Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

tiểu luận quy chế về đầu tư quốc tế gián tiếp tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.95 KB, 29 trang )

Tiểu luận

Quy chế về đầu tư quốc tế
gián tiếp tại Việt Nam


LỜI NÓI ĐẦU
Đầu tư quốc tế hiện đang là một xu thế tất yếu đối với mọi quốc gia trong vịng xốy
của hội nhập kinh tế quốc tế. Vì thế xu hướng chung của đầu tư quốc tế ngày nay là
đa phương hoá quan hệ đầu tư và đa dạng hố loại hình đầu tư.
Hiện nay, bên cạnh loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài -đang chiếm tỷ trọng đáng
kể trong tổng thu thuế và các khoản nộp ngân sách thì loại hình đầu tư gián tiếp
quốc tế cũng đang nổi lên với tỷ lệ quỹ đầu tư ngày càng nhiều, hay thị trường
chứng khốn có khối lượng giao dịch lớn dần lên. Dòng vốn đầu tư gián tiếp quốc tế
này khơng chỉ mang lại vốn mà cịn có vai trị quan trọng thúc đẩy thị trường tài
chính phát triển theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động, mở rộng quy mơ và tăng
tính minh bạch, nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp…
Tuy nhiên, để thu hút được và thực hiện có hiệu quả dịng vốn này thì Việt Nam cịn
gặp khá nhiều khó khăn bởi những tác động của hoạt động đầu tư gián tiếp quốc tế
mang lại. Mặt khác dòng vốn này cũng tiềm ẩn những rủi ro hơn so với các kênh
huy động vốn nước ngồi khác.
Chính vì vậy, thúc đẩy thu hút đầu tư gián tiếp quốc tế ổn định và tương xứng với
tiềm năng, góp phần tạo động lực phát trin thị trường vốn và nền kinh tế Việt Nam
đang là vấn đề được các cơ quan hoạch định chính sách, các nhà đầu tư, các
doanh nghiệp quan tâm.
Để nghiên cứu rõ hơn về vấn đề đầu tư quốc tế tại Việt Nam, trong bài viết sẽ trình
bày thành 4 chương :
- Chương 1: Cơ sở lý thuyết về đầu tư quốc tế đầu tư
- Chương 2: Quy chế về đầu tư quốc tế gián tiếp tại Việt Nam
- Chương 3: Thực trạng đầu tư gián tiếp quốc tế vào Việt Nam trong thời gian
qua


-Chương 4: Giải pháp thu hút và quản lý vốn đầu tư nước ngoài trong mối
quan hệ với sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt nam.


CHƯƠNG 1:

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ

Khái niệm đầu tư quốc tế gián tiếp:
Đầu tư gián tiếp:
Là hình thức đầu tư thơng qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có
giá trị khác, thơng qua quỹ đầu tư chứng khốn và thơng qua các định chế tài chính
trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
1.

Đầu tư gián tiếp quốc tế:
Cũng là các khoản đầu tư gián tiếp nhưng do các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện
để phân biệt với đầu tư trong nước do các nhà đầu tư trong nước thực hiện, cũng
thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu…định chế tài chính trung gian như đầu tư
gián tiếp nói chung.
2.
Đặc điểm của đầu tư gián tiếp quốc tế:
- Đầu tư gián tiếp quốc tế là đầu tư tài chính thuần tuý trên thị trường tài chính hay
nói cách khác là chỉ đầu tư bằng tiền
- Thông qua các thị trường tài chính để chuyển ra nước ngồi
- Nhà đầu tư khơng trực tiếp tham gia quản lý hoạt động của dự án mà họ bỏ vốn
đầu tư.
3. Sự khác biệt giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI và đầu tư gián tiếp quốc
tế
Theo mức độ tham gia quản lý của các nhà đầu tư vào đối tượng bỏ vốn, đầu tư

quốc tế có thể xem xét theo những quan điểm khác nhau tuỳ theo vị trí của nhà đầu
tư:
Đầu tư trực tiếp:
Theo quan điểm vĩ mô: Chủ đầu tư nước ngoài trực tiếp đưa vốn và kỹ thuật vào
nước nhận đầu tư; tổ chức sản xuất kinh doanh, trên cơ sở thuê mướn, khai thác
các yếu tố cơ bản ở nước sở tại (như tài nguyên, sức lao động, cơ sở vật chất…)
Theo quan điểm vi mô: Chủ đầu tư góp vốn với tỷ lệ đủ lớn, trực tiếp tham gia vào
quản lý, điều hành đối tượng bỏ vốn.
Đầu tư gián tiếp:
Theo quan điểm vĩ mô: Nước chủ nhà nhận vốn từ nước ngồi dưới hình thức vay
vốn hoặc nhận viện trợ của một tổ chức quốc tế hoặc một nước nào đó. Nước chủ
nhà sử dụng vốn vay để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế và kinh tế xã hội
quốc gia, sau một thời gian phải hồn trả cả gốc và lãi dưới hình thức tiền tệ hay
hàng hố. Hoặc chính phủ bán trái phiếu ra nước ngồi để huy động ngoại tệ từ
nước ngồi. Nói cách khác đầu tư gián tiếp là một hình thức đầu tư của chính phủ.
Nhà đầu tư khơng kèm theo cam kết chuyển giao tài sản vật chất, công nghệ, đào
tạo lao động và kinh nghiệm quản lý như trong FDI.
Theo quan điểm vi mơ: Chủ đầu tư góp vốn với tỷ lệ nhỏ, họ không được quyền
tham gia trực tiếp vào việc điều hành, chi phối hoạt động của đối tượng mà chỉ đơn
thuần là góp vốn để được nhận một phần lợi nhuận theo tỷ lệ góp vốn.


Chương 2:

Quy chế về đầu tư quốc tế gián tiếp tại Việt Nam
Nội dung:
- Quy chế về thành lập công ty chứng khoán
- Quy chế về thành lập quỹ đầu tư.
- Quy chế về nhà đầu tư nướng ngoài được phép mua cổ phiếu của các ngân
hàng thương mại Việt Nam, của các công ty Việt Nam.

1. Quy chế về thành lập cơng ty chứng khốn:
Ngày 24-4-2007 Bộ Tài chính đã có quyết định số 27/2007/QĐ-BTC về việc ban
hành quy chế tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán.
Nội dung cơ bản:
* Quy chế này quy định về tổ chức và hoạt động của cơng ty chứng khốn thành lập
tại Việt Nam.
Các thuật ngữ:
1. Cơng ty chứng khốn là tổ chức có tư cách pháp nhân hoạt động
kinh doanh chứng khốn, bao gồm một, một số hoặc tồn bộ các hoạt động: mơi
giới chứng khốn, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn
đầu tư chứng khốn.
2. Tổ chức kinh doanh chứng khốn là cơng ty chứng khốn, cơng ty
quản lý quỹ, cơng ty quản lý tài sản, ngân hàng đầu tư thực hiện các nghiệp vụ theo
quy định tại Điều 60, Điều 61 Luật Chứng khoán.
3. Người hành nghề chứng khoán là người làm việc tại các vị trí nghiệp
vụ chun mơn trong cơng ty chứng khốn và có Chứng chỉ hành nghề chứng
khốn do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp.
* Điều kiện thành lập:
- Về phương tiện vật chất (hữu hình) tối thiểu:
Theo quyết định, điều kiện cấp giấy phép thành lập và hoạt động cơng ty chứng
khốn gồm: Có trụ sở đảm bảo các yêu cầu: quyền sử dụng trụ sở làm việc tối thiểu
một năm, trong đó diện tích làm sàn giao dịch phục vụ nhà đầu tư tối thiểu 150 m2,
có đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ hoạt động kinh doanh, bao gồm: sàn giao
dịch phục vụ khách hàng, thiết bị văn phòng, hệ thống máy tính cùng các phần mềm
thực hiện hoạt động giao dịch chứng khốn, trang thơng tin điện tử, bảng tin để công
bố thông tin cho khách hàng, hệ thống kho, két bảo quản chứng khốn, tiền mặt, tài
sản có giá trị khác và lưu giữ tài liệu, chứng từ giao dịch đối với cơng ty chứng
khốn có nghiệp vụ mơi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán...
- Về điều kiện đối với cá nhân, pháp nhân góp vốn:
Cổ đơng sáng lập, thành viên sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% vốn điều

lệ thực góp ban đầu của cơng ty chứng khốn. Phần vốn góp ban đầu của cổ đông
sáng lập, thành viên sáng lập không được chuyển nhượng trong vòng ba 3 năm kể
từ ngày được cấp giấy phép thành lập và hoạt động, trừ trường hợp chuyển nhượng
cho cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập khác theo quy định của Luật Doanh


nghiệp và phù hợp với điều lệ công ty. Báo cáo tài chính năm gần nhất tính đến thời
điểm cam kết góp vốn thành lập cơng ty chứng khốn phải được kiểm tốn bởi một
cơng ty kiểm tốn độc lập.
- Về điều lệ cơng ty, các quy trình về nghiệp vụ:
cơng ty chứng khốn muốn thành lập phải có dự thảo điều lệ công ty đã được các
cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập cơng ty chứng khốn thơng qua, phương án
hoạt động kinh doanh trong ba 3 năm đầu phù hợp với nghiệp vụ kinh doanh đề nghị
cấp phép kèm theo các quy trình nghiệp vụ, quy trình kiểm sốt nội bộ, quy trình
quản lý rủi ro theo quy định của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.

