doanh và đồng vốn bỏ vào trong hàng
tồn kho được quay vòng nhanh liên tục.Nếu số vòng quay hàng tồn
kho thấp, doanh nghiệp đã dự trữ quá mức dẫn đến hàng hoá vật tư bị
ứ đọng, tiêu thụ chậm và có thể dẫn đến hàng hoá bị mất phẩm chất
không tiêu thụ được. Từ đó có thể dẫn đến dòng tiền vào của doanh
nghiệp bị giảm đi và đặt doanh nghiệp vào tình trạng khó khăn về tài
chính.
Giá vốn hàng bán
Vòng quay hàng =
tồn kho Hàng tồn kho bình quân trong kỳ
+ Số ngày vòng quay của hàng tồn kho: N
hàng
Giá trị của hàng tồn kho bình quân
N
hàng
= x 360
Giá vốn hàng bán
Chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết để lưu chuyển hàng tồn
kho của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng thấp chứng tỏ doanh nghiệp
dự trữ hàng tồn kho có hiệu quả.
Trong đó: Doanh thu thuần là doanh thu bán hàng mà doanh nghiệp
thực hiện trong năm đã trừ đi các khoản giảm trừ. Còn hàng tồn kho
bình quân trong kỳ phản ảnh giá trị bình quân giữa hai thời điểm đầu
kỳ và cuối kỳ của vật tư hàng hoá.
SVTH: Lê Thị Thu Hà - 26K6.3
14
Đề tài môn học GVHD: Trần Đình Khôi

Nguyên
2.3/ Phân tích tốc độ lưu chuyển của nợ phải thu:
Nợ phải thu khách hàng là một bộ phận thuộc vốn lưu động của
doanh nghiệp, chủ yếu là các khoản nợ mà doanh nghiệp bán chịu
hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng.
+ Số vòng quay của khoản phải thu khách hàng: H
p.thu
DT thuần bán chịu + Thuế GTGT đầu ra tương ứng
H
P.thu
=
Số dư bình quân các khoản phải thu KH
SD đầu kỳ + SD cuối kỳ
Số dư bình quân nợ phải thu =
2
Phản ảnh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền . Chỉ
tiêu này cao chứng tỏ tốc độ thu hồi khoản phải thu càng nhanh. Điều
này được đáng giá là tốt vì khả năng hoán chuyển thành tiền nhanh,
do vậy đáp ứng được nhu cầu thanh toán những khoản nợ của doanh
nghiệp. Nếu hệ số này quá cao thì cũng có thể không tốt vì doanh
nghiệp quá thắt chặt chính sách tín dụng bán hàng, ảnh hưởng đến
doanh thu của doanh nghiệp. Vì vậy, khi đánh giá khả năng chuyển
đổi các khoản phải thu thành tiền cần phải xem xét đến chính sách bán
hàng của doanh nghiệp.
+ Số ngày của chu kỳ nợ :( số ngày của doanh thu chưa thu)
Số dư BQ của các khoản phải thu KH
N
n
= x 360
DT bán chịu + Thuế GTGT đầu ra tương ứng

Chỉ tiêu này phản ảnh số ngaỳ bình quân của một chu kỳ nợ từ
khi bán hàng cho đến khi thu được tiền. Chỉ tiêu này nếu so sánh kỳ
hạn tín dụng của doanh nghiệp áp dụng cho từng khách hàng sẽ đánh
giá được tình hình thu hồi công nợ và khả năng hoán chuyển thành
tiền.
Ngoài ra còn có các chỉ tiêu tính chung cho doanh nghiệp và
tính riêng cho từng khách nợ như sau:

Nợ phải thu mất khả năng thanh toán
H
Ktt
=
Tổng số nợ phải thu
SVTH: Lê Thị Thu Hà - 26K6.3
15
Đề tài môn học GVHD: Trần Đình Khôi
Nguyên
Nợ phải thu quá hạn
H
qh
=
Tổng số nợ phải thu
Chỉ tiêu này cho biết tỉ lệ nợ phải thu mất khả năng thanh toán càng
lớn chứng tỏ doanh nghiệp có nguy cơ không thu hồi lại được vốn
kinh doanh của mình. Điều này đánh giá công tác quản lý công nợ
phải thu chưa tốt.
III. Phân tích khả năng thanh toán ngắn hạn:
Tài sản lưu động thông thường bao gồm tiền, các chứng khoán
ngắn hạn dễ chuyển nhượng (tương đương tiền), các khoản phải thu
và dự trữ tồn kho, còn nợ ngắn hạn bao gồm các khoản vay ngắn hạn

ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, các khoản phải trả nhà cung
cấp, các khoản phải trả, phải nộp khác , cả tài sản ngắn hạn và nợ
ngắn hạn đều có thời hạn thanh toán nhỏ hơn 12 tháng. Để nắm bắt
được tình hình tài chính của doanh nghiệp ta cần phải xem xét đến
khả năng thanh toán. Nếu tình hình tài chính tốt doanh nghiệp sẽ ít bị
công nợ, khả năng thanh toán cao. Tỷ số thanh toán hiện hành là
thước đo khả năng thanh toán của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ
các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản
có thể hoán chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với
các với thời hạn của các khoản nợ đó.
+ Khả năng thanh toán hiện hành : (K
hh
)
Khả năng thanh toán hiện hành của doanh nghiệp được định
nghĩa là mối quan hệ giữa toàn bộ tài sản có thời gian chu chuyển
ngắn của doanh nghiệp với nợ ngắn hạn và được tính bằng công thức :
Tài sản ngắn hạn
Khả năng thanh toán =
hiện hành Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này là thước đo thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của
doanh nghiệp khi đến hạn thanh toán. Chỉ tiêu này cao thì khả năng
sẵn sàng thanh toán các khoản nợ đến hạn cao, tuy nhiên nếu hệ số
này quá cao thì cần phải xem xét thêm tình hình tài chính liên quan.
+ Tỷ số khả năng thanh toán nhanh: (K
nhanh
)
SVTH: Lê Thị Thu Hà - 26K6.3
16
Đề tài môn học GVHD: Trần Đình Khôi
Nguyên

Là tỷ số giữa các tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn . Tài
sản quay vòng nhanh là những tài sản có khả năng hoán chuyển thành
tiền nhanh. Tài sản hàng tồn kho là những tài sản khó hoán chuyển
thành tiền hơn trong tổng vốn lưu động và dễ bị lỗ nhất nếu được bán.
Do vậy tỷ số thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản
nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán dự trữ hàng tồn kho và
được xác định bằng cách lấy tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
trừ cho phần dự trữ tồn kho chia cho nợ phải trả.
Tổng TS ngắn hạn - Hàng hoá tồn kho
K
nhanh
=
Nợ ngắn hạn
Tiền + Đầu tư ngắn hạn + Nợ phải thu
hoặc : K
nhanh
=
Nợ ngắn hạn
Hệ số này càng cao thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng
cao mà không phụ thuộc vào việc giải phóng hàng tồn kho.
+ Hệ số thanh toán tức thời : (K
tt
)
Hệ số thanh toán tức thời chỉ xem xét các khoản có thể sử dụng để
thanh toán nhanh nhất đó là Tiền .Hệ số này càng cao càng tốt, chỉ hệ
số thanh toán tức thời của doanh nghiệp
Tiền
Hệ số thanh toán =
tức thời Nợ ngắn hạn
IV. Phân tích vốn lưu động ròng, nhu cầu vốn lưu đồng ròng và

