Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

văn mẫu lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.21 KB, 47 trang )

NHỮNG BÀI VĂN MẪU THAM KHẢO - LỚP 12
GV sưu tầm: LÊ THỊ THANH HIỆP

( Nguồn: ).
ĐỀ RA: PHÂN TÍCH BÀI THƠ “VIỆT BẮC” CỦA TỐ HỮU
Xuất xứ
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Geneve được ký kết, miền Bắc được hoàn
toàn giải phóng. Hồ Chủ tịch và Chính phủ kháng chiến trở về thủ đô Hà Nội tháng
10/1954. Nhân dịp này Tố Hữu viết bài thơ “Việt Bắc”.
Một vài điều cần biết qua
1. Việt Bắc là vùng địa lý - chiến khu bao gồm 6 tỉnh, được gọi tắt là: Cao-Bắc-
Lạng-Thái-Tuyên-Hà. Trong 9 năm kháng chiến, Việt Bắc là chiến khu, là thủ đô của
Chính phủ kháng chiến và Hồ Chủ tịch.
2. Bài thơ được viết theo thể thơ lục bát gồm 150 dòng thơ (câu thơ). Cấu trúc theo
hình thức đối đáp của lối hát giao duyên trong dân ca giữa “mình” với “ta”. (Sách
Văn 12 chỉ trích học 88 dòng thơ)
Những ý lớn của bài thơ
- Những kỷ niệm ân tình sâu nặng một thời gian khổ
- Nhớ con người Việt Bắc
- Nhớ cảnh Việt Bắc trong 4 mùa
- Nhớ chiến khu Việt Bắc oai hùng
- Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Những tình cảm đẹp, những vần thơ hay
1. Hai mươi câu đầu là lời nhắn gửi, những câu hỏi của “ta” (người ở lại nhắn
gửi hỏi “mình” (người về). Cảnh tiễn đưa, cảnh phân ly ngập ngừng, lưu luyến bâng
khuâng: “Tiếng ai tha thiết bên cồn… áo chàm đưa buổi phân li…” Có 8 câu hỏi liên
tiếp (đặt ở câu 6): “Có nhớ ta… có nhớ không… có nhớ những ngày… có nhớ những
nhà… có nhớ núi non… mình có nhớ mình…” Sự láy đi láy lại diễn tả nỗi niềm day
dứt khôn nguôi của người ở lại. Bao kỷ niệm sâu nặng một thời gian khổ như vương
vấn hồn người:
(…) Mình đi có nhớ, những ngày


Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son…
Các câu 8 hầu như ngắt thành 2 vế tiểu đối 4/4, ngôn ngữ thơ cân xứng, hài hòa, âm
1
điệu thơ êm ái, nhịp nhàng, nhạc điệu ngân nga thấm sâu vào tâm hồn người, gợi ra
một trường thương nhớ, lưu luyến mênh mông.
“Mình” và “ta” trong ca dao, dân ca là lứa đôi giao duyên tình tự. “Mình”, “ta” đi
vào thơ Tố Hữu đã tạo nên âm điệu trữ tình đậm đà màu sắc dân ca, nhưng đã mang
một ý nghĩa mới trong quan hệ: người cán bộ kháng chiến với đồng bào Việt Bắc;
tình quân dân, tình kẻ ở người về.
2. Sáu mươi tám câu tiếp theo là người về trả lời kẻ ở lại. Có thể nói đó là
khúc tâm tình của người cán bộ kháng chiến, của người về. Bao trùm nỗi nhớ ấy là
“như nhớ người yêu” trong mọi thời gian và tràn ngập cả không gian:
- Nhớ cảnh Việt Bắc, cảnh nào cũng đầy ắp kỷ niệm:
“Nhớ từng bản khói cùng sương,
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre,
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”
- Nhớ con người Việt Bắc giàu tình nghĩa cần cù gian khổ:
“… Nhớ bà mẹ nắng cháy lưng
… Nhớ người đan nón chuốt từng sợi dang
…Nhớ cô em gái hái măng một mình
… Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Điều đáng nhớ nhất là nhớ người ở lại rất giàu tình nghĩa, “đậm đà lòng son”:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”
Nhớ cảnh 4 mùa chiến khu. Nỗi nhớ gắn liền với tình yêu thiên nhiên, tình yêu sông

núi, đầy lạc quan và tự hào. Nhớ cảnh nhớ người, “ta nhớ những hoa cùng người”.
Nhớ mùa đông “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”. Nhớ “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”.
Nhớ mùa hè “Ve kêu rừng phách đổ vàng”. Nhớ cảnh “Rừng thu trăng rọi hòa bình”.
Nỗi nhớ triền miên, kéo dài theo năm tháng.
- Nhớ chiến khu oai hùng:
“Núi giăng thành luỹ sắt dày,
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”
- Nhớ con đường chiến dịch:
“Những đường Việt Bắc của ta,
Đêm đêm rầm rập như là đất rung.
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cũng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay…”
Âm điệu thơ hùng tráng thể hiện sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của quân và dân
ta. Từ núi rừng chiến khu đến bộ đội, dân công, tất cả đều mang theo một sức mạnh
2
nhân nghĩa Việt Nam thần kỳ quyết thắng.
- Nỗi nhớ gắn liền với niềm tin
“… (Nhớ) ngọn cờ đỏ thắm gió ***g cửa hang
… Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
… Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền”
- Nhớ Việt Bắc là nhớ về cội nguồn, nhớ một chặng đường lịch sử và cách mạng:
“Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa”.
ĐỀ RA: BỨC TRANH TỨ BÌNH TRONG BÀI THƠ “VIỆT BẮC”
BÀI VIẾT 1: Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cội nguồn của cách mạng, nhắc
đến mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình - nơi đã in sâu bao kỉ
niệm của một thời kì cách mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến khi chia xa,
lòng ta sao khỏi xuyến xao bồi hồi. Và cứ thế sợi nhớ, sợi thương cứ thế mà đan cài

xoắn xuýt như tiếng gọi "Ta - mình" của đôi lứa yêu nhau. Đúng như lời thơ Chế Lan
Viên từng viết " Khi ta ở đất chỉ là nơi ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn". Vâng!
Việt Bắc đã hóa tâm hồn dào dạt nghĩa yêu thương trong thơ Tố Hữu với những lời
thơ như tiếng nhạc ngân nga, với cảnh với người ăm ắp những kỉ niệm ân tình có bao
giờ quên được.
"Ta về mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve keo rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, thơ ông diễn tả những tình cảm cách
mạng thật nhẹ nhàng mà cũng thật đậm sâu. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói
riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được viết vào tháng
10/1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và cán bộ kháng chiến từ giã
"Thủ đô gió ngàn" về với "Thủ đô Hoa vàng nắng Ba Đình". Cả bài thơ là một niềm
hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian
khổ nhưng vui tươi hào hùng. Nhưng có lẽ để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong bài ca
Việt Bắc có lẽ là đoạn thơ về bức tranh tứ bình với bốn mùa xuân - hạ - thu - đông.
Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn
3
thơ:
"Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người"
Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ "mình có nhớ ta", câu thơ thứ hai là tự
trả lời, điệp từ "ta" lặp lại bốn lần cùng với âm "a" là âm mở khiến câu thơ mang âm

hưởng ngân xa, tha thiết nồng nàn. Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ
đến những ngày tháng gian khổ "bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng", mà còn nhớ đến
vẻ đẹp đáng yêu của Hoa cùng Người. Ở đây, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên
nhiên Việt Bắc. Còn con người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ
nhưng đậm đà lòng son. Hoa và Người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm
thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này.Chính điều ấy đã tạo
nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ.Trong bốn cặp lục bát còn lại câu sáu dành cho
nhớ hoa, nhớ cảnh, câu tám dành cho nhớ người.Cảnh và Người trong mỗi câu lại có
những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp dẫn.
Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm
của những ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Nhưng đến với
Việt Bắc trong thơ Tố Hữu thì thật lạ. Mùa đông bỗng ấm áp lạ thường:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu
hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông
hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc
vừa đối lập, vừa hài hòa,vừa cổ điển vừa hiện đại.Cái màu "đỏ tươi" - gam màu nóng
của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên
Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ
lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa
lựu trong thơ Nguyễn Trãi:
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương
Từ liên tưởng ấy ta thấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm
của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang
phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng.
Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến
khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng
chiến "Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng" .Trước thiên nhiên bao la, con người

dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn.Ở đây nhà thơ không khắc họa gương
mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên
lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa
mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng.
4
Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất - " đèo cao". Con
người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do " Núi rừng đây là của
chúng ta/ Trời xanh đây là của chúng ta". Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và
vững chãi: Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con
người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Đông qua, xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của
cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân
Việt bắc cũng vậy:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết
của hoa mơ nở khắp rừng: "Ngày xuân mơ nở trắng rừng". "trắng rừng" được viết
theo phép đảo ngữ và từ "trắng" được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào
màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng
cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu ***t của hoa mơ . Động từ
"nở" làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Đây không phải là lần đầu
tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong màu
sắc hoa mơ:
Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con **** hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ
Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con
người với hoạt động " chuốt từng sợi giang". Con người đẹp tự nhiên trong những
công việc hằng ngày. Từ "chuốt" và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con

người lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng
chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.
Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn
bao giờ hết:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ "đổ" là
động từ mạnh, diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu của cây
phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve
kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ
lên bằng hoài niệm, nên lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh.Tố Hữu
không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn có tài
trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu
thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu
5
mùa hè đến và cây Phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc
sắc của tính dân tộc.
Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo
chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: "Nhớ cô em
gái hái măng một mình". Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô
đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ
mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó
chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng
của tác giả.
Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền
ảo lung linh :
"Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa
bình dọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng từng biết

đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:
Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận liên khu báo về
Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát. Đó
là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình.
Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm
gắn bó thiết tha mặn nồng.
Vâng! Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của
núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát "ân tình thủy chung" gợi cho người về
và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.
Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ
trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của
chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức
tranh trở nên gần gũi thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành
nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.
BÀI VIẾT 2: “Việt Bắc” của Tố Hữu là một trường ca tuyệt đẹp về cuộc
kháng chiến vĩ đại của dân tộc chống thực dân Pháp. Bài thơ đi vào lòng người bằng
giọng điệu ân tình chung thuỷ như ca dao, khắc hoạ sâu sắc nỗi niềm của những
người con rời “thủ đô kháng chiến”, thâm tâm đầy ắp kỷ niệm nhớ thương.Trong tâm
trạng kẻ ở - người đi, hình bóng của núi rừng – con người Việt Bắc vẹn nguyên cùng
ký ức, với bao hình ảnh đơn sơ mà cảm động. Để hôm nay, những câu thơ còn rung
6
động lòng người với những sắc màu, âm thanh tươi rói hơi thở của núi rừng chiến
khu, hơi ấm của tình người lan toả :
“ Ta về , mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
……………………………………
Rừng thu trăng dọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.
Bài thơ được Tố Hữu viết về buổi chia tay của cán bộ kháng chiến với người
dân Việt Bắc.Bằng tiếng nói ngọt ngào tha thiết của khúc hát giao duyên trong ca
dao, nhà thơ đã ca ngợi tình cảm gắn bó thủy chung với cách mạng, với đất nước ,
với nhân dân.Khổ thơ được phân tích thuộc đoạn 2 của bài thơ.Đây được coi là 10
câu thơ hay nhất diễn tả nỗi nhớ thiên nhiên và con người VB của người ra đi.Qua
nỗi nhớ ấy người đọc liên tưởng tới thiên nhiên VB giống như 1 bức tranh tứ bình.
Hai câu thơ đầu tiên của khổ thơ đã thể hiện rõ tâm trạng của người ra đi:
“ Ta về , mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”.
Hai câu thơ sử dụng từ “mình” và “ta” quen thuộc trong ca dao, “ta” chỉ
người ra đi và “mình “ chỉ người ở lại.Cụm từ “ta về”, “nhớ” được nhắc đi nhắc lại
tới 2 lần ,trong câu thơ đầu tiên là người ra đi hỏi người ở lại,còn trong câu thơ thứ 2
là để bày tỏ tâm trạng của người ra đi: nỗi nhớ “hoa cùng người”. “Hoa” tượng trưng
cho thiên nhiên VB, “người” là để chỉ nhân dân VB.Nỗi nhớ hoa và người đan xen
hòa trộn trong tâm trạng của người ra đi.Trong 8 câu thơ tiếp theo nỗi nhớ ấy lần
lượt hiện lên với tất cả những gì đẹp nhất,thơ mộng nhất.
Mở đầu cho bức tranh tứ bình là khung cảnh muà đông,một mùa đông
mang vẻ đẹp lạ lùng:
“ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
Câu thơ tả những cánh rừng VB tràn ngập 1 màu xanh của cây lá,màu xanh
của sự sống.Giữa màu xanh bạt ngàn bừng lên màu đỏ tươi của hoa chuối,màu đỏ
tươi sáng ấm áp như xua đi không khí lạnh lẽo.hoang sơ của núi rừng .Hai màu xanh
đỏ tương phản nhưng cùng tô điểm cho bức tranh thiên nhiên thêm đẹp rực rỡ.Và
giữa khung cảnh rừng núi thơ mộng ấy bỗng hiện lên bóng người trên đèo cao.Nhà
thơ ko tả dáng người , ko tả gương mặt mà tả tư thế con người trong công việc, một
tư thế khỏe khoắn của người làm chủ thiên nhiên.Trên trời cao ánh nắng hắt xuống
lưng người , chiếu vào con dao làm ánh lên 1 màu sáng kì diệu.Cái nắng hiếm hoi
của mùa đông đã tô điểm cho bức tranh thiên nhiên thêm tươi tắn, mang 1 vẻ đẹp

riêng độc đáo.
Màu xanh vô tận của những cánh rừng bỗng thay đổi thành 1 màu trắng của
hoa mơ: “Mùa xuân mơ nở trắng rừng
7
Nhớ người đan nón chuốt từng sợ giang”.
Hai câu thơ trên miêu tả mùa xuân của VB. “Ngày xuân” là từ báo hiệu thời
gian thay đổi,1 mùa đông qua đi 1 mùa xuân mới đến.Rừng VB vào xuân trên khắp
núi rừng những bông hoa mơ thi nhau nở rộ khoa 1 màu trắng tinh khiết.Nghệ thuật
đảo ngữ trong câu thơ “trắng rừng” có tác dụng nhấn mạnh rừng VB bạt ngàn 1 màu
trắng.Màu trắng tinh khiết của hoa mơ như lấn át tất cả màu xanh của cây lá làm
bừng sáng cả khu rừng .Câu thơ đem lại cho người đọc 1 cảm nhận không khí xuân
lan tràn, không gian núi rừng mênh mông, thiên nhiên VB giàu sức sống.Trong sắc x
ân của thiên nhiên nhiên đất trời hiện lên hình ảnh con người lao động làm việc chăm
chỉ cần cù, miệt mài “chuốt từng sợi giang”. “Chuốt” là 1 từ chỉ động tác làm đi làm
lại, người dân Việt Bắc tỉ mỉ cẩn thận trong công vịêc bằng đôi bàn tay khéo léo tạo
nên những sản phẩm đẹp.
Thế rồi, khoảnh khắc nhàn hạ của mùa xuân cũng qua mau, qua mau, con
người tiếp tục sống cuộc sống của họ.
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Bức tranh gợi sự chú ý cho người đọc bằng thị giác, lẫn thính giác. Đầu tiên,
cái độc đáo ở đây chính là âm thanh, âm thanh mùa hạ, tiếng “ve kêu”. Câu thơ tạo
ra hình ảnh nhân hóa. Con ve là loài vật, vậy mà nó biết kêu, biết gọi, nó xui khiến
rừng phách đổ vàng ở đây, chúng ta nên dành một ít thời gian để tìm hiểu cái rừng
phách kì lạ này. Rừng phách là những cây lạ ở miền Bắc. Nó không mọc riêng rẽ mà
mọc thành rừng, rất nhạy cảm với thời tiết. Tiếng ve kêu râm ran đây đó đã báo hiệu
mùa hạ, nhưng lúc này đã là cuối hạ. Cái lạnh đang tràn ngập núi rừng, lá cây bắt đầu
chuyển sang màu vàng, cả rừng phách thay áo mới, chiếc áo vàng óng ánh dưới ánh
nắng mặt trời. Cảnh thiên nhiên đẹp và rực rỡ thế lại càng lãng mạn hơn, vì trong
cánh rừng bạt ngàn ấy có thêm bóng dáng của một sơn nữ ”hái măng một mình”.