2. Quy chế về thành lập quỹ đầu tư:
Ngày 15-05-2007 Bộ Tài chính vừa ban hành Quyết định số 35/2007/QĐ-BTC về
“Quy chế tổ chức và hoạt động của Công ty quản lý quỹ”:
Theo quy chế này, Công ty quản lý quỹ được thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh
chứng khoán sau đây: Quản lý quỹ đầu tư chứng khốn, cơng ty đầu tư chứng
khốn; Quản lý danh mục đầu tư chứng khốn.
Cơng ty quản lý quỹ phải bảo đảm vốn kinh doanh dành cho hoạt động đầu tư tài
chính của Cơng ty phải là từ nguồn vốn thực góp của Cơng ty, không bao gồm các
nguồn vốn vay, vốn ủy thác hoặc vốn chiếm dụng từ các tổ chức, cá nhân khác.
Quy chế này cũng đã đưa ra các quy định khá cụ thể vể điều kiện được cấp phép
thành lập và hoạt động của Công ty quản lý quỹ. Cụ thể là, để được cấp Giấy phép
thành lập và hoạt động, Cơng ty quản lý quỹ phải có quyền sử dụng trụ sở Công ty
thời hạn tối thiểu 1 năm và trang thiết bị phục vụ hoạt động nghiệp vụ, bảo đảm an
toàn, an ninh cho trụ sở làm việc của Công ty; Công ty quản lý quỹ, công ty quản

lý quỹ có vốn đầu tư nước ngồi, chi nhánh cơng ty quản lý quỹ nước ngồi
tại Việt Nam phải có vốn điều lệ thực góp tối thiểu là 25 tỷ đồng Việt Nam.
Đồng thời, Công ty Quản lý quỹ phải đảm bảo có đủ số lượng nhân viên có Chứng
chỉ hành nghề quản lý quỹ theo phương án kinh doanh, trong đó tối thiểu phải có 5
nhân viên được cấp Chứng chỉ hành nghề quản lý quỹ tại trụ sở chính,..
Về điều kiện tài chính đối với cổ đơng, thành viên góp vốn, Quy chế này quy định:
Các cá nhân, tổ chức tham gia góp vốn thành lập Cơng ty quản lý quỹ chỉ được
phép sử dụng vốn của chính mình, khơng bao gồm các nguồn vốn ủy thác đầu tư,
vốn chiếm dụng từ các cá nhân, tổ chức khác. Đối với trường hợp cổ đơng, thành
viên góp vốn là tổ chức, nguồn vốn góp phải là nguồn vốn hợp pháp và được tổ
chức kiểm toán độc lập xác nhận. Các cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập phải
cùng nhau đăng ký mua, góp vốn sở hữu ít nhất 20% vốn điều lệ của Công ty quản
lý quỹ và cam kết nắm giữ tồn bộ phần vốn góp hoặc số cổ phần đó trong thời hạn
ít nhất 3 năm sau khi được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động, trừ trường hợp
chuyển nhượng cho cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập khác...
Về nhà đầu tư nước ngoài, Quy chế này quy định: công ty quản lý quỹ có trách
nhiệm đảm bảo việc đầu tư tài sản của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
trong hoạt động quản lý danh mục đầu tư, hoạt động quản lý quỹ thành viên


có nhà đầu tư nước ngồi tham gia, tn thủ theo các quy định pháp luật về
hạn chế tỷ lệ sở hữu, trực tiếp hoặc gián tiếp, tại các doanh nghiệp Việt Nam.
3. Quy chế về nhà đầu tư nước ngoài được phép mua cổ phiếu của các doanh
nghiệp Việt Nam:
3.1 Quy chế về nhà đầu tư nước ngoài được phép mua cổ phiếu của các ngân
hàng thương mại Việt Nam:
* Cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO trong lĩnh vực ngân hàng:
Về tham gia cổ phần, Việt Nam có thể hạn chế việc tham gia cổ phần của các tổ
chức tín dụng nước ngồi tại các ngân hàng thương mại quốc doanh của Việt Nam
được cổ phần hoá như mức tham gia cổ phần của các ngân hàng Việt Nam.

Đối với việc góp vốn dưới hình thức mua cổ phần, tổng số cổ phần được phép
nắm giữ bởi các thể nhân và pháp nhân nước ngoài tại mỗi ngân hàng thương
mại cổ phần của Việt Nam không được vượt quá 30% vốn điều lệ của ngân
hàng, trừ khi luật pháp của Việt Nam có qui định khác hoặc được sự cho phép của
cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
Về danh mục hạn chế đầu tư nước ngoài đã được khống chế ngay tại Nghị định
108/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006. Những lĩnh vực này gọi là lĩnh vực đầu tư có
điều kiện. Có 14 lĩnh vực trong đó có ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, các dịch vụ
liên quan đến tài chính, hàng hải, quảng cáo, kinh doanh bất động sản... được quy
định hạn chế đối với nhà đầu tư nước ngoài. Những lĩnh vực này hoàn toàn phù hợp
với cam kết của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cũng như trong hiệp định
song phương. Lĩnh vực ngân hàng liên quan đến đầu tư tài chính thì Việt Nam
phải nắm một phần để đảm bảo an ninh tài chính nên phải hạn chế tỷ lệ tối đa
của các nhà đầu tư nước ngoài.
Quy chế về nhà đầu tư nước ngoài được phép mua cổ phiếu của các ngân
hàng thương mại Việt Nam:
Ngày 20-4-2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 69/2007/NĐ-CP về việc nhà
đầu tư nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng thương mại Việt Nam.
Căn cứ pháp lý dựa trên:
- Các cam kết quốc tế của Việt Nam: Cam kết với WTO, Hiệp định thương mại
Việt – Mỹ (BTA), các hiệp định song phương, đa phương với các nước.
- Luật tổ chức chính phủ, Luật các tổ chức tín dụng, Luật ngân hàng nhà nước
Việt Nam, Luật doanh nghiệp, Luật chứng khốn.
Theo đó, quy định: Tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngồi
(bao gồm cả cổ đơng nước ngồi hiện hữu) và người có liên quan của các nhà đầu
tư nước ngồi đó khơng vượt q 30% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt
Nam.
Nội dung cụ thể:
1. Nghị định này quy định việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng
thương mại Việt Nam (sau đây gọi tắt là ngân hàng Việt Nam) chưa được niêm

yết chứng khoán.
2. Khi ngân hàng Việt Nam niêm yết chứng khốn, nhà đầu tư nước ngồi được
mua cổ phần của ngân hàng Việt Nam theo các quy định của pháp luật về chứng


khoán và thị trường chứng khoán và phải tuân thủ tỷ lệ sở hữu cổ phần quy định
tại Điều 4 Nghị định này.
Đối tương áp dụng:
1. Các ngân hàng Việt Nam bao gồm:
a) Ngân hàng thương mại Nhà nước được cổ phần hoá;
b) Ngân hàng thương mại cổ phần.
2. Nhà đầu tư nước ngoài.
3. Các tổ chức, cá nhân khác liên quan đến việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ
phần của ngân hàng Việt Nam.
1. "Nhà đầu tư nước ngoài" bao gồm:
a) "Tổ chức nước ngoài" là tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật
nước ngoài và hoạt động, kinh doanh tại nước ngoài hoặc/và tại Việt Nam;
b) "Cá nhân nước ngoài" là người mang quốc tịch nước ngoài, cư trú tại nước
ngoài hoặc tại Việt Nam.
2. "Tổ chức tín dụng nước ngồi" là tổ chức nước ngồi, bao gồm:
- Ngân hàng nước ngồi;
- Cơng ty tài chính nước ngồi;- Các tổ chức tài chính nước ngoài khác hoạt động chủ yếu và thường xuyên
trong lĩnh vực ngân hàng.
3. "Cổ đơng nước ngồi hiện hữu" là nhà đầu tư nước ngoài đã được Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam cho phép mua cổ phần và đã sở hữu cổ phần tại các ngân
hàng thương mại cổ phần trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành. Quyền
lợi và nghĩa vụ của cổ đơng nước ngồi hiện hữu được thực hiện theo quy định
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
4. "Nhà đầu tư chiến lược nước ngoài" là tổ chức tín dụng nước ngồi có uy tín,
có năng lực tài chính và khả năng hỗ trợ ngân hàng Việt Nam trong phát triển sản

phẩm, dịch vụ ngân hàng, nâng cao năng lực quản trị, điều hành và áp dụng
cơng nghệ hiện đại; có lợi ích chiến lược phù hợp với chiến lược phát triển của
ngân hàng Việt Nam, đáp ứng các tiêu chí cụ thể do ngân hàng Việt Nam quy
định.
5. Người có liên quan của một tổ chức, cá nhân bao gồm:
a) Công ty mẹ của tổ chức đó, cơng ty có cùng cơng ty mẹ với tổ chức đó;
b) Người hoặc tổ chức quản lý cơng ty mẹ, người hoặc tổ chức có thẩm quyền bổ
nhiệm người quản lý công ty mẹ của tổ chức đó;
c) Cơng ty trực thuộc hoặc cơng ty con của tổ chức đó;
d) Người quản lý, thành viên Ban kiểm sốt, người hoặc tổ chức có thẩm quyền
bổ nhiệm người quản lý của tổ chức đó;
đ) Cổ đơng hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thơng trở lên
của tổ chức đó;
e) Vợ, chồng, cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, con, con nuôi, anh, chị em ruột (và vợ,
chồng của những người này) của người quản lý, thành viên Ban kiểm sốt, cổ
đơng sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên của tổ chức đó;
g) Vợ, chồng, cha, cha ni, mẹ, mẹ nuôi, con, con nuôi, anh, chị, em ruột (và vợ,
chồng của những người này) của cá nhân đó;
h) Cá nhân được uỷ quyền đại diện cho những người quy định tại các điểm a, b, c,
d, đ, e và g khoản này đối với chính những người uỷ quyền và đối với người
liên quan của người uỷ quyền và người được uỷ quyền.
Nguyên tắc sở hữu cổ phần đối với nhà đầu tư nước ngoài: (điều 4 nghị định)


1. Tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngồi (bao gồm cả cổ
đơng nước ngồi hiện hữu) và người có liên quan của các nhà đầu tư nước ngồi
đó khơng vượt q 30% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam.
2. Mức sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư nước ngồi khơng phải là tổ chức
tín dụng nước ngồi và người có liên quan của nhà đầu tư nước ngồi đó khơng
vượt quá 5% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt Nam.

3. Mức sở hữu cổ phần của một tổ chức tín dụng nước ngồi và người có liên
quan của tổ chức tín dụng nước ngồi đó khơng vượt q 10% vốn điều lệ của
một ngân hàng Việt Nam.
4. Mức sở hữu cổ phần của nhà đầu tư chiến lược nước ngồi và người có liên
quan của nhà đầu tư chiến lược nước ngồi đó khơng vượt q 15% vốn điều lệ
của một ngân hàng Việt Nam.
Trường hợp đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ căn cứ đề nghị của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, quyết định mức sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư chiến lược
nước ngoài và người có liên quan của nhà đầu tư chiến lược nước ngồi đó vượt
q 15%, nhưng khơng được vượt q 20% vốn điều lệ của một ngân hàng Việt
Nam.
5. Trường hợp tổ chức tín dụng nước ngồi nắm giữ trái phiếu chuyển đổi, khi
chuyển đổi trái phiếu sang cổ phiếu phải đảm bảo tỷ lệ sở hữu cổ phần theo
quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều này.
6. Tổng mức sở hữu cổ phần của các tổ chức tín dụng nước ngồi tại một ngân
hàng thương mại nhà nước được cổ phần hoá như tổng mức sở hữu cổ phần của
các ngân hàng Việt Nam tại ngân hàng thương mại nhà nước đó. Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện quy định này.
7. Ngân hàng Việt Nam quyết định tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài
tại ngân hàng nhưng không vượt quá các tỷ lệ quy định tại Điều này.
Tham gia quản trị tại ngân hàng Việt Nam
1. Một tổ chức tín dụng nước ngồi chỉ được là nhà đầu tư chiến lược tại một ngân
hàng Việt Nam.
2. Một tổ chức tín dụng nước ngồi chỉ được tham gia Hội đồng quản trị tại không
quá hai ngân hàng Việt Nam.
Ngoài ra Ngân hàng Việt Nam bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài phải
đáp ứng đủ các điều kiện: vốn điều lệ tối thiểu đạt 1.000 tỷ đồng; có tình hình tài
chính lành mạnh; có bộ máy quản trị, điều hành, hệ thống kiểm tra, kiểm sốt, kiểm
tốn nội bộ hoạt động có hiệu quả; khơng bị cơ quan có thẩm quyền xử phạt do vi
phạm các quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng trong thời gian 24 tháng