ngân quỹ ròng:
4.1/ Vốn lưu động ròng:
Để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn khi
đến hạn, chúng ta cần phải quan tâm đến chỉ tiêu vốn lưu động ròng.
Chỉ tiêu này cũng là một yếu tố quan trọng và cần thiết cho việc đánh
giá điều kiện cân bằng tài chính của một doanh nghiệp. Nó được xác
định là phần chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động và nợ ngắn hạn
hoặc là phần chênh lệch giữa vốn thường xuyên với tài sản cố định
ròng. Khả năng đáp ứng nghĩa vụ thanh toán, mở rộng qui mô sản
xuất kinh doanh và khả năng nắm bắt thời cơ thuận lợi của nhiều
SVTH: Lê Thị Thu Hà - 26K6.3
17
Đề tài môn học GVHD: Trần Đình Khôi
Nguyên
doanh nghiệp phụ thuộc phần lớn vào vốn lưu động ròng. Do vậy sự
phát triển của không ít doanh nghiệp còn được thể hiện ở sự tăng
trưởng vốn lưu động ròng. Như vậy vốn lưu động ròng được xác định
như thế nào? Vốn lưu động ròng được xác định là khoản chênh lệch
giữa tài sản lưu động và nợ ngắn hạn. Có hai cách xác định:
Cách 1:
VLĐR = NVTX - TS dài hạn
Chỉ tiêu này thể hiện cân bằng giữa nguồn vốn ổn định với
những tài sản có thời gian chu chuyển trên một chu kỳ kinh doanh
hoặc trên một năm. Nó thể hiện nguồn gốc của vốn lưu động hay còn
gọi là phân tích bên ngoài về vốn lưu động. Ở một khía cạnh khác,
vốn lưu động ròng thể hiện phương thức tài trợ tài sản cố định, tác
động của kỳ đầu tư lên cân bằng tài chính tổng thể.
Cách 2:
VLĐR = TS ngắn hạn - NVTX
Chỉ tiêu này thể hiện một phần tình hình sử dụng vốn lưu động

ròng: Vốn lưu động được phân bổ vào các khoản phải thu, hàng tồn
kho hay các khoản có tính thanh khoản cao. Nó nhấn mạnh đến việc
sử dụng vốn lưu động ở doanh nghiệp.
Dựa vào cách thức xác định vốn lưu động ròng là sự chênh lệch
giữa nguồn vốn thường xuyên với TSCĐ và ĐTDH thì có những
trường hợp cân bằng tài chính như sau:
Nếu VLĐR < 0 : Trường hợp này nguồn vốn thường xuyên
không đủ tài trợ cho TSCĐ, phần thiếu hụt được bù đắp một phần
nguồn vốn tạm thời hay các khoản nợ ngắn hạn. Cân bằng tài chính
trong trường hợp này không tốt, mất cân bằng trong tài trợ TS dài
hạn.Vì vậy doanh nghiệp luôn chịu áp lực về thanh toán nợ vay ngắn
hạn.Doanh nghiệp cần phải có những điều chỉnh dài hạn để tạo ra một
cân bằng mới theo hướng bền vững hơn.
Nếu VLĐR = 0: Toàn bộ tài sản cố định và đầu tư dài hạn được
tài trợ vừa đủ từ nguồn vốn thường xuyên. Cân bằng tài chính tuy có
tiến triển và bền vững hơn so với trường hợp trên nhưng độ an toàn
chưa cao, có nguy cơ mất tính bền vững.
Nếu VLĐR > 0: Nguồn vốn thường xuyên không chỉ sử dụng
để tài trợ cho TSCĐ mà còn dùng để tài trợ một phần cho TSLĐ của
doanh nghiệp. Cân bằng tài chính được đánh giá là tốt và an toàn.
SVTH: Lê Thị Thu Hà - 26K6.3
18
Đề tài môn học GVHD: Trần Đình Khôi
Nguyên
Các trường hợp trên chỉ xem xét vốn lưu động ở một thời điểm.
Để đánh giá cân bằng tài chính của doanh nghiệp thì cần phải nghiên
cứu trong cả chuỗi thời gian thì mới dự đoán những khả năng, triển
vọng về cân bằng tài chính trong tương lai. Nghiên cứu vốn lưu động
ròng tại nhiều thời điểm khác nhau có thể loại trừ những sai lệch về số
liệu do tính thời vụ hoặc tính chu kỳ trong kinh doanh. Có những

