ĐỀ 1: CẢM NHẬN : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (Nguyễn Tuân)
ĐỀ 2: VẺ ĐẸP HÌNH TƯỢNG ĐẤT NƯỚC TRONG BÀI THƠ ‘ ĐẤT
NƯỚC” CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM
ĐỀ 3: ‘ VỢ NHẶT” CỦA KIM LÂN HƯỚNG CON NGƯỜI ĐẾN
NIỀM TIN VÀO CUỘC SỐNG TỐT ĐẸP HƠN
ĐỀ 4: PHÂN TÍCH NHÂN VẬT MỴ TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ
ĐỀ 5: PHÂN TÍCH NHÂN VẬT VIỆT – CHIÊN TRONG NHỮNG
ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH
ĐỀ 6: BI KỊCH HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT CUA LƯU
QUANG VŨ
ĐỀ 7: PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT TNU
ĐỀ 8: TIẾNG HÁT CON TÀU CỦA CHẾ LAN VIÊN
ĐỀ 9: NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ- MỘT TÙY BÚT CÓ THẦN
ĐỀ 10: PHÂN TÍCH TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
ĐỀ 11: SÓNG-XUÂN QUỲNH
ĐỀ 12: HOÀN CẢNH SỐNG CỦA NHÂN VẬT ANDRAY XOLOCOP
ĐỀ 13: VẺ ĐẸP CỦA NGƯỜI HÀ NỘI QUA NHÂN VẬT BÀ HIỀN
ĐỀ 14: ĐÀN GHI TA CỦA LORCA CỦA THANH THẢO
ĐỀ 15: VẺ ĐẸP BI TRÁNG CỦA HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LÍNH- TÂY
TIẾN
ĐỀ 16: HÌNH ẢNH NGƯỜI ĐÀN BÀ HÀNG CHÀI- CHIẾC THUYỀN
NGOÀI XA
ĐỀ 17: CẢM NHẬN AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG
ĐỀ 18: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM THUỐC- LỖ TẤN
BÀI VIẾT
ĐỀ 1: Cảm nhận: NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (Nguyễn Tuân)
Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là bút ký đặc sắc, kết quả của
chuyến thâm nhập thực tế vùng sông Đà 1958 - 1960 của nhà văn, in
trong tập bút ký Sông Đà. Cảm hứng gắn bó với mảnh đất và con
người Tây Bắc đã in đậm trong hình ảnh người lái đò nghệ sĩ và con
sông Đà vừa hùng vĩ vừa nên thơ.
Bản thân Nguyễn Tuân khi viết nên tác phẩm này đã thực hiện hoàn
tất một hành trình khẳng định phong cách tuỳ bút độc đáo của nhà
văn khi đi theo con đường cách mạng. Vốn sống và tài năng của
người nghệ sĩ tài hoa này đã gặp được môi trường Tây Bắc với bao
nhiêu vẻ đẹp tiềm ẩn trong mảnh đất và con người, từ đó giúp ông
có những phát hiện mới mẻ, tô đậm những ấn tượng kỳ vĩ nên thơ về
Tây Bắc trong lòng bạn đọc.
Thiên tuỳ bút Người lái đò sông Đà trước hết đem lại cho chúng ta
ấn tượng đặc biệt về hình ảnh và công việc của ông lái đò Lai Châu,
người mà nhà văn đã gọi là bạn trên tinh thần "qui thuận quần
chúng một cách tự giác" (chữ dùng của Nguyễn Tuân). Ông lái đò là
hình ảnh một người lao động mà sông nước đã in dấu vào trong
từng chi tiết ngoại hình : tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh ra
như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác
lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn về một bến xa nào đó Tuổi
tác không làm mất đi sức sống mạnh mẽ và lòng yêu mến gắn bó với
công việc của ông. Bằng cách tạo ấn tượng đặc biệt về nhân vật từ
ban đầu, nhà văn dẫn dắt chúng ta vào thế giới sông nước chứa
đựng bao thử thách hiểm nguy nhưng có sức cuốn hút riêng với
những người ưa thích phiêu lưu mạo hiểm. Bằng thủ pháp của điện
ảnh, bằng ngôn từ của mình, Nguyễn Tuân đã dựng lên cả một thế
giới sông nước sinh động : «nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió,
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt
bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy". Ấy vậy nhưng
ông lão đã tuổi bảy mươi đã bao phen thể hiện tài năng vượt thác leo
ghềnh, vượt qua thử thách hiểm nguy mà vẫn còn trẻ tráng, dẻo
dai !
Câu chuyện vượt sông Đà đã được nhà văn kể lại bằng tất cả niềm
hứng khởi về sức mạnh con người chiến thắng thiên nhiên, với tất cả
kịch tính, cao trào để tôn vinh nghệ thuật chinh phục thác đá sông
Đà. Con sông Đà dữ với thần sông tướng đá bủa giăng thế trận vây
lấy chiếc thuyền đơn độc được nhà văn miêu tả bằng ngôn ngữ
phong phú của tiểu thuyết chương hồi như gợi cuộc phá vây của
mãnh tướng Triệu Tử Long xông vào trận quân Tào Tháo, bên cạnh
đó nhà văn có những dòng mô tả chân dung bằng giọng văn rất hóm
hỉnh của riêng mình : "Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn
nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này ". Cuộc
đối đầu giữa con người trên chiếc thuyền đơn độc với "boongke
chìm và pháo đài nổi" trong "cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa
sẵn" có sức hấp dẫn đặc biệt. Có lẽ nhà văn đã hình dung ra không
khí của những hội vật truyền thống khi miêu tả các cuộc đấu sức,
đấu trí và đấu sự nhanh nhẹn giữa người và đá nước. Cuộc đấu có
miếng, có mưu, cuối cùng phần chiến thắng thuộc về con người, bởi
lẽ "Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở
này". Hình ảnh bình thường của người lao động, vật lộn với sóng
nước đã được Nguyễn Tuân nâng lên ngang hàng danh tướng "biết
mình biết ta trăm trận trăm thắng". Nhưng điều tác giả tô đậm nét
hơn ở ông lái đò chính là chất nghệ sĩ toát lên từ công việc đối mặt
với hiểm nguy đã trở thành bình thường. Ngay sau khoảnh khắc
chiến thắng sức mạnh của thác đá, sóng dữ, thì "sóng thác xèo xèo
tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình". Đây mới chính là ông
lái đò mang đậm nét Nguyễn Tuân. Con người chiến đấu với sông
Đà dữ cũng chỉ là để mưu sinh, "ngày nào cũng giành lấy cái sống từ
tay những cái thác", nên những con người này cũng yêu mến dòng
sông đã cho họ những "cá anh vũ, cá dầm xanh", những hầm cá
hang cá "túa ra đầy tràn ruộng". Sông Đà dữ thì có "diện mạo và
tâm địa của kẻ thù số một", nhưng khi sông nước thanh bình, vẻ đẹp
nên thơ gợi cảm của dòng sông lại hiện về nguyên vẹn.
Nhà văn đã dành những trang viết thấm đẫm chất trữ tình để miêu
tả vẻ đẹp dịu dàng của dòng sông mang trong lòng những huyền sử
thuở khai thiên lập địa của cha ông. "Con sông Đà tuôn dài tuôn dài
như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời
Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi
Mèo đốt nương xuân.", "Mùa xuân dòng xanh ngọc bích ", "mùa
thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu
bữa" Đó là thời điểm cho câu chữ Nguyễn Tuân lai láng chất thơ ca
ngợi vẻ đẹp của dòng sông, bằng cái nhìn và tình cảm của một người
tự nhận sông Đà như một "cố nhân". Không gian lắng đọng trong vẻ
đẹp của "bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông
Đà". Vẻ đẹp ấy như trang nghiêm trong mạch Đường thi cổ điển,
vừa lắng đọng hoài vọng về một thuở Lý Trần Lê, vừa bâng khuâng
cảm giác về sự sống nảy lộc đâm chồi : "Thuyền tôi trôi qua một
nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một
bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn
hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại
như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi
xưa". Nhà văn đã để cho dòng cảm xúc dào dạt thốt lên thành lời
đối thoại im lặng với thiên nhiên, bờ bãi ven sông, dường như con
người muốn hoà vào cùng cảnh vật, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầy sức
cuốn hút của dòng sông. Ngòi bút nhà văn đến lúc này mới thật sự
tung hoành trong sự say sưa khám phá cội nguồn, kể về lịch sử dòng
sông gắn với cuộc sống và con người Tây Bắc, những người đã đón
nhận những tặng vật hào phóng của sông Đà. Cảm xúc từ thực tại
của Nguyễn Tuân còn khơi nguồn cho những mơ ước mang tính dự
báo về tương lai, biến sức mạnh của dòng sông trái tính trái nết
thành nguồn thủy điện dồi dào. Rõ ràng, thực tại cuộc sống mới đã
giúp cho Nguyễn Tuân có những dự cảm chính xác, có niềm tin vững
chắc vào những con người đang xây dựng một chế độ mới, đem lại
sinh khí mới cho cuộc sống ở sông Đà.
Với Người lái đò sông Đà này, Nguyễn Tuân đã ghi dấu ấn không
trộn lẫn của mình ở thể loại tùy bút, bám sát hiện thực, say mê
khám phá những nét ấn tượng, những vẻ đẹp tiềm ẩn từ hiện thực.
