Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Thơ Haiku Matsuo Basho

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.66 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HUẾ
KHOA NGỮ VĂN
------**------

BÀI TẬP THUYẾT TRÌNH
THƠ HAIKU
SỰ ĐĨNG GĨP CỦA MATSOU BASHO

Giảng viên giảng dạy:
Học phần:
Nhóm sinh viên thực hiện:

Huế, 2024

1

Nguyễn Thị Tịnh Thy
Văn Học Châu Á
Lê Bá Khánh Duy
Trần Thị Ngọc Chi
Nguyễn Thanh Bình
Lê Phan Lam Duyên
Trần Phương Du
Đinh Thị Bim
Nguyễn Vân Anh
Nguyễn Thanh An
Hồ Thị Ngọc Anh



CHƯƠNG 1 : QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THƠ HAIKU


1.

Thơ Haiku cổ điển

Thơ Haiku bắt đầu hình thành vào thế kỉ XVI, sau khoảng một thế kỉ thì đạt đến đỉnh cao với
Matsuo Basho và sau đó là Yosa Buson, Kobayashi Issa, Masaoka Shiki,… Trong đó Matsuo
Basho – nhà khai sáng thơ Haiku, khi ra đi đã để lại hơn 1000 bài thơ sau khi thực hiện nhiều
chuyến du hành khắp đất nước. Nhờ sự sáng tạo của ông, thơ Haiku từ một thể thơ tầm thường
cũng trở nên rất tao nhã, mang đầy triết lý sâu sắc về cảm xúc đối với thiên nhiên hiền hòa và
nỗi bi ai, cơ đơn của con người.Ơng đã tiếp cận và đưa thơ Haiku lên một tầm cao mới nhưng
vẫn luôn giữ những giá trị tao nhã, tinh tế của thơ Waka truyền thống.Chính vì vậy mà ơng là
cột mốc quan trọng khi nhắc đến sự phát triển của dòng thơ Haiku trong nghiên cứu.
1.1. Thơ Haiku trước khi có sự đóng góp của Basho:
Nếu thơ Haiku được dựng lên bởi ba dòng thơ theo thứ tự gồm 5 âm tiết – 7 âm tiết – 5 âm tiết,
trước đó tại Nhật Bản, thể loại thơ Waka (和歌 – Hịa ca) cũng có những hình thức tương tự.
Thơ Waka gồm những bài ca dân gian về thần thoại được dùng trong các buổi tụ họp, tế lễ, cầu
mùa hay dâng cúng thần linh,… Người Nhật cổsáng tác Waka để biểu diễn ở nơi cơng cộng
hay với mục đích giáo dục nhưng cũng có lúc họ sáng tác Waka một cách ngẫu hứng khi cảm
xúc dâng trào. Đặc biệt, về cấu trúc thơ Waka, có thể chia thành bốn loại đó là: Katauta (Phiến
ca với ba dịng thơ với 5-7-5 âm hay 5-7-7 âm), Sedoka (Là cặp thơ Katauta), Choka (Trường
ca, độ dài không ấn định nhưng phải bao gồm các khổ thơ 5-7-7 âm và 5-7-5 âm luân phiên
nhau) và cuối cùng là Tanka (Đoản ca bao gồm 5-7-5-7-7 âm).
Ngay từ thuở bình minh của các bộ tộc Nhật Bản, những cội rễ của nền văn học đã có từ thời
tối cổ, và những kiệt tác thành văn đầu tiên có thể được xác định vào thế kỉ VII hoặc thậm chí
là sớm hơn. Vào thời kì Nara (710 – 784), hai bộ sử cổ nhất của Nhật Bản ra đời, Kojiki (Cổ sự
kí, 710) và Nihon shoki (Nhật Bản thư ký, 720) đã ghi chép lại rất nhiều bài thơ Waka. Kể từ
khi hệ chữ Kana ra đời, văn học viết Nhật Bản đạt đến đỉnh cao khi hợp tuyến các thi ca, đầu
tiên là phải để cập đến tập thơ Manyoshu (Vạn Diệp Tập, 771): “Manyoshu gồm 20 quyển với
4500 bài thơ waka, trong đó có khoảng 4207 bài thể loại tanka, 265 bài choka, 62 bài sedoka.
Thơ waka trong Manyoshu là những bài ca trữ tình, mộc mạc về tình yêu con người, thiên

nhiên hùng vĩ.” Các tác giả trong Manyoshu bao gồm nhiều địa vị khác nhau từ Thiên hoàng
đến thị dân, từ quý tộc đến cả nơng dân hoặc thậm chí có cả ăn mày và khuyết danh đã đóng
góp khơng ít trong việc làm giàu Văn học của nước nhà, giúp cho dòng thơ Waka phát triển
mạnh. Đến thời đại Heian (794 – 1192), thơ Waka vẫn tiếp tục phát triển nhưng chỉ chủ yếu
nằm ở thể loại Tanka nhờ vào sự ra đời của tập thơ mang cả phong cách cổ điển và hiện đại là
Kokinshu (Cổ kim tập) bao gồm những mẩu thơ Tanka viết về vẻ đẹp của thiên nhiên, vay
mượn vẻ đẹp của thiên nhiên như cách “tả cảnh ngụ tình” và về sau, đặc điểm này trở thành
đặc trưng tiêu biểu của thi ca Nhật Bản. Đó cũng là cơ sở để hình thành nên thơ Renga với 31
âm tiết 5-7-5-7-7 ra đời như một thú vui tao nhã cho giới quý tộc. Thơ Renga là thể thơ liên
hoàn bao gồm các bài thơ Tanka nhưng do nhiều nhà thơ sáng tác nối tiếp nhau mà theo
nghiên cứu của TS. Nguyễn Vũ Quỳnh Như, cấu trúc của một bài thơ Renga gồm hai phần:


Kami no ku 上の句 の句 句 ( thượng cú ) gồm 17 âm tiết 5-7-5 âm:
雪 ながら
山 も と 霞むむ
ユベ かな
(宗祇)

Yuki nagara
Yama mo to kasumi
Yube kana
( sogi, 1421 – 1502 )

Tuyết rơi rơi
Chân núi mờ sương
Ánh chiều tà

Shimmo no ku 下の句 の句 句 (hạ cú) gồm 14 âm tiết 7-7 âm :
行く 水 遠くく

Yuku mizu toku
Xa xa bên dịng nước
ume niou sato
Hương mơ q tơi.
梅匂う里里
(Shohaku,1443-1527)
(肖柏)
Qua đó, khoảng giữa thế kỉ XIII, ba câu đầu của thơ Renga (thượng cú) – một thể thơ 17 âm
tiết được định hình với tên gọi Hokku mà sau này được gọi là thơ Haiku.
Từ lúc vừa hình thành, thơ Haiku có nhiều phong cách khác nhau nhưng ẩn mình dưới nhiều
thể loại thơ ca khác. Đến cuối thế kỉ XVII, với sự xuất hiện của Basho, thơ Haiku lúc đầu là
một thể thơ thiên về tính trào lộng nay đã được thổi thêm tính tao nhã, đánh dấu bước tiến phát
triển mới thành một thể thơ Haiku độc lập.
1.2. Thơ Haiku vào thời Basho:
Nhà thơ Matsuo Basho với tham vọng trở thành thầy dạy thơ Haiku, ông đã thực hiện nhiều
chuyến du hành khắp đất nước của mình để tìm ra những đề tài, phong cách mới cho thơ
Haiku.“Những dấu ấn của hành trình phiêu lãng, được Basho ghi lại vào những tuyển tập kỷ
hành. Ngay cả khi đối diện với lằn ranh giữa sự sống và cái chết, hồn thơ Basho vẫn khát
khao một chuyến phiêu lưu mới.”
Qua các chuyến du hành của mình, Basho đã để lại cho nền văn học Nhật Bản hàng loạt tác
phẩm ghi lại phong cảnh trên mỗi chặng đường, những trải nghiệm và sự trưởng thành trong
phong cách thi ca của mình như các tác phẩm: Fuyu no hi (Ngày đông, 1684), Haru no hi
(Ngày xuân, 1686), Saga nikki (Nhật ký Saga, 1691),…
Trong đó, tuyển tập đầu tiên Fuyu no hi (Ngày đông) được tác giả Makoto Ueda nhận xét:
“Phong cách của Basho đã bớt mơ phạm về từ ngữ, nhiều tính trữ tình hơn.”
1.3. Thơ Haiku sau thời Basho:
Từ giữa giai đoạn trung kì Edo, tức sau thời kì Basho, thơ Haiku vẫn tiếp tục phát triển rộng
rãi. Số người đọc và sáng tác thơ Haiku ngày càng tăng, đặc biệt là sự tham gia của các thi sĩ
nữ như Tagami Kikusha hay Kaga no Chiyojo với những vần thơ giản dị, tính khiết, dun
dáng và nữ tính,… Ngồi ra cịn có một số tác giả nổi bật khác như nhà thơ Haiku duy mỹ