trường hợp sau:
Nếu VLĐR dương và tăng trong nhiều năm: đánh giá mức an
toàn và tài chính của doanh nghiệp được xem là bền vững.
Nếu VLĐR giảm và âm: đánh giá mức an toàn và tài chính của
doanh nghiệp càng giảm vì doanh nghiệp phải sử dụng nguồn vốn tạm
thời để tài trợ cho TSCĐ. Doanh nghiệp sẽ gặp áp lực về thanh toán
ngắn hạn và có nguy cơ phá sản nếu không thanh toán đúng hạn và
hiệu quả kinh doanh thấp.
Nếu VLĐR có tính ổn định: thể hiện các hoạt động của doanh
nghiệp đang trong trạng thái ổn định.
4.2/ Nhu cầu vốn lưu động ròng:
Phản ánh nhu cầu tài trợ trong ngắn hạn của doanh nghiệp. Nhu
cầu này liên quan đến một dãy các hoạt động có tính tuần hoàn của
doanh nghiệp như: Quá trình cung ứng sản xuất và tiêu thụ trong các
doanh nghiệp sản xuất; quá trình thu mua, dự trữ hay bán hàng ở các
doanh nghiệp thương mại. Nhu cầu vốn lưu động ròng còn tuỳ thuộc
vào doanh thu, tốc độ lưu chuyển hàng hoá tồn kho, tốc độ thu hồi nợ
phải thu cũng như thời gian thanh toán các khoản nợ ngắn hạn khác
ngoài nợ vay. Công thức tính như sau:
NCVLĐR = hàng tồn kho + Nợ phải thu - Nợ ngắn hạn
Trong trường hợp này nợ ngắn hạn không bao gồm nợ vay
ngân hàng.Có các trường hợp sau:
• Nếu VLĐR > NCVLĐR: Cân bằng tài chính an toàn. Doanh
nghiệp không gặp khó khăn về tình trạng thanh toán trong ngắn
hạn và số tiền nhàn rỗi doanh nghiệp coa thể đầu tư vào các
chứng khoán có tính thanh khoản cao để sinh lời.
• Nếu VLĐ = NCVLĐR = 0, điều này có nghĩa vốn lưu động
ròng vừa đủ để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động ròng. Cân bằng
tài chính kém bền vững hơn so với trường hợp trên.
• Nếu VLĐ < NCVLĐR: Vốn lưu động ròng không đủ tài trợ cho

nhu cầu vốn lưu động ròng và doanh nhgiệp phải huy động các
SVTH: Lê Thị Thu Hà - 26K6.3
19
Đề tài môn học GVHD: Trần Đình Khôi
Nguyên
khoản vay ngắn hạn để bù đắp cho sự thiếu hụt đó. Cân bằng tài
chính được xem là kém an toàn và bất lợi đối với doanh nghiệp.
4.3/ Ngân quỹ ròng:
Là phần chênh lệch các khoản vốn bằng tiền còn lại sau khi đã
bù đắp các khoản vay ngắn hạn. Chỉ tiêu này xem xét mức độ đảm
bảo nhu cầu tài trợ ngắn hạn bởi các nguồn vốn dài hạn dôi ra sau khi
tài trợ tài sản dài hạn
NQR = VLĐR - NCVLĐR
Có những trường hợp xảy ra như sau:
Nếu NQR < 0 : không cân bằng trong ngắn hạn.
Nếu NQR > 0 : Cân bằng trong ngắn hạn.
CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY NHANH TỐC
ĐỘ LƯU CHUYỂN CỦA VỐN LƯU ĐỘNG
1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
Thứ nhất, xuất phát từ vai trò của vốn lưu động đối với hoạt
động sản xuất kinh doanh:
Vốn lưu động là một bộ phận không thể thiếu được vốn sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Đối với đơn vị sản xuất thì vốn lưu động
chiếm tỷ trọng không nhiều, còn đối với doanh nhgiệp thương mại thì
nó chiếm một tỷ trọng khá lớn. Vốn lưu động đảm bảo cho quá trình
tái sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên liên tục và
tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh. Nếu thiếu vốn lưu động
thì quá trình sản xuất không luân chuyển được nên gặp nhiều khó
khăn và có thể bị gián đoạn gây ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp. Vốn lưu động còn là công cụ phản ảnh và đánh giá