Hơn thế nữa, tác phẩm còn đánh dấu sự vững vàng trong tư tưởng
tình cảm của nhà văn, sự nhạy cảm tinh tế của một tâm hồn nghệ sĩ
yêu đất nước, yêu con người lao động, yêu và tin vào cách mạng, vào
con đường dân tộc đang hướng tới. Tấm lòng ấy, tài năng ấy của
Nguyễn Tuân thật đáng trân trọng./.
ĐỀ 2: VẺ ĐẸP HÌNH TƯỢNG ĐẤT NƯỚC TRONG BÀI THƠ ‘ ĐẤT
NƯỚC” CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Trong số các nhà thơ thế hệ chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm là người rất
thành công với giọng thơ trữ tình chính luận thể hiện rõ những tâm
tư của thế hệ trẻ đô thị miền Nam. Trường ca “Mặt đường khát
vọng” (1971) là tiếng vọng tâm tình của một hồn thơ hòa cùng mạch
cảm xúc của dân tộc đứng trước dòng thác lũ thời đại, trong đó
chương V “Đất nước” đã gói ghém trọn vẹn tâm tình của thế hệ
chống Mỹ:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc…”
Giọng thơ thủ thỉ đã chuyển tải suy ngẫm của nhà thơ về Nhân Dân
- Đất Nước, tiếp nối mạch suy tưởng của thi ca giai đoạn trước.
Đất Nước là một chủ đề xuyên suốt bao trùm lên các tác phẩm trong
giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Các nhà thơ nhà văn
bằng tình cảm công dân đã có nhiều phát hiện mới mẻ độc đáo về Tổ
quốc, nhân dân. Tổ quốc thường được soi chiếu từ bình diện lịch sử
chống ngoại xâm, được khái quát bằng những hình tượng kỳ vĩ, khai
thác triệt để chất sử thi hoành tráng. Trong dòng chủ lưu ấy, Nguyễn
Khoa Điềm đã chọn lựa cách thể hiện riêng của mình, bằng trải
nghiệm tuổi trẻ, bằng nhiệt tình cách mạng và cả bằng vốn tri thức
được đào tạo bài bản từ mái trường xã hội chủ nghĩa, tạo nên chiều
sâu của hình tượng Đất Nước, hoà mạch thơ chính luận - trữ tình.
Trả lời cho câu hỏi: “Đất Nước là gì? Đất Nước từ đâu ra?”, nhà thơ
đã bắt đầu bằng những kí ức tuổi thơ để hình dung ra một sự tồn tại
của Đất Nước trong nhận thức và tình cảm tự nhiên nhất của con
người. Những vẻ đẹp được khơi lên từ mạch tâm tình, thấm đẫm hơi
thở ca dao dân ca, huyền tích sử thi của dân tộc. Cái hay của phần
mở đầu chương Đất Nước chính là sự xuất hiện của hàng loạt những
hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng nhưng rất gần gũi:
Tóc mẹ thì búi sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Sức gợi từ những hình ảnh đã dựng lên cả một không gian văn hoá
truyền thống, mang theo hơi thở tâm tình của ca dao “gừng cay
muối mặn xin đừng quên nhau” thấm thía tình nghĩa thủy chung.
Mạch nguồn ấy tiếp tục với quá trình trưởng thành của từng cá
nhân, từ thuở cắp sách đến trường đến khoảnh khắc rung động đầu
đời. Tất cả đều xuất phát một cách rất tự nhiên, nôn nao ngọt ngào
kỷ niệm:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đan xen với khoảnh khắc thời gian không gian hiện tại là sự thức
tỉnh của ký ức cộng đồng, với sự tổng hoà những vẻ đẹp trong đời
sống tinh thần, tâm linh của người Việt. Vẻ đẹp quê hương đất nước
được tái hiện trong những lời ca dao toát lên lòng tự hào về non sông
gấm vóc, về Cha Rồng Mẹ Tiên, gắn với lòng biết ơn tổ tiên đã ăn
sâu vào tiềm thức từng người Việt :
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào mình trong bọc trứng
Quá khứ, hiện tại, tương lai đã gắn kết trong một ý thức cộng đồng
bền chặt, là nguồn sức mạnh và cũng là phẩm chất tâm hồn dân tộc
đã được nhà thơ lý giải qua những hình tượng thơ giàu tính thẩm
mỹ và hàm chứa mối quan hệ Đất Nước – con người Nhân Dân
không thể tách rời. Thời gian lịch sử, không gian văn hoá hoà quyện
trong mạch thơ đầy ân tình đã phác hoạ rõ nét dần tượng đài Đất
Nước. Không chỉ tiếp cận hình tượng trong huyền sử, trong hiện
thực đời sống, trong mối quan hệ cá nhân - cộng đồng, Nguyễn Khoa
Điềm còn dẫn dắt độc giả trở về với hiện thực trực tiếp của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, nói lên tiếng nói đầy trách nhiệm của cả một
thế hệ chống Mỹ thật sự trưởng thành trong nhận thức và tình cảm :
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Ý thơ thật giản dị, không hề gượng ép tình cảm, khi từ mối quan hệ
riêng tư để hướng về với quan hệ cộng đồng, dân tộc. Tứ thơ độc
đáo chính là từ sự mở rộng từ thế giới của “anh và em hôm nay” đến
với “mọi người”. Vẻ đẹp Đất Nước được phát hiện thêm với những
vẻ đẹp “hài hoà nồng thắm” và “vẹn tròn to lớn”. Đó cũng là sự kết
hợp hài hoà của lý trí và tình cảm con người thời đại chống Mỹ. Hơn
thế nữa, những câu thơ này còn cắt nghĩa cho vẻ đẹp tình yêu của
thế hệ trẻ chống Mỹ không hề mất đi vẻ lãng mạn, khi khoảnh khắc
cầm tay hiện tại đã nghĩ về thế hệ tương lai, về một ngày thanh bình
và sự phát triển của Đất Nước với “tháng ngày mơ mộng”. Không
dừng lại ở đó, nhà thơ tiếp tục đi sâu vào mối quan hệ Đất Nước với
tâm hồn của từng con người. giọng thơ tâm tình thấm thía:
Em ơi em
Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời.
Nguyễn Khoa Điềm viết nên những câu thơ này bằng tất cả sự trải
nghiệm của một người lăn lộn trong phong trào tranh đấu của thanh
niên đô thị miền Nam. Nhà thơ đã thay mặt thế hệ mình để phát
biểu tâm tư với tinh thần công dân, với nhiệt tình tuổi trẻ. Đó cũng
là lời đáp cho câu hỏi mang tính chính luận về sự trường tồn của
Đất Nước. Đất Nước bất tử chính nhờ ở tinh thần của những con
người sẵn sàng dâng bầu máu của tuổi thanh xuân, biết sống có
trách nhiệm với thời đại và đầy khát vọng về tương lai trường tồn
của Đất Nước.
Phần mở đầu của chương Đất Nước được cấu tứ trên cơ sở gắn bó
giữa các vẻ đẹp riêng biệt, độc đáo và giàu sức biểu cảm để làm nên
vẻ đẹp chung tổng hoà thành hình tượng Đất Nước kỳ vĩ và giàu sức
thuyết phục với bạn đọc. Nhà thơ đã trữ tình hoá vấn đề mang tính
chính luận, nhằm trả lời những câu hỏi lớn mà dân tộc đang phải
tìm lời đáp trong cuộc chiến đấu vì lý tưởng độc lập tự do, cuộc
chiến đấu của lương tri chống lại thế lực bạo tàn.
Những vần thơ rất đẹp trong Đất Nước đã vượt qua thử thách của
thời gian, tiếp tục toả sáng, giúp thế hệ học sinh hôm nay hiểu hơn
về thế hệ cha ông trong những ngày tháng hào hùng nhất của dân
tộc. Trong thời đại mới, những giá trị của ngày hôm qua góp phần
khơi dậy lòng tự hào và ý thức trách nhiệm, tình cảm cho mỗi con
người trong khát vọng đưa Đất Nước đi xa đến những tháng ngày
mơ mộng./
ĐỀ 3: ‘ VỢ NHẶT” CỦA KIM LÂN HƯỚNG CON NGƯỜI ĐẾN
NIỀM TIN VÀO CUỘC SỐNG TỐT ĐẸP HƠN
Tác giả nói về tác phẩm:
1. “Cái đói” là nỗi lo lắng của con người ở tất cả mọi dân tộc và mọi
thời đại. Cho nên đó cũng thuộc về bản chất của đời sống. Các nhà
văn viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và bất lực của con người
trước nó (…) Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những
người đói dù thế nào đi nữa vẫn luôn luôn khao khát cuộc sống tốt
hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai. Cái
“mơ hồ” ấy là do cuộc sống thực tại luôn hành hạ họ.
2. Tôi muốn phân tích tâm trạng và thân phận của con người trong
cái hoàn cảnh cùng đường ấy, nơi cuộc sống dường như không còn
lối thoát. Tôi muốn hướng họ vào sự sống, sự thương yêu nhau,
không phải là sự giành giật nhau (…). Bối cảnh của truyện là khi cái
đói hoành hành khắp nơi. Nhưng các nhân vật của truyện thì đứng ở
ngưỡng cửa của cái đói. Nơi ngưỡng cửa khốn khổ đó, họ sẽ chứng
tỏ số phận và tính cách của mình, đồng thời ở nơi đó họ sẽ bắt đầu
một niềm tin mới, một niềm hạnh phúc mới, dù là rất mong manh.