đến thời điểm Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xem xét.
Đồng thời, tổ chức tín dụng nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng Việt Nam
phải đáp ứng đủ các điều kiện: có tổng tài sản có tối thiểu tương đương 20 tỷ
USD vào năm trước năm đăng ký mua cổ phần; có kinh nghiệm hoạt động quốc
tế trong lĩnh vực ngân hàng; được các tổ chức xếp loại tín nhiệm quốc tế xếp hạng ở
mức có khả năng thực hiện các cam kết tài chính và hoạt động bình thường ngay cả


khi tình hình, điều kiện kinh tế biến đổi theo chiều hướng không thuận lợi; đối với
nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, ngoài các điều kiện quy định trên, phải có văn
bản cam kết về việc hỗ trợ ngân hàng Việt Nam trong việc phát triển sản phẩm, dịch
vụ ngân hàng, nâng cao năng lực quản trị, điều hành và áp dụng cơng nghệ hiện
đại…
Bên cạnh đó, nhà đầu tư chiến lược nước ngồi và người có liên quan chỉ được
phép chuyển nhượng cổ phần thuộc sở hữu của mình cho tổ chức, cá nhân khác
(kể cả trong nước và ngoài nước) tối thiểu sau 5 năm kể từ khi trở thành là nhà đầu
tư chiến lược nước ngoài tại một ngân hàng Việt Nam.
3.2 QUY CHẾ GÓP VỐN, MUA CỔ PHẦN CỦA NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Ngày 11-3-2003, Chính phủ ban hành Quyết định 36/2003 về quy chế góp vốn,
mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam.
Quy chế nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước ngồi góp vốn, đồng thời huy
động vốn, cơng nghệ, phương pháp quản lý doanh nghiệp của nước ngoài và mở
rộng thị trường, tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Mức góp vốn, mua cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài ở doanh nghiệp
Việt Nam theo Điều 3 Quy chế này tối đa bằng 30% vốn điều lệ của doanh
nghiệp Việt Nam.
Ngày 29 tháng 9 năm 2005, THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ ra QUYẾT ĐỊNH
238/2005/QĐ-TTg Về tỷ lệ tham gia của bên nước ngồi vào thị trường
chứng khốn Việt Nam. Quyết định này thay thế Quyết định số 146/2003/QĐ-TTg

ngày 17 tháng 7 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ. Nội dung:
Tổ chức, cá nhân nước ngoài mua, bán chứng khoán trên thị trường
chứng khoán Việt Nam được nắm giữ:
- Tối đa 49% tổng số cổ phiếu niêm yết, đăng ký giao dịch của một tổ
chức niêm yết, đăng ký giao dịch trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Đối
với tổ chức niêm yết, đăng ký giao dịch là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi
chuyển sang hoạt động theo hình thức cơng ty cổ phần theo Nghị định số
38/2003/NĐ-CP ngày 15 tháng 4 năm 2003 thì tổng số cổ phiếu niêm yết là số cổ
phiếu phát hành ra cơng chúng theo phương án được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Tối đa 49% tổng số chứng chỉ quỹ đầu tư niêm yết, đăng ký giao dịch
của một quỹ đầu tư chứng khốn.
- Khơng giới hạn tỷ lệ nắm giữ đối với trái phiếu lưu hành của tổ chức phát
hành.
Tổ chức kinh doanh chứng khốn nước ngồi được góp vốn, mua cổ
phần, góp vốn liên doanh thành lập Cơng ty chứng khốn hoặc Cơng ty quản
lý quỹ đầu tư chứng khoán tối đa là 49% vốn điều lệ.
Sau đó, Bộ Tài chính cũng có thơng tư Số: 90/2005/TT –BTC, ngày 17 tháng 10
năm 2005 hướng dẫn thi hành QĐ trên


CHƯƠNG 3

THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ QUỐC TẾ GIÁN TIẾP ()
VÀO VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
Tổng số vốn của các nhà đầu tư nước ngoài đang đầu tư trực tiếp vào Việt
Nam:
Vấn đề VN chính thức trở thành thành viên WTO và hội nghị APEC vừa qua là các
tác nhân mạnh mẽ để thúc đẩy luồng vốn đầu tư nước ngồi đổ mạnh vào một thị
trường đang ngày càng thơng thống và đầy cơ hội. Có thể nói chưa lúc nào VN
được giới đầu tư nước ngoài quan tâm nhiều như hiện nay.

- Tổng số vốn đầu tư FDI vào VN đã vượt con số 70 tỷ USD (lũy kế đến cuối năm
2006)
- Chỉ riêng trong năm 2006: hơn 10 tỷ USD.
- Dự kiến FDI vào VN trong năm 2007 dự kiến đạt 12 tỷ USD (vượt so với năm 2006
tới 17,6%).
Chỉ tính riêng từ đầu năm tới nay, vốn FDI đăng ký mới đã vượt 3 tỷ USD, tăng trên
20% so với cùng kỳ 2006.
(Trong đó phải kể đến Foxconn, tập đoàn đứng thứ 150 trong số 500 tập đồn, cơng
ty lớn nhất thế giới với tổng vốn trên 70 tỷ USD, dự kiến vào VN với quy mô vốn
đầu tư tới 5 tỷ USD, xây dựng 1 thành phố chuyên sản xuất các sản phẩm thuộc
lĩnh vực điện tử, cơng nghệ cao. Tiếp đó là dự án nhiệt điện Kiên Giang có tổng
vốn khổng lồ, tới 4 tỷ USD và một dự án tại Nha trang trên 3 tỷ USD. Cả 2 dự án
này đều sẽ được cấp phép trong năm 2007. Bộ KH - ĐT cũng cho biết hàng loạt
các dự án khác như ALCOA và VINACOMIN: 1,5 tỷ USD; Dự án thép tại Hà Tĩnh:
3,2 - 3,5 tỷ USD; Dự án điện BOT Mông Dương 2 của Tập đoàn AES: 1,4 - 1,5 tỷ
USD cũng đều là các dự án FDI với số vốn chưa từng có từ trước tới nay.)
Tiềm năng to lớn của thị trường vốn Việt Nam đối với đầu tư gián tiếp:
Theo phân tích của giới chuyên gia, thị trường vốn của Việt Nam có thể huy động
100.000 tỉ đồng đối với trái phiếu Chính phủ; 100.000 tỉ đồng đối với trái phiếu
doanh nghiệp; 150.000 tỉ đồng đối với chương trình cổ phần hố của Nhà nước và
có thể huy động 100.000 tỉ đồng trong các doanh nghiệp.
Như vậy, thị trường vốn Việt Nam có thể cung cấp một con số 30 tỉ USD, tăng hơn
20% so với kế hoạch đặt ra cho 5 năm tới, đó là một sự đóng góp khá lớn khơng
chỉ về lượng mà về chất.
Hiện nay, Chính phủ Việt Nam đang đẩy mạnh thực hiện cổ phần hố (CPH). Hàng
loạt cơng ty lớn của Nhà nước như Bảo Việt, VNPT, EVN khi CPH sẽ cung cấp
lượng cổ phiếu hàng tỷ USD ra thị trường. Thị trường Việt Nam hiện có nhiều cơ hội
cho đầu tư tài chính. Ví dụ, nếu hai Cơng ty MobiPhone và VinaPhone CPH sẽ có
một lượng hàng hố rất lớn bán ra, Nhà nước sẽ thu về khoảng 5 tỷ USD. Nếu tiếp
tục đẩy mạnh CPH các nhà máy điện, xi măng, than, dầu khí, nước, vận tải biển,…

Nhà nước cũng sẽ thu hút nhiều chục tỷ USD là chuyện rất bình thường. Đặc biệt,
Việt Nam đã có 20 năm sau đổi mới, lượng vốn chủ sở hữu hàng trăm tỷ USD
Đầu tháng 6/2007 công ty Bảo Việt đã tiến hành đấu thầu giá cổ phần. Cuộc đấu
giá 60 triệu cổ phiếu của tập đồn Bảo Việt mới kết thúc hơm Chủ Nhật (3/6/2007)
với giá đấu trúng bình quân 73.910 đồng/1 cố phiếu (mệnh giá 10.000 đồng) đã và
đang thu hút từ thị trường chứng khoán 4.434 tỷ đồng (khoảng 275 triệu USD)


Ngày 1/6, Thủ tướng đã ký Nghị quyết về việc phát hành trái phiếu Chính phủ
ra thị trường vốn quốc tế trong năm nay. Số tiền 1 tỷ đôla phát hành trái phiếu sẽ
dùng để đầu tư vào NM lọc dầu Dung Quất, dự án mua tàu vận tải và 2 cơng trình
thủy điện. Trái phiếu quốc tế sẽ được phát hành theo phương thức phát hành trái
phiếu toàn cầu. Với thời hạn từ 15 đến 20 năm, mức phát hành của trái phiếu là
1 tỷ đôla Mỹ. Trái phiếu quốc tế sẽ được dùng cho Tập đồn Dầu khí Việt Nam,
Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, Tổng công ty Sông Đà và Tổng công ty Lắp máy
Việt Nam vay lại, để thực hiện đầu tư các dự án Nhà máy lọc dầu Dung Quất, Dự án
mua tàu vận tải, Dự án thủy điện Xê Ca Mản 3 và Nhà máy Thủy điện Hủa Na.
Tổng số vốn của các nhà đầu tư nước ngoài đang đầu tư gián tiếp vào Việt
Nam:
Ước tính, cho đến thời điểm này, Việt Nam đã thu hút khoảng 5 tỷ USD vốn đầu tư
gián tiếp vào TTCK
Có 2 hình thức đầu tư gián tiếp của nhà đầu tư nước ngòai vào Việt Nam:
1. Phát hành trái phiếu ra nước ngịai:
Từ tháng 9/2005 Chính phủ Việt Nam đã có quyết định 914/QĐ-TTg về việc phát
hành trái phiếu chính phủ ra thị trường vốn quốc tế. Hai tổ chức đánh giá Hệ số tín
nhiệm quốc tế Moody’s và S&P đã xác định hệ số tín nhiệm của Việt Nam là tích cực
(Ba3 và BB)
Ngày 4/11/2005 Singapore chính thức thơng báo trái phiếu chính phủ Việt Nam
được đăng ký và niêm yết tại Sở GDCK Singapore. Lãi suất thực trả của lọai trái
phiếu 10 năm là 7,125%/năm tính theo lãi suất cố định.Ngày 3/11/2005 750 triệu