quá trình luân chuyển của vật tư hàng hoá. Thông qua tình hình luân
chuyển của vốn lưu động có thể kiểm tra một cách toàn diện đối với
việc cung cấp, sản xuất và tiêu thụ của doanh nghiệp. Mặt khác với
vai trò của vốn luân chuyển, vốn lưu động giúp tổ chức tốt việc mua
hàng hoá từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực lưu thông. Sử dụng vốn
lưu động hợp lý làm tăng lợi nhuận, góp phần làm tốt công tác bảo
toàn và phát triển vốn kinh doanh.
Thứ hai, Xuất phát từ bảo toàn vốn lưu động trong hoạt động sản
xuất kinh doanh:
SVTH: Lê Thị Thu Hà - 26K6.3
20
Đề tài môn học GVHD: Trần Đình Khôi
Nguyên
Bảo toàn vốn lưu động là phải duy trì và giữ vững được sức mua của
đồng vốn, sao cho số vốn thu về ở mỗi vòng tuần hoàn đủ sức mua
sắm một lượng tài sản như cũ theo giá hiện tại. trong điều kiện hiện
nay khi các doanh nghiệp phải thực hiện các nguyên tăc stự cấp phát
tài chính thì bảo toàn vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng còn có
ý nghĩa sống còn, đảm bảo cho doanh nghiệp phát triển với quy mô
như cũ hoặc phát triển vốn để tái sản xuất mở rộng.
Thứ ba, xuất phát từ thực tế về sử dụng vốn lưu động trong các
doanh nghiệp nhà nước hiện nay: Trước đây trong thời kỳ bao cấp
với cơ chế cấp phát vốn cho các DNNN để tạo lập nguồn vốn lưu
động cho nên hiệu quả sử dụng vốn lưu động chưa được quan tâm
đúng mức. Trong thời đại kinh tế thị trường thì số VLĐ của DNNN
hiện nay ngày càng chiếm tỷ trọng nhỏ và càng có xu hướng giảm
dần. Vì vậy tình hình thiếu vốn lưu động của doanh nghiệp hiện nay là
rất phổ biến. Theo số liệu tổng hợp của Bộ tài chính và các ban ngành
địa phương là hàng ngàn tỷ đồng .
Bên cạnh vấn đề thiếu VLĐ thì việc sử dụng VLĐ cũng mang

lại hiệu quả không cao. Theo tài liệu thống kê ở những năm gần đây
thì DNNN có VLĐ chu chuyển chậm, bình quân 2,9 vòng/năm
(nguồn: thông tin trên trang Web: WWW.MOF.GOV.VN). Theo tài
liệu báo cáo thống kê năm 1999-2000 thì trên thực tế nếu tính đầy đủ
chi phí thì các doanh nghiệp làm ăn có lãi chiếm khoảng 40-50%. Các
chỉ tiêu của khu vực nhà nước ngày càng giảm: Tỷ suất lưọi nhuận
trên vốn từ 14,5% (1996) xuống còn 10,8% (1997), 10,6% (1998),
10,7% (1999). Các chỉ tiêu kinh tế tài chính đều chứng tỏ vấn đề an
toàn trong kinh doanh của các doanh nghịêp không được đảm bảo.
2. Các biện pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển của
vốn lưu động:
Với phương châm “Bán ra cái gì thị trường cần chứ không phải
bán cái gì của doanh nghiệp có ” chính vì vậy để đẩy nhanh tốc độ lưu
chuyển của vốn lưu động thì chúng ta phải xem xét những yếu tố sau:
Xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động tổi thiểu thường
xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị, từ đó
đưa ra kế hoạch tổ chức huy động vốn đáp ứng cho hoạt động của
doanh nghiệp, hạn chế tình trạng thiếu vốn gây gián đoạn quá trình
sản xuất kinh doanh hoặc gây ứ đọng vốn.
Lựa chọn các hình thức thu hút vốn tích cực, tổ chức khai thác
triệt để nguồn vốn bên trong doanh nghiệp, đáp ứng kịp thời vốn cho
nhu cầu sản xuất kinh doanh liên tục một cách chủ động.
SVTH: Lê Thị Thu Hà - 26K6.3
21
Đề tài môn học GVHD: Trần Đình Khôi
Nguyên
Tổ chức quá trình sản xuất, đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản
phẩm, phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận, không ngừng nâng cao
năng suất lao động nhằm tạo ra những sản phẩm tốt, giá thành hạ, tiết
liệm nguyên liệu, phát huy tối đa công suất máy móc thiết bị hiện có.

Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tăng cường công tác tiếp thị
giới thiệu sản phẩm hạn chế thấp nhất sản phẩm tồn kho, tăng nhanh
vòng quay vốn.
Thực hiện tốt công tác thanh toán công nợ, chủ động phòng
ngừa rủi ro có thể xảy ra, cần chủ động trong công tác thanh toán tiền
hàng, hạn chế tình trạng số vốn bị khách hàng chiếm dụng ảnh hưởng
đến nhu cầu tái sản xuất dẫn đến doanh nghiệp phải đi vay ngoài kế
hoạch, phát sinh thêm chi phí sử dụng vốn vay, đồng thời khi đồng
vốn bị chiếm dụng còn có nguy cơ rủi ro thành nợ khó đòi làm thất
thoát vốn của doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải tạo
lập quỹ dự phòng tài chính để có nguồn vốn bù đắp, phòng ngừa vốn
bị chiếm dụng .
Phát huy vai trò của tài chính trong việc quản lý và sử dụng
vốn. Để thực hiện biện pháp này doanh nghiệp cần phải thường xuyên
tăng cường công tác kiểm tra tài chính với việc sử dụng vốn trong tất
cả các khâu dự trữ sản xuất đến khâu lưu thông sản phẩm. Sử dụng
vốn nhàn rỗi một cách linh hoạt thông qua các hình thức đầu tư bên
ngoài như : cho các đơn vị khác vay, đầu tư vào trái phiếu hay đầu tư
để mở rộng sản xuất. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải xem xét
hình thức nào mang lại lợi nhuận cao nhất và hạn chế đến mức thấp
nhất những rủi ro có thể xảy ra.
Tăng cường áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Trong điều kiện hiện nay việc ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ
thuật vào sản xuất không những nâng cao chất lượng của sản phẩm,
tiết kiệm chi phí sản xuất mà còn hạ giá thành sản phẩm và rút ngắn
được chu kỳ sản xuất sản phẩm, đẩy nhanh tiến độ luân chuyển vốn,
mang lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp
Tóm lại, trên thực tế thì còn rất nhiều biện pháp nhằm nâng đẩy
nhanh tốc độ lưu chuyển của vốn lưu động. Mỗi doanh nghiệp tuỳ
thuộc vào tình hình thực tế, tuỳ thuộc vào giai đoạn phát triển để lựa

chọn cho mình những biện pháp phù hợp nhất để đấy nhanh tốc độ lưu
chuyênr vốn, mang lại hiệu quả cao và đưa doanh nghiệp của mình
càng ngày càng phát triển.
SVTH: Lê Thị Thu Hà - 26K6.3
22
Đề tài môn học GVHD: Trần Đình Khôi
Nguyên
KẾT LUẬN
Trong cơ chế thị trường, với môi trường cạnh tranh gay gắt,
việc phát triển sản xuất kinh doanh để mang lại lợi nhuận cao cho
mình là mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp. Quá trình sản xuất
kinh doanh đòi hỏi doanh nghiệp phải có vốn và sử dung vốn sao cho
có hiệu quả. Huy động vốn cho đủ sản xuất kinh doanh đã là một bài
toán khó song làm thế nào để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ấy có
khr năng tiếp tục tái sản xuất trở lại khó khăn nhiều hơn. Đó chính là
yếu tố quan trọng quyết định doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hay
không.
Do thời gian hạn hẹp để có thể tìm hiểu thực tế sự đa dạng của
môi trường kinh doanh cũng như hạn chế về trình độ và lý luận nên đề
tài của em cũng không tránh khỏi những sai sót. Em xin chân thành
cảm ơn Thầy Trần Đình Khôi Nguyên đã tận tình chỉ bảo cho em
trong suốt thoìư gian thực hiện đề tài. Em rất mong nhận được những
nhận xét, đáng giá của các thầy, các cô giáo trong khoa kế toán, giúp
em có thể hoàn thành luận văn của mình và có thể phát triển lên thành
đề tài tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên thực hiện
Lê Thị Thu Hà
SVTH: Lê Thị Thu Hà - 26K6.3
23

Đề tài môn học GVHD: Trần Đình Khôi
Nguyên
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình tài chính doanh nghiệp
Chủ biên: PGS.TS Lưu Thị Hương - NXB Thống kê - Năm 2005.
2. Tài chính doanh nghiệp
Chủ biên: PGS.TS lưu thị Hương - NXB Giáo dục - Năm 2000.
3. Phân tích hoạt động kinh doanh II
Chủ biên: TS Trương Bá Thanh
ThS Trần Đình Khôi Nguyên - NXB Giáo dục - Năm 2001.
4. Báo tài chính doanh nghiệp
5. Thời báo kinh tế
SVTH: Lê Thị Thu Hà - 26K6.3
24

×