3. Tôi muốn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình
người vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình người là có cuộc sống. Có
tình người là có hy vọng vào tương lai.
II. Một số điểm lưu ý trong quá trình tiếp cận tác phẩm:
1. Không khí ngày đói và bối cảnh nhặt vợ:
Cái đói hiện hình cụ thể trên nền không gian ảm đạm đầy ám ảnh
của cái chết rình rập cuộc sống những người dân ở xóm ngụ cư.
Không gian tối sầm vì đói khát được mô tả đầy ấn tượng: quạ bay,
thây người chết còng queo, người sống dật dờ, lặng lẽ như bóng ma.
Cái đói hiện hình trên gương mặt một anh chàng vô tâm như Tràng ,
làm thay đổi diện mạo và thói quen cố hữu, đè nặng lên đôi vai, cái
lưng gấu, dập tắt “nụ cười tủm tỉm”. Ngay cả những đứa trẻ cũng
“ủ rũ”. Bầu không gian dự báo tai ương ập đến bất kỳ lúc nào. Ấy là
những ngày đói Ất Dậu khiến những người đã qua năm 2000 “nhắc
lại vẫn rùng mình” (Nam Cao).
Sự kiện tương phản với hiện thực là buổi chiều Tràng về làng cùng
người đàn bà lạ mặt. Điều không bình thường hiện ra trên khuôn
mặt “phớn phở khác thường” và nụ cười “tủm tỉm” trở lại trên môi
Tràng. Điều khác lạ trong thái độ của Tràng thay đổi với đám trẻ
con vốn quen suồng sã với anh ta. Sự kiện tạo ra sự tò mò ngạc
nhiên từ trẻ con đến người lớn. Niềm vui nho nhỏ lóe lên trong cuộc
sống tăm tối đói khát nghèo khổ nhanh chóng bị nỗi lo thường trực
về cái đói và cái chết lấn át. Kim Lân đã đem đến cho người đọc cảm
giác ái ngại, xót xa cho sự trớ trêu của số phận người nghèo trước
thực tại khủng khiếp.Hạnh phúc thành hình trên nền cuộc sống tột
cùng bi kịch, khi sự sống bị dồn vào ngõ cụt không lối thoát. Con
đường duyên phận thành con đường rước thêm “cái của nợ đời”
khiến những người biết nghĩ đều phả ithở dài ái ngại. Bóng tối mở
ra mênh mông, mùi gây của xác người, tiếng quạ vẫn gào lên thê
thiết. Nỗi bất hạnh dường như đang chờ ở phía trước.
2. Con đường về nhà Tràng - sự thay đổi trong tâm lý nhân vật:
Sự thật quá lớn lao vượt quá suy nghĩ mơ ước thường nhật của anh
Tràng nghèo khổ, xấu xí khiến Tràng không nhận biết hoàn cảnh
giống mọi người. Choán ngợp tâm trí Tràng lúc này là hạnh phúc
của riêng anh. Kim Lân đã khắc họa những chi tiết thật sống động
về một gã trai được vợ “thích ý”, “cái mặt cứ vênh vênh tự đắc với
mình”. Cũng là tiếng “càu nhàu” nhưng khác hẳn với cái “càu
nhàu” của người đàn bà cảm thấy sự hẩm hiu của thân phận, Tràng
tỏ ra bối rối thật sự trước hạnh phúc đang được tận hưởng. Mọi cử
chỉ thật buồn cười: “lật đật”, “nhìn ngang nhìn ngửa”, “như người
xấu hổ chạy trốn”. Kim Lân đã lồng vào giữa cảnh đói khát những
tiếng cười hóm hỉnh về một anh chàng có vợ để xua dần không khí
đượm màu tang tóc ra khỏi hạnh phúc giữa hai người.
Ngay sau đó, một không gian đượm chất trữ tình đã hiện lên trên
“con đường sâu thăm thẳm, luồn giữa hai bờ tre cao vút”. Chỉ còn
“tiếng gió trên bờ tre rì rào và tiếng lá khô kêu sào sạo dưới bàn
chân”. Đó là không gian dành cho những đôi lứa tâm tình. Nhưng
Kim Lân hoàn toàn không có ý định thi vị hoá câu chuyện, bởi từ
suy nghĩ đến lời nói, hành động của các nhân vật vẫn chập chờn
những nỗi lo thường trực.
Chỉ “trong một lúc” ngắn ngủi nhưng nhà văn đã lý giải được sự
thay đổi lớn lao trong tâm hồn Tràng, tạo mối dây ràng buộc hai con
người khốn khổ lại với nhau. Dẫu chỉ là cảm nhận mơ hồ nhưng với
Tràng, khoảnh khắc ấy vô cùng thiêng liêng. Hạnh phúc tủm tỉm
cười cùng anh, giúp anh “quên hết những cảnh sống ê chề, quên cả
cái đói khát ghê gớm đang đe doạ, quên cả những tháng ngày trước
mặt”. Rõ ràng, đối với Tràng hạnh phúc không còn là sự vô tình
ngẫu nhiên nữa. Nó giúp anh tự tin hơn, tự chủ được tình cảm của
mình. Thiêng liêng thay phút ấy hai chữ “tình nghĩa”, như dự báo
khả năng của con người từng bước vượt qua hoàn cảnh, tiếp sức cho
con người vượt lên định mệnh nghiệt ngã và tạo ra mối đồng cảm
đầu tiên cho những người trước đó còn xa lạ.
Hạnh phúc có thể được cảm nhận rõ qua ngôn ngữ đối thoại và tiếng
cười của những người trong cuộc. Câu chuyện giữa hai người mang
theo không khí chờ đợi hạnh phúc đang đến, rất bình dân nhưng đã
kéo hai con người khốn khổ xích lại gần nhau. Thật ngỡ ngàng khi
đến lúc này thị mới quan tâm đến gia cảnh của Tràng. Vẻ ngờ
nghệch của anh trai quê đã làm nên nụ cười “tủm tỉm” của người
đàn bà. Kim Lân quả thật đã dụng công mô tả tiếng cười của từng
nhân vật. Từ nụ cười “tủm tỉm” thường nhật của Tràng đến nụ cười
“tủm tỉm” của thị đã có một ý nghĩa khác nhau. Để rồi niềm vui
nhân lên, lan toả làm thành khoảnh khắc “bật cười” của Tràng khi
ngộ ra bản thân, rồi cả âm vang “hì hì…” ý nhị và hài hước, cuối
cùng bùng lên thành khoảnh khắc “hắn thích chí ngửa cổ cười
khanh khách” rồi “phì ra cười” làm hiện rõ một anh Tràng đang
ngập tràn vui sướng. Đó cũng là lúc họ nói với nhau bằng ngôn ngữ
của vợ chồng, rất quê mùa nhưng cũng rất đáng yêu.
Nhưng con đường - hạnh phúc ấy thật ngắn ngủi khi họ chạm vào
cái cổng nhà Tràng, bước vào “cái nhà vắng teo rúm ró trên mảnh
vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”. Sự thực nghèo khó phơi bày
trần trụi khiến hạnh phúc bỗng trở nên chơi vơi. Tràng chỉ biết
“cười cười” khoả lấp nhưng nỗi thất vọng đã hiện rõ, khi “thị nhếch
mép cười nhạt nhẽo”. Đến lúc này, thực tại buộccon người phải đối
diện với nó, khiến con người không dám tự tin chính mình để làm
nên hạnh phúc. Ranh giới hạnh phúc - bất hạnh thật mong manh
khi mọi cử chỉ, tâm trạng của thị như nói lên tất cả nỗi tủi hổ, đắng
cay của một kiếp đàn bà khốn khổ: “ngồi mớm ở mép giường, hai
tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”. Không ai báo trước được
điều gì sẽ xảy đến trong mối quan hệ của hai con người đói khổ ấy.
May mắn thay, giữa lúc đang “tây ngây”, “sờ sợ”, “lấm lét”, “loanh
quanh” rối bời ấy, Tràng vẫn còn “tủm tỉm cười” được. Dẫu sao anh
cũng đã có những phút giây để được sống trong hạnh phúc. Dẫu cho
hạnh phúc ấy đang có nguy cơ tuột khỏi tầm tay như một trò đùa
của số phận, tràng vẫn còn cảm giác được một cách đầy đủ về ý
nghĩa thiêng liêng của bước ngoặt đời mình: “Ra hắn đã có vợ rồi
đấy ư?”. Khi ý thức được nhen lên, chắc chắn con người có đủ dũng
khí để vượt lên hoàn cảnh, không để hạnh phúc vuột khỏi tầm tay.
3. Người vợ nhặt:
Người đàn bà mà số phận đã xô đẩy để đến với Tràng không phải là
nàng tiên hạnh phúc. Câu chuyện được kể lại về cuộc gặp gỡ giữa họ
quả thật là một chuyện cười ra nước mắt. Hai lần gặp gỡ, duyên
phận buộc ràng. Kim Lân đã tạo nên những ấn tượng thật khó quên
về thị - một kẻ không tên, không tuổi, không nhà, không lai lịch –
như một nạn nhân cùng cực đáng thương của cái đói và miếng ăn.