Yosa Buson, nhà thơ cảm thương và trào lộng Kobayashi Issa, người cách tân thơ Haiku
Masaoka Shiki.
2. Thơ Haiku hiện đại:
2.1. Masaoka Shiki: Người cách tân thơ Haiku
Masaoka Shiki (1867-1902) tên thật là Masaoka Tsunenori ( 正岡常規 ), sinh tại thành phố
Matsuyama tỉnh Iyo (nay là tỉnh Ehime) một năm trước khi Nhật Bản bước vào kỷ nguyên


Minh Trị Duy Tân (1868-1912).
Masaoka Shiki là một trong bốn đại thụ của thơ Haiku Nhật Bản trước thời hiện đại
(Matsuo Basho, Yosa Buson, Kobayashi Issa, Masaoka Shiki). Shiki được xem như lá cờ tiên
phong trong công cuộc cách tân thơ Haiku ở thời cận đại.
Vào nửa đầu thời Duy Tân Minh trị thơ Haiku phổ biến với vai trò như một trò tiêu khiển
phù phiếm, phai mòn về giá trị. Thơ Haiku chịu sự khép kín với thế giới bên ngoài, hạn chế về
đề tài cũng như chất liệu sáng tác.
Khi mới học thơ Haiku ở Tokyo, Shiki chịu nhiều ảnh hưởng của lệ tsukinami (mỗi tháng
họp một lần). Theo Janie Beichman nhận xét: “So sánh những bài thơ Shiki viết trong khoảng
thời gian 1892-1895 - khi phong cách viết thơ của ơng phát triển đến độ chín muồi, với những
bài thơ ông sáng tác vào đầu những năm 1880 – là lúc ông chỉ biết đến kiểu viết thơ haiku theo
lệ tsukinami, sẽ thấy rõ điều này.”
“ki wo tsumite
yono akeyasuki
Komado kana
(Masaoka Shiki)

Cắt tỉa cây
Ánh hừng đông
Len vào ô cửa nhỏ.”

Đây là một trong những bài thơ đầu tay của Shiki viết vào năm 1885 nhưng sau đó chính ơng

lại đả phá nó vì viết theo lối cũ tsukinami, ông cho rằng nó đưa người đọc theo logic chủ quan.
Sau 10 rồi 20 năm thời kỳ Meiji trôi qua, khi thơ Haiku càng lúc rơi vào thoái trào nặng nề.
Nhận ra thực trạng đó và muốn thốt khỏi lối viết tsukinami, Shiki tìm kiếm lối viết thơ tao
nhã, trau chuốt hơn, bớt sáo mòn theo lối tả thực chủ quan của người viết. Đến năm 1892, thơ
Haiku của Shiki bước sang một thế giới khác.
Vì sức khoẻ kém, cũng vào năm 1892, Shiki nghỉ học, dốc sức vào văn chương, viết truyện và
tuyển chọn thơ Haiku, đó cũng là bước chuẩn bị cho Haiku Bunrui (phân loại tuyền tập Haiku,
1900) ra đời. Đây chính là ngã rẽ đưa Shiki đến với phong trào cách tân, nâng cao chất lượng
thơ Haiku. Sau này, Shiki viết về quãng thời gian này rằng: “Thi cử chắng có ích gì, chỉ có
niềm say mê với thơ ca, chắng có gì có thể cứu vãn được tơi ngồi nữ thần haiku.”
Tháng 2 năm 1893, trong Zatsudan Basho (Chuyện phiếm Basho) đăng trên báo Nippon, Shiki
lên tiếng chuyển tên từ Hokku sang Haiku, kêu gọi nâng cao giá trị của thơ Haiku, xóa bỏ lối
viết thơ Haiku theo kiểu sáo rỗng, và đưa ra yêu cầu nâng cao tính thẩm mĩ cho thơ Haiku:
“Haiku trở thành một bộ phận của văn học.Văn học trở thành một bộ phận của mỹ thuật. Kết
quả là tiêu chuẩn cái đẹp trở thành tiêu chuẩn của văn học. Tiêu chuẩn của văn học trở thành
tiểu chuẩn của haiku.”
Không phải đơn thuần là sự chuyển đổi tên gọi, ông cho rằng khi Haiku trở thành thể thơ độc
lập thì nó cần sự giải phóng và hồn thiện.
Từ năm 1892, Shiki cùng các đồng mơn của mình là Kawahigashi Hekigodo,Takahama,
Kyoshi, Naito Meisetsu - tự gọi là phái Nhật Bản đã lên tiếng nâng cao vị trí văn học của thơ
Haiku. Các tuyển tập thơ Haiku cách tân và các tờ báo kêu gọi cách tân thơ Haiku như Nippon
(Nhật Bản) (1892), báo Sho-Nippon (Tiểu Nhật Bản, thay cho Nippon bị đóng cửa vào 1894)


được ra đời. Năm 1895, nhóm của Shiki thành lập trường dạy thơ Haiku Nippon (Haiku Nhật
Bản), xuất bản nhiều tờ báo, ấn phẩm như nguyệt san Hototogisu (Chim quyên, 1897), Tuyển
tập haiku (1897), Tuyển tập Shin-haiku (Thơ haikư mới, 1988) gồm 5000 bài thơ của hơn 600
nhà thơ do Shiki đồng chủ biên.
Tờ báo do Shiki làm chủ biên có cả hàng trăm tác giả với hàng ngàn bài thơ được gửi đến và
lưu hành ở nhiều địa phương, điều đó cho thấy sự phát triển thơ Haiku mạnh mẽ trong quần

chúng. Không chỉ là số lượng mà chất lượng được nâng cao, lên tiếng chống đối sự kinh điển,
sáo mòn. Đây là thành tựu giá trị nhất của thơ Haiku mà xưa kia chưa từng có.
“kaki kueba
Ăn quả hồng
kane ga naru nari
chuông Pháp Long tự
Houryuji
ngân vang.”
(Masaoka Shiki)
Bài thơ này được coi là tác phẩm thành công đầu tiên trong quá trình cách tân thơ Haiku, thể
hiện sự kết nối giữa hiện thực với ký ức, hồi tưởng về tiếng chuông chùa ở Houryuji (Pháp
Long tự). Cho đến ngày nay nó vẫn được đánh giá là bài thơ hay nhất của Shiki và được trích
dẫn trong hầu hết các trường phổ thông trung học Nhật Bản.
Cách tân thơ Haiku theo phương pháp luận shasei của Shiki dựa vào quan sát hiện thực của tự
nhiên hơn là sự chơi chữ hoặc tưởng tượng. Với Shiki, chất liệu làm thơ là chính từ những gì ở
ngay trước mặt. Theo Shiki, Haiku khơng đơn giản chỉ là bài thơ mang tính tả thực mà cũng
không phải chỉ là không tưởng, mà trên quan điểm “Phi không phi thực” vượt qua cả ngưỡng
tả thực để chạm đến thực tại của vũ trụ.
“Hãy lấy tư liệu từ chính những gì đang ở xung quanh bạn nếu bạn thấy cây bồ cơng anh, thì
hãy viết về bồ cơng anh. Nếu đó là sương mù thì cứ viết về sương mù. Tư liệu cho văn chương
là vơ số những gì thuộc về bạn. Ngay cả đơi giày cũ (waraji) cũng có thể trở thành tư liệu cho
thơ văn cịn hay hơn là viết về đơi giày của phương Tây. Hoặc kimono còn thi vi hơn là cây dù
của phương Tây.”
Để cách tân thơ Haiku, Shiki đã không ngại phê phán sự hạn chế của việc giới hạn âm từ của
thơ Haiku, sự hạn định đó ơng cho rằng sẽ sớm thoái trào. Bước vào thời kỳ hiện đại cấu trúc
nguyên thuỷ trước đây của Haiku bắt đầu lung lay và tan vỡ khi các nhà cách tân mạnh mẽ lên
tiếng cho luật tự do vần điệu.
Cách tân của Shiki đã góp phần đưa Haiku trở nên theo kịp thời đại, hoà nhập với khu vực và
thế giới. Từ đó mà Shiki khẳng định được vai trị của thơ Haiku trong Văn học, vươn lên đứng
ngang hàng với các thể loại khác như tiểu thuyết hay kịch nghệ. Tuy với chỉ 35 tuổi đời ngắn

ngủi Shiki đã để lại một sự nghiệp văn học đáng kể với Shiki toàn tập gồm 22 quyển. Và tư
tưởng cách tân thơ Haiku của ơng cịn được hai người bạn là Takahama Kyoshi và
Kawahigashi Hekigodo tiếp bước.
2.2. Thơ Haiku sau năm 1945 đến thập niên 1980:
Sau kết thúc của Chiến tranh thế giới thứ hai, cả thế giới đều phải kinh ngạc về “phép lạ Đông
Á” khi kinh tế Nhật Bản liên tục tăng trưởng (hơn 10%/năm) từ thập niên 1950 đến thập niên
1980, điều này đã đưa Nhật Bản từ một nước nghèo nàn sau thế chiến trở thành quốc gia phồn


