Tải bản đầy đủ (.docx) (120 trang)

Thực trạng vốn đầu tư quốc tế hiện nay ở Việt Nam.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 120 trang )

Lời mở đầu
Đầu tư quốc tế là một nhân tố cực kỳ quan trọng, trực tiếp ảnh hưởng đến
sự phát triển khoa học công nghệ cũng như trình độ kinh tế của một quốc gia,
đặc biệt là một quốc gia có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, đặc biệt
trong xu hướng hội nhập quốc tế - toàn cầu hóa như hiện nay. Với bản chất là
dòng vốn quốc tế, nên vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam đi theo nhiều hướng
khác nhau - sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, và cũng xuất phát từ nhiều
nguồn khác nhau. Chính sự khác biệt đó đã dẫn đến nhiều sự chênh lệch, mất
cân đối trong nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI). Những mất cân đối đó bao gồm mất cân đối giữa các ngành nghề được
đầu tư, mất cân đối giữa các địa bàn được đầu tư, mất cân đối giữa các ngành
thâm dụng lao động với ngành công nghệ cao, mất cân đối giữa vốn đăng ký và
thực hiện, mất cân đối giữa các đối tác đầu tư. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu còn
nhận thấy một số mất cân đối khác, thí dụ như mất cân đối giữa số lượng và giá
trị dự án đầu tư, mất cân đối giữa hiệu quả của các dự án đầu tư…
Bài viết này xin đề cập đến một số khái niệm cũng như thực trạng vốn đầu
tư quốc tế hiện nay ở Việt Nam. Sau đó chúng tôi xin đi vào nghiên cứu các mất
cân đối kể trên, bao gồm thực trạng, nguyên nhân và hậu quả của chúng, từ đó
đề ra các giải pháp thích hợp - bao gồm các giải pháp chung và cả các giải pháp
riêng cho từng mất cân đối đã phân tích.
Bài viết tuy được đầu tư, tìm hiểu nhiều, nhưng vẫn còn nhiều thiếu sót và
mong có thể được nghiên cứu sâu hơn trong tương lai.
1
Dòng vốn ĐTNN
Dòng vốn chính thức
Viện trợ phát triển
chính thức
ODA
Grants
Concessional
loans


Non-Concessional
Loans
Viện trợ chính thức
OA
Grants
Concessional
loans
Non-Concessional
Loans
Các dòng vốn chính
thức khác OOFs
Dòng vốn của tư
nhân
Đầu tư trực tiếp nước
ngoài FDI
M&A
Greenfield
Investment
Joint Venture
ĐT gián tiếp nước
ngoài FPI
Porfolio
Equity
Flows
Bond
Debt
Flows
Tín dụng tư nhân
Bond
Debt

Flows
Commercial
Loans
1. CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Dòng vốn đầu tư nước ngoài
2
Tuy nhiên hiện nay ở Việt Nam, đầu tư quốc tế được thực hiện dưới 3 hình thức:
đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp và tín dụng quốc tế (chủ yếu thu hutý qua hình thức
thu hút vốn ODA)
1.1. Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA - Official Development Assistance)
1.1.1. Khái niệm
* Khái niệm của DAC - Uỷ ban Hỗ trợ Phát triển (Development Assistance
Committee-DAC) - Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển (OECD), năm 1969
ODA là những luồng tài chính chuyển tới các nước đang phát triển và tới
những tổ chức đa phương để chuyển tới các nước đang phát triển mà:
- Được cung cấp bởi các tổ chức chính phủ (trung ương và địa phương)
hoặc bởi cơ quan điều hành của các tổ chức này;
- Có mục tiêu chính là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phúc lợi của các
nước đang phát triển;
- Mang tính chất ưu đãi và có yếu tố không hoàn lại ≥ 25% (được tính với
tỷ suất chiết khấu 10%)
* Khái niệm của Việt Nam (Theo NĐ/2006/NĐCP)
Hỗ trợ phát triển chính thức là hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà
nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nhà tài trợ
là chính phủ nước ngoài, các tổ chức tài trợ song phương và các tổ chức liên quốc
gia hoặc liên chính phủ.
1.1.2. Đặc điểm của ODA
- Các nhà tài trợ (Donors) bao gồm:
+ Chính phủ các nước chủ yếu là các nước phát triển hoặc tương đối phát triển
(cấp ODA dưới dạng này còn gọi là ODA song phương), cấp ODA mà nhà tài trợ không