Đọc tới đây khiến ta liên tưởng đên một hình ảnh tương tự trong thơ Nguyễn Bính,
một nhà thơ của đồng quê:
“ Thơ thẩn đường chiều một khách thơ
Say nhìn ra rặng núi xanh lơ
Khí trời lặng lẽ và trong trẻo
Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ”
Đây là khổ thơ thứ nhất trong bài thơ”Cô hái mơ”. Ta thấy có sự giống nhau
rất ngẫu nhiên: cũng là rừng núi và cô gái đang làm việc. Chỉ có điều ở đây là “hái
mơ” chớ không phải “hái măng”.
Từ “hái” ở đây dường như không thể thay thế bằng một động từ nào khác: bẻ, đốn…
vì chỉ có nó mới phù hợp nét dịu dàng, uyển chuyển, mềm mại của cô gái mà thôi.
Ta hãy thử tưởng tượng bức tranh mùa hạ như thế này đẹp biết bao. Cảnh thiên nhiên
tuyệt mỹ như thế lại khảm chạm thêm vào hình ảnh một người thiếu nữ nhẹ nhàng
8
làm việc. Quả thật bức tranh vừa đẹp vừa có thần nữ. Rõ ràng thiên nhiên và con
người đã hòa quyện vào nhau, tô điểm cho nhau.
Cuối cùng đoạn thơ kết thúc bằng hình ảnh mùa thu cũng không kém phần
đẹp đẽ.
”Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Câu thơ đã xác định rõ, đây là mùa thu. Thiên nhiên mùa thu được miêu tả
bằng ánh trăng. Việc sử dụng hình ảnh trăng thật ra cũng không có gì độc đáo và mới
mẻ. Tuy nhiên đặt vào hoàn cảnh Việt Bắc lúc bấy giờ ta thấy được niềm mơ ước
hòa bình của người cán bộ cũng như toàn dân Việt Bắc. Tất cả đều nói lên niềm tin
tưởng chiến thắng sẽ đến với cách mạng với đất nước.
Câu thơ thiếu cụ thể nên con người ở đây cũng thiếu cụ thể. Từ “ai” nhòa đi
để tạo nền cho cả đoạn và cũng nhằm trả lời cho câu hỏi đầu tiên: “Mình về có nhớ
ta chăng?”. Tuy hỏi thế nhưng trong lòng họ vẫn biết rằng con người ấy vẫn thủy
chung, son sắt. Đây là lời đồng vọng trong tâm hồn của cả hai người yêu nhau cùng
nhớ, cùng thương” “nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.

Qua đây ta thấy bao trùm cả đoạn thơ là tình cảm nhớ thương tha thiết tiếp
tục âm hưởng chung của nghệ thuật ca dao. Câu thơ lục bát nhịp nhàng, uyển
chuyển, ý nọ gợi ý kia cứ trào lên dào dạt trong lòng người ra đi và người ở lại. Đặc
biệt là qua cách xưng hô “mình” với “ta”. Ở đây điệp từ nhớ dùng để xoáy sâu vào
cảm hứng chủ đạo là hồi ức. Từ ”rừng” lặp lại là khoảng không gian cho nỗi nhớ tồn
tại. Màu sắc cũng ảnh hưởng không ít tới bức tranh, đỏ lặng lẽ, nhưng có sức sống.
Màu con dao thể hiện sự hoạt động. Màu trắng làm thanh thoát con người và màu
vàng làm cho bức tranh rực rỡ trong hoàng hôn. Rõ ràng bức tranh đã có sự hòa điệu
của màu sắc. Bên cạnh đó,nhạc đệu dịu dàng trầm bổng khiến cả đoạn thơ mang âm
hưởng bâng khuâng, êm êm như một khúc hát ru – khúc hát ru kỉ niệm. Có lẽ khúc
hát ru này không của ai khác là của ”ta” và cho người nhận là “mình”. Cả ”ta” và
“mình” đều cùng chung nỗi nhớ, cùng chung ”Tiếng hát ân tình “ và ân tình sâu nặng
ấy mãi còn lưu luyến vấn vương trong những tâm hồn chung thủy.
Chúng ta có thể thấy, ở đoạn thơ trên thiên nhiên VB hiện lên với bao vẻ
đẹp đa dạng trong hững thời gian và ko gian khác nhau, thay đổi theo từng thời
tiết,từng mùa . Gắn bó với từng khung cảnh ấy là hình ảnh những con người bình dị,
bằng những việc làm tưởng chừng như nhỏ bé của mình, họ đã góp phần ko nhỏ vào
sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến.Chính nghĩa tình của nhân dân với cán bộ,bộ
đội, sự đồng cảm và san sẻ cùng chung mọi gian khổ và niềm vui,cùng gánh vác
những trách nhiệm nặng nề khó khăn càng làm cho “VB” ngời sáng lung linh
trong ánh hào quang của kỉ niệm.
Có thể nói đây là đoạn thơ hay và có giá trị nhất trong bài “Việt Bắc”. Cảnh
thiên nhiên và con người trong đây được miêu tả hết sức tuyệt vời và tươi đẹp, tràn
9
ngập sức sống. Và với giọng thơ ngọt ngào, tâm tình khiến đoạn thơ như một bản
tình ca về lòng chung thủy sắt son của người cách mạng đối với cả nhân dân, quê
hương Việt Bắc.
ĐỀ RA: HAI BÀI THƠ “ĐẤT NƯỚC” CỦA NĐT và NKĐ
Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu. Nghe dịu nỗi đau của mẹ. Ba lần tiễn con
đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ. Các anh không về mình mẹ lặng im (Tạ Hữu Yên).

Cứ mỗi lần nghe lại bài hát này lòng ta xốn xanh da diết ! Nhớ những ngày bé thơ
đến lớp, cô giáo dạy tôi viết hai chữ “Việt Nam” và gọi đó là Đất Nước. Tôi mơ hồ
chả hiểu, chỉ biết rằng đó là cái gì lớn lao và thật quý báu lắm ! Thời gian trôi qua
nhanh, mang tuổi thơ bé bỏng của tôi đi xa. Cho đến hôm nay, qua bao nhiêu vần thơ
đọc được tôi đã thấm thía hai tiếng thiêng liêng “Đất Nước”. Nhưng rất buồn là tôi
không thể viết thành thơ. Trong những vần thơ “ Đất nước” mến yêu dạt dào cảm
hứng ấy, có tác phẩm của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm.
Hai nhà thơ đã truyền cho tôi cảm xúc mạnh mẽ. Những vần thơ giúp tôi
nhìn ra chân dung của đất nước. Bình dị và trong sách, hồn hậu và nhân ái, nghèo
khổ nhưng oai hùng. Có lẽ chính những điều ấy đã khơi gợi cảm hứng cho các bài
thơ, đã gieo vào lòng từng nhà thơ bao suy tư và trăn trở. Từ cảm xúc của những
ngày sống hết mình với chiến đấu, từ vốn tri thức khá phong phú của mình, qua
chương “Đất nước” Nguyễn Khoa Điềm đã cắt nghĩa sâu xa cho tuổi trẻ thành thị
miền Nam lúc này. Những hiểu biết về lịch sử dân tộc như sống dậy, lay động tâm
hồn tác giả. Mỗi câu chuyện cổ tích, những thời khắc lịch sử của những cuộc đấu
tranh giữ nước và dựng nước ngày càng thiêng liêng, tha thiết hơn bao giờ
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre và đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó.
Trong hai câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm man mác âm hưởng sử thi. Yếu tố
cổ điển và hiện đại hoà quỵên vào nhau tạo thành một cấu trúc hai cực. Đất nước
mình chân thật như cuộc sống. Những câu thơ dài tuôn chảy êm dịu như dòng sông.
Một dòng cảm xúc dào dạt âm thầm nhưng mãnh liệt. Cảm hứng về đất nước của
Nguyễn Khoa Điềm bắt nguồn từ những huyền thoại : “Ngày xửa ngày xưa mẹ

thường hay kể”. Dường như nhà thơ đã huy động vào đây nhiều vốn liếng, trí tuệ, sự
10
từng trải, gửi gắm vào đây bao kỉ niệm suy tư. Nguyễn Khoa Điềm đã cùng ta hành
hương về với cội nguồn dân tộc và rồi tham gia vào cuộc chiến đấu chung là con
đường đúng đắn duy nhất đối với người thanh niên yêu nước. Nhà thơ mạnh dạn để
cái “tôi” của mình xuất hiện. Có thể nói rằng , muốn viết những vần thơ tuyệt vời về
Đất nước không chỉ đơn thuần là nhà thơ biết rung động trước một vầng trăng, một
tia nắng, một điệu dân ca hay một tiếng thơ cổ điển. Đây là cả một quá trình suy
ngẫm, và “nhìn lại” đất nước. Từng lời thơ đầm ấm giàu ý thức của tuổi trẻ đã nhận
ra vai trò của mình trước thời đại và nhận thức được đất nước này là của nhân dân.
Chúng ta phải chiến đấu để bảo vệ đất nước tươi đẹp. Nhà thơ cảm nhận phát hiện ra
đất nước từ csai nhìn tổng hợp , nhiều mặt và dường như đã toàn vẹn.
Với Nguyễn Đình Thi cảm hứng về đất nước bắt nguồn từ những chất liệu
hình ảnh cụ thể, sinh động của cuộc kháng chiến chín năm cứu nước thần thánh của
chúng ta. Bài thơ mang tính khái quát về cảm hứng lịch sử và truyền thống của dân
tộc. Có phải chăng, cái cảm hứng ấy của hai nhà thơ này đều bắt nguồn từ lòng yêu
nước sâu sắc? Do hoàn cảnh và thời điểm lịch sử mà mỗi nhà thơ lại có cảm nhận
khác nhau. Cảm hứng về đất nước đến với Nguyễn Đình Thi trong lúc cuộc kháng
chiến đang diễn ra dữ dội và tàn khốc. Người thanh niên Hà Nội ấy, cũng đã bước
vào cuộc kháng chiến nhưng tâm hồn anh thanh niên vẫ đủ sức cảm nhận:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa.
Chính “mùa thu Hà Nội” ngày hôm nay đã gợi cảm hứng cho tác giả. Nhìn
mùa thu này nhà thơ lại nhớ đến mùa thu xưa. Dường như lời hát “Mùa thu rồi ngày
hăm ba, ta ra đi theo tiếng gọi sơn hà nguy biến. Rên khắp trời, lời hoan hô quân, dân
ta tiến ra trận tiền” còn vang vọng bên tai. Hôm nay đứng giữa đất trời chiến khu
trong buổi sáng mùa thu mát lành nhà thơ suy tư về đất nước. Cái cảm giác đầu tiên
mà Nguyễn Đình Thi bắt gặp là cái rất riêng, rất đặc trưng về, rất Hà Nội : mùi
hương cốm mát. Phải là một chàng trai Hà Nội chính gốc mới có được cái cảm nhận