Không ít nhà văn đã từng viết về cái đói và miếng ăn trong cuộc
sống người dân cùng trước cách mạng tháng Tám. Ngô Tất Tố đã để
nước mắt chị Dậu rơi lã chã khi chứng kiến con mình phải ăn cơm
chó (Tắt đèn). Nam Cao khiến ta phải rùng mình kinh sợ sức hủy
diệt của cái đói - miếng ăn với nhân tính trong bao truyện ngắn đầy
nước mắt xót thương của ông (Lão Hạc, Một bữa no). Kim Lân trở
về với đề tài hiện thực cũ, đã dựng nên một tình huống bi hài có một
không hai: bốn bát bánh đúc nên duyên vợ chồng.
Để kiếm miếng ăn, thị dường như đã đánh mất tất cả sự dịu dàng
kín đáo thùy mị của người phụ nữ. Ngay từ lúc xuất hiện đầu tiên,
thị đã nhảy xổ vào Tràng với tất cả vẻ “cong cớn”, “ton ton” và ỡm ờ
“liếc mắt, cười tít” với gã trai xa lạ. Kim Lân khiến ta hình dung cụ
thể hoá cảnh “trai tứ chiếng, gái giang hồ gặp nhau”. Lần thứ hai,
thị xuất hiện với bộ dạng thật thê thảm và cung cách thật khó ưa.
Cái đói ghi dấu ấn trên “áo quần rách tả tơi như tổ đỉa”, dáng vóc
“gày sọp đi” và “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con
mắt”. Đáng sợ hơn, nó không chỉ biến đổi nhân dạng mà còn lấy mất
của thị lòng tự trọng, tính sĩ diện cần thiết ở một con người. Nó làm
cho thị trong lời nói “sưng sỉa, cong cớn” qua lời nói “đon đả” chẳng
còn một tư cách người nào.
Tràng thành chiếc phao cứu sinh để thị được ăn. Bởi ăn là sống, không
ăn là chết. Ranh giới sự sống – cái chết đã không cho thị quyền chọn
lựa. Thị trở thành hiện thân của con người bản năng.
Còn gì chua chát hơn sau lúc “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh
đúc liền chẳng chuyện trò gì”, lại sẵn sàng theo không kẻ cho ăn về
làm vợ, chi tiết ấy khiến người đọc thương hại thay cho chị. Nhân
phẩm đã mất, dường như thị đã biến thành nô lệ của miếng ăn, bởi
sau bữa ăn vội vàng thô tục ấy thị còn tiếp tục cùng Tràng “Ra hàng
cơm đánh một bữa thật no nê:. Ấy vậy mà tuyệt nhiên nhà văn
không để bộc lộ một mảy may thái độ phản ứng nào của Tràng
trước những việc làm đáng khinh của thị, nên đọng lại trong ta một
cái nhìn đầy thương hại cho thị mà thôi. Phải đến khi xuất hiện
trong xóm ngụ cư, thị mới hiện lên với đầy đủ tâm trạng, mặc cảm
về thân phận vợ nhặt. Số phận của thị đã ngoặt sang ngõ rẽ mới sau
tiếng tặc lưỡi: “Chặc, kệ” của Tràng. Nhưng cuộc sống tương lai quá
mơ hồ với thị. Trái ngược với Tràng, thị bước đi trong dáng “Đầu
hơi cúi xuống”, “rón rén, e thẹn”, “chân nọ bước díu cả vào chân
kia”. Bởi thị sợ những ánh mắt tò mò sẽ phơi ra sự thật phũ phàng
về thân phận vợ nhặt. Đến lúc chỉ còn hai người với nhau, thị cũng
không giấu nổi ánh nhìn “tư lự”. Ám ảnh thân phận thực sự rõ nét
khi thị đã ở trong nhà Tràng, khi đứng trước một hiện thực đáng
thất vọng. Kim Lân đã đặc tả vào thái độ của thị như gợi tả bao suy
tư sâu sắc về kiếp người trong nhữg ngày đói quay quắt. Cái nghèo
gặp cái eo, báo cho họ biết những ngày túng đói đe doạ. Nếu vấn đề
của Tràng quẩn quanh trong mong ước tạo nên hạnh phúc bền lâu
thì vấn đề của thị lúc này là vượt lên nạn đói. Không có bất cứ một
tín hiệu nào bảo đảm cả hai người sẽ vượt qua thử thách của chính
mình. Sự chờ đợi thật nặng nề, căng thẳng. Thị đã dễ dàng đến với
Tràng thì thị cũng dễ dàng bỏ đi. Nhà văn đã kéo dài khoảnh khắc
ấy để giúp người đọc hình dung, giả định những khả năng sẽ xảy
đến cho nhân vật, để có những suy ngẫm cảm thông, ngậm ngùi cho
thân phận con người trong hoàn cảnh trớ trêu.
4. Cuộc gặp gỡ của ba người khốn khổ:
Bà cụ Tứ trở về nhà như bổ sung thêm vào bức tranh ảm đạm của
cuộc sống nghèo khổ, đói kém. Vẻ lam lũ in hình trên dáng đi “lòng
khòng”, “vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán”. Trong những lo toan của
người mẹ, hẳn sẽ không có dự tính nào cho hạnh phúc của con trai
trong thời điểm cùng cực đói này. Bởi vậy thái độ của Tràng làm bà
ngạc nhiên một thì sự xuất hiện của người đàn bà lạ làm bà ngạc
nhiên mười. Sự thực như một ảo ảnh để bà không thể hiểu nổi. Dầu
đã có lời chào nhưng lại làm bà rối bời “băn khoăn”. Vì hơn ai hết
bà hiểu cảnh nhà, hiểu hoàn cảnh con mình không mong có được vợ
trong cả lúc yên hàn chứ chưa cần nói đến tao đoạn trần ai này. Nhà
văn đã dồn bút lực mô tả phút chờ đợi căng thẳng của đôi vợ chồng
mới làm bạn với nhau để người mẹ định đoạt duyên kiếp. Thời gian
như kéo dài thêm cùng tâm lý đợi chờ. Lại càng dài hơn khi bà cụ
“cúi đầu nín lặng” sau khi hiểu ra cớ sự.
Những trang viết xúc động nhất của tác phẩm có lẽ gắn trọn với tâm
trạng mừng lo lẫn lộn của bà cụ Tứ. Tấm lòng của một người mẹ
thật bao dung và cũng thật đắng cay xa xót. Người đọc có thể nhìn
thấy bóng dáng bao bà mẹ thương con đứt ruột trong nỗi lòng bà cụ
Tứ. Những xung đột bi kịch được đẩy lên cao trào nhưng cũng được
hoá giải phần nào bởi tình thương của người mẹ. Nước mắt mẹ đã
lặng lẽ rơi xuống trong mặc cảm thân phận, trong nỗi đau không lo
nổi hạnh phúc cho con mình. “Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn
hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp
đứa con mình”. Không khí im lặng u uất bao trùm lên ngôi nhà, tâm
tư bà cụ cũng ngập tràn ám ảnh đầy bóng tối: cái đói, cái chết, cái
nợ đèo bòng chất thêm gánh nặng. Định mệnh như cười cợt với
hạnh phúc, nụ cười của thần chết. Nhưng không thể thắng được một
niềm tin của những người chưa tắt hy vọng về tương lai. Nó là cái
tâm lý quen thuộc của những người nghèo khổ, thường tự an ủi
mình:
Chớ than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi lên cây
Tiếng nói đòi quyền sống mãnh liệt ấy đã thôi thúc làm nên quyết
định rất “nhẹ nhàng” trong lời nói của bà cụ Tứ “Ừ, thôi thì các con
đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. Hạnh phúc
đã vượt qua lực cản đầu tiên.
Nhưng cuộc sống thực không hề nhẹ nhàng, vẫn bộn bề chồng chất
nỗi lo. Bản thân bà cụ cũng nén chịu vào lòng nỗi đau của riêng
mình, đặt vào miệng những lời an ủi nàng dâu mới nhưng “bóng tối
trùm lấy hai con mắt bà lão”. Trong khoảnh khắc, quá khứ tủi cực
dồn về cùng suy nghĩ cho tương lai dâu – con. Điều cảm động là tình
thương ấy đã xoá nhoà khoảng cách “mẹ chồng nàng dâu” nhưng
cách cư xử của bà cụ Tứ vẫn còn là sự chịu đựng, chấp nhận hoàn
cảnh, chưa phải là sức mạnh để vượt lên hoàn cảnh. Mỗi một lời
thân mật với “”nàng dâu mới” chứa đựng bao nỗi niềm u uất để rồi
“bà cụ không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”.
Bóng tối vẫn mênh mông.
Kim Lân đã để vào chính lúc ấy, Tràng “đánh diêm đốt đèn”. Chính
nhà văn đã nói về ngọn đèn xua tan bóng tối này: “Ngọn đèn là niềm
yêu thương, cảm thông lẫn nhau để cùng vượt lên trên số phận buồn
thương của họ” (Tác giả nói về tác phẩm). Đó là ánh sáng của hy
vọng, của quyết tâm tạo dựng cuộc sống mới. Một lần nữa, Kim Lân
lại để cho đôi vợ chồng mới còn lại riêng với nhau, trong “ánh đèn
vàng đục ở góc nhà toả ra ấm áp và kéo dài hai cái bóng trên vách”.