phải là các chính phủ gọi là ODA đa phương, xuất phát từ các tổ chức dưới đây).
+ Các tổ chức quốc tế (ODA đa phương)
* Tổ chức liên chính phủ: EC, OECD
* Tổ chức thuộc Liên hợp quốc (United Nations): UNCTAD United Nations
Conference on Trade and Developmen, UNDP United Nations Development
Programme, UNICEF United Nations Children’s Fund, UNIDO United Nations
3
Industrial Development Organisation, WFP World Food Programme, FAO 52.8% Food
and Agricultural Organisation, UNESCO 25.0% United Nations Educational, Scientific
and Cultural Organisation, WHO 75.4% World Health Organisation
* Tổ chức tài chính quốc tế: IMF, WB, WTO (PRGF Trust, MIGA Multilateral
Investment Guarantee Agency), các ngân hàng phát triển khu vực (AsDB Asian
Development Bank, Afr.DB African Development Bank
+ Các tổ chức phi chính phủ (NGO)
Mỗi chính phủ sẽ có các cơ quan riêng để quản lí việc cấp ODA, VD:
Thụy Điển Cơ quan hợp tác phát triển QT Thụy Điển (SIDA)
Australia Cơ quan phát triển quốc tế Australia (AusAID)
Nhật Bản Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA)
Hoa Kỳ Cơ quan phát triển QT Hoa Kỳ (USAID)
Canada Quỹ viện trợ QT (IAE);Cơ quan phát triển QT (CIDA)
- Đối tượng nhận viện trợ (Aid recipients): Là chính phủ các nước đang và
kém phát triển. Cá nhân và doanh nghiệp không được trực tiếp nhận ODA. Chính phủ
là người đứng ra tiếp nhận ODA, nhận nợ với các nhà tài trợ như một khoản nợ quốc
gia và là người phải trả nợ, là người chịu trách nhiệm trước khoản nợ này. ODA được
tính vào thu ngân sách do đó việc sử dụng vốn ODA cho một dự án cụ thể nào đó
được coi là việc sử dụng vốn ngân sách. Các nước công nghiệp phát triển không được
nhận hình thức đầu tư ODA.
- Quan hệ giữa các chủ thể trong hoạt động ODA là quan hệ cấp chính phủ,
song phương hoặc đa phương
- Tính ưu đãi: Lãi suất thấp (dưới 2%/năm), thời gian cho vay dài, có thời gian

ân hạn (chỉ trả lãi, chưa phải trả gốc) (25-40 năm mới phải hoàn trả và thời gian ân hạn
8-10 năm) , giá trị cho vay lớn. Từ các ưu đãi trên nên trong ODA luôn có một tỉ lệ
không hoàn lại nào đó. Theo quy định của DAC, tỉ lệ không hoàn lại hay thành tố ưu
đãi (grant element) phải >= 25% thì mới được coi là khoản vốn ODA.
- Có ràng buộc: các nước nhận viện trợ phải hội đủ một số điều kiện nhất định
mới được nhận tài trợ, điều kiện này tuỳ thuộc quy định của từng nhà tài trợ. Đó là các
điều kiện về chính trị hay về thương mại. Xu hướng ngày nay các ràng buộc về chính trị
giảm dần về hình thức và chủ yếu là các ràng buộc về thương mại, ví dụ: mua hàng của
nước cấp viện trợ, ưu tiên các nước đồng minh chính trị, trong đó hơn 1/4 viện trợ của
OECD đi kèm điều kiện phải mua hàng của nước tài trợ, thậm chí có những nước tỷ
4
trọng này rất cao như Tây Ban Nha (100%), Mỹ (71,6%), Canada (65%), nhưng cũng
có những nước tỷ lệ này rất thấp thậm chí = 0 như Nhật, Ai len, Bồ Đào Nha. Một số
nước tỉ lệ ràng buộc phải mua hàng của nước tài trợ rất thấp như Thụy Sỹ, Hà Lan… Ví
dụ việc cải tổ hệ thống ngân hàng Việt Nam do WB đứng ra tài trợ trong thời gian qua
kèm theo các điều kiện về điều chỉnh hệ thống lãi suất, hệ thống các ngân hàng, hệ
thống quản lý ngân hàng, quy trình hoạt động của ngân hàng theo quy chuẩn của WB...
Tuy nói rằng các ràng buộc về chính trị không còn xuất hiện nhưng thực chất là các
nước viện trợ nhờ vào ràng buộc kinh tế mà dẫn đến các ràng buộc chính trị.
Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như
mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh - quốc
phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị... Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng vào
một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu ưu tiên này thay đổi
cùng với tình hình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội trong nước, khu vực và trên thế
giới).Ví dụ:
• Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế
quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của
nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo
hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối
với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn

chế, có khả năng sinh lời cao
• Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng
thường gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp,
thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo. Ví như các dự án ODA trong lĩnh
vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài
thường chiếm đến hơn 90% (bên nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương cho các
chuyên gia, cố vấn dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như
vậy trên thị trường lao động thế giới).
• Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc
biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp
nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất.
5
- Nhà tài trợ gián tiếp điều hành dự án: Các nhà tài trợ không trực tiếp điều
hành dự án nhưng thực chất có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ
trợ chuyên gia. Tuy nước chủ nhà có quyền sử dụng quản lý vốn ODA nhưng thông
thường mẫu lập dự án ODA phải có sự thoả thuận với các nhà tài trợ và các nhà tài trợ
xem xét rất kỹ các dự án xin tài trợ và kiểm tra một cách kỹ lưỡng việc thực hiện dự án
có đúng mục đích hay không. Ví dụ các nhà đầu tư có thể chia dự án tổng thành các tiểu
dự án, các giai đoạn, nếu hoàn thành giai đoạn trước thì mới được cấp vốn tiếp để tiếp
tục giai đoạn sau, nếu không thì bị cắt vốn đầu tư, với mục đích dễ dàng kiểm soát vốn
và tiến độ của dự án.
- Có tính phúc lợi xã hội: Lĩnh vực đầu tư của ODA chủ yếu là các lĩnh vực
không hoặc ít sinh lợi nhuận, đó là các công trình công cộng mang tính chất phúc lợi xã
hội như các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng, các công trình giao thông vận tải, giáo dục
y tế, là các khoản đầu tư mang tính chất hỗ trợ giữa các chính phủ với nhau. Ví dụ việc
nâng cấp quốc lộ 1A... Do ODA là các khoản cho vay có lợi về mặt kinh tế xã hội cho
nước nhận đầu tư nên nó được hưởng rất nhiều ưu đãi.
Tuy các nhà tài trợ thường cấp ODA không phải với mục đích tìm kiếm lợi
nhuận mà để khẳng định vị thế quốc gia, thông qua ODA mở đường cho đầu tư tư nhân,
khu vực kinh tế tư nhân thâm nhập vào thị trường nước nhận viện trợ thông qua các

khoản viện trợ.
- Có nguy cơ để lại gánh nặng nợ nần cho các quốc gia nhận viện trợ do như
đã nói ở trên lĩnh vực đầu tư thường là những lĩnh vực không sinh lợi nhuận, các chủ
đầu tư không trực tiếp tham gia điều hành quản lý dự án nên hiệu quả sử dụng vốn
thường thấp. Vì thế khi nhận viện trợ dưới hình thức này thì chính phủ các nước nhận
viện trợ phải đề ra các mục tiêu phát triển kinh tế các khu vực được hưởng lợi từ hoạt
động ODA, để sau khi dự án đi vào hoạt động thì thu nhập từ các hoạt động kinh tế
khác mới có thể bù đắp chi phí cho hoạt động ODA và nhờ vào đó quốc gia ấy mới có
thể trả nợ được. Ví dụ: Châu Phi
Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn lại
tăng lên.
Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút
và sử dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu kinh
6
nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… khiến cho hiệu quả
và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp... có thể đẩy nước
tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần.
1.2 Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI – Foreign Direct Investment)
1.2.1. Khái niệm
* Khái niệm của IMF: FDI là một hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm đạt
được những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một
nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền
quản lý thực sự doanh nghiệp.
* Khái niệm của OECD: Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư được thực hiện
nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh nghiệp đặc biệt là những
khoản đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý doanh nghiệp nói
trên bằng cách :
Thành lập hoặc mở rộng một doanh nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn
quyền quản lý của chủ đầu tư.
Mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có.