vinh đứng thứ hai trên thế giới.
Văn học Nhật Bản nói chung và thơ Haiku nói riêng cũng khơng nằm ngoài sự phát triển thần
kỳ này. Ngay ở những năm đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các nhà thơ Nhật Bản quyết
tâm vực lại nền thơ Haiku đã bị chôn vùi trong thời chiến.“Với tinh thần một mặt nuôi dưỡng
sự sống bằng tinh truyền thống, một mặt phát triển với những nét cách tân ấy, thơ haiku được
hồi sinh vừa thủy chung với cổ điển, vừa mới mẻ sáng tạo với các độ đậm nhạt khác nhau.”
Sau thế chiến, chỉ từ năm 1945 đến 1946 có đến 300 tờ báo thi ca các loại được xuất bản. Cũng
chỉ một năm sau chiến tranh, vào tháng 5 năm 1946, Liên minh các nhà thơ Haiku mới ra đời
với các thành viên từng tham gia các cuộc vận động cách tân thơ Haiku từ thời kỳ chiến tranh.
Chủ trương, mục đích khi thành lập của Liên minh là trở thành một tổ chức thơ Haiku hiện đại.
Tháng 6 năm 1947, một số nhà thơ, nhà văn trong đó có Ishida Hakkyo (1913- 1969), Saito
Sanki (1900-1962) và các cộng sự đã đứng ra kêu gọi thành lập Hiệp hội thơ Haiku hiện đại
(GendaiHailar Kyokai). Tiêu chí của Hiệp hội là tập hợp các nhà thơ Haiku xuất sắc, tuyển
chọn kỹ lưỡng các thành viên gia nhập. Sáng lập viên của Hiệp hội gồm các nhà thơ đa số đều
có tuổi đời dưới 50 tuổi. Việc gia nhập Hiệp hội cũng là vấn để khó khǎn vì phí tham gia hội là
20 Yên, một số tiển không hề nhỏ vào thời bấy giờ.
Thành quả này là minh chứng cho thấy trào lưu thơ Haiku đang trỗi dậy nhờ sự xuất hiện của
các thi sĩ thơ Haiku xuất sắc với các tác phẩm đạt đỉnh cao. Mizuhara (1892-1981) đã viết
rằng: “Sau chiến tranh, ta đau cả tâm hồn lẫn thể xác, mỗi ngày trơi qua mà chẳng làm gì được,
nhưng cứ mùa thu đến, ta lại bắt đầu có thể ngâm được câu cú. ”
Sau thế chiến, dòng thơ Haiku trong xã hội phát triển đem lại cái nhìn cá thể hố, bản chất của

cái tôi được lấy làm cảm hứng sáng tác. Khơng chỉ có cái “tơi”, mà cái “ta” cũng được nói đến.
Thơ Haiku sau thế chiến là cuộc cách tân mang tính đột phá về thi pháp và nội dung. Dung
nhan mới của thơ Haiku đã khẳng định giá trị tồn tại và sức lơi cuốn của nó đối với giới thơ ca
thời hiện đại. Tất nhiên, thơ Haiku cách tân, khơng có nghĩa là phải thay đổi, phủi sạch sự liên
hệ với cái cũ, mà luôn thể hiện sự kế thừa, kết hợp nhuần nhuyễn giữa cái truyền thống và cái
hiện đại.
“kuni no densha
ima mo nishibi ni
kashira furu
(Hirahata Seito) (1949)

Xe điện quê tôi
chiều về hướng tây
đầu xe rung lắc.”

“Không rõ chiếc xe điện đang chạy đến địa phương nào ở miền Tây Nhật Bản, mà đầu xe lại
lắc rung nhiều như vậy. Chắc hẳn đường đi của tuyến xe chưa được hồn thiện nên cịn các ‘ổ
gà’ ?” Bài thơ mang nhiều ý nghĩa, một trong đó là ẩn ý về một Nhật Bản đổi mới, cịn nhiều
chơng gai và những thử thách cho nên: “đầu xe rung lắc”.
Một bài thơ khác cũng nói về bối cảnh thời kỳ hậu chiến và đổi mới của Nhật Bản:
“wankyokuku shi

Ngoằn nghèo


kashou shi bakushinchi no
marason
(Kaneko Tota, 1958)

Vết thương cháy xém

Đường marathon”

Đây là một bài thơ nổi tiếng thời hậu chiến, được viết tại Nagasaki. Năm 1950, bài thơ nhận
đuợc giải thưởng Hiệp hội thơ Haiku hiện đại. Con đường thẳng tắp chạy marathon là nơi đã
từng xảy ra thảm họa ném bom ngun tử kinh hồng ở Nagasaki. Bài thơ khơng theo lối ngắt
nhịp cũ, cũng không theo vần 5-7-5 (mà viết theo cấu trúc 5-10-4) truyền thống nhưng câu cú
chắc chắn, trầm buồn như khắc hoạ nỗi đau ấy trong lòng người dân Nhật Bản.
Thật ra, phá vỡ những yếu tố kinh điển của thơ Haiku không phải vào thời kỳ này mới xuất
hiện, mà đã manh nha từ thời kỳ Matsuo Basho. Vào Minh Trị Duy Tân thì thành trào lưu và
sau thế chiến hai thì trở nên quen thuộc và nhuần nhuyễn. Đi từ tiền thế chiến sang hậu thế
chiến, thơ Haiku tự do tự tại đầy sức sống, như sự kết tinh từ truyền thống với hiện đại. Với ưu
điểm thức thời tiếp tục phát triển, không bị phai mờ với thời cuộc như lời nhắc nhở của Ôno
Rinka - Chủ tịch Hiệp hội các nhà thơ Haiku năm 1953: “Chúng ta không được quên rằng thơ
haiku hiện đang tồn tại như chính nó. Hãy góp thêm viên đá vào ngọn núi truyền thống sẽ làm
cho ngọn núi cao hơn.”
Sự quyết tâm cùng với lòng tin vững vàng của các nhà thơ Haiku thời kỳ hậu chiến đã khoác
lên cho thể loại thơ này một tấm áo mới vừa mới lạ lại vừa quen thuộc. Tuy nhiên, dù đổi mới
đến đâu, thơ Haiku vẫn phảng phất từ ngữ về mùa, cơ động giàu sức gợi, có khoảng trống để
cho người đọc suy ngẫm...
2.3. Thơ Haiku từ cuối thập niên 1980 cho đến nay:
Kinh tế Nhật Bản bắt đầu sụt giảm và bước vào giai đoạn thoái trào ở cuối những năm
1980 đến cuối thập niên 1980. Sau “thập niên mất mát” đó, Nhật ln cố gắng để tình trạng
suy thối khơng ảnh hưởng nghiêm trọng vào xã hội cho đến ngày nay.
Nhận thấy được giá trị to lớn của thơ Haiku trong nền tảng đời sống văn học, Nhật Bản đã luôn
chú trọng đến việc phổ biến và giáo dục thơ Haiku. Chứng tỏ Nhật Bản một mặt ghi nhận giá
trị của thơ Haiku, mặt khác không giấu đi mà còn thừa nhận rằng: “Thơ haiku là thế giới của
thi ca, của nhà thơ, của người yêu thơ, và quả thật không nhiều người Nhật đọc thơ haiku, bởi
thơ haiku là thành quả của một thế giới khác. ”
Để thơ Haiku càng phổ biến rộng rãi hơn, đài truyền hình cịn cho phát sóng chương trình
NHK thơ haiku với nhiều đề tài phong phú từ thiên nhiên hay những thứ quen thuộc với đời

sống như xe điện, gió thu,… Để khuyến khích các nhà thơ sáng tác thơ Haiku. Đồng thời, các
hiệp hội về thể loại thơ này tiếp tục phát triển và hoạt động sôi nổi, còn tổ chức các cuộc thi về
sáng tác thơ Haiku hay những ngày lễ kỉ niệm thành lập,…
Hàng năm vào tháng 3, “Hiệp hội thơ haiku hiện đại tổ chức Cuộc thi thơ Haiku
thu hút nhiều người khắp cả nước tham gia dự thi. Trong 3 năm 2009, 2010, 2011 số
người gửi bài sáng tác thơ haiku lần lượt là 15.432, 13.323, 16.668 người. Người gửi
bài phải đóng phí dự thi từ 1000 đến 2000 Yên tùy địa phương.”
“Hiroshima e
Nón mùa hè


atsumatute kiru
natsu boushi
(Tamura Kazumi)

ào đến
Hiroshima.”