USD tiền bán trái phiếu đã được chuyển về VN để đầu tư cho Vinashin thực hiện dự
án đóng tàu cho các nước trên thế giới.
2. Đầu tư gián tiếp của tư nhân nước ngòai vào Việt Nam ()
Đây là khỏan đầu tư thơng qua một định chế tài chính trung gian (qũy đầu tư..) hoặc
đầu tư mua cổ phần trực tiếp của các công ty đang được niêm yết trên thị trường
chứng khóan.
Mặc dù TTCK tại Việt Nam cịn rất non trẻ, khai trương ngày 20/7/2000 và thực hiện
phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000 nhưng đã thể hiện là một kênh huy
động vốn tích cực cho các doanh nghiệp. TTCK VN ngày càng được các nhà đầu tư
nước ngòai, cơng ty quản lý qũy nước ngịai quan tâm.
Hiện nay có 55 cơng ty CK, 26 Quỹ đầu tư và 18 công ty quản lý Quỹ đang họat
động trên thị trường chứng khóan Việt Nam.
a. Họat động của các Cơng ty chứng khóan:
Hiện nay 55 cơng ty chứng khóan họat động trên thị trường CKVN dưới sự quản lý
của 2 trung tâm giao dịch CK: TTGDCK TP.HCM và TTGDCK Hà Nội.
Tính đến cuối năm 2006, tổng giá trị vốn hóa của thị trường cổ phiếu tăng gần 20
lần với khối lượng giá trị tương đương 22,7% GDP, đây là một kỷ lục của sự bùng
nổ. Số lượng các công ty niêm yết trên cả 2 thị trường tăng vọt lên 5 lần 193 công ty
năm 2006 so với 41 công ty năm 2005.
Tại TTGD CK TP.HCM cuối năm 2006, tổng giá trị niêm yết của hơn 80 lọai cổ phiếu
đạt hơn 12.000 tỷ đồng, nếu tính theo giá thị trường hay mức độ vốn hóa thì đạt đến
150.000 tỷ đồng tương đương 9 tỷ USD. Bình quân doanh số mua bán hàng ngày
đạt từ hàng trăm đến hàng nghìn tỷ đồng.


Tại TTGD CK Hà Nội cuối năm 2006, tổng giá trị niêm yết của 54 lọai cổ phiếu đạt
hơn 9.700 tỷ đồng, nếu tính theo giá thị trường hay mức độ vốn hóa thì đạt đến
70.000 tỷ đồng tương đương 4 tỷ USD (tăng 27 lần so với 2005). Bình quân doanh
số mua bán hàng ngày đạt từ 200-300 tỷ đồng.
Trên TTCK OTC đến cuối 2006 có trên 90 lọai cổ phiếu niêm yết với tổng thị giá lên

tới hơn 100.000 tỷ đồng tương đương 6 triêu USD. Doanh số mua bán bình quân
đạt 300-400 tỷ đồng/ngày.
Giá cổ phiếu đạt tốc độ tăng trưởng rất cao trong năm 2006, tăng 446,49 điểm
(146%) từ 305,28 điểm (31/12/2005) lên 751,77 điểm (29/12/2006).
Giao dịch của các nhà đầu tư nước ngòai chiếm khỏang 15% giao dịch tòan thị
trường.
b. Họat động của các Quỹ đầu tư:
Hiện có 26 Quỹ đầu tư vào TTCK Việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao, hoạt động sản xuất, kinh doanh
cũng như quy mô tại nhiều công ty ngày càng mở rộng. Đây cũng chính là những
yếu tố thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngồi tìm kiếm các cơ hội đầu tư tại Việt
Nam.Những gì diễn ra trên thị trường thời gian gần đây cho thấy, nhiều quỹ đầu tư
nước ngoài vẫn đang tiếp tục bày tỏ sự quan tâm rất lớn đối với TTCK Việt Nam.
Ước tính, cho đến thời điểm này, Việt Nam đã thu hút khoảng 5 tỷ USD vốn đầu tư
gián tiếp vào TTCK. Hiện nay, riêng 3 cơng ty quản lý quỹ đầu tư nước ngồi lớn
gồm Dragon Capital, Vina Capital và Indochina Capital nắm giữ gần 4 tỷ USD
vốn đầu tư tại Việt Nam. Theo dự kiến của một số nhà chuyên môn, với sức hút như
hiện tại, từ nay đến hết năm 2007, TTCK Việt Nam có thể thu hút thêm được 1,9 tỷ
USD nữa.
Quỹ Vietnam Enterprise Investments Ltd (VEIL) do Dragon Capital quản lý được
coi là quỹ đầu tư vào Việt Nam sớm nhất. Tổng giá trị tài sản của VEIL đã tăng gấp
30 lần từ khi mới thành lập (năm 1996) đến nay. Riêng tổng giá trị cổ phiếu Ngân
hàng ACB do VEIL sở hữu tăng gấp 10 lần, từ 8 triệu USD lên tới 80 triệu USD trong
vòng 10 năm qua.
Vietnam Opportunity Fund (VOF) của Vinacapital tuy bắt đầu hoạt động tại Việt Nam
từ tháng 9/2003, nhưng đến nay, Quỹ có quy mô vốn gần 250 triệu USD. VOF đã
đầu tư hơn 100 triệu USD vào Việt Nam, trong đó khoảng 54 triệu USD được rót vào
thị trường OTC. VOF hiện cịn dành hơn 86,1 triệu USD cho những khoản đầu tư
mới. Những quỹ đầu tư nhỏ hơn lại có chiến lược đầu tư riêng. Mekong Enterprise
Fund (MEF) là một thí dụ. Ra đời từ tháng 4/2002 với quy mô vốn 18,5 triệu USD và

do Công ty Mekong Capital quản lý, đối tượng đầu tư mà MEF nhắm tới là những
công ty gia đình vừa và nhỏ, có kết quả kinh doanh tốt và có khuynh hướng niêm yết
trên sàn giao dịch chứng khoán. Đến nay, MEF đã đầu tư vào hơn 10 doanh nghiệp,
với tổng số vốn khoảng 14 triệu USD.
Trong khoảng thời gian từ đầu năm 2007 đến nay, đã có tới 6 quỹ đầu tư nước
ngồi được thành lập để đón bắt các cơ hội đầu tư vào Việt Nam. Yếu tố hấp dẫn
các nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào TTCK Việt Nam là khoản lợi nhuận kếch xù
có được từ thị trường này từ năm ngối đến nay. Tính trung bình, một quỹ đầu tư
đầu tư vào Việt Nam trong vòng 1 năm trở lại đây đều có thể mang về cho các cổ
đơng mức lợi nhuận cao gấp khoảng 2 lần vốn đầu tư.
Ngoài các quỹ đầu tư nước ngồi, hiện tại, các cơng ty quản lý quỹ đầu tư trong
nước có quy mơ lớn như VietFund Management, Công ty Quản lý Quỹ Prudential
Vietnam, các công ty quản lý quỹ thuộc các ngân hàng thương mại lớn như
Vietcombank, BIDV… đều đang có chiến lược mở rộng hoạt động nhằm đón bắt


những cơ hội lớn trên thị trường trong thời gian tới. Đây cũng chính là những yếu tố
góp phần tạo nên "sức bật" lớn cho TTCK Việt Nam thời gian tới.
c. Họat động của các nhà đầu tư lẻ
Số lượng các nhà đầu tư chứng khóan tham gia thị trường tăng theo cấp số nhân
trong thời gian qua. Đến hết năm 2006, số tài khỏan giao dịch đã đạt hơn 100.000,
gấp 3 lần so với cuối năm 2005 và gấp 30 lần so với khi mới thành lập thị trường.
Trong đó có 1.700 tài khoản của các nhà đầu tư nước ngòai, gồm cả những nhà đầu
tư tầm cỡ quốc tế như Merrill Lynch, Citygroup…, hiện các nhà đầu tư nước ngòai
đang nắm giữ 30% lượng cổ phiếu của các công ty niêm yết.
Hơn 90% số nhà đầu tư chứng khóan là các cá nhân, chiếm hơm 70% lượng cổ
phiếu giao dịch. Số đơng các nhà đầu tư này cịn thiếu kiến thức căn bản và hệ
thống về đầu tư chứng khóan, chưa nhiều kinh nghiệm kinh doanh. Họ thường
phạm vào 5 sai lầm trong việc kinh doanh chứng khóan (mua bán quá nhiều – trả
phí giao dịch nhiều, đầu tư dựa vào danh tiếng – không dựa vào phân tích tài chính,

đầu tư theo đám đơng – đẩy giá cố phiếu lên cao hơn giá trị thực, không đa dạng
hóa – rủi ro cao khi cơng ty làm ăn thua lỗ, cứ nghĩ mình ln ln đúng – giá cổ
phiếu giảm nhưng không chịu bán để chặn lỗ, bán sớm khi thấy cổ phiếu lên giá)
Hành vi mang tính tự phát cao, thiếu kinh nghiệm, thiếu phân tích của các nhà đầu
tư lẻ dễ làm cho thị trường biến động khó lường, đặt thị trường trườc nguy cơ rủi ro
cao.
Theo ước tính của IMF hệ số giá/lợi nhuận (P/E) trung bình của 20 cơng ty lớn nhất
(chiếm 99% vốn hóa của thị trường) niêm yết trên TTGDCK TP.HCM là khỏang 73
(tháng 1/2007), hệ số này là rất cao so với chuẩn mực hầu hết các chuẩn mực của
thị trường khác (thường dưới 20).
Mặc dù đã đạt được sự tăng trưởng vượt bậc của thị trường chứng khóan nhưng tỷ
trọng vốn trong tổng số vốn đầu tư tư nhân nước ngòai vào Việt Nam vẫn ở mức
rất thấp (3,7% năm 2004, 5,2% năm 2005, 10% năm 2006), tỷ lệ này còn kém xa
các nước trong khu vực như Thailand, Trung Quốc là 30-40%.
3. Tác động của đầu tư gián tiếp quốc tế đối với Việt Nam:
3.1 Nhân tố ảnh hưởng tới vốn đầu tư gián tiếp quốc tế:
Cũng như FDI, vốn đầu tư gián tiếp quốc tế chịu ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ
của các nhân tố như bối cảnh quốc tế (hồ bình, ổn định vì mơ, các quan hệ ngoại
giao và môi trường pháp lý quốc tế thuận lợi); nhu cầu và khả năng đầu tư của nhà
đầu tư nước ngồi; mức độ tự do hố và sức cạnh tranh (chủ yếu là ưu đãi tài chính
và sự thân thiện, thuận tiện của quản lý nhà nước đối với nhà đầu tư) của môi
trường đầu tư trong nước; sự phát triển của hệ thống tiền tệ và các dịch vụ hỗ trợ
kinh doanh nói riêng, của các thể chế thị trường nói chung của nước tiếp nhận đầu
tư v.v... Nhưng khác với FDI, vốn đầu tư gián tiếp quốc tế chịu ảnh hưởng trực tiếp
mạnh hơn từ phía các nhân tố, như sự phát triển và độ mở cửa của thị trường
chứng khoán, chất lượng của các cổ phiếu, trái phiếu do doanh nghiệp và nhà nước
phát hành, cũng như các chứng khốn có giá khác lưu thơng trên thị trường tài
chính; sự đa dạng và vận hành có hiệu quả của các định chế tài chính trung gian
(trước hết là các quỹ đầu tư chứng khoán, cơng ty đầu tư tài chính các loại, các quỹ
đầu tư đại chúng, quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ thành viên); sự phát triển và chất lượng

của hệ thống thông tin và dịch vụ chứng khốn, trong đó có các tổ chức cung cấp
dịch vụ tư vấn và dịch vụ định mức hệ số tín nhiệm doanh nghiệp và chứng khoán;