Tham gia vào một doanh nghiệp mới.
Cấp tín dụng dài hạn (> 5 năm)
Quyền kiểm soát : nắm từ 10% cổ phiếu thường hoặc quyền biểu quyết trở lên.
*Khái niệm của WTO: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà
đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu
hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt
FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài
sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường
hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là
"công ty con" hay "chi nhánh công ty".
* Theo Luật đầu tư năm 2005 của Việt nam, Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu
tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
Kết luận:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một khoản đầu tư đòi hỏi một mối quan tâm
lâu dài và phản ánh lợi ích dài hạn của chủ đầu tư nước ngoài
7
- FDI chỉ ra rằng chủ đầu tư phải có một mức độ ảnh hưởng đáng kế (mức
độ kiểm soát) đối với việc quản lý doanh nghiệp nhận đầu tư ở nước ngoài. Tiếng
nói hiệu quả trong quản lý phải đi kèm với một mức sở hữu cổ phần nhất định thì
mới được coi là FDI
1.2. 2. Đặc điểm của FDI
- Là hoạt động tìm kiếm lợi nhuận: FDI chủ yếu là đầu tư tư nhân với mục
đích hàng đầu là tìm kiếm lợi nhuận. Các nước nhận đầu tư, nhất là các nước đang phát
triển cần lưu ý điều này khi tiến hành thu hút FDI, phải xây dựng cho mình một hành
lang pháp lý đủ mạnh và các chính sách thu hút FDI hợp lý để hướng FDI vào phục vụ
cho các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của nước mình, tránh tình trạng FDI chỉ phục
vụ cho mục đích tìm kiếm lợi nhuận của các chủ đầu tư.
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỷ lệ vốn tối thiểu trong vốn
pháp định hoặc vốn điều lệ tuỳ theo quy định của luật pháp từng nước để giành
quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát doanh nghiệp nhận đầu tư. Luật các nước

thường quy định không giống nhau về vấn đề này. Luật Mỹ quy định tỷ lệ này là 10%,
Pháp và Anh là 20%, theo Luật Đầu tư năm 2005 thì Việt nam không quy định vốn góp
tối thiểu của chủ đầu tư nước ngoài nữa, theo qui định của OECD (1996) thì tỷ lệ này là
10% các cổ phiếu thường hoặc quyền biểu quyết của doanh nghiệp - mức được công
nhận cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia thực sự vào quản lý doanh nghiệp.
- Tỷ lệ đóng góp của các bên trong vốn điều lệ hoặc vốn pháp định sẽ quy
định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, đồng thời lợi nhuận và rủi ro cũng được phân
chia dựa vào tỷ lệ này. Theo Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam, trong doanh nghiệp
liên doanh, các bên chỉ định người của mình tham gia vào Hội đồng quản trị theo tỷ lệ
tương ứng với phần vốn góp vào vào vốn pháp định của liên doanh
1
. Ví dụ công ty liên
doanh phần mềm Việt –Nhật VIJASGATE có vốn điều lệ 500000USD, trong “điều lệ
doanh nghiệp” của công ty có ghi rõ: bên VN góp 200000USD tương đương 40%, bên
Nhật Bản góp 300.000USD tương đương 60%, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên phân
chia theo tỷ lệ vốn góp, số người tham gia hội đồng quản trị cũng theo tỷ lệ 4/6. Trong
các trường hợp đặc biệt, quyền lợi và nghĩa vụ các bên không phân chia theo tỷ lệ vốn
góp và điều này được ghi rõ trong điều lệ doanh nghiệp, nó phụ thuộc vào ý chí của
1
8
các chủ đầu tư. Ví dụ vốn góp theo tỉ lệ 40/60 nhưng quyền lợi và nghĩa vụ theo tỷ lệ
50/50.
- Thu nhập mà chủ đầu tư thu được phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, nó mang tính chất thu nhập kinh doanh chứ
không phải lợi tức.
- Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu
trách nhiệm về lỗ lãi. Nhà đầu tư nước ngoài được quyền tự lựa chọn lĩnh vực đầu tư,
hình thức đầu tư, thị trường đầu tư, quy mô đầu tư cũng như công nghệ cho mình, do đó
sẽ tự đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ. Vì thế, hình thức này mang tính khả
thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh

nặng nợ nần cho nền kinh tế nước nhận đầu tư.
- FDI thường kèm theo chuyển giao công nghệ cho các nước tiếp nhận đầu
tư. Thông qua hoạt động FDI, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kĩ thuật
tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý. Ví dụ trong lĩnh vực bưu chính viễn thông của
Việt Nam, hầu hết công nghệ mới trong lĩnh vực này có được nhờ chuyển giao công
nghệ từ nước ngoài.
* Tóm lại:
- Điểm quan trọng để phân biệt FDI với các hình thức khác là quyền kiểm soát,
quyền quản lý đối tượng tiếp nhận đầu tư.
- Đối với nước tiếp nhận đầu tư thì ưu điểm của hình thức này là tính ổn định và
hiệu quả sử dụng vốn của FDI cao hơn các hình thức khác do nhà đầu tư trực tiếp sử
dụng vốn. Nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn để chuyển sang các hình thức đầu tư khác
nếu thấy sự bất ổn của nền kinh tế nước nhận đầu tư. Do đó mức độ ổn định của dòng
vốn đầu tư đối với nước chủ nhà cao hơn. Nhược điểm là nước chủ nhà bị phụ thuộc
vào kinh tế ở khu vực FDI.
- Đối với nhà đầu tư: Chủ động nên có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu
tư, lợi nhuận thu về cao hơn. Có thể chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm, khai thác
nguồn nguyên liệu, nhân công giá rẻ và những lợi thế khác của nước nhận đầu tư,
tranh thủ những ưu đãi từ các nước nhận đầu tư. Tuy nhiên hình thức này mang tính
rủi ro cao vì chủ đầu tư hoàn toàn chịu trách nhiệm về dự án đầu tư. Hoạt động đầu tư
9
chịu sự điều chỉnh từ phía nước nhận đầu tư. Không dễ dàng thu hồi và chuyển nhượng
vốn.
1.3. Đầu tư gián tiếp nước ngoài (Foreign Portfolio Investment - FPI)
1.3.1. Khái niệm
FPI là hình thức đầu tư quốc tế trong đó chủ đầu tư của một nước mua chứng
khoán hoặc tài sản tài chính khác của các công ty, các tổ chức phát hành ở nước ngoài
để thu lợi nhuận mà không nắm quyền kiểm soát trực tiếp đối với công ty hoặc tổ chức
phát hành chứng khoán
2

.
1.3.2. Đặc điểm
- Số lượng chứng khoán mà các công ty nước ngoài được mua có thể bị
khống chế ở mức độ nhất định tuỳ theo từng loại chứng khoán và tuỳ theo từng
nước để nước nhận đầu tư kiểm soát khả năng chi phối doanh nghiệp của nhà đầu
tư chứng khoán.
Ở Việt nam, theo Quyết định số 238/2005 QĐ-TTg ban hành ngày 29/9/2005, tỉ
lệ nắm giữ tối đa cổ phiếu được niêm yết của bên nước ngoài là 49%, đối với trái phiếu
thì không giới hạn tỷ lệ nắm giữ đối với nhà đầu tư nước ngoài.
- Chủ đầu tư nước ngoài không nắm quyền kiểm soát hoạt động của tổ chức
phát hành chứng khoán; bên tiếp nhận đầu tư có quyền chủ động hoàn toàn trong
sản xuất kinh doanh. Đặc điểm này có thể suy ra từ đặc điểm trên, bởi vì chủ đầu tư
nước ngoài chỉ được nắm giữ một tỉ lệ chứng khoán tối đa nào đó mà thôi, tỉ lệ mà trên
mức đó thì hoạt động đầu tư của anh ta sẽ được coi là FDI tức là anh ta có quyền kiểm
soát hoạt động của tổ chức phát hành chứng khoán. Chúng ta cần phân biệt quyền kiểm
soát và quyền sở hữu. Hai quyền này khác nhau. Không phải lúc nào có quyền sở hữu
cũng đồng nghĩa với việc có quyền kiểm soát doanh nghiệp. Ví dụ khi mua cổ phiếu,
nhà đầu tư có quyền sở hữu doanh nghiệp tương ứng với số cổ phiếu xác nhận quyền
sở hữu mà anh ta đã mua, tuy nhiên anh ta có thể không có quyền kiểm soát doanh
nghiệp. Còn khi mua trái phiếu thì nhà đầu tư nước ngoài không có quyền cả về sở hữu
lẫn kiểm soát doanh nghiệp.
- Thu nhập của chủ đầu tư phụ thuộc vào loại chứng khoán mà nhà đầu tư
mua, có thể cố định hoặc không. Nếu nhà đầu tư mua trái phiếu thì sẽ được hưởng trái
2
10
tức cố định, tuy nhiên cũng có những loại trái phiếu một phần thu nhập cố định một
phần thay đổi theo kết quả sản xuất kinh doanh. Còn nếu mua cổ phiếu thì sẽ được
hưởng cổ tức tuỳ theo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và quyết định phân chia lợi
nhuận sau mỗi kỳ kinh doanh của hội đồng cổ đông.
- Nước tiếp nhận đầu tư không có khả năng, cơ hội tiếp thu công nghệ, kỹ