Trên đây là bài thơ được giải nhất cuộc thi sáng tác thơ Haiku toàn quốc Nhật Bản năm 2010
nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Hiệp hội nhà thơ Haiku, mơ tả hình ảnh thành phố nhộn nhịp
đơng đúc, “nón” tượng trưng cho dịng người đông đúc ào về thành phố để du lịch.
Không những thế, sự phổ biến của thơ Haiku còn được tạo điều kiện hình thành từ những thế
hệ trẻ nhỏ. Hằng năm có những cuộc thi viết thơ Haiku dành cho thiếu nhi. Dưới những ánh
mắt trong trẻo ngây ngô ấy ý nghĩa của thơ được diễn tả lại một cách trong sáng, tốt đẹp, giản
đơn hoặc có thể là cả hình ảnh buồn từ những người vơ gia cư, cảnh xung đột bạn bè,… Tất cả
những điều giản đơn ấy đều thân thuộc với cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của các em, và đều
có thể trở thành để tài của sáng tác.
“jikyu sou
Giờ tập chạy
tonbo mo issho ni

chuồn chuồn
hashitteru
chạy theo”
(Wakana Ogiso, 9 tuổi, tỉnh Gunma Nhật Bản)
Bài thơ đoạt giải kỳ thi thơ Haiku quốc tế năm 2010 ( phần dành cho Nhật Bản )
Phần nhiều những bài thơ được trao giải thưởng là viết về giới sinh vật nhỏ bé và nhiều nhất là
chuồn chuồn. Thơ Haiku góp phần xây dựng nhân cách trẻ thơ, khơi dậy khát vọng tự do, biết
sống trong sáng cao đẹp. Trong đôi mắt trong trẻo của trẻ em, cảm xúc của thơ Haiku thật đời
thường và dung dị biết bao. Viết thơ giúp các em trau dồi thêm vốn từ vựng và thoả sức sáng
tạo. Trong giảng dạy thơ Haiku cho trẻ em, sách tham khảo được đầu tư công phu và bắt mắt
hơn.
Bên cạnh đó một hình thức độc đáo hơn ra đời đó là thơ Haiku Manga, đó là những câu chuyện
dễ thương do chính các em sáng tạo, cùng với nhiều hình ảnh minh hoạ dí dỏm. Phổ biến và
nổi tiếng nhất có lẽ là tập Manga “giờ học thơ Haiku của em Chimibaruko”, với hình thức
Manga hố thơ Haiku trở nên dễ dàng phổ biến với trẻ em.
Nhật Bản đã rất khéo léo và tinh tế khi mà kết hợp hai hình thức văn học và văn hố với hai
hình thức là văn hố truyền thống dân tộc (thơ haiku) và văn hoá đương đại (Manga). “Con
thuyền văn hoá Haiku” chuyên chở những nét đẹp văn hoá Nhật, mang cả một thể loại văn học
vươn ra thế giới. Người tiếp nhận thơ Haiku khơng cịn chỉ là một câu, một bài hay một tác giả
nào mà là đang tiếp thu cả một thể loại văn học truyền thống Nhật Bản.
CHƯƠNG 2 : VAI TRÒ CỦA BASHO TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN THƠ HAIKU
1. Cuộc đời và sự nghiệp cùa nhà thơ Matsuo Basho
1.1 Cuộc đời
Matsuo Basho (松尾芭蕉, 1644–1694), thiền sư thi sĩ lỗi lạc của thời Edo, ông sinh ngày 16
tháng 12 năm 1644 trong một gia đình võ sĩ cấp thấp thời Tokugawa (1603–1868), ở thành
Ueno thuộc Iga (nay là huyện Mie), Basho lúc mới ra đời tên là Matsuo Kinsaku ( 松尾,金作)


lớn lên đổi tên thành Matsuo Munefusa (松尾宗房). Năm 9 tuổi, ông vào lâu đài Ueno làm tùy
tùng cho lãnh chúa và trở thành bạn thân của Yoshitada, một người lớn hơn ông vài tuổi và là

con của trai của lãnh chúa. Hai người đã cùng nhau vui chơi, học tập và làm thơ. Người thầy
dìu dắt Yoshitada và Basho về thơ haiku là Kitamura Kigin, nhà thơ và nhà bình thơ lừng danh
lúc bấy giờ.
Bài thơ đầu tay của Basho được sáng tác vào năm 1664, lúc đó Basho vừa 18 tuổi. Trong tập
thơ xuất bản ở Kyoto năm 1664, có hai bài của Basho và một bài của Yoshisada.
Nếu dịng đời cứ n bình trơi đi thì chắc hẳn Basho đã suốt đời an phận, lặng lẽ với thân phận
một người võ sĩ cấp dưới, thi thoảng cùng chủ quân nâng chén thưởng nguyệt trong những
ngày nhàn hạ. Ngờ đâu vận đời trớ trêu, Yoshisada chẳng may bị bệnh và mất sớm khi vừa
mới hai mươi lăm tuổi (năm 1666). Số phận trở thành một Samurai gia truyền tưởng chừng
như đã an bài đã tan vỡ theo cái chết của người chủ ấy và đồng thời để lại một vết hằn đen tối
khó quên.
Sau đó, Basho rời bỏ lâu đài xứ Iga, một nơi đầy kỉ niệm. Ông đến Kyoto, vừa để tiêu dao
những ngày tháng kinh kì nhằm khuây khỏa vừa để theo đuổi nghiệp thơ. Ông tiếp tục học cổ
văn Nhật với Kigin và ơng cịn nghiên cứu thêm cổ văn Trung Quốc với một bậc thầy khác.
Ông thường sống trong nhà Kigin hoặc là tá túc trong một đền chùa.
Tiếp đó, ơng rời kinh đơ đến Edo, thủ phủ của chế độ mạc phủ Tokugawa. Ở Edo, Basho lấy
bút hiệu là Tousei (Đào Thanh), ông ln tìm cách trau dồi thêm về thi ca, dần dần ông thu
nhận môn đệ và người ái mộ thơ Basho ngày một nhiều.
Năm 1680, Basho xuất bản tập thơ “Hai mươi bài thơ do môn đệ của Tousei sáng tác độc lập”.
Năm ba mươi bảy tuổi, giữa lúc danh tiếng của Basho đang lan rộng, nhà thơ đột nhiên quyết
định thôi dạy, dọn về sống trong túp lều tranh ở Fukugawa (Thâm Xuyên) cạnh bờ sông
Sumida. Một môn đệ khá giả là Sampu (Sam Phong) xây cho Thầy mình túp lều để làm bạn
với thiên nhiên. Basho trồng cạnh túp lều một bụi chuối do môn đệ biếu, người đời gọi túp lều
đó là Basho-an, tức Am Ba Tiêu, và chẳng bao lâu họ gọi chủ nhân của túp lều đó là Basho
Sensei (Ba Tiêu Tiên Sinh). Chủ nhân của túp lều đắc ý với tên gọi ấy nên đã lấy Basho làm
bút hiệu.
Trong khoảng thời gian này, Basho tu tập Thiền dưới sự hướng dẫn của Thiền sư Buccho (Phật
Đỉnh) ở Choukeiji (Trường Khê Tự). Năm 1682, Edo xảy ra trận hoả hoạn lớn, túp lều tranh
của Basho cũng chìm trong biển lửa , trắng tay giờ lại trắng tay, Basho trở thành kẻ không nhà.
Ý tưởng phiêu bạt chợt bùng dậy trong tâm trí ơng.

Tháng 5 năm 1683, Basho về lại Edo, môn đệ hợp sức dựng lại cho ông túp lều nhưng giấc
mộng hải hồ cứ thôi thúc ông từng ngày.
Mùa Thu năm 1684, Basho bắt đầu cuộc hành trình “gió biển mây ngàn” của mình. Ông đi đến
đền Thần Nữ Ise. Sau khi tham bái ngôi đền nổi tiếng này, ông trở về cố hương viếng mộ mẫu
thân. Chuyến hành hương kế tiếp hướng về Kashima, Basho đến thăm Thầy cũ của mình là
Thiền sư Buccho. Sau đó ơng đi ngắm hoa anh đào ở núi Yoshino.
Ngay sau chuyến đi ngắn ngày ấy, Basho lại bỏ ra một năm trời đi lang thang cùng thiên nhiên
sơng núi. Từ Edo đến bờ biển Suma. Ơng đến Sarashina để chứng kiến mùa trăng ở đỉnh


Obasute. Năm 1689, Basho cùng đệ tử Sora thực hiện chuyến đi nổi tiếng đó là: hành trình lên
miền Oku ở Đông Bắc của đảo Honshu – một vùng thuở ấy cịn hoang sơ, chưa có người khai
phá. Basho phiêu bạt gần ba năm trời, quãng đường ông đi qua hơn 2500 km. Sau chuyến hành
trình, Basho về Kyoto và cố lý sống hai năm. Năm 1691, Basho trở lại Edo với danh tiếng đạt
mức tột đỉnh.
Tâm hồn lãng tử của Basho lúc nào cũng thôi thúc ông dấn bước vào cuộc hành trình gian nan
như người đi tìm Đạo. Năm 1694, Basho thực hiện chuyến lữ hành cuối cùng đến Otsu (gần hồ
Biwa), rồi ghé qua Kyoto ở lại Rakushisha, sau đó, ơng đến Osaka. Vốn đã tiều tụy, khi ở
Osaka ông lại mắc phải chứng tiêu chảy không cách nào chữa khỏi. Trong những ngày cuối
đời, ông viết:
Tabi ni yande
Yume wa kareno wo
Kake meguru

Dang dở cuộc hành trình
Chỉ cịn mộng tơi phiêu lãng
Trên những cánh đồng hoang

Và Basho trút hơi thở cuối cùng ngày 12/10/1694, hưởng thọ 51 tuổi. Đến phút cuối cùng của
cuộc đời, ông vẫn làm thơ, vẫn chưa nguôi mộng sông hồ.