Đặc biệt, vốn đầu tư gián tiếp quốc tế sẽ chảy mạnh vào trong nước theo mức tỷ lệ
thuận và cấp số nhân cùng với sự gia tăng quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp
nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi đang
hoạt động hiệu quả ở trong nước, cũng như cùng với việc nới rộng tỉ lệ nắm giữ cổ
phần của các nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp đó.
3.2 Tác động của đầu tư gián tiếp quốc tế nói chung:
3.2.1 Tác động tích cực
* Đối với nước tiếp nhận đầu tư:
- Đây là kênh huy động vốn quan trọng từ nước ngồi, tiếp thu vốn dưới nhiều
quy mơ
- Vốn đầu tư tiếp nhận bằng tiền nên để sử dụng theo mục đích của mình
- Nhà đầu tư khơng can thiệp vào quá trình hoạt động của dự án.
* Đối với chủ đầu tư:
- Dễ bán, dễ chuyển nhượng để thay đổi mục đích đầu tư
- Dễ thực hiện đầu tư
+ Thực hiện nhanh
+ Chi phí thấp
+ Khơng bị giới hạn bởi tuổi, sức khoẻ của nhà đầu tư
3.2.2 Tác động tiêu cực
* Đối với nước tiếp nhận đầu tư:
- Hạn chế khả năng thu hút công nghệ, kinh nghiệm quản lý
- Tính bất ổn cao cho đổi mv hệ thống tài chính và chứng khốn (vì dễ chuyển
vốn từ dạng này qua dạng khác.
- Không trực tiếp quản lý dự án mình bỏ vốn
- Khơng có điều kiện nắm thơng tin chính xác nhất về dự án đầu tư.
3.3 Tác động của đầu tư gián tiếp quốc tế đối với Việt Nam

3.3.1 Tác động tích cực
- Trực tiếp làm tăng tổng vốn đầu tư gián tiếp và gián tiếp làm tăng tổng vốn
đầu tư trực tiếp của xã hội
Khi vốn đầu tư gián tiếp quốc tế đổ vào Việt Nam sẽ trực tiếp làm tăng lượng vốn
đầu tư gián tiếp trên thị trường vốn trong nước. Hơn nữa, vốn đầu tư gián tiếp quốc
tế gia tăng sẽ gia tăng dây chuyền tới dòng vốn đầu tư gián tiếp trong nước. Hay
nhà đầu tư trong nước sẽ nhìn gương các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài và tăng
động lực bỏ vốn đầu tư gián tiếp của mình, kết quả là tổng đầu tư gián tiếp xã hội sẽ
tăng lên.
Hơn nữa, khi dòng vốn đầu tư gián tiếp quốc tế gia tăng, thì đó sẽ là một sự bảo
đảm và tạo động lực mới hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư khác mạnh dạn thông
qua các quyết định đầu tư trực tiếp mới của mình, kết quả là gián tiếp góp phần làm
tăng đầu tư trực tiếp xã hội từ phía các nhà đầu tư cả nước ngồi, cũng như trong
nước.
- Góp phần tích cực vào phát triển thị trường tài chính nói riêng, hồn thiện
các thể chế và cơ chế thị trường nói chung
Việc gia tăng và phát triển thị trường vốn đầu tư gián tiếp quốc tế sẽ làm cho thị
trường tài chính (đặc biệt là thị trường chứng khóan) Việt Nam trở nên đồng bộ, cân
đối và sôi động hơn, khắc phục được sự thiếu hụt, trống vắng và trầm lắng, thậm chí
đơn điệu, kém hấp dẫn kéo dài của thị trường này trong thời gian qua. Hơn nữa, đi
kèm với sự gia tăng dòng vốn đầu tư gián tiếp quốc tế này là sự phát triển các định
chế và dịch vụ tài chính - chứng khốn, đó là các loại quỹ đầu tư, cơng ty tài chính,


và các thể chế tài chính trung gian khác, cũng như các dịch vụ tư vấn, bổ trợ tư
pháp và hỗ trợ kinh doanh…bảo hiểm, kế toán, kiểm toán và thơng tin thị trường,
đồng thời cịn kéo theo sự gia tăng yêu cầu và hiệu quả áp dụng các nguyên tắc
cạnh tranh thị trường, trước hết trên thị trường chứng khóan... Tất cả những điều
này trực tiếp và gián tiếp góp phần phát triển mạnh mẽ hơn các bộ phận và tổng thể
thị trường tài chính nói riêng, các thể chế và cơ chế thị trường nói chung trong nền

kinh tế chuyển đổi Việt Nam.
- Góp phần tăng cường cơ hội và đa dạng hoá phương thức đầu tư, cải thiện
chất lượng nguồn nhân lực và thu nhập của đông đảo người dân.
Việc phát triển thị trường vốn đầu tư gián tiếp cả bề rộng lẫn bề sâu sẽ mang lại
những cơ hội mới và sự đa dạng hoá trong lựa chọn các phương thức đầu tư cho
các nhà đầu tư tiềm năng nước ngồi và trong nước. Đơng đảo các nhà đầu tư
nước ngoài và cả trong nước sẽ có thêm điều kiện lựa chọn sử dụng vốn của mình
để đầu tư dưới các hình thức trực tiếp tự mình hay thơng qua các định chế tài chính
trung gian để mua - bán các cổ phiếu, trái phiếu và chứng khốn có giá khác của
Việt Nam trên thị trường tài chính trong nước và nước ngồi. Việc đầu tư này sẽ cho
phép họ thu nhận được lợi nhuận từ sự chênh lệch giá cả khi mua - bán chứng
khoán, cũng như từ lãi suất và cổ tức các chứng khoán mà họ sở hữu theo thoả
thuận hoặc thực tế kết quả kinh doanh của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp phát
hành chứng khốn đó. Điều này cũng đồng nghĩa với việc cải thiện thu nhập, mức
sống của đông đảo các nhà đầu tư là người dân, tuỳ theo lượng vốn và kỹ năng đầu
tư chứng khốn mà họ có. Hơn nữa, thơng qua q trình tham gia đầu tư gián tiếp
này, các nhà đầu tư trong nước sẽ được dịp "cọ xát", rèn luyện và bồi dưỡng kiến
thức, kinh nghiệm, kỹ năng, bản lĩnh đầu tư, nâng cao trình độ bản thân nói riêng,
chất lượng nguồn nhân lực nói chung, phù hợp yêu cầu và điều kiện kinh doanh thị
trường, hiện đại
- Góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước theo các nguyên
tắc và yêu cầu kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế.
Việc quản lý và quản trị doanh nghiệp phát hành chứng khoán sẽ được thực hiện
nghiêm túc, hiệu quả hơn do yêu cầu về báo cáo tài chính doanh nghiệp và minh
bạch hố, cập nhật hố thơng tin liên quan đến các chứng khoán mà doanh nghiệp
đã và sẽ phát hành. Hơn nữa, về nguyên tắc, các nhà đầu tư chỉ ưa lựa chọn đầu tư
vào chứng khoán của các doanh nghiệp đáng tin cậy, đang và sẽ có triển vọng phát
triển tốt trong tương lai. Chính điều này sẽ cho phép quá trình "chọn lọc nhân tạo",
"bỏ phiếu" cho sự hỗ trợ và phát triển các doanh nghiệp này trở nên khách quan và
phù hợp cơ chế thị trường hơn (cịn những doanh nghiệp khác mà chứng khốn của

họ khơng hấp dẫn sẽ phải điều chỉnh lại định hướng và chất lượng quản trị kinh
doanh, sáp nhập hoặc giải thể). Hệ thống luật pháp, cũng như các cơ quan, bộ phận
và cá nhân trong hệ thống quản lý nhà nước liên quan đến thị trường tài chính, nhất
là đến đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ phải được hoàn thiện, kiện toàn và nâng cao
năng lực hoạt động hơn theo yêu cầu, đặc điểm của thị trường này, cũng như theo
các cam kết hội nhập quốc tế. Đồng thời, thông qua tác động vào thị trường tài
chính, nhà nước sẽ đa dạng hố các cơng cụ và thực hiện hiệu quả việc quản lý của
mình theo các mục tiêu lựa chọn thích hợp. Trên cơ sở đó, năng lực và hiệu quả
quản lý nhà nước đối với nền kinh tế nói chung, thị trường tài chính nói riêng sẽ
được cải thiện hơn
3.3.2 Tác động tiêu cực
- Làm tăng mức độ nhạy cảm và bất ổn về kinh tế có nhân tố nước ngoài


Khác với FDI là nguồn vốn đầu tư lâu dài chủ yếu dưới dạng vật chất (nhà máy,
mua sắm thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu dùng cho sản xuất), khó chuyển đối
hoặc thanh khoản, vốn đầu tư gián tiếp quốc tế được thực hiện dưới dạng đầu tư tài
chính thuần t với các chứng khốn có thể chuyển đổi và mang tính thanh khoản
cao trên thị trường tài chính, nên các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài dễ dàng và
nhanh chóng mở rộng hoặc thu hẹp, thậm chí đột ngột rút vốn đầu tư của mình về
nước, hay chuyển sang đầu tư dưới dạng khác, ở địa phương khác tuý theo kế
hoạch và mục tiêu kinh doanh của mình. Đặc trưng nổi bật này cũng chính là
ngun nhân hàng đầu gây nên nguy cơ tạo và khuếch đại độ nhạy cảm và chấn
động kinh tế ngoại nhập của dòng vốn đầu tư gián tiếp quốc tế đối với nền kinh tế
của nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt khi việc chuyển đổi và rút vốn đầu tư gián tiếp
nói trên diễn ra theo kiểu "tháo chạy" đồng loạt trên phạm vị rộng và số lượng. Sự
nhạy cảm và bất ổn kinh tế có thể bắt nguồn từ các ngun nhân bên trong, cũng có
thể hồn tồn do các nguyên nhân bên ngoài nước tiếp nhận đầu tư do phản ứng
dây chuyền, làn sóng đơ-mi-nơ của các nhà đầu tư quốc tế như đã từng diễn ra
trong cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á những năm cuối thập kỷ 90 của