ấy. Phải gắn bó máu thịt với thủ đô mới chan hoà tình thương nơi này đến thế ! Niềm
cảm xúc dâng trào. Những hồi tưởng về mùa thu trước tuy êm ái nhưng thật ra lòng
nhà thơ dạt dào biết bao
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Người ra đi mang dáng dấp của cậu học trò, tỏng sáng lưu luyến bao nhiêu kỉ
niệm đẹp với từng con phố dài xao xác hơi may. Có một chút lưu luyến bâng khuâng
trong lòng người, nhưng không hề bi luỵ. Câu thơ mang màu sắc lãng mạn tươi mát
trong lành:
11
Sau lăng thềm nắng lá rơi đầy
Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Đình Thi cũng bắt đầu vui phơi phới của
người tự do. Đứng giữa một vùng chiến khu tự do nhà văn đón nhận đất nước với
những điều mới mẻ:
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.
Phải có con mắt tinh tế, giao cảm với thiên nhiên nhà thơ mới nhận được
sự”thay áo mới” của mùa thu. Tất cả như nô nức, muôn âm thanh trong trẻo xanh
biếc của trời thu như hoà quyện vào nhau; đất nước như “đang cười, đang nói”. Tâm
hồn nhà thơ dạt dào mênh mông thấy đất nước mình như “rừng tre phấp phới”. Hình
ảnh cây tre cũng được các nhà thơ nhắc đến khi viết về đất nước:
Ta yêu Việt Nam đẹp, Việt Nam thơ bát ngát câu Kiều bờ tre, mái rạ
Mái đình cong cong như em gái giữa đêm chèo
Cánh cò Việt Nam trong hơi mát xấm xoen cò lả
Cái đôn hậu nhân tình trong nét chạm chùa Keo

(Chế Lan Viên)
Từ xúc cảm mãnh liệt dạt dào nhà thơ cảm nhận được đất nước mình không
giống Chế Lan Viên với lối trầm ngâm, lắng đọng mà ở đây, đất nước hiện lên nô
nức, tươi mát nhưng cũng hết sức hào hùng:
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm ngát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nhà thơ không thiên tả cảnh mà nghiêng về yếu tố tượng trưng. Chỉ một vài
hình ảnh cụ thể như : “ núi rừng, những cánh đồng, ngả đường, dòng sông” nhà thơ
đã vẽ nên đất nước. Một đất nước được khẳng định chủ quyền “ Trời xanh đây là của
chúng ta”, giống Lý Thường Kiệt ngày xưa đã khẳng định : “Nam quốc sơn hà nam
đế cư”. Mượn một vài hình ảnh cụ thể nhưng có tính khái quát cao nhà thơ đã gửi
găm stình cảm, gửi gắm tâm trạng của mình trong đó. Niềm tự hào nhà thơ thể hiện
qua điệp nhữ “của chúng ta”. Rất đẹp, rất thơ với “những cánh đồng, những dòng
sông, rừng núi” Cảm hứng lịch sử với truyền thống dân tộc đã nhắc nhở nhà thơ
đừng quên:
Nước chúng ta
Nước của những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
12
Những buổi ngày xưa vọng nói về.
Có nhìn về quá khứ xa xôi mới quý hơn những ngày mình đang sống . ở đây
càng thấy quý hơn bởi chữ “tâm” của nhà thơ. Không chỉ có cảm nhận đất nước
trong hiện tại với biết bao niềm vui chào đón mà còn nhìn lại lịch sử dân tộc. Có phải
chăng những tiếng “rì rầm” trong đất ấy, những buổi ngày xưa vọng về thôi thúc
bước chân và trái tim nhà thơ? Cảm hưúng thời đại đã kết hợp nhuần nhuyễn với
cảm hứng lịch sử truyền thống đã tạo ra những câu thơ tuyệt vời. Thi sĩ Gớt( Đức) có
nói rằng : “Nhà thơ phải biết nắm lấy cái riêng biệt và từ đó, nếu cái riêng biệt là

chân chính nhà thơ biểu hiện cái khái quát”. Nguyễn Đình Thi đã đi theo cái hướng
này và đã thành công. Bằng những liên kết sóng đôi nhà thơ thường đi từ cái cụ thể
đến cái khái quát.
Do đó mạch thơ tuôn trào theo cảm xúc không bị dàn trải. Nhà thơ cảm
nhận đất nước bằng chính cái tâm hồn của mình, đáy lòng mình, không triết lý,
không ồn ào nhưng đầy khích lệ. Chính vì vậy mà đất nước Việt Nam hiện lên rất
hiện thực. Đó là một đất nước tạo hình trong đau khổ. Chíên tranh kéo dài không biết
bao năm từ Đinh, Lý, Trần, Lê và cho đến ngày hôm nay vẫn chưa hết. Đất nước vẫn
còn:
Những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều.
Từ xúc cảm khôgn chỉ là niềm vui mà còn là nỗi đau nên trong bài thơ Đất
nước lại có những vần thơ “đẫm nước mắt” như thế. Hình ảnh “cánh đồng quê chảy
máu” đã tố cáo tội ác của giặc. Lấy “máu đỏ mà tưới trên cánh đồng vàng” không
phải là tàn nhẫn hay sao? Cái hay của Nguyễn Đình Thi là ở chỗ đó. Hiện thực, quá
khứ đã hội tụ về đây đó trong bài thơ nhưng với tâm hồn của một người lính mang
dáng dấp học trò. cảm hứng lãng mạn luôn luôn chi phối.
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Tình cảm riêng tư cũng đã trở thành cảm hứng về đất nước. Trong cái
chung bao giờ cũng có cái riêng Nguyễn Đình Thi đã từng nói “Ta yêu em như yêu
đất nước”. Chính những tình cảm này đã góp phần tạo nên “Đất nước” đôn hậu, ân
tình và trìu mến hơn. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm cũng được
khơi gợi từ chuyện giữa “anh và em”.
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Nguyễn Khoa Điềm đã tiếp nhận đất nước trên nhiều phương diện. Từ địa lý
cho đến lịch sử , rất cụ thể. Những câu thơ dài xen lẫn những câu ngắn và lối chiết tự

khiến cho lời thơ có vẻ trầm tư. Tình yêu lứa đôi nảy sinh trong tình yêu đất nước.
13
Cảm hứng đất nước bắt nguồn từ cách cảm nhận của nhà thơ qua những trắc nghiệm
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tư tưởng của nhân dân đã chi phối toàn bộ cảm
hứng, cấu từ hình tượng thơ. Nhà thơ cảm nhận rằng chính nhân dân đã làm nên đất
nước và đất nước đã muôn đời là của nhân dân. Đất nước đối với nhà thơ vừa cụ thể
mà cũng huyền ảo. Bởi vì cảm hứng ấy bắt nguồn từ những câu chuyện cổ, từ những
điều gần gũi thân thương với cuộc sống của chúng ta:
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.
Rất cụ thể, gần gũi và bình dị : “Tóc mẹ gừng cay muối mặn”. Nhưng đây
cũng là sự sáng tạo. Nhà thơ cảm nhận đất nước theo chiều dài, lẫn chiều sâu, xuyên
suốt từ quá khứ cho đến hiện tại. Truyền thống, phong tục được coi là chất sống vĩnh
hằng. Đất nước là tất cả những gì có trong cuộc sống, là mối quan hệ giữa cá nhân và
cộng đồng:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Em ơi em Đất Nước là một phần trong máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời
Lời nhắn nhủ có vẻ riêng tư nhưng thật ra tác giả muốn nói chung với tất cả
chúng ta. Không phải là lời giáo huấn mà là nỗi tâm tình, đầm ấm và thắm thiết.
Những gì đã qua mà nhà thơ chứng kiến, đã biết, đã hiểu là nguồn cảm hứng chủ yếu
của bài thơ. Tình yêu nước thể hiện thầm kín trong từng câu thơ. Dường như đối với
Nguyễn Khoa điềm đất nước mênh mông rông lớn lắm nhưng nó không xa lạ gì với
chúng ta, nó ở ngay trong ta. Tất cả những gì có trong cuộc sống đều góp phần tạo
nên đất nước. Đó là cảm nhận của lớp người đi trước. Nhà thơ đã khắc hoạ lại đất