1.2. Sự nghiệp sáng tác
Những bước đường phiêu lãng, du hành khắp nơi trên đất nước là cảm hứng sáng tác gắn liền
với khối tác phẩm đồ sộ của Basho. Những trang bút kí và những bài thơ huyền bí để lại cho
hậu thế là tài sản vô giá. Sau khi nhà thơ mất, một số đệ tử đã tập hợp các bài thơ của ông
thành Basho Shichi Bushu (Ba tiêu thất bộ tập) tức là bảy tác phẩm. Những tác phẩm của
Basho để lại cho đời là:
Ngày Đông (Fuyu no hi, 1684), 5 tập, viết chung với bạn thơ .
Du kí lang thang đồng nội (Nozarashi kiko, dã sái kỷ hành, 1685).
Ngày Xuân (Haru no hi, 1686) viết chung với đồ đệ.
Nhật kí hành trình Kashima (Kashima kiko, 1687).
Ghi chép trên chiếc túi hành hương (Oi no kubun, cập chi tiểu văn, 1688).
Lối lên miền Oku (Oku no hoshomichi, áo chi tế đạo, 1689).
Áo tơi cho khỉ (sarumino, viên thoa, 1691).
2. Phong cách thơ haiku của Matsuo Basho
Haiku là một thể thơ đặc biệt ngắn gọn, xuất phát tự nhiên như tiếng nói từ tâm đối cảnh trong
khoảnh khắc của ngay lúc ấy, trong đó thời gian và khơng gian cơ đọng lại như khung cảnh
hiện thực của một bức ảnh, vì thế, thơ haiku hàm chứa nhiều nét thi vị Thiền. Matsuo Basho đã
đưa Thiền vào thơ đến mức tuyệt vời, ý thơ của ơng thanh thốt, bàng bạc những ảnh hưởng
sâu xa của đạo Phật, như thơ của một vị Thiền sư. Đó là những vần thơ cao nhã và nhàn tản u
tịch. Do ảnh hưởng của tư tưởng Thiền tông trong nhận thức cuộc sống nên thơ haiku của
Matsu Basho thể hiện những cảm thức thẩm mỹ khác nhau như là: Sabi, wabi, aware và


karumi. Từ những cảm thức này, Basho đã hình thành phong cách riêng cho mình, được gọi là
Shofu (Tiêu Phong).
2.1. Cảm thức Sabi
Sabi (Tịch) là cảm thức nổi trội của thơ haiku và thể hiện tập trung nhất tư tưởng của Thiền
Tông. Sabi là linh hồn của tịch liêu, là cảm thức về sự tĩnh mịch sâu xa của sự vật. Sabi là ý
thức mỹ học đầu tiên được phổ biến qua thơ waka của Fujiwara Shunzei (1114 - 1204) vào
cuối thời Heian và đầu thời Kamakura. Ý thức này được các nhà thơ sau đó, đặc biệt là Basho,

tiếp tục phát triển và định hình. Trên thực tế, sabi đã trở thành khái niệm căn bản trong thơ
Basho.
Cái cô tịch của sabi không phải là sự cô tịch của việc chia rẽ, tách biệt, phân li. Sabi là cô đơn
nhưng là “niềm cơ đơn huy hồng”, là cảm thức hùng tráng chứ không phải cô đơn cá nhân,
không mang tính bi lụy. Sabi là vẻ cơ tịch, trong sự soi chiếu giữa một cá thể và toàn thể, giữa
một và tất cả. Đó là sự vắng bóng của bản ngã.
Nội dung của sabi không chỉ giới hạn trong sự cơ tịch. Đó khơng phải là niềm bi thương câm
lặng, tịnh thức của bản ngã. Sabi là cảm thức của sự tĩnh mịch tuyệt đối, khi lòng người lắng
xuống tận đáy kí ức tâm hồn, hiện tại đã hóa hư vơ, sự vật nhìn thấy trước mắt mà cứ ngỡ đã
trơi về một miền vơ định.
Basho chọn cho mình cuộc đời của một lữ khách phiêu bạt khắp nơi trên đất nước Nhật Bản.
Trong những năm tháng độc hành ngao du sơn thủy, với một người có lịng hồi cổ, chắc hẳn
đã có nhiều lần ơng nhìn thấy những hình ảnh thiên nhiên bình dị trong chiều hơm hay nghe
một tiếng cuốc, một tiếng dế mà nhớ quê da diết.
Con tim khắc khoải mãi mãi đi tìm sự bình an cho tâm hồn, ơng muốn thốt đi thật xa tìm
nguồn thi hứng, “theo gương những thiền sư ngày xưa đã đi hàng ngàn dặm khơng mang gì
theo chỉ cố gắng đạt được trạng thái hạnh phúc dưới ánh trăng trong sáng”. Có lẽ vì thế, trăng
là một người bạn đường quen thuộc của ông:
Tsuki kiyoshi
Yugyou no moteru
Suna no ue Mang

Trăng
Một nhà sư
Mang trăng đi qua bãi cát

Bài thơ gợi lên một hình ảnh rất tao nhã của một nhà sư bước đi trên bãi cát vắng lặng dưới
ánh sáng trăng. Tuy nhiên, trăng không phải đang tỏa sáng soi đường cho người lữ hành mà
chính người ấy đang ung dung mang trăng theo trên bước đường phiêu du của mình. Nhà sư
khơng chỉ có trăng làm bạn, mà trăng dường như cũng khao khát trở thành người đồng hành

của nhà sư. Người lữ hành cô độc và ánh trăng lẻ loi trên bãi cát đêm hoang vắng gợi lên một
niềm cô liêu, tịch mịch tận nơi sâu thẳm của tâm hồn, nhưng đó khơng phải là nỗi cơ đơn u
uẩn, xót xa mà là cảm xúc rợn ngợp trước vẻ đẹp dung dị mà thanh cao về sự hợp nhất của con
người và thiên nhiên.
Khi con người để lịng mình lắng sâu đến mức nhìn thấy cái vơ thường trong hữu hạn cuộc đời,
có thể cảm nhận bằng các giác quan cụ thể những thứ khơng tạo hình, khơng thanh sắc, lúc ấy,


cả tâm hồn và thể xác như chìm đắm vào sự tĩnh lặng và giao hòa tuyệt đối với đất trời. Đó là
cốt lõi của Thiền. Theo Thiền tơng, khi lắng vào niềm tĩnh tịch thì người ta sẽ lắng nghe được
tất cả sự chuyển động của vạn vật:
Shizuka sa ya
Iwa ni shimiiru
Semi no koe

Vắng lặng u trầm
Thấm sâu vào đá
Tiếng ve ngân

Những hình ảnh trên của bài thơ vẽ nên một khung cảnh heo hút, đìu hiu bởi tiếng ve kêu khắc
khoải. Có gì mỏng manh hơn tiếng một con ve ở tận sâu trong khu rừng vắng! Không gian yên
tĩnh đến mức thi sĩ có thể nghe thấy tiếng ve thấm sâu vào từng lớp đá, làm run rẩy linh hồn đá
cứng. Thật ra tiếng ve mùa hạ vốn dĩ rất ồn ã. Nhưng với Basho, tiếng ve mùa hạ kia dường
như đã rơi vào hư vô. Vượt lên trên tất cả những thanh âm ồn ào hỗn độn, tâm hồn thi sĩ đã đạt
đến trạng thái tĩnh lặng hoàn mỹ, và sự yên tĩnh trong tâm hồn đã lan tỏa, bao trùm lên cảnh
vật xung quanh. Trong tiếng ve kêu, nhà thơ bước vào cõi âm u, nơi mọi vật dung chứa lẫn
nhau. Vẫn là tiếng ve ngày nào, vẫn là đá núi hôm qua và trái tim con người vẫn rộn ràng với
những nhịp đập ngày thường của nó, nhưng khơng phải ở chốn ồn ào sơi động mà chính là
trong tâm thức, trong cõi tịnh liêu. Dù cuộc đời có “động” đến đâu thì lịng vẫn “tĩnh”, ấy là
Thiền, ấy là sabi.