thế kỷ trước. Trong tình huống như vậy, cuộc khủng hoảng đầu tư - tài chính - tiền
tệ hay khủng hoảng kinh tế có thể xảy ra đối với nước tiếp nhận đầu tư, nếu khơng
có và triển khai tốt các phương án phòng ngừa hiệu quả.
- Làm gia tăng nguy cơ bị mua lại, sáp nhập, khống chế và lũng đoạn tài chính
đối với các doanh nghiệp và tổ chức phát hành chứng khoán
Sự gia tăng tỷ lệ nắm giữ chứng khoán, nhất là các cổ phiếu, cổ phần sáng lập,
được biểu quyết của các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài đến một mức "vượt
ngưỡng" nhất định nào đó sẽ cho phép họ tham dự trực tiếp vào chi phối và quyết
định các hoạt động sản xuất - kinh doanh và các chủ quyền khác của doanh nghiệp,
tổ chức phát hành chứng khoán, thậm chí lũng đoạn doanh nghiệp theo phương
hướng, kế hoạch, mục tiêu riêng của mình, kể cả các hoạt động mua lại, sáp nhập
doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là, tính chất gián tiếp của vốn đầu tư nước ngoài đã
chuyển hố thành tính trực tiếp. Nhà đầu tư gián tiếp sẽ chuyển hoá thành nhà đầu
tư trực tiếp.
- Làm tăng quy mơ, tính chất và sự cấp thiết đấu tranh với tình trạng tội phạm
kinh tế quốc tế
Đầu tư gián tiếp quốc tế không chỉ làm gia tăng các nguy cơ và tác hại của các hoạt
động đầu cơ, lũng đoạn kinh tế vi phạm các quy định pháp lý của nước tiếp nhận
đầu tư, mà còn là mảnh đất mầu mỡ sinh sôi và phát triển các loại tội phạm kinh tế
có yếu tố nước ngồi, thậm chí xun quốc gia, như hoạt động lừa đảo, hoạt động
rửa tiền, hoạt động tiếp vốn cho các vụ kinh doanh phi pháp và hoạt động khủng bố,
cùng các loại tội phạm và các đe doạ an ninh phi truyền thống khác.
Sự cộng hưởng của các hoạt động tội phạm và tác động mặt trái của dòng vốn Đầu
tư gián tiếp quốc tế nói trên, nhất là khi chúng diễn ra một cách "có tổ chức" của giới
đầu cơ hay lực lượng thù địch chính trị quốc tế, sẽ ít nhiều, trực tiếp hay gián tiếp,
trước mắt và lâu dài gây tổn hại tới hoạt động kinh tế lành mạnh và làm tăng tính dễ
tổn thương của nền kinh tế nước tiếp nhận đầu tư trong bối cảnh tồn cầu hố hiện
nay; Thậm chí trong một số trường hợp, chúng cịn làm mất uy tín nhà nước và gây
sụp đổ một nội các chính phủ...



Ngồi ra, sự gia tăng dịng vốn Đầu tư gián tiếp quốc tế vào Việt Nam còn đặt ra yêu
cầu Chính phủ và các cơ quan TW phải chủ động đổi mới và sử dụng hiệu quả các
công cụ quản lý kinh tế của mình theo nguyên tắc thị trường hơn, trong đó có việc
sử dụng bảo lãnh nhà nước, quy định tỷ lệ và sử dụng các công cụ dự phịng, dư nợ
cũng như các cơng cụ khác của các định chế tài chính - tiền tệ quốc gia và địa
phương... những điều cần thiết để đảm bảo sự thu hút và khai thác có hiệu quả các
tác động tích cực của dịng vốn Đầu tư gián tiếp quốc tế.


Chương 4:
GIẢI PHÁP THU HÚT VÀ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
TTCK VIỆT NAM.
1. Những hạn chế chủ yếu cần khắc phục để hấp dẫn dòng vốn FII
đổ vào Việt nam:
Nếu thu hút FDI có đóng góp cho ngành công nghiệp sản xuất,
tăng kim ngạch xuất khẩu và tạo công ăn việc làm cho người Việt nam
nhưng lại không tác động được tới các doanh nghiệp Việt nam thì thu hút
FII có thể giúp vốn cho doanh nghiệp trong nước, giúp doanh nghiệp tăng
trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh. Do vậy, FII rất quan trọng đối với
các doanh nghiệp trong nước đang thiếu vốn.
Dòng vốn FII vào Việt nam tuy đã tăng trở lại sau cuộc khủng
hoảng tài chính khu vực nhưng vẫn đứng ở mức thấp so với dòng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Cụ thể, năm 2002 chiếm 1,2%, năm 2003
lên 2,3% và đạt 3,7% vào năm 2004. Trong khi đó tỷ lệ này ở Thái Lan,
Malaysia và Trung quốc vào khảong 30-40%. Và so với FDI, tỷ lệ FII này
khá khiêm tốn, chỉ bằng 2-3%.
Trước hết, để hiểu rõ vì sao trong thời gian qua, dòng vốn đầu tư FII
đổ vào Việt nam lại quá khiêm tốn như vậy, chúng ta cần tìmhiểu bản

chất của nguồn FII là gì. Như nhiều người đã biết, dòng vốn FII được các
nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp sử dụng để lập nên doanh nghiệp liên
doanh hay doanh nghiệp 100% vốn nứớc ngoài, còn nguồn vốn FDI lại
được nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt nam thông qua cáac quỹ đầu tư
hay qua thị trường chứng khoán mua cổ phần của doanh nghiệp Việt nam.
Mặc dù hiện nay chính phủ đã nâng mức sở hữu cho các nhà đầu tư
nước ngoài lên đến 49% đối với cổ phiếu niêm yết hoặc đăng ký giao
dịch trên thị trường chứng khoán , nhưng một pháp nhân nước ngoài khi
đầu tư vào một doanh nghiệp thường không mua quá 30% vốn, nên doanh
nghiệp được đầu tư vẫn là doanh nghiệp Việt nam. Sự đầu tư này chủ yếu
mang tính hỗ trợ về tài chính và quản trị hơn là can thiệp vào công việc
kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiện có nhiều nhược điểm cản trở dòng vốn FII đổ vào Việt nam.
Điều quan trọng nhất đối với nhà đầu tư là muốn hiểu được hoạt động
của doanh nghiệp một cách chân thực và chính xác qua bản báo cáo tài
chính, nhưng phần lớn doanh nghiệp ở Việt nam đều coi việc báo cáo tài
chính chỉ để đối phó với cơ quan thuế chứ không phải dành cho cổ đông
cũng như các nhà đầu tư tiềm năng. Doanh nghiệp Việt nam hiện nay
thường lập 2 loại sổ sách kế toán, một dành cho mình và một dành cho
việc báo cáo thuế. Trong khi đó hệ thống kiểm toán còn nhiều bất cập,
có những qui định không theo chuẩn mực quốc tế. Phương pháp xác định
giá trị doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hóa chủ yếu là tính theo giá
trị sổ sách chứ không sử dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền, nên
để đánh giá giá trị thực của một doanh nghiệp là rất khó. Hệ thống
thông tin của doanh nghiệp còn yếu, không cung cấp đầy đủ cho nhà đầu


tư về tình hình hoạt động cũng như những dự báo trong tương lai. Hoạt động
thâu tóm giữa các doanh nghiệp gần đây mới được công bố công khai.
Hầu hết doanh nghiệp Việt nam đều ngại công khai tình hình hoạt động kinh

doanh. Hội đồng quản trị chưa phải là tổ chức qui tụ những cổ đông lớn
và không hoạt động độc lập bởi tại nhiều doanh nghiệp Giám đốc lại
kiêm luôn chức chủ tịch Hội đồng quản trị.
Vì tính chất nguồn vốn FII là đầu tư vào doanh nghiệp cổ phần nên
để thu hút được nguồn vốn này, ngoài hệ thống pháp lý cần cải thiện,
thay đổi phù hợp với các qui tắc chung thì Việt nam còn phải tăng cường
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp và
thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển bằng việc đưa nhiều doanh
nghiệp mạnh lên niêm yết. Trước đây, vào những năm 90, dòng vốn FII
đã được đổ nhiều vào Việt nam. Sự xuất hiện của hơn 10 quỹ đầu tư
nước ngoài đã thể hiện nhà đầu tư nước ngoài coi thị trường Việt nam là
một thị trường nhấp dẫn, có thể mang lại lợi nhuận cao. Nhưng vào thời
điểm đó, ở Việt nam khu vực kinh tế tư nhân còn rất yếu, khu vực kinh tế
nhà nước vẫn chiếm vai trò chủ đạo và thị trường chứng khoán Việt
nam chưa ra đời. Vì lý do đó mà chúng ta lỡ mất cơ hội duy trì và nhân
rộng dòng vốn đầu tư vô cùng q giá này.
Qua thực tế cho thấy vốn FII vào Việt nam còn rất thấp, nguyên
nhân từ cả hai phía nhà nước và doanh nghiệp. Nhà nước chưa có một
hệ thống chính sách rõ ràng, minh bạch đối với FII. Các qui định về công
ty cổ phần, cổ phần hóa DNNN hiện hành vẫn chủ yếu nhằm vào giao
dịch giữa các công ty, tổ chức và người Việt nam chăm lo bảo vệ lợi ích
nhà nước và người lao động trong doanh nghiệp hơn là quan tâm đến lợi
ích và quyền của nhà đầu tư chuyên nghiệp/chiến lược. Còn doanh nghiệp
thì không có động lực thu hút vốn FII và sợ tuột mất quyền quản lý, sở
hữu doanh nghiệp và tài sản của mình. Nhà nước vẫn còn dè dặt trong
việc phát triển thị trường vốn và các dịch vụ tài chính ở Việt nam…. Do
vậy, nhà nước cần ban hành chính sách chính sách rõ ràng về thu hút FII
như một chiến lược trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt nam, đưa FII
vào thành một bộ phận của Luật đầu tư mới, được coi trọng, hoan
nghênh. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về kế toán, kiểm toán,

thuế (và hành thu thuế), thanh tra kiểm tra doanh nghiệp theo hướng công
khai, minh bạch…. Thúc đẩy cải cách hệ thống ngân hàng và các tổ
chức tín dụng, phát triển thị trường chứng khoán …. Chúng ta cần thực
hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế trong các lónh vực phát triển thị
trường vốn và các dịch vụ liên quan.
2. Phát huy những điều kiện thuận lợi để thu hút nguồn vốn đầu tư
gián tiếp từ nước ngoài.
Từ năm 1995 đến 2005, nền kinh tế của Việt nam đã tăng trưởng
ổn định và cao hơn những nền kinh tế khác trong khu vực bất chấp cuộc
khủng hoảng tài chính-tiền tệ tại châu Á xảy ra trong các năm 19971998. Việt nam đã không bị tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng
này vì chưa hội nhập đủ để bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó, Chính phủ Việt
nam đã có những giải pháp kịp thời và đúng đắn.