nước hết sức điển hình. Một đất nước Việt Nam với những chuyện cổ tích, ca dao,
bình dị, chân tình nhưng người dân giàu lòng yêu thương, sẵn sàng hi sinh mình để
tạo nên dáng hình xứ sở. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm không dừng
lại ở một giới hạn nào, bởi vì đất nước kết tinh trong mỗi con người. Đất nước hoá
thân trong đời sống của mỗi cá nhân và mỗi cá nhân đang sống đều mang di sản đất
nước của cha ông để lại.
Ôi đất nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta
Vì vậy, chúng ta hôm nay có trách nhiệm giữ gìn và truyền cho thế hệ mai
sau. Cảm hứng thời đại xen với cảm hứng truyền thống. Lịch sử dân tộc tạo ra mạch
thơ dài không ngơi nghỉ. Nhưng điều đó khiến ta liên tưởng đến đất nước
14
mình Trong từng thời điểm, đất nước có những phút giây thơ mộng nhưng qua bao
nhiêu chặng đường mà nhà thơ đã đi đất nước sống trong cực nhọc, nặng nề dưới
bom đạn , chiến tranh. Nhưng mà cha ông ta:
Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững
Lưng đeo gươmg ta mềm mại bút hoa
Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hoà
(Huy Cận)
Chính nỗi đau đớn mà đất nước đã phải chịu đựng làm xốn xang tâm hồn của
nhà thơ. Thật vậy, bốn ngàn năm qua tổ quốc ta chưa hề châm dứt chiến tranh:
“Đất nước tôi, đất nước tôi, từ thuở còn nằm nôi sáng chắn bão giông, chiều ngăn
nắng lửa ”
Những buổi trưa hè giọng ca dao vẫn cất lên trên đất nước đau thương. Cung
xlà một đất nước Việt Nam nhưng mỗi nhà thơ đều cảm nhận ở những điều khác
nhau. Cảm hứng về “đất nước” bắg đầu từ hiện thực. Nhưng ở mỗi nhà thơ đều mang
hình nét lãng mạn, lạc quan:
Đất Nước của nhân dân, Đất Nước cả ca dao thần thoại
Dạy anh biết “Yêu em từ thuở trong nôi”

“Đất nước” là chủ đề bao trùm thơ Việt Nam trong giai đoạn 1945-1975. Biết
bao nhà thơ đã viết về đề tài nay. Nhưng tôi cho rằng trong tất cả những bài thơ Đất
nước Nguyễn Đình Thi là người thành công hơn cả. Đất nước của Nguyễn Đình Thi
rất chân thật nhưng rất nghệ thuật nhờ nhà thơ đã chọn hình tượng đặc sắc. Tuy
nhiên ở mỗi bài thơ Đất nước nhà thơ nào cũng có nét hay riêng.
Tóm lại, cảm hứng đất nước của nhà thơ bắt ngùôn từ lòng yêu nước chân
thành, sâu sắc ! Cảm hứng đó không bắt gặp trong hiện tại mà họ còn tìm về quá
khứ. Với những năm tháng gian khổ chiến tranh với truyền thống tốt đẹp của dân
tộc Chính các nhà thơ cũng có một phần tạo ra: “Nam quốc sơn hà” tươi đẹp ! Để
chúng ta có thể tự hào : “Đất nước tôi sáng ngời muôn thuở. Khi trăng đã vào cửa
sổ đòi thơ.”
Đề ra: Phân tích bài thơ “Tây Tiến”. của Quang Dũng
Quang Dũng thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến
chống Pháp như Nguyễn Đình Thi , Hoàng Trung Thông , Trần Hữu Thung , Hồng
Nguyên , Trần Mai Ninh , Chính Hữu …Quang Dũng nổi tiếng với hai bài thơ : “
Tây Tiến “ và “ Đôi mắt người Sơn Tây “ . Bài thơ “Tây Tiến “ được sáng tác vào
năm 1948 khi ông rời đơn vị Tây Tiến và nhớ về kỉ niệm gắn bó một thời với Tây
Tiến . Đoàn quân Tây Tiến bao gồm hầu hết những thanh niên Hà Nội hoạt động ở
một địa bàn rộng lớn ở vùng núi biên giới Việt – Lào, hào hoa mà anh dũng .
15
Đoạn đầu của bài thơ hồi tưởng lại những kỉ niệm của một thời chinh chiến ,
những cuộc hành quân gian khổ với thiên nhiên vừa khắc nghiệt lại vừa hùng vĩ , thơ
mộng :
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao , ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Quang Dũng chịu ảnh hưởng sâu đậm nhạc điệu của thơ cổ điển . Có thể nói
nhà thơ Quang Dũng , hiện thực là hiện thực kháng chiến ( chống Pháp ) được phô
diễn bằng một tâm hồn lãng mạn và âm điệu cổ điển . Qua hai câu thơ mở đầu của
bài “ Tây Tiến “ ta nắm bắt được hồn thơ Quang Dũng :
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Âm điệu của câu thơ thất ngôn bát cú như từ thời Lí Bạch . Tình cảm thì dào
dạt như các nhà thơ lãng mạn thời Thơ mới . Có điều là trong dòng thơ hoài niệm ấy
đã xuất hiện một cái tên lịch sử . Tây Tiến ! Mà đã nói đến Tây Tiến là phải nói đến
sông Mã , con sông hùng vĩ đã chứng kiến những vui buồn của cuộc đời người chiến
binh , là phải nói đến rừng núi với những chặng đường hành quân cheo leo bên núi
cao , bên vực thẳm , đi trong sương mù , trong hương hoa . Nỗi nhớ dâng trào như
nỗi nhớ của các nhà thơ lãng mạn. Đây là câu thơ của Xuân Diệu :
“Tương tư nâng lòng lên chơi vơi “
Còn đây là câu thơ của Quang Dũng :
“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi “
Có điều là một đằng thì nhớ người yêu , một đằng thì nhớ những kỉ niệm
kháng chiến .
Những kỉ niệm về Tây Tiến , về kháng chiến cứ đậm dần lên trong sự hài
hoà giữa bút pháp lãng mạn và hiện thực của thơ Quang Dũng . Những địa danh
miền sơn cước như Sài Khao , Mường Lát gợi bao cảm xúc mới lạ. Những “ sương
“ , “ hoa “ từng hiện diện với thi nhân , với tình yêu thì nay hiện diện với đoàn quân ,
gian khổ mệt mỏi đấy nhưng không thiếu những giây phút lãng mạn . Thủ pháp đối
lập được Quang Dũng triệt để sử dụng . “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi “ gian
khổ biết bao! “ Mường Lát hoa về trong đêm hơi “ thi vị biết bao ! Tưởng chừng như
thiên nhiên ban thưởng cho người lính một chút hương hoa để có sức mạnh mà vượt
qua đèo dốc :
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
16

Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Những thanh trắc ( dốc , khúc , khuỷu , thẳm ) tức ngược miêu tả được thế núi
hiểm trở . Và hay nhất là miêu tả chiều sâu thăm thẳm để tả chiều cao của “ dốc lên
khúc khuỷu “ .Cao đến nỗi người lính có cảm giác mình ngự trên mây “ heo hút cồn
mây “ và “ súng ngửi trời “ . Cách nhân hoá thú vị cũng là để nói cách đo chiều cao
riêng của những người lính .
Ta lại thấy một ông Lí Bạch trong thơ Quang Dũng . Cảm hứng lãng mạn tô
đậm cái phi thường . Câu thơ “ Ngàn thước lên cao , ngàn thước xuống “ có khác gì
câu thơ của Lí Bạch “ Nước bay thẳng xuống ba ngàn thước “ trong bài thơ “ Xa
ngắm thác núi Lư “ . Ta cũng lại nghe âm điệu của Tản Đà trong giai điệu buông thả
mê li của Quang Dũng :
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
với “Giang hồ mê chơi trên quê hương” của Tản Đà
Mơ mộng đó mà gian khổ cũng đó . Qua những chặng đường hành quân,
vượt qua đèo cao lũng sâu , người lính sao tránh khỏi những giây phút mệt mỏi .
Quang Dũng không tránh né thực tế khắc nghiệt của người lính trong những năm đầu
kháng chiến chống Pháp :
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.
Thật là bi tráng ! Hình ảnh người lính “ Gục lên súng mũ bỏ quên đời “
cho ta thấm thía thêm những nỗi gian lao , vất vả , hi sinh của người lính Tây Tiến .
Hình ảnh núi rừng hoang vu , huyền bí tăng thêm chất bi tráng . Thiên nhiên đổi thay
theo sắc màu của thời gian . Những nét lạ , những chi tiết rùng rợn càng tăng sức hấp
dẫn của bút pháp lãng mạn . Âm thanh dữ dội của tiếng thác buổi chiều hoà điệu với
âm thanh rùng rợn của tiếng “ cọp trêu người “ đêm đêm thành một bản hoà tấu vang
động cả núi rừng . Rồi tất cả lại trở về dịu êm với những kỉ niệm của con người và
bản làng thân thương :
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Sợi khói ấm áp giữa núi rừng hoang vu , đó là chất thơ của đời sống chiến
sĩ làm sao mà không nhớ ? Kỉ niệm cứ như trôi trong mộng : “ Mai Châu mùa em
thơm nếp xôi “ . Chữ của thơ thật lạ , có những chữ đã cũ mèm mà được đặt vào
đúng văn cảnh thì lại dậy lên ý lạ . Chữ “ em “ thì có gì là mới , vậy mà thay vào đó
bất cứ chữ nào khác thì câu thơ cũng mất hết linh hồn . Nói kiểu Pautôpxki là Quang
Dũng đã trả lại cho chữ “ em “ cái trinh bạch ban đầu . Hương nếp hay là hương em
đã làm bâng khuâng cả núi rừng , bâng khuâng cả lòng người ?
Nhà thơ nhớ lại một đêm liên hoan lạ lùng giữa rừng biên cương :
17
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ “
Bút pháp lãng mạn của Quang Dũng lại được dịp miêu tả những nét lạ : y
phục lạ ( xiêm áo ) , nhạc cụ lạ ( khèn ) , âm điệu lạ ( man điệu ) , dáng vẻ lạ ( nàng e
ấp ) . Tình quân dân nơi rừng núi xa xôi càng thêm sức mạnh cho người lính Tây
Tiến .
Cùng với dòng hồi tưởng đó , tác giả nhớ lại hình ảnh người lính Tây Tiến
, những hình ảnh độc đáo không thể nào phai nhoà :
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm “
“ Đoàn binh không mọc tóc “ quả là kì dị ! Thời đó , đoàn quân Tây Tiến
hoạt động trong rừng núi phía Tây , bệnh sốt rét hoành hành . Tóc rụng đến nỗi
không mọc lên được . Da xanh bủng như màu lá rừng . Tác giả miêu tả bằng cách đối
lập giữa cái bên ngoài và cái bên trong . Bên ngoài người lính thì da xanh bủng ốm
yếu , nhưng tinh thần thì vững vàng . Khí phách của người lính Tây Tiến chẳng
những lấn át cả bệnh tật ốm yếu mà còn “ dữ oai hùm “ làm khiếp sợ kẻ thù . Tinh

thần của người lính Tây Tiến thật là mãnh liệt . Mãnh liệt cả trong “ mộng “ , mãnh
liệt cả trong “ mơ “ .
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Hình ảnh “ mắt trừng “ thể hiện ý chí quyết tâm của người lính Tây Tiến
trong nhiệm vụ bảo vệ biên cương , nghĩa vụ quốc tế của mình . Trên kia ta đã từng
gặp hình ảnh “ mộng “ ấy: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ“ . Nhưng tình cảm , tâm
tưởng người lính lại hướng về Hà Nội , quê hương thân yêu của hầu hết binh đoàn
Tây Tiến :
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm “
Hà Nội đẹp nhất là Hồ Tây và thiếu nữ . Những chàng trai Hà Nội chưa
trắng nợ anh hùng ra đi chinh chiến làm sao không mang theo trong hành trang của
mình hình bóng của một “ dáng kiều thơm “ nào đó , hoặc hình bóng của người thân
yêu? Một chút lãng mạn như vậy đủ nuôi dưỡng tinh thần của người lính Tây Tiến
trong hoàn cảnh chiến đấu gian khổ , hi sinh . Tứ thơ mộng mơ này cũng nằm trong
cấu trúc chung của bài thơ “Tây Tiến“ là ngược – xuôi : con người , ý chí , hành
động thì ngược về hướng tây , nhưng tình cảm thì lưu luyến xuôi về với quê hương
thân yêu :
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
18
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa “
Liền với tứ thơ mộng mơ ấy là hình ảnh hi sinh cao quý của những người lính
Tây Tiến . Từ tinh thần lãng mạn chuyển sang không khí bi tráng:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành “
Lần nữa ta lại thấy Quang Dũng không tránh né những chết chóc bi thương .

Người lính Tây Tiến chiến đấu ở một miền núi rừng biên cương chống kẻ thù xâm
lược làm sao tránh khỏi sự tổn thất về sinh mạng :
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ “
Câu thơ chỉ có từ “ rải rác “ là thuần Việt , còn lại là từ Hán Việt cổ kính ,
gợi không khí thiêng liêng , đượm chút ngậm ngùi . Đến câu thơ tiếp theo , tác giả
hoá giải được tình cảm ngậm ngùi đó : “ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh “ . “
Đời xanh “ đẹp biết bao! Còn gì quý bằng tuổi trẻ , vậy mà người lính Tây Tiến “
chẳng tiếc “ , cho nên họ chấp nhận tất cả . Tự vệ thành Hà Nội đã nêu cao lời thề “
Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh “ trong cuộc chiến đấu bảo vệ Thủ đô . Những
người con của Thủ đô ở biên cương cũng có tinh thần “ hiệp sĩ “ đó . Có lẽ gọi
những chàng trai “ chẳng tiếc đời xanh “ này là “ hiệp sĩ “ cách mạng , như những
người lính trong “ Đồng chí “ của Chính Hữu , trong “ Nhớ “ của Hồng Nguyên . Sự
hi sinh của họ thật là cảm động :
“Áo bào thay chiếu anh về đất “
Người lính Tây Tiến thời đó hết sức thiếu thốn . Theo Trần Lê Văn thì đồng
bào thấy các chiến sĩ Tây Tiến rét đã cho chiếc áo khoác thay cho “ áo bào “ . Khi
chết , đồng đội dùng chiếu bó lại để chôn vì không có quan tài . Câu thơ đó có một từ
rất xứng với sự hi sinh của người lính là từ “ đất “. “Anh về đất “ là về với non sông
đất nước , về với sự trường tồn , vĩnh hằng. Âm nhạc của thiên nhiên , non nước tấu
lên đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng :
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành “
Cái chết của những người lính Tây Tiến nơi biên cương chẳng những làm xúc
động sâu xa những chiến sĩ đồng đội mà còn động cả lòng trời đất . “ Sông Mã gầm
lên “ đau đớn , tiếc thương . Khúc nhạc bi tráng hợp với sự hi sinh cao quý của
những “ hiệp sĩ “ Tây Tiến .
Quang Dũng đi kháng chiến , đến đoàn quân Tây Tiến với tư cách là một trí
thức có tâm hồn nghệ sĩ . Khi đặt bút làm thơ thì đã có ông Lí ông Đỗ ngự trong lòng
. Âm nhạc đầy cám dỗ của nhà thơ Việt Nam hiện đâi như Tản Đà ( nhà thơ cùng
quê hương với ông ) , Thế Lữ , Xuân Diệu cũng đã dội vang trong lòng ông . Các
19

nhà thơ cổ kim đã bồi đắp trong hồn thơ kháng chiến mới mẻ của ông . Bằng nghệ
thuật điêu luyện , Quang Dũng đã khắc hoạ chân dung người lính Tây Tiến , hình hài
thì kì dị , độc đáo , chân dung tinh thần thì cao quý . Xuc cảm của nhà thơ được nuôi
dưỡng bằng âm nhạc vừa cổ kính vừa hiện đại .
Những trái tim “ hiệp sĩ “ Tây Tiến nằm lại rải rác ở biên cương chắc sẽ
cảm thấy êm ái khi nghe thơ Quang Dũng . Bằng hội hoạ và âm nhạc , tượng đài của
lòng dũng cảm đã được dựng lên trong thơ “ Tây Tiến “ – vĩnh hằng.