Nhưng lần này, không chỉ có tiếng họ thầm thì trò chuyện mà còn cả
“tiếng hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”. Hạnh phúc
mới phải đối mặt với thực tại cuộc sống những ngày tới của lứa đôi
và đêm tân hôn ấm áp tình người đã chống chọi với “tiếng hờ khóc tỉ
tê nghe càng rõ”. Đó là hạnh phúc đòi hỏi con người phải sát lại bên
nhau để vượt qua buồn thương số phận, cái đói và cái chết.
5. Ngày mới:
“Ánh nắng buổi sáng mùa hè” đến với Tràng sau đêm tân hôn màu
nhiệm đã giúp anh nhận ra tất cả sự “thay đổi mới mẻ, khác lạ”. Dù
ở trong trạng thái “êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi
ra” nhưng bước ngoặt cuộc sống của Tràng là sự thực mà chính anh
là người hiểu rõ nhất. Đẹp làm sao những cảm xúc của Tràng về tổ
ấm của chính anh, gắn với viễn cảnh tương lai sáng sủa như không
gian đầy nắng kia. “Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn
ngập trong lòng”, nguồn hạnh phúc tạo nên từ mối ràng buộc tình
cảm và trách nhiệm của Tràng với mẹ, với vợ đã đem lại nguồn
hạnh phúc lớn lao hơn cho Tràng. Anh ý thức rõ hơn bao giờ hết
quyền được sống làm người, quyền sống của con người. Chính anh
chứ không phải ai khác sẽ bảo vệ đến cùng quyền lợi chính đáng ấy.
Ngày mới đến với thị cũng thật khác lạ, làm nên vẻ đẹp của một cô
Tấm bước ra từ quả thị trong cổ tích. Hạnh phúc mới đã trả lại cho
chị vẻ “hiền hậu đúng mực” và chính bàn tay từng đẩy chiếc xe bò
duyên phận, bàn tay quệt đũa ngang miệng, hôm qua đã sắp đặt,
sửa sang nhà cửa gọn gàng sạch sẽ. Bàn tay ấy “đang quét lại cái
sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất”. Âm vang giản
dị, bình thường ấy báo hiệu sự hồi sinh, sức sống mới trở lại trong
tâm hồn chị. Tưởng chừng mọi nỗi lo đã được giải toả khi ngày mới
bắt đầu, ngay cả “bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày
thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”.
Nhưng hình ảnh “bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại” đã cho ta
biết tất cả mới chỉ bắt đầu. Cuộc sống mới của gia đình Tràng diễn
ra trên nền hiện thực còn nguyên mối đe doạ. Lùm rau chuối thái
rối, đĩa muối ăn với cháo, câu chuyện giữa mẹ, con, dâu toàn niềm
vui. Không khí “đầm ấm hoà hợp” bỗng ngừng lại khi miếng ăn hết
nhẵn. Khoảnh khắc ấykhiến người đọc có thể chạnh lòng nhớ không
khí truyện “Nửa đêm” của Nam Cao. Cũng vui vẻ đầm ấm ban đầu,
sau hạnh phúc vỡ tan, để lại cay đắng, cùng cực cho một bà lão suốt
đời “tu nhân tích đức”. Liệu bà cụ Tứ, Tràng, thị có lâm vào nghịch
cảnh đầy bi kịch như vậy không? Kim Lân đã để các nhân vật chống
chọi hoàn cảnh ấy mỗi người một cách, tranh đấu quyết liệt với cái
đói chết người để bảo vệ quyền sống, hạnh phúc họ vừa có được.
Người đọc sẽ lặng đi khi nhìn vào miếng ăn của họ - “chè khoán”
của bà cụ Tứ. Người mẹ tội nghiệp ấy đã làm mọi việc có thể để cứu
vãn tình thế, ngay cả khi nói rõ là cám vẫn cố đánh lừa cảm giác
bằng tiếng cười rặn ra và lời khen “ngon đáo để”. Người vợ nhặt đã
nhận ra sự thực, dẫu “hai mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và
vào miệng”. Thị thật đáng thương vì cuộc đời chị cũng sẽ không còn
lối thoát nào khác. Tình người thật đáng quí để chị chấp nhận hoàn
cảnh ăn miếng ăn của loài vật này. Chỉ có Tràng cảm nhận rõ nhất
vị cám “đắng chát và nghẹn bứ”. Dường như khoảnh khắc ấy đã
bùng lên sức mạnh phản kháng trong anh. Nhưng bị bủa vây trong
vòng cùng quẫn, những con người ấy đã bắt đầu “tránh nhìn mặt
nhau”, “một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người”. Sức mạnh tố
cáo tội ác huỷ diệt sự sống của kẻ thù Pháp - Nhật trong câu văn
thật thấm thía trong phút câm lặng đột ngột này. Nhưng có thể nhận
ra lúc ý thức rõ nhất về hoàn cảnh cuộc sống bên ngoài tác động, họ
tránh nhìn nhau không phải vì sợ hãi, cũng không phải chuẩn bị cho
ánh mắt nhì nnhau đầy thù hận mà tủi hờn chất chứa trong lòng sẽ
giúp họ cùng nhìn về một hướng giải thoát khỏi cuộc sống lầm than,
hướng đến sự sống, tương lai sẽ khác hơn.
Kim Lân dựng lên đoạn cuối câu chuyện khi những người cùng khổ
này nói về “Việt Minh” và hình ảnh đoàn người đói cùng lá cờ đỏ
bay phấp phới hiện lên trong óc Tràng, bởi điều kiện khách quan tác
phẩm hoàn thành sau cuộc cách mạng long trời lở đất của dân tộc
lật nhào bộ máy hủy diệt của kẻ thù dân tộc, trả lại hạnh phúc tự do
thật sự cho con người. một kết cục làm rõ tư tưởng của tác phẩm là
cần thiết để câu chuyện thoát khỏi lối mòn bi kịch của văn học hiện
thực trước cách mạng viết về những nạn nhân đáng thương bị đè
bẹp bởi hoàn cảnh. Nhưng theo sự phát triển của tình huống truyện,
dẫu kết cục là nỗi tủi hờn vẫn hàm chứa trong đó sức mạnh phản
kháng của những con người từng bước ý thức và làm chủ hoàn
cảnh, vượt lên số phận. đó cũng chính là điểm khác biệt về nhân vật
điển hình trong văn học sau 1945 với văn học trước đó.
Kim Lân đã ghi dấu ấn của một tấm lòng nhân hậu, đem đến những
cảm nhận mới mẻ về con người và khơi dậy sức mạnh tình thương
giúp con người vượt qua tất cả trở lực của cuộc sống và bản thân họ.
Tác phẩm ấm lòng ta bởi niềm tin vào con người tuyệt đối .
ĐỀ 4: PHÂN TÍCH NHÂN VẬT MỴ TRONG VỢ CHỒNG A PHỦ
Mị - nhân vật trung tâm của câu chuyện “Vợ chồng A Phủ”. Mị là cô gái
trẻ đẹp, con nhà lao động, có tấm lòng nhân hậu. Thế nhưng, số
phận run rủi, nàng phải vào nhà Thống li PáTra làm vợ để trả món
nợ hôn nhân từ đời cha mẹ nàng. Lẽ ra là cuộc đời sẽ tốt đẹp nhưng
số phận không an bài như thế, nơi đây Mị bước sang một trang đời
đầy tăm tối, tất cả như xô dạt về hướng lụi tàn, không gì cứu vãn
được. . Mị . Mị trở nên câm nín vô hồn , vô cảm. Mị khóa chặt lòng
mình: không giao tiếp, không trông chờ, không hy vọng, không phản
ứng, Mị “lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Ý nghĩa của cuộc sống
chỉ còn lại đơn thuần là những ngày dài lê thê chưa chết. Cứ thế Mị
giam cầm mình trong căn buồng tăm tối “kìn mít, có một chiếc cửa
sổ một lỗ vuông bằng bàn tay ” và chi tiết ấy lặp lại đến mấy lần
trong tác phẩm. Để rồi từ ô cửa ấy, Mị nhìn ra bên ngoài và thấy cái
màu trăng trắng không biết là sương hay nắng, Mị mất cả ý niệm về
không gian và thời gian, Mị không phân biệt được thời gian sáng và
chiều, không biết mùa nào đã về, con chim nào đã bay qua dưới cửa
sổ. Mị bị cuốn vào cái vòng xoáy công việc giặt đay, xe đay, bưng ngô
và sau tết “lên núi hái thuốc phiện … đến mùa thì lên nương bẻ
bắp… Bao giờ cũng thế, suốt năm như thế”. Ý thức làm người của
Mị dần dần bị tê liệt. Độc ác hơn, gia cấp phong kiến ấy còn đánh
đập, chà đạp lên nhân phẩm của Mị. Chúng dùng bóng ma thần
quyền nhằm hù dọa, ức hiếp triệt tiêu cả niềm tin và sự phản kháng
của Mị. Phần “Người” trong Mị cứ chết dần mòn theo ngày tháng,
nhu cầu giao lưu với bên ngoài dường như bế tắc. Và Mị đã chọn cái
chết như một con người còn hơn là sống như trâu ngựa. Nàng định
dùng “nắm lá ngón” để kết liễu kiếp đọa đày của mình. Thế nhưng,
vì sợ liên lụy đến cha mẹ. nàng “ném nắm lá ngón xuống đất” để tiếp
tục sống dù trong đọa đày tủi nhục. Mị giống như Thuý Kiều hai
trăm năm trước, lựa chọn của Mị thực chất là bán mình cứu cha. Đó
là sự phản kháng dù tiêu cực nhưng hết sức quyết liệt: lấy cái chết
để phủ nhận cuộc sống làm dâu gạt nợ.Và rồi cơn gío lành đã đến và
ngọn lửa ngọn lửa ham sống đã bùng lên lần thứ nhất trong câu
chuyện này từ một “đêm tình mùa xuân”. Đêm tình mùa xuân ngân
lên như một niềm thơ từ tiếng sáo dìu dặt gọi bạn tình nghe “thiết
tha bồi hồi”, làm xao động trái tim và cõi lòng Mị. Vâng ! Mùa xuân
tình yêu đã đến. Tác động của nắng xuân, màu sắc biến ảo của hoa
anh túc trên nương, của ánh trăng đêm hò hẹn, của tiếng khèn, tiếng
sáo miên man gọi bạn tình, như nguồn nhiệt lượng thiêng liêng dội
vào khoảng sâu thẳm tâm hồn Mị, sưởi ấm và làm tan chảy tảng
băng lạnh lẽo trong lòng Mị. Cõi lòng Mị ấm dần lên, băng giá tan
chảy và Mị hồi sinh. Những hạt mầm đầu tiên của cảm xúc bắt đầu
nảy nở: “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi”. Nhận thức và
nhu cầu được sống chảy lai láng trong tâm hồn Mị và rồi vẻ đẹp sặc
sỡ của “những chiếc váy hoa phơi trên mõm đá xoè ra như cánh
bướm” trong các làng Mèo đỏ lọt vào mắt nàng. Ấn tượng về chiếc
váy hoa đã đánh thức như cầu làm đẹp của người thiếu phụ có
gương mặt buồn này. “Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang
thổi”. Đó là tiếng hát vang lên từ trong đáy sâu tâm hồn Mị - tiếng
hát của thanh xuân mà không có một thế lực cường quyền, thần
quyền nào có thể dập tắt được. Tiếng hát là sự kết tinh của nhhững
khát vọng cao đẹp nhất, có lẽ nhiều khi nó còn đẹp hơn chính cả con
người? Nhu cầu giao tiếp, giao cảm và nhu cầu sống trở về với Mị.