Một trong những chính sách quan trọng trong quá trình đổi mới của
Việt nam là thay đổi cơ cấu nền kinh tế theo sự tính toán sẵn nên đã giữ
được ổn định, nhưng sự thay đổi này vẫn còn chậm. Tuy nhiện, so với các
nước Đông Âu thì Việt nam thành công hơn. Và một trong các thế mạnh
của Việt nam là xuất khẩu. Đây chính là động lực để tăng trưởng kinh
tế. Các thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt nam là châu Âu, Mỹ,
Nhật bản, Asean và Trung quốc. Ngoài ra còn một số thị trường khác. Sự
đa dạng hóa thị trường xuất khẩu sẽ giúp Việt nam phát triển mạnh hơn
trong thời gian tới.
Hiện nay cũng như trong tương lai, Việt nam vẫn giữ được vị thế tốt
để thu hút các nguồn vốn đầu tư. Sư thuận lợi của môi trường đầu tư
được chứng minh bằng con số thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
tăng cao trong năm 2005. Nếu Trung quốc đựơc xem là thị trường nóng thu
hút nhiều FDI thì hiện nay Việt nam được xếp hạng cao hơn cả Trung quốc
trong việc thu hút đầu tư. Và một trong những dấu hiệu quan trọng đánh
dấu sự tăng trưởng thành công của nền kinh tế là trái phiếu của Việt

nam đã nhận được sự quan tâm và đánh giá cao trên thị trường trái phiếu
quốc tế.
Bên cạnh đó, các nhà đầu tư sẽ được đảm bảo bằng sự ổn định
chính trị, sự công bằng trong cạnh tranh và sự minh bạch trong các thể chế.
Mặt khác, một trong những lý do để các nhà đầu tư hướng về Việt nam
là Chính phủ Việt nam rất coi trọng khu vực kinh tế tư nhân và luôn khẳng
định tầm quan trọng của khu vực kinh tế này.
Kết quả của sự chuyển đổi là thu nhập của người dân Việt nam
đã tăng gấp đôi. Tăng trưởng GDP của Việt nam có thể duy trì 8%/năm
trong 5 năm tới, thậm chí còn có thể nhanh hơn nếu có chính sách cởi
mở, thông thoáng hơn. Tuy nhiên, những thách thức còn lại đối với nền
kinh tế Việt nam là cơ sở hạ tầng đang có nhu cầu đầu tư rất lớn, sự
phân bố nguồn lực về đất đai và tài chính cho khu vực kinh tế nhà nước.
Theo kinh nghiệm của các nước trong khu vực, đến giai đoạn nào đó
của nền kinh tế, nền kinh tế đó vừa tạo điều kiện vừa có nhu cầu đối
với việc thu hút đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII). Và Việt nam chúng ta
đang bước vào giai đoạn này, gia đoạn cần và có để thu hút FII.
Tuy nhiên để làm được điều này, chúng ta phải nỗ lực rất nhiều,
trước tiên là phải tạo ra khung pháp lý cần thiết vì hiện nay chúng ta chưa
có luật qui định cụ thể cho việc thu hút FII. Về mặt cơ chế mà nói,
chúng ta cũng chưa có cơ chế sẵn sàng. Thị trường chứng khoán Việt nam
còn nhỏ bé so với các nước xung quanh và ngay cả chính với nhu cầu
của cúng ta. Một thị trường chứng khoán phát triển ổn định và lành
mạnh là điều chúng ta phải quan tâm khi có khung pháp lý cần thiết.
Chúng ta cũng phải nghó đến vấn đề tranh chấp và xử lý tranh
chấp. Đây cũng là một vấn đề mà luật chúng ta đã có nhưng vẫn còn
thiếu cơ chế cụ thể. Do luật còn thiếu cụ thể nên cơ chế xử lý tranh
chấp còn chưa rõ ràng. Trong Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư chung vừa
được Quốc hội thông qua đã có những tiến bộ rõ nét về xử lý tranh
chấp nhưng cần được cụ thể càng sớm càng tốt bởi các nhà đầu tư gián



tiếp rất nhạy cảm và nhạy cảm hơn các nhà đầu tư FDI đối với mọi sự
cố có thể xảy ra vì nó đe dọa đến hiệu quả đầu tư của họ.
Trong Luật đầu tư chung có qui định “không hạn chế tỷ lệ nắm giữ
của nhà đầu tư nước ngoài ở những lónh vực mà không có điều kiện”,
đây là một bước tiến nhảy vọt và những tiến bộ này đang được các
nhà đầu tư FII theo dõi rất chặt chẽ, góp phần mạnh mẽ thu hút FII. Tuy
nhiên, việc các nhà đầu tư gián tiếp băn khoăn khi bỏ vốn vào Việt nam
là việc mang vốn ra có dễ không? Và khi mang vốn ra thì phải tuân thủ
những qui định gì, theo những qui chế như thế nào? Sự băn khoăn của các
nhà đầu tư cũng chính là những việc chúng ta cần phải làm để đón tiếp
các nguồn đầu tư gián tiếp.
Theo Luật đầu tư nước ngoài của Việt nam , các nhà đầu tư nước
ngoài được phép chuyển lợi nhuận ra nước ngoài trong khi đang hoạt động
cũng như khi chấm dứt dự án đầu tư. Sau những thủ tục thanh lý theo luật
định thì nhà đầu tư nước ngoài có quyền mang cả vốn lẫn lãi của mình
ra.
Tuy nhiên , đối với các nhà đầu tư gián tiếp thì hơi phức tạp hơn
bởi vì một lý do nào đó các đầu tư gián tiếp phải chấm dứt và muốn
thu hồi vốn thì họ phải tìm kiếm đối tác để chuyển nhượng hoặc bán lại
dự án doanh nghiệp mình đã và đang đầu tư. Để làm được điều này,
ngoài những nghị định hướng dẫn cụ thể về qui định đặc thù đối với
đầu tư gián tiếp (hiện luật của chúng ta chưa có nghị định hướng dẫn cụ
thể cho qui chế này) thì thị trường vốn chúng ta phải phát triển mạnh đủ
để có người mua- người bán và cần có nhiều công cụ chuyển nhượng
vốn tinh vi hơn.
Tp. Hồ chí Minh là thành phố trọng điểm kinh tế của cả nước, đã
đạt được mức tăng trưởng 11,8% trong năm qua so với mức tăng trưởng
chung của cả nước là 7,4%. Để thu hút FII, về phần mình trước mắt

Tp.HCM phải giới thiệu những lónh vực mà các nhà đầu tư quan tâm và
có thể bỏ tiền vào; tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các quỹ đầu tư đang
hoạt động ở Việt nam ; mở cửa những lónh vực mà hiện nay họ đang quan
tâm như bất động sản,… Mặt khác, thành phố đang và sẽ kiến nghị với
chính phủ mở cửa thêm một số lónh vực mà các nhà đầu tư quan tâm
đồng thời tạo điều kiện tối đa cho thị trường vốn phát triển.
3. Phát triển hơn nữa thị trường tiền tệ:
Để thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển đáp ứng được các yêu
cầu cần thiết để thu hút được vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, cần có
sự phối hợp chặt chẽ của các ngành, các cấp đồng thời thực hiện đồng
bộ các giải pháp sau đây:
Một là, chuẩn hóa các giao dịch trên thị trường tiền tệ: Để thị
trường thứ cấp phát triển thì một mặt, phải tạo nên nhiều hàng hóa
đồng thời phải chuẩn hóa các công cụ tài chính trên thị trường. Trong
thời kỳ đầu, cần phải tăng cường việc ban hành các giấy tờ có giá
dưới dạng chứng chỉ để công chúng nắm giữ (sau này khi thị trường đã
phát triển thì có thể phát hành thông qua ghi sổ tại ngân hàng). Các
giấy tờ có giá này phải bảo đảm lưu thông một cách dễ dàng có


nghóa là các giấy tờ có giá này phải không ghi danh và có thể chuyển
nhượng, chiết khấu, thanh toán một cách dễ dàng (như vậy các giấy tờ
có giá này sẽ phải đưộc thiết kế an toàn giống như tiền). Ngoài ra, thời
hạn của các giấy tờ có giá này phải đa dạng để đáp ứng nhu cầu của
thị trường (nhất là tín phiếu kho bạc và các tín chỉ tiền giửi của ngân
hàng).
Hai là, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của thị trường
tiền tệ: Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của thị trường tiền
tệ cần tập trung vào các nội dung sau:
- Rà soát và hoàn thiện các qui định hiện hành về phát hành các

công cụ trên thị trường sơ cấp như phát hành thương phiếu, các chứng chỉ
tiền gửi của các ngân hàng thương mại,…
- Xây dựng và hoàn thiện các qui định liên quan tới các nghiệp vụ
của thị trường tiền tệ, xây dựng các định chế chuyên nghiệp cho thị
trường như các văn bản hướng dẫn liên quan đến nghiệp vụ chiết khấu,
REPO, nghiệp vụ hoán đổi,… để các ngân hàng thương mại thực hiện; qui
trình thành lập các định chế tài chính trung gian trên thị trường (Broker,
Dealer,…).
- Khuyến khích các ngân hàng xây dựng các thoả thuận khung (có
thể trong khuôn khổ của Hiệp hội ngân hàng) để làm cơ sở thực hiện
các giao dịch trên thị trường tiền tệ như qui định về hợp đồng mẫu REPO,
các thỏa thuận về thanh toán bù trừ các giấy tờ có giá do các ngân
hàng phát hành; thỏa thuận chia sẽ thông tin và liên kết mạng…
Ba là, nâng cao vai trò của các ngân hàng thương mại trên thị
trường tiền tệ, như những người tạo lập thị trường.
Trên cơ sở các công cụ tài chính được qui chuẩn giao dịch trên thị
trường, các ngân hàng thương mại (đặc biệt là các ngân hàng thương mại
nhà nước, các ngân hàng TMCP qui mô lớn) phải đóng vai trò là các tổ
chức tạo lập thị trường, cụ thể là:
- Phải quan tâm và dành một nguồn vốn nhất định để tam gia trên
thị trường tiền tệ và đưa ra nhiều “sản phẩm“ để đáp ứng nhu cầu về
vốn, đầu tư, phòng ngừa rủi ro của thị trường như chiết khấu giấy tờ có
giá, các hợp đồng REPO, các hợp đồng SWAPS, Option,…).
- Phải niêm yết giá chào 2 chiều (cả cho vay và đi vay) trên thị
trường liên ngân hàng và sẵn sàng thực hiện các giao dịch theo mức lãi
suất đã niêm yết.
- Phải niêm yết lãi suất chiết khấu; giá mua, giá bán các giấy tờ
có giá công khai tại các hội sở và chi nhánh của ngân hàng và thực
hiện các giao dịch theo các mức giá đã niêm yết đó. Đối với các trái
phiếu do ngân hàng phát hành, phải cam kết sẽ chiết khấu (mua lại)

trước hạn theo mức lãi suất chiết khấu của ngân hàng tại thời điểm
chiết khấu.
- Thực hiện việc liên kết giữa các ngân hàng trong việc sẵn sàng
chiết khấu các giấy tờ có giá do các ngân hàng phát hành hoặc tổ
chức thanh toán bù trừ về nghiệp vụ naøy.