Vào lúc hồng hơn, nghe hồi chuông chiêu mộ từ xa vọng lại, người lữ khách nhạy cảm như
Basho tự dưng cảm thấy đâu đây phảng phất mùi Thiền. Trong buổi xế tà này, đằng phương
trời xa từng đàn chim đang rũ cánh bay về tổ, nhà thơ làm sao không khỏi ý18
thức về thân phận con người? Qua ngọn bút, niềm cô tịch triền miên ấy biến thành thơ.
Kane kiete
Chuông chùa tắt
Hana no kaori ha tsuku
Hương hoa phảng phất
Yuube kana
Chắc hẳn hồng hơn
Tâm hồn nhà thơ đã gắn kết, hòa đồng vào vũ trụ, con người sống đời sống của thiên nhiên,
thở hơi thở của tự nhiên. Nếu được như vậy bất cứ lúc nào con người lặng im nhìn vào tâm
tưởng của chính mình cũng cảm nhận được nhịp điệu, sự rung động của đất trời. Vì thế giới
bên trong và bên ngồi là một, nên thơ của Basho ít khi thể hiện cảm xúc cá nhân. Chỉ vài nét
phác thảo đơn sơ, mộc mạc cũng làm nổi bật một chiều thu cô tịch và hoang liêu:
Kare eda
Trên cành khô
Karasu no tomari keri
Cánh quạ đậu
Aki no kure
Chiều thu
Mùa thu trong bài thơ nhuốm màu tiêu điều, quạnh quẽ, xác xơ qua hình ảnh “cánh quạ ô trên
cành héo hắt”. Giống như một bức tranh mực Tàu với những nét điểm tinh tế, trầm buồn của
chiều thu, bài thơ vẽ nên một khung cảnh với những chi tiết đối lập, là hiện thực tạo thành cái
sâu thẳm vô hạn nhất của sabi. Cảm nhận về bài thơ này, Henderson cho rằng: “Ở đây không
chỉ đơn giản là phong cảnh héo úa đậu xuống một chiều thu giống như hình bóng một con quạ,


nó cịn là sự tương phản của thân hình đen muội, nhỏ xíu của con quạ với bóng tối bao la vô
định của buổi chiều hôm và với nhiều

điều khác nữa tuỳ người đọc”.
Trong thế giới phồn hoa chốn nhân gian, để lắng nghe được thanh âm của tự nhiên người ta
phải lắng hồn mình đến trạng thái tuyệt tĩnh của sabi, nơi tâm hồn con người trở thành tấm
gương phẳng lặng soi chiếu vạn vật.
1.3. Cảm thức Wabi
Wabi (Đà) là một khái niệm của Phật giáo thiền tơng, nói đến sự cảm nghiệm về sự thanh bần
an lạc, sự dung dị nhưng thanh cao của cuộc sống con người và sự vật.
Cơ sở của wabi chính là bắt nguồn từ quan niệm của người Nhật Bản “Vạn vật hữu linh”. Theo
quan niệm đó, sự sống tồn tại trong mọi thứ bao quanh con người, dù bé nhỏ hay to lớn, vơ tri
vơ giác hay có ý thức và cảm giác, đều là biểu hiện của sự sống. Nói cách khác, tư tưởng “Vạn
vật hữu linh” chính là thái độ trân trọng cuộc sống thực tại. Điều này dẫn đến quan niệm
chuộng sự cân bằng hài hòa giữa con người và thiên nhiên, chuộng sự giản dị, thanh khiết, mộc
mạc, gần gũi. Đó cũng chính là cốt lõi của cảm thức wabi. Hay nói cách khác, đó cũng chính là
tinh thần Thiền tông, đưa con người về với thiên nhiên bình dị, trữ tình, đưa nghệ thuật về với
đời thường. Nếu như sabi là niềm cô tịch soi chiếu tâm hồn với vạn vật thì wabi là sự hiện hữu
của cái đẹp dưới bất kì khoảnh khắc nào, trong bất cứ sự vật mộc mạc nào của cuộc sống đời
thường.
Tokotsubo ni
Con bạch tuộc lười
Hakanaki yume wo
Mơ màng trong lưới
Natsu no tsuki
Trăng mùa hè
Chắc chỉ có Basho mới có con mắt tinh tế và nhạy cảm đến mức nhìn thấy một con bạch tuộc
mắc trong lưới. Nhưng dưới con mắt của ông, chú bạch tuộc kia thay vì lo lắng cho cuộc sống
sắp kết thúc của mình, chỉ lười biếng, mơ màng thưởng trăng. Quả là một hình ảnh đầy thi vị
và hóm hỉnh. Cả sự sống dường như chỉ đọng trong khoảnh khắc, con bạch tuộc lười và ánh
trăng mùa hạ. Cái bi thương đã nhường chỗ cho sự thăng hoa của cái đẹp.
Wabi chính là cuộc hội ngộ giữa cái đẹp và tính giản dị, tâm hồn và thiên nhiên, tính chất phác,
mộc mạc và cái sâu thẳm, tuyệt diệu.

Thơ Basho hồn hậu, thuần khiết, trong sáng, được tạo thành từ những điều bình dị nhất của đời
sống nhưng mang vẻ đẹp tâm linh sâu thẳm, dịu vợi. Khi nâng haiku lên sự hồn thiện của một
dịng thơ tâm linh, Basho đã nâng trong lòng bàn tay bát ngát của mình
những sự vật bình thường nhất của thế gian này.
Basho tìm thấy vẻ đẹp trong cát bụi chứ khơng dùng cát bụi xây nên tòa lâu đài thơ ca đẹp đẽ.
Ơng tìm đến khu vườn cỏ ngát hoa để làm chốn nghỉ chân:
Vườn cỏ
Chọn hoa nào
Làm gối?


Thật đẹp làm sao khi ta bắt gặp một người lữ hành sau chuyến hành trình mệt lả, thong dong
tìm một chỗ để ngã lưng trong khu vườn cỏ đầy hoa, nhưng phân vân chẳng biết nên gối đầu
lên loài hoa nào. Cuộc đời bần hàn với cỏ là đệm, bầu trời là chăn và những
bông hoa làm gối ấy sao mà đẹp một cách thanh cao và thoát tục. Đơi mắt khơng ngừng tìm
kiếm vẻ đẹp cuộc sống của Basho dường như không bao giờ bỏ qua bất cứ sự vật, hiện tượng
nào. Dù là một cách bướm sặc sỡ rập rờn buổi sớm mai đánh thức cánh đồng
đang say ngủ:
Chou no tobu
Con bướm bay
Bakari nonaka no
Làm cánh đồng thức dậy
Hikage kana
Trời đầy nắng
Basho đều phát hiện và đưa chúng vào các vần thơ đẹp đẽ. Có lẽ cũng chỉ ơng mới thi vị hóa
những cành dâu mục, làm cho chúng có sức sống, có cảm xúc da diết:
Akikaze ni
Orete kanashiki
Kuwa no tsue


Gió thu
Buồn bã làm rơi
Mấy cành dâu mục

Hồn thơ đa sầu đa cảm của ơng nhìn thấy những điều quá đỗi bé nhỏ và đơn sơ trong cuộc đời
vô thường, và ông đồng cảm sâu sắc với vạn vật:
Yuku haru ya
Mùa xuân ra đi
Tori naki uo no
Tiếng chim thổn thức
Me wa namida
Mắt cá lệ đầy
Nỗi buồn của chim mng hay đơi mắt đẫm lệ của lồi cá khi mùa xuân đang dần qua đi hay
cũng chính là nỗi buồn của lòng người trong thời điểm giao mùa đã được lưu giữ trong những
vần thơ súc tích, đầy nhân bản của thi sĩ Basho.
Con đường dẫn đến cái đẹp không tự nhiên hiển hiện trước mắt và thi nhân cũng khơng cố ý
kiếm tìm nó. Nó chỉ hiện hữu trong sự tình cờ, bất chợt, trong vạn vật hữu linh, vừa xa xôi vừa
thân thuộc, vừa vĩ đại vừa bình thường.
Sabi và wabi khơng phải là hai yếu tố tách biệt mà luôn song hành cùng nhau trong các sáng
tác của Basho nói riêng, và nghệ thuật Nhật Bản nói chung. Nhưng với sự thể hiện điêu luyện
và tinh tế trong những vần thơ súc tích, mang tính tượng trưng và biểu cảm
cao, Basho đã đưa những quan niệm thẩm mỹ này trở nên gần gũi với quần chúng hơn bao giờ
hết.
1.4. Cảm thức Aware
Cảm thức Aware (Ai) là một khái niệm thuộc phạm trù mỹ học, xuất hiện khá sớm, được văn
chương Nhật sử dụng khá rộng rãi. Aware gọi đầy đủ là mononoaware, là nỗi buồn của sự vật,
là bi cảm, một cảm thức xao xuyến trước mọi cái đẹp của sự vật. Nó chịu ảnh hưởng tư tưởng
“vơ thường” của Phật giáo. Aware cịn là cảm thức thâm trầm trước cái đẹp não lòng của sự