Thực tại đắng cay như địa ngục trần gian nơi ô cửa sổ nhỏ trong nhà
Thống lý Pá Tra với người chồng tồi tệ là A Sử; còn một thực tại
khác êm ả như thiên đường tuổi trẻ dưới nắng xuân ngoài nương,
dưới đêm trăng hò hẹn, dìu dặt, miên man trong tiếng sáo gọi bạn
tình làm náo nức trái tim Mị. Quá khứ và thực tại đan chéo trong
lòng, khiến nàng xúc động mạnh khiến nàng có ý tưởng kỳ lạ “Mị
lén lấy hũ rượu, uống ừng ực từng bát”. thế nhưng có lẽ không phải
Mị đang uống rượu, mà đang uống những đắng cay của đời mình.
Quá khứ êm đềm trỗi dậy như dòng suối miên man chảy vào miền
ký ức ngọt ngào của thời thanh xuân” Có biết bao nhiêu người mê,
ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Tín hiệu cuộc sống, niềm yêu đời, say
đời trở lại đã đưa Mị tìm lại được ý niệm về thời gian, Mị sống với
thời gian quá khứ và từ đó nàng nhận ra thới gian, không gian thực
tại. “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay,
chứ không buồn nhớ lại nữa”. Thế đấy, ngay lúc thèm sống nhất, Mị
lại muốn chết ngay. Mị chọn khoảnh khắc hạnh phúc nhất để chết,
vì chết lúc ấy người ta dễ mang theo hạnh phúc và dễ bỏ khổ đau lại
phía sau. Nhưng “tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ ngoài đường” đã thôi
thúc Mị “đến góc nhà, xắn một miếng mỡ. bỏ thêm vào đĩa đèn cho
sáng”. Người đọc đến chi tiết này đều xúc động vì căn buồng âm u,
tăm tối lạnh lẽo bao nhiêu năm tháng giam hãm đời Mị bỗng chốc
bừng sáng ánh đèn. Đóm sáng ấy thật ra là ánh lửa ấm áp được thắp
lên từ “đêm tình mùa xuân”, được thắp lên từ cõi lòng tiềm tàng sức
sống mãnh liệt của Mị. Hành động này thôi thúc hành động khác và
Mị quyết định đi theo tiếng gọi của lòng mình: “Mị quấn lại tóc, với
lấy cái váy hoa sửa soạn đi chơi tết”. Có thể nói hành động “sửa
soạn” này như là một cuộc sửa soạn vượt ngục của một tù nhân
không cam số kiếp tù đày. Thế nhưng ngọn lửa ham sống của Mị đã
bị A Sử dập tắt một cách tàn bạo, Hắn thản nhiên lầm lì lấy dây, lấy
thắt lưng của hắn và cả tóc Mị để trói Mị lại. Có lẽ A Sử đã hình
dung được trong cái hành động muốn đi du xuân của Mị là cả một
sự thách thức ghê gớm, môt sự bùng lên, một sự nổi loạn chống lại
cái luật lệ hà khắc của gia đình hắn nói riêng và cả cái xã hội phong
kiến miền cao nói chung. Mị đang bị trói và không hề phản ứng. Tô
Hoài thật tinh tế và sâu sắc trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân
vật. Vì lúc này, nhân vật Mị đang ngây ngất trong thiện đường tuổi
trẻ của dư âm đêm tình xuân. Bởi thế sợi dây trói tàn khốc của cuộc
đời thực, chưa thể làm kinh động giấc mơ êm đềm của kẻ mộng du
tội nghiệp. Đến khi vùng bước đi, Mị mới cảm nhận sự đau nhức và
Mị mới bị ném trả lại với sự thực đắng cay, để rồi sáng mai Mị lại
trở về với kiếp con rùa lầm lũi trong xó cửa nhà Thống lí. Đó là sự
tàn bạo của xã hội phong kiến vùng cao trước Cách mạng. Cho đến
một ngày A Phủ xuất hiện trước mặt cũng với thân phận tôi mọi, A
Phủ vì đánh lại con quan nên làng phạt vạ, số phận lại vào nhà
Thống lí Pá Tra và thân phận không hơn gì Mị. A Phủ để hổ vồ mất
con bò và hậu quả hình phạt là bị trói đứng vào cây cột suốt mấy
đêm liền, A Phủ xuất hiện trước mặt Mị với hình ảnh như thế. Đồng
cảnh ngộ, cũng là người đi ở gạt nợ cho nhà Thống lí Pá Tra, A Phủ
bị trói mấy đêm rồi, nhưng đêm nào cũng vậy, Mị đốt lửa sưởi, nhìn
thấy A Phủ mà vẫn thản nhiên vô cảm: “nếu A Phủ là cái xác chết
đứng đấy, cũng thế thôi, Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, Mị chỉ biết còn ở
với ngọn lửa”. Tâm hồn cô khép kín, dường như sức sống cứ mòn
dần, cạn dần, nén lại và khô kiệt mất. Mị nhìn thấy dòng nước mắt
của A Phủ: “1 dòng nước mắt lấp lánh bò xuống 2 hõm ** đã xám
đen lại”. Chính dòng nước mắt ấy đã làm rung chuyển cõi lòng
tưởng như đã đóng băng từ lâu của Mị chợt bùng lên, vỡ ra. Mị nhớ
lại và thương cho mình “ Mị cũng phải đứng thế kia, nhiều lần khóc,
nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi đc”. Và ý
thức phản kháng trong Mị trỗi dậy, vượt qua nỗi sợ hãi. Nàng muốn
A Phủ phải được sống. Còn Mị nàng chấp nhận ở lại mà chết. Nỗi
thương người dường như lớn hơn nỗi thương thân: “ta là thân đàn
bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn bíêt đợi ngày mà
rũ sương ở đây thôi … Người kia việc gì phải chết thế”. Thế rồi, Mị
rón rén bước lại cắt dây trói cho A Phủ, hàng động ấy đã trở nên cái
mốc quan trọng trong cuộc đời A Phủ và cũng chính cho Mị, “đi
ngay ” Chỉ hai tiếng khô khốc lạnh lùng ấy đã mở ra một chân trời
rộng lớn cho hai người. :A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy”. Lúc
này, giữa ranh giới cái chết và sự sống, tự do và nô lệ, Mị cũng vụt
chạy hổn hển gọi: “A Phủ cho tôi đi ” Một tình yêu nảy nở từ sự hy
sinh và một tình yêu đáp lại từ sự đồng điệu của tâm hồn, của khát
vọng sống. Một cuộc giải phóng đời mình tuy là tự phát nhưng thật
sự đã diễn ra. A Phủ chợt hiểu: “Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu
sống mình”. Và khúc hồi thanh của tình yêu vang lên: “Đi với tôi”,
có thể nói Mị đã giải thoát cho A Phủ và tự giải phóng chính mình.