thuật máy móc thiết bị hiện đại và kinh nghiệm quản lý vì kênh thu hút đầu tư loại
này chỉ tiếp nhận vốn bằng tiền.
- Lý do đầu tư chứng khoán nước ngoài: Cơ cấu tương quan quốc tế: thu
nhập đầu tư chứng khoán giữa các quốc gia ít tương quan với nhau như trong một
quốc gia và phân tán rủi ro
Tóm lại: Thu nhập, lợi nhuận trong hoạt đồng FPI khá ổn định và thấp hơn FDI,
tuy vậy nhà đầu tư vẫn chọn nó do độ tương quan quốc tế giữa các chứng khoán là rất
thấp và chu kì kinh doanh giữa các quốc gia thường không đồng bộ. Đối với nước tiếp
nhận đầu tư hình thức này có các ưu điểm sau: giúp cho thị trường chứng khoán, một
công cụ tài chính hiện đại hiện nay trên thế giới, sôi động và phát triển hơn, ít sợ bị phụ
thuộc vào mặt kinh tế vì các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ một tỉ lệ nhỏ CK, chủ đầu
tư không có quyền kiểm soát doanh nghiệp nên sẽ không sợ bị nhà ĐTNN cạnh tranh và
giành độc quyền với nền kinh tế trong nước. Nhược điểm là độ ổn định không cao do
nhà đầu tư dễ dàng bán chứng khoán khi không muốn đầu tư nữa.
11
1.3.3. Các hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài
Đầu tư cổ phiếu Đầu tư trái phiếu
Đối tượng ĐT Cổ phiếu (Equity/Share): là chứng
chỉ sở hữu (certificate of ownership)
Trái phiếu(Bond): là chứng chỉ nợ
(debt certificate)
Quan hệ giữa nhà
đầu tư và DN phát
hành
Quan hệ sở hữu (chủ sở hữu và đối
tượng sở hữu)
Chủ đầu tư là cổ đông (share-
owner)/chủ sở hữu của công ty
Quan hệ tín dụng (chủ nợ và con nợ-
creditor &borrower)

Chủ đầu tư là trái chủ (bond-
bearer)/chủ nợ của công ty
Thu nhập mà DN
phát hành trả cho nhà
ĐT
- Cổ tức (Divident): là lợi nhuận
công ty đợc chia tương ứng với phần
vốn góp.
=>Thu nhập không cố định*
-Trái tức (Interest): là lãi tương ứng
với phần vốn cho vay.
=>Thu nhập cố định
So sánh giữa chi phí
và thu nhập mà DN
trả cho nhà ĐT (đối
với 1 chứng khoán)
-Chi phí: giá thị trường (market
price)
(không phải mệnh giá-face value-
MG)
-Thu nhập:
Cổ tức = TNDN x (MG/TVĐT DN)
= MG x (TNDN/TVĐTDN)
= MG x ROI
DN
-Chi phí: giá thị trường (market
price)
(không phải mệnh giá-face value-
MG)
-Thu nhập:

Trái tức = MG x lãi suất trái phiếu
Thu nhập của nhà
ĐT chứng khoán
Không chỉ có cổ tức mà còn có thu
nhập từ việc mua, bán chứng khoán
(phần chênh lệch giữa giá mua và giá
bán-spread)
Không chỉ có trái tức mà còn có thu
nhập từ việc mua, bán chứng khoán
(phần chênh lệch giữa giá mua và giá
bán-spread)
* Chỉ áp dụng với cổ phiếu thường (common stock) không áp dụng với cổ phiếu ưu đãi
Những tác động tích cực của FPI
• Góp phần làm tăng nguồn vốn trên thị trường vốn nội địa và làm giảm chi
phi vốn thông qua việc đa dạng hoá rủi ro.
• Thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tài chính nội địa.
• Thúc đẩy cải cách thể chế và nâng cao kỷ luật đối với các chính sách của
chính phủ.
Những tác động tiêu cực của FPI
12
• Nếu dòng FPI vào tăng mạnh, thì nền kinh tế tiếp nhận dễ rơi vào tình
trạng phát triển quá nóng (bong bóng), nhất là các thị trường tài sản tài chính của nó.
• Vốn FPI có đặc điểm là di chuyển (vào và ra) rất nhanh, nên no sẽ khiến
cho hệ thống tài chính trong nước dễ bị tổn thương và rơi vào khủng hoảng tài chính
một khi gặp phải các cú sốc từ bên trong cũng như bên ngoài nền kinh tế.
• FPI làm giảm tính độc lập của chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái.
1.4. Vai trò của đầu tư quốc tế
Ngày nay, đầu tư quốc tế đã trở thành một phần quan trọng không thể thiếu của
nền kinh tế các nước, đặc biệt là những nước đang phát triển như Việt Nam. Ta có thể
thấy rõ vai trò này hơn qua từng hình thức đầu tư quốc tế tại Việt Nam.