vật vì sự vật nào cũng vậy có lúc rực rỡ, cũng có lúc tàn phai. Từ thế kỷ XI, trong thơ cổ và
trong truyện Genji (Murasaki), nhiều tác giả đã nói đến Aware.
Aware là niềm bi cảm, xao xuyến trước mọi vẻ đẹp não nùng của sự vật. Nhưng nó khơng
nghiêng về cái bi lụy ngơng cuồng của lãng mạn hay nỗi bi tráng ngây ngất của bi kịch mà
aware là một bi cảm thâm trầm.
Đối với người Nhật, sự rơi rụng hay tàn héo của một bông hoa đẹp hơn khi nó ở trạng thái
bung nở, một âm thanh mơ hồ hay hơn khi nó rõ ràng, vầng trăng bị mây che khuất một phần
quyến rũ hơn một vầng trăng tròn đầy viên mãn. Họ đánh giá cao những gì ở trạng thái ban sơ,
tinh khơi, khơng tồn tại lâu dài và khơng thể chạm tới. Đó là cái Đẹp mong manh thấm đượm
cảm thức vô thường của Phật giáo.
Bài thơ sau của Basho là một ví dụ:
Yagate shinu
Cái chết gần kề
Keshiki wa miyezu
Mặc ai hay biết
Semi no koye
Vẫn hoài tiếng ve
Đấy là xúc cảm trước cái đẹp của tiếng ve ngân vang điệp khúc mùa hè. Tiếng ve tượng trưng
cho sự sống. Còn cái chết sắp đến với ve khơng là bi kịch mà đó là điều tự nhiên của sự sống
và cái chết. Khoảnh khắc sống và chết khơng là gì cả, là “vơ thường”. Bi cảm aware là thế đấy.
Vì vậy, con người sống trên đời này cũng chỉ là hư ảo, giữa sự sống và cái chết cũng khơng có
gì phải bận tâm, nhẹ tựa lông hồng. Trước cái chết của người bạn thân, Basho viết :
Iru tsuki no
Trăng rơi rụng
Ato ha tsukue no
Bốn gốc bàn quen thuộc
Yosu mi kana
Cịn lại mà thơi
Sự ra đi của người bạn thân là sự mất mát quá lớn nhưng nhà thơ khơng hề nói đến từ “chết”,
mà dùng những hình ảnh quen thuộc để chỉ sự ra đi của bạn. Như vậy, đây là khúc ca bi ai về

cái chết của một người bạn. Ánh trăng đã rụng tức là đang nói đến cái chết nhưng bốn gốc bàn
quen thuộc vẫn còn hiện hữu nơi gốc nhà, tựa như tất cả về người bạn ấy vẫn còn nơi thế gian.
Đây không phải là bi kịch của con người mà là sự cảm nhận của nhà thơ về sự sống và cái
chết cũng đơn giản, bình dị như bốn gốc bàn. Trong cuộc đời, còn – mất, được – không, con
người ra đi – sự vật ở lại...tất cả chỉ là niềm bi cảm của con người.
1.5. Cảm thức Karumi
Karumi (Khinh) bắt nguồn từ chữ karushi, nghĩa là nhẹ nhàng, thanh thốt. Nó dung hợp giữa
tính chân phương trong phong cách và sự tinh tế trong nội dung. Karumi được nói đến như một
phong thái ung dung, tự tại. Đó cịn là một niềm khinh thanh êm đềm bay
lượn giữa tro than và cát bụi trần gian. Chính tâm thế đó đã tạo nên ở các thi sĩ haiku có cái
nhìn rất hiện thực khi phản ánh cuộc sống và thấy được vẻ đẹp của con người và sự vật dẫu
cho nó bé nhỏ và tưởng chừng như bị qn lãng. Basho nói về karumi trong thơ mình ở cuối
đời như một phong thái ung dung tự tại. Một bông hoa mới nở cũng làm ta ngất ngây:
Kiku no hana
Mong manh mong manh
Saku ya ishiya no
Một nhành hoa cúc


ishi no ai

Vừa đơm nụ vàng

Hay một đóa phù dung cũng góp phần tạo nên hương sắc của mùa:
Kirisame no
Mưa mù sương
Sora wo fuyou no
Phù dung một đoá
Tenki kana
Làm mùa lên hương

Ta cùng ngồi với Basho trong túp lều ở Fubagawa vào buổi chiều mùa xuân. Những áng mây
do hoa anh đào kết thành bồng bềnh mơ ảo ở cả hai nơi Ueno và Asakusa:
Hana no kumo
Hoa đào như áng mây xa
Kane wa Ueno ka
Chuông đền Ueno vang vọng
Asakusa ka
Hay đền Asakusa

Tiếng chng vọng đến, có cần gì biết nó phát ra từ ngơi đềnnào. Hoa thì mờ ảo như mây,
tiếng chng thì mơ hồ trong gió.
Haiku cố gắng diễn tả cái khơng rõ, cái khơng thể diễn tả. Nó đượcphản ánh đậm nét qua bài
thơ:

Yoku mireba
Nazuna hana saku
Kakine kana

Khi nhìn kỹ
Tơi thấy nazuna nở hoa
Bên hàng giậu

Nazuna là lồi hoa mọc bên vệ đường, giống như loài hoa dại. Khóm hoa màu trắng, khơng
rực rỡ như hoa hồng, hoa cúc, thường nở bên bờ rào nhũn nhặn, có mấy ai đối hồi nghĩ đến.
Thế nhưng, nhà thơ Basho khơng chỉ để ý đến loài hoa bé nhỏ ấy mà cịn chăm chú nhìn, biểu
lộ một niềm ngạc nhiên, hân hoan trước sự vật. Đó là đối với những lồi hoa nhỏ bé, còn đối
với những phận đời cơ cực trong xã hội, nhà thơ Basho viết:
Shidu no ko ya
Em bé nhọc nhằn
Inesuri kakete

Trong khi xay gạo
Tsuki wo miru
Vẫn nhìn lên trăng
Cuộc sống biết bao lo toan, nhọc nhằn cũng không làm mất đi sự thi vị, lãng mạn. Em bé cơ
cực là vậy nhưng tâm hồn em vẫn trải rộng cùng thiên nhiên, cùng ánh trăng trong đêm yên
tĩnh, thanh vắng, chỉ cịn một mình trăng là vẫn dõi theo khi em bé làm việc.
Tâm hồn trong sáng, thuần khiết của em bé sẽ giúp em vượt qua mọi sự ô trọc, nhơ nhuốc của
cuộc đời để hướng tới cái tốt lành, thánh thiện.
Và vào mùa xuân, khi những cánh hoa anh đào vương vãi khắp nơi theo làn gió, “đọng” vào
bữa ăn khiến cho cả người và thức ăn đều thấm một màu hồng của anh đào:


Ki no moto ni
Shiru mo namasu mo
Sakura kana

Dưới cây lao xao
Chén canh, đĩa cá
Đều vương anh đào

Nhà thơ đã mô tả một bức tranh đơn sơ, mộc mạc và thanh bần của một bữa cơm đạm bạc
nhưng chính những cánh anh đào vương vào chén canh, đĩa cá làm cho “bữa tiệc hoa” trở nên
thú vị, nên thơ.
Phát hiện từ trong những cái bình thường, cái đẹp bình dị, thể hiện ý nghĩa nhân sinh cao
thượng cũng là một cảm thức mang tính karumi. Con người phải biết chiêm ngưỡng cái đẹp để
vơi đi những khổ đau nhọc nhằn của cuộc sống phức tạp, bề bộn thường ngày.
Đến các loài chim muông, ong bướm cũng không lãng quên cái đẹp:

Aki wo tate
Chou mo nameru

Kiku no tsuyu

Bươm bướm cũng nhận ra
Một bông hoa chớm nở
Bên trời mùa thu

Karumi thường mang đến cho người đọc những cảm thức nhẹ nhàng, thanh thoát thông qua
những khám phá xung quanh đời thường. Trong cuộc sống, con người bị cuốn hút vào vòng
danh lợi, đam mê danh vọng mà quên mất những cảm xúc lãng mạn và những
phút giây thần tiên, thăng hoa của cuộc đời.
3.
Quá trình tìm đến và phát triển thơ Haiku của Matsou Basho

3.1.