Đó là sự vượt ngục tất yếu để tìm đến tự do, cũng chính là nét độc
đáo của ngòi bút Tô Hoài: ngòi bút của chủ nghĩa nhân đạo, từ Mị ta
đồng cảm, xót thương cho thân phận đau khổ của người phụ nữ
nghèo miền núi, ta tin vào sức phản kháng, vào khả năng tự giải
phóng để được tự do và hạnh phúc của họ.Mị có một sức sống tiềm
tàng mãnh liệt, sức sống đó được bộc lộ ngày một mãnh mẽ và có ý
nghĩa tích cực hơn. Ban đầu Mị định dùng lá ngón tự tử- sức phản
kháng dù tiêu cực nhưng mạnh mẽ, lần thứ hai khi xuân về, nghe
tiếng sáo vọng, Mị muốn đi chơi xuân- hành động phản kháng theo
tiếng gọi của hạnh phúc. Và lần cắt dây trói, đi theo A Phủ là đỉnh
điểm của sức phản kháng trong Mị, cô vượt qua cả nỗi sợ hãi vốn
tồn tại trong mình từ rất lâu để tìm đến tự do.
ĐỀ 5: PHÂN TÍCH NHÂN VẬT VIỆT – CHIÊN TRONG NHỮNG
ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH
Nhà văn Nguyễn Thi tên thật là Nguyễn Ca , người Nam Hà . Ông vào
Nam từ năm 1945 , gia nhập quân đội và viết văn dưới bút danh
Nguyễn Ngọc Tấn . Tập kết ra Bắc năm 1954 , năm 1962 ông trở lại
miền Nam lần thứ hai , viết văn dưới bút danh Nguyễn Thi . Ông
thuộc lớp nhà văn cầm súng , ông hi sinh trong vị trí , tư thế chiến
đấu giữa mùa xuân tiến công và nổi dậy năm 1968 trong trận đánh
vào Sài Gòn . Là nhà văn chiến sĩ , Nguyễn Thi có nhiều đóng góp
cho nền văn học cách mạng . Một trong những đóng góp đáng kể
của ông về nghệ thuật là sự thể hiện thành công ở truyện “Những
đứa con trong gia đình” . Truyện viết năm 1966 , lúc Bến Tre đã
đồng khởi , nhân dân miền Nam đã cầm vũ khí đánh lại Mỹ-Nhật
giải phóng quê hương . Trong tác phẩm , Chiến và Việt lớn lên trong
cảnh tan tóc của gia đình và trong cuộc đồng khởi vĩ đại của quê nhà
.
Tác giả Nguyễn Thi đã sử dụng nghệ thuật đồng hiện trong tác
phẩm này , đây là một thủ pháp khá quen thuộc về kết cấu tác phẩm
, một yếu tố thuộc về hình thức . Như ta đã biết , kết cấu là việc tổ
chức , sắp xếp các yếu tố nội dung trong văn bản tác phẩm để nó đạt
hiệu quả nghệ thuật cao nhất . Thủ pháp đồng hiện góp vai trò quan
trọng trong công việc này . Nó là một trong những thủ pháp tạo ra
được lối kết cấu độc đáo . Từ đó , cốt truyện nhân vật , chủ đề được
thể hiện , gây hiệu quả nghệ thuật sâu sắc . Dựa vào suy nghĩ của
mình , tác giả thể hiện các sự kiện trong một thời điểm , các nhân
vật trong cả hai mảng thời gian hiện tại và quá khứ đan xen nhau
rất có hiệu quả .
Sau một cuộc giao tranh quyết liệt giũa đơn vị của Việt và một chiến
đoàn Mĩ , Việt lạc đơn vị giữa rừng đầy xác giặc , chân tay tê dại
nhức nhối , khắp người rỉ máu , miệng tê cứng không la lên được ,
sau đó ngất đi . Nhưng Việt vẫn cố bò đi và sẵn sàng chiến đấu bằng
khẩu súng của mình.Mười ngón tay không lên đạn được.Việt dùng
răng giật cơ bẩm, đưa một viên đạn lên nòng .Chi tiết này nói lên ý
chí diệt giặc của Việt rất mạnh mẽ.Trong tâm trạng thì luôn nhớ tới
chị (cùng di bắt ếch và giành phần nhiều),tới chú Năm ( thường
bênh mình và ghi sổ gia đình –đó là cuốn nhật kí,một cuốn sử nhà
đặc biệt,ghi chép những tội ác của kẻ thù,nỗi đau và thành tích của
từng người trong gia đình). Sang tới ngày thứ hai,Việt bắt đầu cảm
thấy nóng và đói ,mắt bị thương nặng, đau khắp người . Đến đây
hoàn cảnh của Việt càng gay go.Người chiến sĩ trẻ,người thương
binh đang lạc đồng đội này phát hiện mình không thấy gì . Đường
tìm về với đồng đội càng khó khăn gấp bội . Dù vậy ,anh vẫn sẵn
sàng nổ súng với một ngón cái hơi nhúc nhích do chín ngón còn lại
đã bị thương .Tâm trí thì nhớ về ngày tòng quân ,nhớ ngày theo má
đi đòi đầu ba,nhớ má tần tảo lo nuôi các con và dò bọn lính ,nhớ tới
cái chết tức tưởi của má .Trong hoàn cảnh hiểm nghèo , Việt không
sợ chết mà (chỉ sợ không còn gặp được đồng đội,không còn được
cầm súng)mà hướng về ba má,nhớ đến cái chết đau thương của ba
má .Khi về đêm thì Việt cảm thấy kiệt sức hoàn toàn,cảm thấy
không còn bò được nữa,cảm giác sờ sợ cái vắng lặng ,lạnh lẽo của
đêm tối.Lúc này tâm trạng Việt luôn hướng về đồng đội , điều đó rất
hợp lí vì Việt đã nghe thấy tiếng súng,tiếng kèn xung phong của ta
và đang cảm thấy cuộc chiến đấu bùng ra .Do đó,Việt lại bò được
một đoạn ,bò về phía trận đánh,phía đồng đội,phía sự sống .
Nhưng trận đánh ở xa Việt ,cho nên tâm trí Việt lắng lại ,hồi tưởng
ngày giành đi bộ đội với chị Chiến và cảnh hai chị em bàn định việc
nhà trước khi lên đường gia nhập ngũ.Cảm động nhất là khi hai chị
em bàn và gửi bàn thờ má: đối với hai chị em dường đó là việc hệ
trọng nhất .Nghĩ gì thì cuối cùng cũng vẫn đọng lại suy nghĩ về
má.Hai chị em lo cúng má trước khi dời bàn thờ (càng cảm động
hôn khi hai người lo làm cơm cúng má trong tiếng hò như vỡ ra
,nhắn nhủ,tha thiết rồi ngắt lại như một lời thề dữ dội của chú
Năm).Và đối với hai chị em,dường như má vẫn còn sống(thoạt đầu
Việt tin má đã về ngồi đâu đó thật,cuối cùng lúc khiêng bàn thờ,tác
giả đã nương theo ý nghĩ của nhân vật, để hai chị em đóng vai trò kể
chuyện -trước đó trác giả đứng ra kể chuyện-mà dùng các từ ngữ
“đưa má sang ở tạm nhà chú”,”khiêng má”- chứ không phải khiêng
bàn thờ-rồi đến cái ngày độc lập lại “đưa má về”.Cũng qua cảm
nghĩ của hai chị em và của riêng Việt ở đoạn này (chúng con đi đánh
giặc trả thù cho ba má …Việt thấy thương cho chị.Còn mối thù
thằng Mỹ nó đang đè nặng trên vai…)ta thấy hai nhân vật trẻ này
nhập ngũ không phải vì ý thích nông nổi mà do chiều sâu nhận
thức:di đánh giặc vì căm thù và yêu thương sâu nặng .Việt đã nhìn
lại quá khứ bằng con mắt của ý chí ,của tâm tưởng.Qua đó nhân vật
bộc lộ nghị lực, ý chí,tinh thần chiến đấu cao và tình yêu thương
đậm đà,hồn nhiên.Tuy Việt hay tranh giành với chị nhưng biết nghe
lời chị(lúc hai chị em bàn việc nhà),thương chị.Nhân vật này cũng
thể hiện nét hồn nhiên trẻ trung,thậm chí còn tính trẻ con (chi tiết
cái ná thun theo Việt đi chiến đấu,không muốn mất chị…).Chính
tình chị em,chú cháu,má con, đồng đội đã tiếp sức cho Việt vượt qua
thử thách khắc nghiệt .
Sang tới ngày thứ ba ,Việt được tìm thấy và đưa về quân viện.Anh
có thời gian trị vết thương, đồng thời cũng có cả thời gian để mà ôn
lại,nhớ lại. Ở quân y viện “hai con mắt băng kín mít” dấu tích của
người lính dũng cảm.Việt “với cây bút chì…mò mò viết thư”.Anh
không dám nhờ người khác viết thư cho chị.Anh sợ cái tiếng “cậu
Tư”.Sợ mất chị Ba quyết chiến.Anh “giấu chị như giấu của riêng
vậy”.Thật là ngây thơ.Cái ngây thơ đáng yêu của một người lính
trẻ ,dũng cảm thật đấy,mà cũng khờ khạo trước cuộc đời.Ngay cả
chuyện đùa vui của anh em theo tếu táo của lính anh cũng tưởng là
chuyện thật.