1.4.1 ODA
- ODA là một nguồn vốn có vai trò quan trọng đối với các nước đang và chậm
phát triển
Đối với các nước đang phát triển khoản viện trợ và cho vay theo điều kiện ODA
là nguồn tài chính quan trọng. Nhiều nước đã tiếp thu một lượng vốn ODA khá lớn như
một bổ sung quan trọng cho phát triển.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, nhiều nước ở Châu á đã tranh thủ được nguồn
vốn ODA từ các nước giàu. Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, Đài Loan đã nhận
được viện trợ từ Hoa Kỳ tới 1,482 tỷ USD. Vốn viện trợ đã góp phần rất đáng kể trong
quá trình đi lên của Đài Loan. Năm 1945, ngay sau khi chiến tranh thế giới thứ II kết
thúc, Nhật Bản đã gặp rất nhiều khó khăn. Khi đó, Nhật Bản đã nhận được sự giúp đỡ
của Hoa Kỳ, các nước khác trên thế giới, Quỹ nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) và
các tổ chức khác của Liên Hợp Quốc bằng thực phẩm, thuốc men, các dịch vụ y tế và
một số hình thức trợ giúp khác.
Theo báo cáo của WB, từ năm 1971 đến năm 1974, tại Philippin vốn chi phí cho
phát triển giao thông vận tải chiếm tới 50% tổng vốn dành cho xây dựng cơ bản và 60%
tổng vốn vay ODA được chi cho phát triển cơ sở hạ tầng.
Nhiều công trình hạ tầng kinh tế xã hội như sân bay, bến cảng, đường cao tốc,
trường học, bệnh viện, trung tâm nghiên cứu khoa học mang tầm cỡ quốc gia ở Thái
Lan, Singapore, Inđônêxia đã được xây dựng bằng nguồn vốn ODA của Nhật Bản, Hoa
13
Kỳ, WB, ADB và một số nhà tài trợ khác. Một số nước Nhật Bản, Hàn Quốc trước đây
cũng dựa vào nguồn ODA của Hoa Kỳ, WB, ADB để hiện đại hóa hệ thống giao thông
vận tải của mình.
- ODA giúp các nước nghèo tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ
hiện đại và phát triển nguồn nhân lực
Những lợi ích quan trọng mà ODA mang lại cho các nước nhận tài trợ là công
nghệ, kỹ thuật hiện đại, kỹ xảo chuyên môn và trình độ quản lý tiên tiến. Các nhà tài trợ
còn ưu tiên đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực vì họ tin tưởng rằng việc phát triển của
một quốc gia quan hệ mật thiết với việc phát triển nguồn nhân lực.

ODA được cấp cho các nước nhận tài trợ thông qua các hoạt động như: Hợp tác
kỹ thuật, huấn luyện, đào tạo nhằm đào tạo cán bộ chuyên môn để đóng góp vào sự
phát triển kinh tế, xã hội của các nước có người được huấn luyện, đào tạo, cử chuyên
gia để chuyển giao hiểu biết, công nghệ cho các nước đang phát triển thông qua định
hướng, điều tra và nghiên cứu, góp ý, cung cấp thiết bị và vật liệu độc lập cũng là một
bộ phận của chương trình hợp tác kỹ thuật, hợp tác kỹ thuật theo thể loại từng dự án
- ODA giúp các nước đang phát triển điều chỉnh cơ cấu kinh tế
- ODA góp phần tăng khả năng thu hút vốn FDI và tạo điều kiện để mở rộng
đầu tư phát triển trong nước ở các nước đang và chậm phát triển
Việc sử dụng vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện cho các
nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các công trình sản xuất kinh doanh có khả
năng mang lại lợi nhuận.
ODA ngoài việc bản thân nó là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho các nước
đang và chậm phát triển, nó còn có tác dụng làm tăng khả năng thu hút vốn từ nguồn
FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước, góp phần thực hiện thành
công chiến lược hướng ngoại. Tất cả các nước theo đuổi chiến lược hướng ngoại đều có
nhịp độ tăng trưởng kinh tế rất nhanh và biến đổi cơ cấu kinh tế trong nước mạnh mẽ
trong một thời gian ngắn để chuyển từ nước Nông - Công nghiệp thành những nước
Công - Nông nghiệp hiện đại, có mức thu nhập bình quân đầu người cao.
1.4.2 FDI
1.4.2.1 Vai đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam
14
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng đònh vai
trò quan trọng trong nềnkinh tế VN. Trước hết, FDI là nguồn vốn bổ sung
quan trọng vào tổng đầu tư xã hội và góp phầncải thiện cán cân thanh
toán trong giai đoạn vừa qua. Thực tế số liệu thống kê VN cho thấy rằng khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp quan trọng vào GDP với tỷ
trọng ngày càng tăng. Khu vực này góp phần tăng cường năng lực sản
xuất và đổi mới công nghệ của nhiều ngành kinh tế, khai thông thò trường
sản phẩm (đặc biệt là trong gia tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá), đóng