Đề ra: Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ "
Tây Tiến" của Quang Dũng
Nhà thơ Trần Lê Vân, người bạn thân, đã từng sống nhiều năm, từng in thơ
chung với Quang Dũng viết về hoàn cảnh Quang Dũng sáng tác bài thơ như sau:
" Đoàn quân Tây Tiến, sau 1 thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đoàn
52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn
vị khác . Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh ( 1 làng thuộc tỉnh
Hà đông cũ _ T.Đ.X) anh viết bài thơ "Tây Tiến".
Muốn hiểu được bài thơ “Tây Tiến”, trước hết cần phải có những hiểu biết
về đoàn quân Tây Tiến cùng với điạ bàn hoạt động cuả nó.
Khoảng cuối muà xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là
1 đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo
vệ biên giới Lào_Việt, đánh tiêu hao địch ở Thượng lào để hỗ trợ cho cuộng kháng
chiến ở những vùng khác trên đất lào. Điạ bàn hoạt động cuả đoàn quân Tây Tiến
khá rộng, bao gồm vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam và Thượng Lào: từ Châu Mai,
Châu Mộc sang tận Sầm Nứa rồi vòng về wa miền tây Thanh Hoá. những nơi này lúc
đó còn rất hoang vu và hiểm trở, nuí cao, sông sâu, rừng dầy, nhiều thú dữ.
Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, thuộc nhiều
tầng lớp khác nhau, trong đó có cả những hs, sv ( Quang Dũng thuộc số này). Sinh
hoạt cuả những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau ko có thuốc men, tử
vong vì sốt rét nhiều hơn là vì đánh trận. Tuy vậy, họ vẫn sống rất lạc wan và chiến
đấu dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt cuả chiến tranh và hoàn cảnh

sống cực kì gian khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thanh lịch, rất yêu đời và
cũng rất lãng mạn.
Bài thơ "Tây Tiến" có 2 đặc điểm nổi bậy: cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.
Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở "cái tôi" đầy tình cảm, cảm xúc cuả nhà thơ.
Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yêú tố cường điệu và
phóng đại, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái fi thường, tạo nên ấn tượng mạnh
mẽ về cái hùng vĩ và cái tuyệt mĩ.
Thiên nhiên Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn cuả Quang Dũng, được cảm
nhận với vẻ đẹp vưà đa dạng vưà độc đáo, vưà hùng vĩ vưà thơ mộng, hoang sơ mà
20
ấm áp. Hình ảnh những cô gái, những con người Tây Bắc càng tô đậm thêm chất
huyền bí, thơ mộng cuả núi rừng. Chất lãng mạn được thể hiện chủ yếu ở cảm hứng
hướng tới cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả cho lí tưởng chung cuả cộng
đồng, cuả toàn dân tộc.
"Tây Tiến" không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không bi lụy. Cái bi được
thể hiện bằng 1 giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng. Chất lãng mạn
hoà hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo cuả bài thơ. Cảm xúc chủ đạo
xuyên suốt bài thơ là 1 nỗi nhớ da diết, bao trùm lên cả không gian và thời gian:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng nuí nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn wân mỏi
Mường lát hoa về trong đêm hơi"
Nỗi nhớ đơn vĩ cũ trào dâng, ko kìm nén nỗi , nhà thơ đã thốt lên thành tiếng
gọi. 2 chữ "chơi vơi" như vẽ ra trạng thái cụ thể cuả nỗi nhớ, hình tượng hoá nỗi nhớ,
khơi nguồn cho cảnh núi cao, dộc sâu, vực thẳm, rừng dầy v.v liên tiếp xuất hiện ở
những câu thơ sau:
"Dốc lên khúc khủyu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"

Khổ thơ này là 1 bằng chứng "thi trung hữ hoạ" ( trong thơ có hoạ). Chỉ
bằng 4 câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra 1 bức tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm
trở và dữ dội, hoang vu và heo hút cuả núi rừng Tây Bắc, điạ bàn hoạt động cuả đoàn
wân Tây Tiến. 2 câu thơ đầu, những từ đầy giá trị tạo hình "khúc khủyu", " thăm
thẳm", " cồn mây", "súng ngửi trời" đã diễn tả thật đắc điạ sự hiểm trở, trùng điệp và
độ cao ngất trời cuả núi đèo tây Bắc. 2 chữ "ngửi trời" được dùng rất hồn nhiên và
cũng rất táo bạo, vưà ngộ nghĩnh, vưà có chất tinh nghịch cuả người lính. Núi cao
tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn "heo hút". Người lính trèo lên những
ngọn nuí cao dường như đang đi trên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thứ 3
như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót
vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. nếu như câu thứ 3 nhìn lên và nhìn xuống thì câu thứ
4 là nhìn ngang. Có thể hình dung cảnh những người lính tạm dừng chân bên 1 dốc
núi, phóng tầm mắt ngang ra xa wa 1 ko gian mịt mùng sương rừng mưa núi thấp
thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giưã biển khơi. 4 câu thơ này phối
hợp với nhau, tạo nên 1 âm hưởng đặc biệt. Sau 3 câu thơ được vẽ bằng những nét
gân guốc, câu thứ 4 được vẽ bằng 1 nét vẽ rất mềm mại ( câu thứ 4 toàn thanh bằng).
quy luật này cũng giống như cách sử dụng những gam màu trong hội hoạ: giưã
những gam màu nóng, tác giả sử dụng 1 gam màu lạnh làm dịu lại, như xoa mát cả
khổ thơ.
21
Cái vẻ hoang dại dữ dội, chưá đầy bí mật ghê gớm cuả nuí rừng tây Bắc
được nhà thơ tiếp tục khai thác. Nó ko chỉ được mở ra theo chiều ko gian mà còn
được khám fá ở cái chiều thời gian, luôn luôn là mối d0e doạ khủng khiếp đối với
con người
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
Vậy là cảnh núi rừng tây bắc hoang sơ và hiểm trở qua ngòi bút Quang Dũng
hiện lên với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp
dữ v.v những tên đất lạ Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, những
hình ảnh đầy giá trị tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc đọc lên nghe vất vả và

nhọc nhằn được xoa dịu bằng những câu thơ có nhiều vần bằng ở cuối mỗi khổ thơ,
đã phối hợp với nhau thật ăn ý, làm hiện hình lên thế giới khác thường vưà đa dạng,
vưà độc đáo cuả núi rừng Tây Bắc. Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng 2 câu thơ:
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu muà em thơm nếp xôi"
Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt suối, lội
đèo, những người lính tạm dừng chân, được nghỉ ngơi ở 1 bản làng nào đó , wây wần
bên những nồi cơm đang bốc khói. Khói cơm nghi ngút và hương thơm luá nếp ngày
muà xua tan vẻ mệt mỏi trên gương mặt những người lính, khiến họ tươi tỉnh hẳn
lên.2 câu thơnày tạo nên 1 cảm giác 6m dịu, ấm áo, chuẩn bị tâm thế cho người đọc
bước sang đoạn thơ thứ 2.
Đoạn thơ thứ 2 mở ra 1 thế giới khác cuả Tây Bắc. Cảnh núi rừng hoang vu,
hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn để bất ngờ hiện ra vẻ mĩ lệ, thơ mộng, duyên
dáng cuả Tây bắc. Những nét vẽ táo bạo, khoẻ, gân guốc ở đoạn thơ đầu, đến đoạn
thơ này được thay bằng những nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Và ngòi bút tài
hoa cuả QuangDũng cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạn thơ này. Hồn thơ lãng mạn
cuả Quang Dũng bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang maù sắc bí ẩn cuả con người
và cảnh vật nơi xứ lạ, phương xa. Cảnh ấy, người ấy được thể hiện lên trong 1 thời
gian làm nổi rõ nhất vẻ lung linh, huyền ảo cuả nó: cảnh 1 đêm liên hoan lưả đuốc
bập bùng và cảnh 1 buổi chiều sương phủ trên sông nước mênh mang. Cảnh 1 đêm
liên hoan văn nghệ cuả những người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến góp
vui được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất mộng, rất ảo
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kià em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu buồn e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"
Cả doanh trại "bừng sáng", tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ
bắt đầu. Trong ánh sáng lung linh cuả ngọn lưả đuốc trong âm thanh réo rắt cuả tiếng
khèn, cả cảnh vật, cả con người đều như ngả nghiêng, bốc men say, ngấy ngây, rạo
22