Trên chiến trường ngổn nang xác giặc,Việt ngất đi rồi tỉnh lại nhiều
lần dù đã kiệt sức,người lính trẻ ấy vẫn sẵn sàng chiến đấu tiếp nếu
kẻ thù xuất hiện.Thế ma2khi nghe “ếch nhái kêu dậy lên”,Việt bỗng
trở thành chú bé con có “hai cái đèn soi,lóp ngóp đi”cùng
chị .”Chiến và Việt ai cũng giành phần nhiều là của mình”,phải nhờ
chú Năm “đứng ra phân xử”.Ngay cả lúc nhập ngũ,hai chị em cũng
không ai chịu nhường ai đi trước ,chú Năm phải đứng ra “xin trên
cứ ghi tên cho cả hai”
Qua một vài điều nói trên ,ta thấy thủ pháp nghệ thuật đồng hiện
trong khắc hoạ nhân vật Việt,chủ yếu dựa trên cơ sở của phép liên
tưởng ,phép bắc cầu từ sự kiện này sang sự kiện khác,từ chi
tiết,nhân vật này sang chi tiết nhân vật kia…Trong sự liên kết
đó,dòng hồi tưởng của nhân vật vẫn là sợi dây nối quan trọng
nhất.Từ chi tiết anh em trong quân y viện họi anh là cậu Tư , Việt
chợt nhớ tới chị Chiến,nhớ tới tiểu đội trưởng Tánh .Anh muốn viết
thư cho chị nhưng khó có thể viết được vì hai mắt còn bị băng
kín.Thế là Việt nhớ lại lần chị bị trúng bom,nhớ lại trận đánh của
chính mình…Việt nhớ lại trong trận đánh,anh đã ngất đi,tỉnh lại
,bỗng nghe thấy tiếng ếch và cùng lúc đó,tuổi thơ,những ngày xa xưa
uất hận cùng ùa về trong trí nhớ…Các tình tiết truyện diễn ra rất tự
nhiên.Thủ pháp nghệ thuật này ta đã gặp ở truyện “Đôi mắt”của
Nam Cao . Ở đó,câu chuyện cũng diễn ra trong hồi tưởng của nhân
vật Hộ.Khác chăng là Nam Cao để Hộ xưng “Tôi” và tự kể.Còn ở
đây,Nguyễn Thi trực tiếp miêu tả tâm trạng Việt . ông vừa miêu tả
diễn biến tâm trạng nhân vật vừa mượn tâm trạng ấy nói lên câu
cuyện mình muốn kể . Đây cũng là một lối kể chuyện độc đáo.
Vẫn bằng cách trên,theo lời độc thoại của nhân vật Việt,tác giả lần
lượt giớ thiệu và đồng hiện các nhân vật Chiến,chú Nam,ba má
Việt,Tánh…Cũng như Việt,Chiến tòng quân ra chiến đấu trong một
tiểu đội bộ đội nữ địa phương .Chị đã chiến đấu dũng cảm,coi cái
chết cũng chỉ như “chết giấc”, “như ta ngủ vậy’.Chiến chỉ khác ở
Việt ở chỗ là người chị cả trong gia đình nên sớm trưởng thành ,biết
lo toan,tính toán già dặn hơn lứa tuổi 20 :cô gái 20 xuân này đóng
vai trò một người chị với lòng yêu thương ,nhường nhịn ;một người
má với nỗi lo tính khôn ngoan mọi mặt ;một người chiến sĩ với tâm
hôn khát khao chiến đấu,trả thù.Có tinh thần quyết chiến cao như
tên của cô “Quyết Chiến”.Câu nói điển hình của cô với em : “Nếu
giặc còn thì tao mất” –và cô đã trở thành tiểu đội trưởng quân địa
phương.Chiến có nhiều nét giống mẹ cô (từ tính tình đến lời
nói),giống như những người thời chiến phải đương đầu với hoàn
cảnh thương đau quyết liệt .Chiến mang hình ảnh của má trong
mình nhưng lại khác hơn vì cô đã vươn lên được mạnh mẽ với khẩu
súng trong tay.
Chú Năm cũng chỉ là một nhân vật thoáng qua trong dòng tâm
tưởng,gợi lên từ một tiếng ếch trên chiến trận đã im tiếng súng …
Mỗi lần Việt và Chiến soi ếch về ,chú đều “kiếm con trọng trọng
đem về nhậu”.Có hai đoạn văn đẹp như thơ tả đoạn chú Năm “nhậu
vào ba hột là chú nói tới”hay “hò lên mấy câu”.Câu hò khiến chú
xúc động “đôi mắt mở to, đọng nước”. Đoạn văn khi kể về cuốn sổ
gia đình chú ghi,hầu để câu này “giao…chị em cất”.Cuốn sổ lần về
quá khứ,lẫn trong hiện tại ,không theo năm tháng. Đó là chứng tích
lịch sử được khơi dậy lại ,chép lại bởi cái nhìn đa cảm ,cái yêu,cái
ghét của một tư cách Nam Bộ trọng nghĩa ,bộc trực sôi nổi,yêu đời.
Ba má Việt hiện về trong Việt như những kỷ niệm về lòng yêu
thương và căm thù .Tình yêu của ba má,con đường của ba và tội ác
của giặc khiến chị em Việt không thể lên đường cứu nước.Những
đoạn văn này Nguyễn Thi như đồng cảm với nhân vật và viết lên
bằng nước mắt . Đọc thấy xúc động cùng nhân vật, đau nỗi đau cùng
nhân vật .
Chính nghệ thuật đồng hiện làm cho câu chuyện thảm khốc và hào
hùng , đậm đà tính người …tưởng như chập chờn , đứt nối rời rạc…
liền lại trong mạch nguồn tâm tưởng khá chặt chẽ .Chặt chẽ nhưng
vẫn giữ được cái vẻ bề bộn của tầng tầng lớp lớp chi tiết trong cuộc
sống thường và trong chiến trạn hồi chiến tranh .Các mảng sự
kiện ,những đoạn đời trong quá khứ và hiện tại như được cố tình
đan chéo vào nhau,bổ sung cho nhau một cách hợp lý,làm cho tính
cách nhân vật được khắc hoạ rõ nét và chủ đề truyện được bọc lộ
khá nổi bật.Lối kết cấu đặc biệt này buộc tác giả phải đi đến tận
cùng trong việc phân tích và diễn đạt diễn biến phức tạp nhưng tinh
tế của tâm lý nhân vật.Nó cũng đòi hỏi nhà văn phải nhập thân như
người trong cuộc ,am hiểu và đồng cảm với nhân vật.Tất cả các điều
này,Nguyễn Thi đều vượt qua và thể hiện rất thành công .
Truyện tái hiện hiện thực nóng bỏng của vùng quê rất đỗi thân
thương với những người con chân chất hồn nhiên mang quyết tâm
cao độ cầm súng trả thù nhà nợ nước,giành lại cuộc sống.Qua các
nhân vật ta thấy sức mạnh truyền thống đấu tranh của gia đình ,quê
hương,xứ xở. Đồng thời mỗi người lại góp một “khúc sông”xứng
đáng vào con sông gia đình kiên cường,tất cả đổ vào ,tạo ra biển cả
truyền thống dân tộc.
ĐỀ 6: BI KỊCH HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT CUA LƯU
QUANG VŨ
A.MỞ BÀI
Trong làng kịch nói Việt Nam, có lẽ ai cũng biết đến Lưu Quang Vũ
- một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm tám
mươi của thế kỉ XX. Tuy có tài ở nhiều lĩnh vực như viết truyện
ngắn, soạn kịch, làm thơ, vẽ tranh nhưng ông được xem là một
trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ
thuật Việt nam hiện đại. Trong các vở kịch của Lưu Quang Vũ, đáng
chú ý nhất là vở "Hồn Trương Ba, da hàng thịt". Bằng nghệ thuật
xây dựng nội tâm độc đáo, cảnh VII, đoạn cuối vở kịch đem đến cho
người đọc nhiều vấn đề tư tưởng sâu sắc qua nhân vật Trương Ba
trong thân xác anh hàng thịt.
B. THÂN BÀI
Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch được Lưu Quang Vũ viết
năm 1981, công diễn lần đầu tiên năm 1984, sau đó được diễn lại
nhiều lần trong và ngoài nước. Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang
Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch nói hiện đại và lồng vào đó
nhiều triết lí nhân văn về cuộc đời và con người. Trong tác phẩm,
Trương Ba là một ông lão gần sáu mươi, thích trồng vườn, yêu cái
đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc trách của Nam
Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba chết oan. Theo lời khuyên của
"tiên cờ" Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu "sửa sai" bằng cách cho hồn
Trương Ba được tiếp tục sống trong thân xác của anh hàng thịt mới
chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương Ba và một nghịch cảnh
khi linh hồn mình phải trú nhờ vào người khác. Do phải sống tạm
bợ, lệ thuộc, Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất
trong sạch, ngay thẳng của mình. Ý thức được điều đó, Trương Ba
dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác
thịt. Qua các cuộc đối thoại của Trương Ba, tác giả dần tạo nên một
mạch truyện dẫn dắt người xem hiểu sâu hơn về Trương Ba
1. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt: Có thể nói
Trương Ba đã chết một cách vô lí, ai cũng biết cái chết của Trương
Ba là do sự vô tâm và tắc trách của Nam Tào. Nhưng sự sửa sai của