Theo bản dịch Matsuo Basho - Bậc đại sư Haiku của Nguyễn Nam Trân, thì nhà nghiên cứu
Ueda Makoto đã chia đời thơ của Basho thành năm chặng đường để có thể đánh giá sự trưởng
thành của ơng, đồng thời qua đó cũng cho thấy được những đóng góp của Basho đối với thơ
Haiku
Thời kỳ thứ nhất: Tập tành và xem Haiku như một trò tiêu khiển (1662-1672)
Ở giai đoạn này, Basho chỉ mới làm quen với thơ Haiku, lúc đó ơng chỉ đang ở lứa tuổi đơi
mươi và Haiku chỉ là trị mua vui khơng hơn khơng kém. Năm 18 tuổi, với bút hiệu Sobo 宗房
(Tơng phịng, là tên Basho đọc theo âm Hán – Nhật), Basho bắt đầu viết những vần thơ đầu tay
theo phong cách sáo mịn của phái Teimon (Trinh Mơn) - một trường phái Haiku đặt nặng vấn
đề về kĩ thuật. Ta có thể đặc điểm đó qua bài thơ Haiku đầu tiên mà Basho sáng tác năm ông
mười tám tuổi:
“Haru ya koshi
Toshi ya yukiken
Kotsugomori


Có phải mùa xuân đến
Hay năm cũ ra đi,
Nhằm hai ngày trước Tết.”

Bài Haiku nói về sự ngỡ ngàng của tác giả trước một hiếm có trong thời tiết, khi tiết Lập xuân
năm ấy đáng lý ra nhằm ngày mùng một tháng giêng lại rơi đúng vào ngày cuối năm, báo hiệu


mùa xuân đã đến sớm hơn so với dự kiến trên lịch. Nhưng ở đây, ta sẽ không thấy sự sáng tạo
nào cả vì nhiều thi nhân đời trước đã sử dụng motif này rồi.
Ở giai đoạn này, Basho làm ra Haiku vì mục đích mua vui cho người đọc, vì thế khơng có q
nhiều sáng tạo trong Haiku ở giai đoạn này. Nếu muốn làm sống lại một đề tài thường sáo rỗng
, ông sẽ vay mượn một câu trong bài thơ đã có sẵn nhưng áp dụng nó vào tình huống khác, hay
ở một bài Haiku khác, ơng sẽ sử dụng bút pháp chơi chữ. Thời kỳ này, Basho sử dụng vào thơ
đa phần là bút pháp chơi chữ. Như ở bài thơ sau:
“Akikaze no
Yarido no kuchi ya
Togarigoe
(Hori 12, thu)

Gió thu đâm thốc vào,
Kẽ hở khung cửa kéo,
Nghe như tiếng thét gào.”

Trong bài thơ này, tác giả sử dụng hai lối chơi chữ. Một “yarido” (cửa kéo) hàm chứa chữ
đồng âm “yari” (ngọn giáo) và động từ “yaru” (phá vỡ) cho ta thấy sức mạnh của ngọn gió
luồn qua. Thứ đến chữ “kuchi” (kẻ hở) cịn có nghĩa là cái miệng, làm cho ta liên tưởng đến
tiếng ai đang thét gào. Nhưng ngồi trị chơi chữ này, bài thơ khơng cịn điểm đặc biệt nào
khác. Nhiều bài Haiku do Basho viết đầu đời không mang quá nhiều cảm xúc của chính nhà
thơ, nếu có đặc biệt cũng chỉ ở nghệ thuật chơi chữ. Nhận xét về kĩ thuật chơi chữ, Ueda

Makoto đã viết: “kỹ thuật chơi chữ này có cái hay là kết hợp hai trình độ ngữ nghĩa với nhau
và tạo ra một sự mơ hồ cần có của một bài thơ. Khổ thay, nó cũng có cái dở: sự dàn dựng
phức tạp và dụng công của nó đã làm mất đi chất trữ tình.” (Nguyễn Nam Trân, 2018: 59).
Nhưng sau đó, có lẽ với trường phái Teimon, Basho đã cảm thấy khơng thoả mãn, vì thế ông
đã xa rời trường phái ấy, khi đọc một bài thơ trong thi tập Kaioi được viết năm 1672 đã chứng
minh điều đó:
“Kite mo miyo
Jinbe ga haori
Hanagoromo
(Hori 38, xuân)

Đến đây mà xem nào
Người ta khoác áo chẽn
Làm áo hội anh đào”

Ở đây, sẽ thấy được màu sắc dân dã trong bài thơ, khác hẳn với những bài thơ thời kì đầu khi
ông mới làm quen với Haiku. Ta vẫn thấy được bút pháp chơi chữ vì “kite” trong Nhật ngữ
nghĩa là “hãy đến” mà cũng có nghĩa là “hãy mặc”. “Kite mo miyo” nghĩa là “đến xem nào,
xem nào!” là một lối nói thơng tục, hay xuất hiện trong những bài hát rao lúc bấy giờ. Hình
ảnh cái áo khốc haori kiểu chàng Jinbe là thứ áo vải thường, bình dân, khơng có gì cao sang.
Mặc dù ngắm hoa anh đào nở là một thú vui tao nhã thời trước nhưng trong bài thơ này, người
ngắm hoa cũng chẳng phải ăn mặc cầu kì gì vẫn có thể ngắm hoa, tham gia hội anh đào. Câu
chữ không nhiều nhưng đã thể hiện được vẻ dung dị, hài hước nhẹ nhàng, không tả cảnh nhiều
lời, vẫn đủ để người đọc liên tưởng đến tâm trạng háo hức, chờ đợi ngày đi xem hoa anh đào
khai sắc. Dù trong bài thơ vẫn cịn lối chơi chữ nhưng ta nhận thấy được có một sự thay đổi


trong hướng đi của ông. Ban đầu, thơ Haiku của Basho chỉ xoay quanh trong những cái đẹp
thanh tao, móc nối với những bài thơ cung đình hay thú vui của tầng lớp quý tộc và những trỏ
chơi chữ đầy cơ trí. Nhưng ở thi tập Kaioi (Trị chơi bốc vỏ sị), ơng đã sử dụng nhiều tư liệu

dân gian hơn như cách nói chuyện của người bình dân hay từ ngữ mang tính đại chúng.
Makoto Ueda đã nhận xét về tác phẩm Kaioi: “Giá trị của cuốn sách Kaioi là những lời bình
luận, phê phán của Basho về thơ haikai cho thấy sự sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, hiểu
biết sâu rộng của Basho về thi ca bình dân, lối diễn đạt hợp thời, là những con đường mới của
thế giới nói chung.”

3.2.

Thời kỳ thứ hai: Nghiên cứu các khuynh hướng đã có và khám phá kỹ thuật mới
(1673-1680):

Lúc này Basho đang 30 – 17 tuổi.
Thời kì thứ hai này là thời kì sau khi Basho đặt chân đến Edo (Tokyo hiện nay). Vào năm 1974
ông được Kitamura Kigin - một nhà thơ vào đầu thời kì Edo thuộc phái Danrin truyền cho tác
phẩm Haikai bị chôn vùi, tác phẩm được xem là bí quyết của Renku và Haiku.
Nếu ở giai đoạn trước Basho chịu ảnh hưởng của thi pháp Teimon quan tâm nhiều đến phần kĩ
thuật thì giai đoạn thứ hai này Basho chịu ảnh hưởng của thi phái Danrin - một trường phái
được sinh ra như một phản ứng chống lại Teimon. Trường phái Danrin hướng đến việc tiếp
xúc nhiều hơn với những con người bình dân và truyền một tinh thần tự do vào các bài thơ
thuộc trường phái này vì vậy trường phái Danrin nới rộng khuổn khổ thơ haikai ra cả về mặt
chủ đề cũng như cách diễn đạt. Trường Darin ưu tiên sử dụng những từ ngữ đơn giản và cái
cười cơ trí. Những chủ đề thanh tao, rời xa cuộc sống tâm tình của quần chúng nhân dân và
cách diễn đạt cầu kì, bay bướm của các thi sĩ cổ cung đình đều bị những thi nhân thuộc trường
phái Danrin giễu nhại. Những điều đó đều có phần ảnh hưởng đến cách sáng tác của Basho
trong giai đoạn này.
Lấy tư liệu trong quyển Matsuo Basho - Bậc đại sư Haiku, nguyên tác của Ueda Makoto được
biên dịch và bình chú bởi Nguyễn Nam Trân, chúng tơi xin được trích dẫn bài thơ sau:
Haritate ya
Kata ni tsuchi utsu
Karagoromo

(Hori 53, thu)

Cái ông thầy châm cứu
Đâm mũi kim lên vai
Người mặc manh áo rách

Những sáng tác của Basho sau khi tham gia vào trường phán Danrin đều đi theo những qui tắc
cũng như nội dung chung của trường phái. Và bài thơ trên là tác phẩm Thể hiện được những
đặc điểm trong sáng tác của Basho khi tham gia vào phái Danrin.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×