rực. 2 chữ "kià em" thể hiện 1 cái nhìn vưà ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vưà mê say, vui
sướng. Nhân vật trung tâm, linh hồn cuả đêm văn nghệ là những cô gái nơi núi rừng
tây bắc bất ngờ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy vừa e thẹn, vưà tình tứ trong
1 vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ đã thu hút cả hồn viá những chàng trai Tây Tiến. Nếu
cảnh 1 đêm liên hoan đem đến cho người đọc ko khí mê say, ngây ngất thì cảnh sông
nước Tây Bắc lại gợi lên được cái cảm giác mêng mang, mờ ảo:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Không gian dòng sông trong 1 buổi chiều giăng mắc 1 màu sương. Sông
nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử. trên dòng sông đậm màu sắc cổ
tích, huyền thoại ấy, nổi bật lên dáng hình mềm mại, uyển chuyển cuả 1 cô gái Thái
trên chiếc thuyền độc mộc. và như hoà hợp với con người, những bông hoa rừng
cũng "đong đưa" làm duyên trên dòng nước lũ. Ngoài bút tài hoa cuả Quang Dũng
ko tả mà chỉ gợi. vậy mà cảnh vật thiên nhiên xứ sở wa ngoài bút cuả ông như có
hồn phảng phất trong gió, trong cây. Ông ko chỉ làm hiện lên trước mắt người đọc vẻ
đẹp cuả thiên nhiên mà còn gợi lên cái phần thiêng liêng cuả cảnh vật. Đọc đến đoạn
thơ này ta như lạc vào thế giới cuả cái đẹp, thế giới cuả cõi mơ, cuả âm nhạc. 4câu
thơ đầu ngân nga như tiếng hát, như nhạc điệu cất lên tự tâm hồn ngây ngất, say mê
cuả những người lính Tây Tiến. Hơn ở đâu hết, trong đoạn thơ này, chất thơ và chất
nhạc hoà quyện với nhau đến mức khó mà tách biệt. Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở
cuả núi rừng và duyên dáng, thơ mộng, mĩ lệ cuả Tây Bắc, đến đoạn thơ thứ 3, hình
tượng tập thể những người lính Tây Tiến xuât hiện với 1 vẻ đẹp đầy tính chất bi
tráng:
"Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gởi mộng wa biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Quang Dũng đã chọn lọc, đã tinh lọc những nét tiêu biểu nhất cuả những

người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể đặng khái wát được cái gương
mặt chung cuả cả đoàn quân. Cái bi và cái hùng là 2 chất liệu chủ yêú cuả bức tượng
đài, chúng hoà quyện, xâm nhập vào nhau, nương tựa, nâng đỡ nhau, tạo nên vẻ đẹp
bi tráng- cái thần thái chung cuả cả bức tượng đài. thơ ca thời kháng chiến chỉ viết về
người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài "Đồng
chí" đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy: "Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi"
Còn Tố Hữu , khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài "Cá nước" với
những hình ảnh thật cụ thể:
23
"Giọt giot mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ"
cũng ko quên ảnh hưởng cuả thứ bệnh quái ác đó. Quang Dũng trong “Tây Tiến” ko
hề che giấu gian khổ, khó khăn, những căn bệnh hiểm nghèo và sự hi sinh lớn lao
cuả người lính. Chỉ có điều, tất cả những cái đó, wa ngoài bút của ông, ko được miêu
tả 1 cách trần trụi mà wa 1 cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn. Những cái đầu ko mọc
tóc cuả người lính Tây Tiến đâu phải là hình ảnh li kì, giật dân, sảnh phẩm cuả trí
tưởng tượng biạ đặt cuả nhà thơ mà chưá đựng 1 sự thực nghiệt ngã. Những người
lính Tây Tiến người thì cạo trọc đầu để thuận lợi tiến khi đánh nhau giáp lá cà với
địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc trọc đầu. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét
cuả những người lính, wa cái nhìn cuả Quang Dũng vẫn toát lên cái oai phong dữ
dằn cuả những con hổ nơi rừng thiêng. Cái vẻ oai phong, lẫm liệt ấy còn được thể
hiện wa ánh mắt giận dữ "mắt trừng gởi mộng" cuả họ. Những người lính Tây Tiến,
qua ngòi bút cuả Quang Dũng, ko phải là những người khổng lồ ko tim. Cái nhìn
nhiều chiều cuả Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên wa cái vẻ oai hùng dữ dằn
bề ngoài cuả họ, là những tâm hồn, những trái timrạo rực, khao khát yêu đương
(Đêm mơ HN dáng kiều thơm).
Như vậy, trong khổ thơ này, Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể
những người lính Tây Tiến ko chỉ bằng những đường nét khắc hoạ dáng vẻ bên
ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ cuả họ.

Ngòi bút cuả Quang Dũng khi dựng lên hình tượng tập thể những người lính Tây
Tiến ko hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy.Cảm hứng cuả ông mỗi
khi chìm vào cái bi thương lại được nâm đỡ bằng đôi cánh cuả lí tưởng, cuả tinh thần
lãng mạn. Chính vì vậy mà cái bi thương được gọi lên qua hình ảnh cuả những nấm
mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi, 1 mặt đã được giảm nhẹ
đi nhiều nhờ những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: “rải rác biên cương mồ viễn
xứ” mặt khác, chính cái bi thương ấy cũng lại bị mờ đi trước lí tưởng wên mình, xả
thân vì tổ quốc cuả những người lính Tây Tiến ( Chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh). Những người lính tây Tiến tiều tụy, tàn tạ trong hình hài nhưng vẫn chói ngời
vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng dấp cuả những người tráng sĩ thuở xưa, coi nhẹ cái chết
tựa long hồng. Cái sự thật bi thương : những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường
ko có cả đến manh chiếu để che thân, wa cái nhìn cuả Quang Dũng, lại được bọc
trong những tấm áo bào sang trọng . Cái bi thương ấy vợi đi nhờ cách nói giảm “anh
về đất” và rồi bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội cuả dòng sông Mã:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Trong cái âm hưởng vưà dữ dội, vừa hào hùng cuả thiên nhiên ấy, cái chết,
sự hi sinh cuả những người lính Tây Tiến ko bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.
Giọng điệu chủ đạo cuả đoạn thơ thứ 3 này sang trọng, thể hiện tình cảm đau thương
24
vô hạn và sự trân trọng , kính cẩn cuả nhà thơ trước sự hi sinh cuả đồng đội.Bài thơ
khép lại bằng 4 câu thơ, một lần nưã , tô đậm thêm ko khí chung cuả cái thời Tây
Tiến, tinh thần chung cuả những người lính Tây Tiến. Nhịp thơ chậm, giọng thơ
buồn, nhưng cái linh hồn cuả đoạn thơ thì vẫn toát lên vẻ hào hùng:
“Tây Tiến người đi ko hẹn ược
Đường lên thăm thẳm 1 chia phôi
Ai lên Tây Tiến muà xuân ấy
Hồn về Sầm Nưá chẳng về xuôi”
Cái tinh thần “ nhất khứ bất phục hoàn” thấm nhuần trong tư tưởng và tình
cảm cuả cả đoàn wân Tây Tiến. Tâm hồn, tình cảm cuả những người lính Tây Tiến

vẫn gắn bó máu thịt với những ngày Tây Tiến, những nơi mà Tây Tiến đã qua. “Tây
Tiến muà xuân ấy” đã thành 1 thời điểm 1 đi ko trở lại. Lịch sử dân tộc ko bao giờ
lặp lại cái thời thơ mộng, lãng mạn, hào hùng đến nhường ấy trong 1 hoàn cảnh khó
khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.
Đề ra: Cảm nhận về bài thơ “Tây Tiến” của QD
Có một bài ca không bao giờ quên…” Có một bài ca như thế. Cũng có những
năm tháng không bao giờ quên, không phai mờ trong ký ức của nhiều thế hệ đã qua,
hôm nay và mai sau. Đó chính là những ngày tháng kháng chiến chốngn Pháp, khi
toàn dân tộc ta vừa qua nạn đói, vừa giành được độc lập thì thực dân Pháp trở lại
xâm lược. Dấu ấn của nạn đói năm 1945 vẫn còn, rất đậm trong mỗi người dân Việt
Nam. Tự do hay trở về với cuộc đời cũ? Đấy là câu hỏi day dứt bao người. Theo
tiếng gọi của tự do, những người nông dân, công dân, học sinh, những người mẹ,
người chị… tham gia kháng chiến, tạo nên hào khí dân tộc của một thời đại.
Trong những năm tháng đáng nhớ ấy, văn học dù chưa dám nói là đã ghi lại
trọn vẹn bộ mặt đất nước, nhưng cũng đã ghi lại được hào khí của một thời với hình
ảnh bao người mà hình ảnh trung tâm là người chiến sĩ cụ Hồ. Bài thơ “Tây Tiến”
của Quang Dũng ra đời trong hoàn cảnh chung đó.
Bài thơ sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào năm 1948 khi Quang Dũng đã chuyển
đơn vị. Nhưng những ngày tháng Quang Dũng chiến đấu, sống ở đoàn quân Tây
Tiến chưa lâu, với những kỷ niệm khó quên nên nỗi nhớ Tây Tiến da diết, cồn cào
trong lòng tác giả. Toàn bài thơ là một nỗi nhớ. Tác giả nhớ về cuộc sống gian khổ,
nhớ về kỷ niệm những đêm liên hoan, về cái âm u, hoang dã của rừng núi và in đậm
nhất là nỗi nhớ của người lính Tây Tiến.
Ra đi kháng chiến khi còn là thanh niên, học sinh Hà Nội, Quang Dũng trở
thành người lính. Kỷ niệm làm người lính Tây Tiến đã xa mà lại rất gần, để ghi nhớ
lại, tác giả phải bật lên:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!"
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×