- Nâng cao vai trò người cho vay cuối cùng của Ngân hàng nhà
nước thông qua nghiệp vụ thị trường mở và nghiệp vụ cho vay qua đêm
đối với các ngân hàng.
Bốn là, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng để phục vụ cho các
giao dịch trên thị trường tiền tệ và thu thập xử lý thông tin của thị
trường.
Các giao dịch trên thị trường tiền tệ đòi hỏi phải thực hiện nhanh
và trên phạm vi rộng (toàn cầu) vì vậy đòi hỏi việc chào giá, thỏa
thuận và thực hiện giao dịch phải thông qua hệ thống mạng có độ an
toàn cao. Hiện nay, gần 30 ngân hàng thương mại đã thực hiện việc giao
dịch vốn (gửi tiền/cho vay và nhận tiền gửi/đi vay) liên ngân hàng thông
qua hệ thống giao dịch của hãng Reuters.
Tuy nhiên, do thông tin (lãi suất, thời hạn,…) trên thị trường liên
ngân hàng rất quan trọng đối với Ngân hàng trung ương trong việc điều
hành chính sách tiền tệ quốc gia cho nên ở các nước có thị trường phát
triển thì Ngân hàng trung ương thường xây dựng các mạng riêng của mình
(như Fed Wire của Mỹ, BOK Wire của hàn quốc,…) và cho phép ngân
hàng thực hiện các giao dịch vốn ngắn hạn liên ngân hàng thông qua
mạng này. Việc hình thành mạng này có vai trò tích cực đối với hoạt
động của thị trường vì thông qua việc cho phép các ngân hàng giao dịch
qua mạng này Ngân hàng trung ương có thể nắm bắt được đầy đủ thông
tin về thị trường và thực hiện vai trò kiểm soát thị trường của mình. Đối
với các ngân hàng thì giao dịch qua mạng của Ngân hàng trung ương sẽ

tiết kiệm được chi phí (nhiều nước Ngân hàng trung ương còn miễn phí giao
dịch thông qua mạng này) so với thuê của các tổ chức khác. Vì vậy,
Ngân hàng nhà nước cần nghiên cứu để đầu tư một thiết bị mạng tương
tự.
Ngoài ra, cần phải thu thập, phân tích và công bố các chỉ số cơ
bản của thị trường để công chúng và các định chế tài chính tham khảo.
Trong các thông số đó thì lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên
ngân hàng là một thông số quan trọng để đánh giá sự biến động của thị
trường. Hiện nay, hãng Reuters đã xây dựng được trang lãi suất giao dịch
bình quân trên thị trường liên ngân hàng ở Việt nam (VNIBOR) trên cơ
sở chào giá hàng ngày của một số ngân hàng . Tuy nhiên, trong thực tế
lãi suất này ít được tham chiếu vì nó chưa phản ảnh chính xác lãi suất
của thị trường vì vậy cần phải tổ chức lại cho phù hợp hơn.
Năm là, tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, đào tạo cán
bộ phục vụ cho hoạt động của thị trường tiền tệ.
Các nghiệp vụ của thị trường tiền tệ là các nghiệp vụ rất mới
mẽ đối với công chúng và cả các ngân hàng . Vì vậy, các ngân hàng
cần phgải tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, quảng cáo đểà
các khách hàng biết được những tiện ích mang lại khi họ tham gia các dịch
vụ này. Đối với các ngân hàng thì việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có
trình độ về chuyên môn, ngoại ngữ để thực hiện kinh doanh trên thị trường
tiền tệ trong nước và quốc tế là hết sức quan trọng, đảm bảo hoạt động
hiệu quả và thành công của ngân hàng trên thị trường tiền tệ.


4. Phát triển mạnh thị trường chứng khoán
1. Các giải pháp trước mắt:
Để tăng cường thu hút luồng vốn đầu tư gián tiếp trên thị trường
chứng khoán Việt nam thì trước mắt cần áp dụng các giải pháp sau:
Cải thiện môi trường đầu tư nhằm tăng tính cạnh tranh của thị

trường chứng khoán Việt nam so với các nước trong khu vực. Giữa đầu tư
trực tiếp (FDI) và đầu tư gián tiếp (FII) có mối liên hệ với nhau. Nếu
đầu tư trực tiếp được tăng cường thì góp phần nâng cao lượng vốn đầu tư
gián tiếp trên thị trường chứng khoán . Sở dó như vậy là vì các nhà đầu
tư nước ngoài cần đầu tư nguồn vốn tạm thời rỗi của họ mà một trong
những biện pháp tốt nhất là đầu tư trên thị trường chứng khoán . Do đó
nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa cải cách và hoàn thiện môi trường
đầu tư thông qua thiết lập hệ thống quản lý hành chính rõ ràng, minh
bạch và chi phí thấp nhằm khuyến khích đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, chính
phủ cần xây dựng hệ thống cung cấp thông tin kịp thời và đáng tin cậy
cho các nhà đầu tư, hoàn thiện các qui chế kiểm soát thu nhập và ngoại
tệ theo hướng rõ ràng, hợp lý nhằm đảm bảo bình đẳng cho các nhà đầu
tư trong và ngoài nước.
Sớm hình thành dịch vụ chuẩn hóa về cung cấp thông tin cho người
đầu tư chỉ khi nào hệ thống thông tin của thị trường chứng khoán được
hiện đại hóa theo chuẩn mực thì thị trường chứng khoán mới có cơ sở
vận hành công bằng và hiệu quả, thu hút nhiều nhà đầu tư vào thị
trường chứng khoán . Hiện tại những nỗ lực cung cấp thông tin của Trung
tâm giao dịch chứng khoán và công ty chứng khoán chưa đáp ứng yêu
cầu thông tin của nhà đầu tư do việc cung cấp thông tin còn đơn điệu, sơ
lược, chưa đầy đủ. Những qui định cụ thể về trách nhiệm cung cấp thông
tin của các tổ chức niêm yết cũng chưa rõ ràng, hiện tượng cung cấp
thông tin sai lệch chưa được xử lý thích đáng. Có thể nói sớm hình thành
dịch vụ chuẩn hoá về cung cấp thông tin cho nhà đầu tư có một ý nghóa
đặc biệt. Một mặt dịch vụ chuẩn hoá này tạo sức ép buộc các tổ chức
phát hành phải làm ăn đàng hoàng, giúp khắc phục tình trạng lộn xộn
trong điều hành ở nhiều công ty hiện nay. Mặt khác dịch vụ thông tin có
chất lượng giúp cổ đông kiểm soát được giới doanh nghiệp. Đây là mục
tiêu rất quan trọng ở Việt nam hiện nay khi yêu cầu công khai thông tin
trở thành trở ngại đối với công ty cổ phần muốn ra niêm yết.

Nới lỏng và tiến tới xóa bỏ tỷ lệ sở hữu tối đa của nhà đầu tư
nước ngoài. Việc qui định các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được góp vốn,
mua cổ phiếu của các doanh nghiệp Việt nam với mức tối đa là 30% vốn
điều lệ của doanh nghiệp đang là một trong những lực cản lớn nhất trong
việc thu hút luồng vốn đầu tư gián tiếp trên thị trường chứng khoán Việt
nam. Mục tiêu của việc khống chế trên là nhằm giảm thiểu nguy cơ thất
thoát dự trữ trên cán cân thanh toán quốc tế do các nhà đầu tư nước
ngoài có thể chuyển vốn ra khỏi Việt nam . Chính vì vậy, trong thời gian
tới nhà nước cần nới lỏng và tiến tới xóa bỏ tỷ lệ sở hữu tối đa của
nhà đầu tư nước ngoài đối với những ngành mà nhà nước không cần
phải có sở hữu chi phối. Điều này vừa giúp các doanh nghieäp Vieät nam


nâng cao năng lực quản trị, thúc đẩy các doanh nghiệp niêm yết trên thị
trường chứng khoán mà còn góp phần đáng kể vào sự phát triển cỉua
thị trường chứng khoán nước ta trong thời gian tới.
Khi các doanh nghiệp cổ phần hóa lên niêm yết trên thị trường
chứng khoán sẽ mang nhiều giá trị cho các nhà đầu tư bởi vì trước khi
niêm yết hầu hết các khoản đầu tư giàn tiếp được đánh giá ở vốn, khi
lên niêm yết thể hiện được giá trị thực khi có giao dịch phát sinh cụ thể
trên thị trường . Đây là kênh thu hút vốn FII hiệu quả nhất.
Khuyến khích công ty có cổ phần đưa cổ phiếu niêm yết trên thị
trường chứng khoán . Thực trạng hiện nay của thị trường chứng khoán
nước ta có đặc điểm không bình thường ở chỗ công ty cổ phần đủ điều
kiện niêm yết khá hơn nhưng đều trù trừ chưa nhập cuộc ngay. Lý doanh
nghiệp họ đưa ra rất nhiều trong đó có nguyên nhân thị trường chứng
khoán chưa đủ sức khuyến khích các doanh nghiệp tham gia. Do đó để
khuyến khích các công ty cổ phần đủ điều kiện ra niêm yết, trước mắt
nhà nước nên hỗ trợ có thời hạn cho doanh nghiệp trên các mặt:
+ Đối với công ty cổ phần hình thành từ cổ phần hóa thì nhà nước

cần có chính sách ưu đãi về thuế, ưu tiên chuyển giao quyền sử dụng đất
theo cơ chế thị trường, định hướng tín dụng ưu đãi khuyến khích đầu tư,…
nhằm khuyến khích các doanh nghiệp này niêm yết cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán .
+ Cải tiến chế độ kế toán tài chính các công ty cổ phần, đồng
thời tăng cường giám sát để các công ty này cung cấp thông tin chính
xác cho thị trường. Bên cạnh đó cần giáo dục, tuyên truyền cho cổ đông
ở những công ty có đủ điều kiện niêm yết ý thức được quyền lợi của
họ khi công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán .
+ Cải tiến thủ tục xét duyệt cho phép niêm yết để rút ngắn thời
gian và tạo điều kiện dễ dàng cho công ty cổ phần muốn niêm yết từ
đó tăng sức hấp dẫn của thị trường chứng khoán đối với công ty cổ
phần.
Tăng cường hàng hóa có chất lượng trên thị trường chứng khoán
bằng cách cổ phần hóa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và
khuyến khích các doanh nghiệp này niêm yết trên thị trường chứng khoán
. Cổ phần hóa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một biện
pháp trước mắt nhằm cung cấp hàng hóa chất lượng cao cho thị trường
chứng khoán. Ở Việt nam thời gian qua các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài hoạt động tương đối hiệu quả do các doanh nghiệp này có
mô hình quản trị hiện đại, được hưởng những ưu đãi của nhà nước trong
khuyến khích xuất khẩu….Những giải pháp cần thực thi để cổ phần hóa
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là:
+ Nhà nước cần định hướng rõ ràng trong việc xử lý các vấn đề
như ưu đãi mua cổ phiếu của người lao động trong doanh nghiệp , cơ chế
chuyển đổi từ công ty TNHH sang công ty cổ phần, cơ chế chi phối vốn
của đối tác nước ngoài trong các doanh nghiệp sau cổ phần hóa….
+ Xây dựng cơ chế quản lý thích hợp với các doanh nghiệp có vốn
nước ngoài: vấn đề niêm yết của công ty có vốn đầu tư nước ngoài,



×