góp cho ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho một bộ phận lao động.
Bên cạnh đó, FDI có vai trò trong chuyển giao công nghệ và các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo sức ép buộc các doanh nghiệp trong
nước phải tự đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất. Các dự án
FDI cũng có tác động tích cực tới việc nâng cao năng lực quản lý và trình
độ của người lao động làm việc trong các dự án FDI, tạo ra kênh truyền
tác động tràn tích cực hữu hiệu.
1.4.2.2. FDI dối với dầu tư xã hội
VN tiến hành công cuộc đổi mới với xuất phát điểm rất thấp. Do vậy,
xét về nhu cầu vốn, FDI được coi là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho
vốn đầu tư trong nước, nhằm đáp nhu cầu đầu tư cho phát triển. Vốn đầu tư
của khu vực FDI chiếm khoảng 25% trong tổng đầu tư trong giai đoạn 1991-
1995 với mức cao nhất là 30,4% trong name 1995, bình quân 1991-1995 là 3.533
triệu USD; và khoảng 21% trong giai đoạn 1996-2000, bình quân 1996-2000 là
5.252 triệu USD; sau đó giảm còn 16% tính bình quân cho giai đoạn 2001-2005,
bình quân 2001-2005 là 4.144 triệu USD, và tăng lean 23,6% trong giai đoạn
2006-2008, bình quân 2006- 2008 là 7.876 triệu USD. Năm 2009, la 1208 dự án với
số vốn thực hiện là 10 tỷ USD.
Xu hướng trên của nguồn vốn FDI cho thấy mặc dù đóng vai trò là nguồn
vốn bổ sung quan trọng trong tổng đầu tư xã hội của VN, nhưng sự phát
triển nguồn vốn. FDI là thiếu ổn đònh theo các giai đoạn phát triển.
15
Có thể thấy đầu tư FDI vào Việt Nam trong nửa đầu năm 2010 là khá cao. Vốn tổng
vốn đầu tư trên 7.9 tỷ USD bao gồm khoảng 438 dự án. Trong đó trong năm 2010 này,
hà Lan là nhà đầu tư lớn nhất với chỉ 5 dự án nhưng tổng vốn đầu tư đã lên đến hơn 2.2
tỷ USD. Tiếp đó là hàn quốc với số vốn đầu tư 1.563 triệu USD.
1.5 Mặt trái của đầu tư quốc tế
1.5.1 Về phía nước nhập khẩu vốn đầu tư
1.5.1.1. ODA
Dù là nguồn vốn hỗ trợ chính thức (ODA) có điều kiện ưu đãi cao nhất, cho đến

các khoản vốn vay thương mại thông thường trên thị trường tài chính quốc tế thì nghĩa
vụ nợ (bao gồm trả lãi và nợ gốc) cũng luôn luôn đặt ra cho người vay. Một cơ cấu nợ
mà chiếm tỷ trọng lớn nhất là những khoản vay thương mại “nóng”, lãi cao, và bằng
những ngoại tệ không ổn định theo xu hướng “đắt” lên sẽ chứa đựng những xung lực
lạm phát mạnh. Những xung lực này càng mạnh hơn nếu vốn vay không được quản lý
tốt và sử dụng có hiệu quả, buộc con nợ phải tiếp tục tìm kiếm các khoản vay mới, với
những điều kiện có thể ngặt nghèo hơn – chiếc bẫy nợ sập lại, con nợ rơi vào vòng xoáy
mới: Nợ-vay nợ mới-tăng nợ-tăng vay… Vòng xoáy này sẽ dẫn con nợ đến sự vỡ nợ
hoặc vòng xoáy lạm phát: Nợ-tăng nghĩa vụ nợ-tăng thâm hụt ngân sách-tăng lạm phát.
Lúc này dịch vụ nợ sẽ ngốn hết những khoản chi ngân sách cho phát triển và ổn định xã
hội, làm căng thẳng thêm trạng thái khát vốn và hỗn loạn xã hội. Hơn nữa, việc “thắt
lưng buộc bụng” trả nợ khiến nước nợ phải hạn chế nhập và tăng xuất, trong đó có hàng
tiêu dùng mà trong nước còn thiếu hụt, do đó làm tăng mất cân đối hàng tiền, tăng giá,
tăng lạm phát. Nợ nước ngoài có thể làm sụp đổ cả một chính phủ, nhất là ở những nơi
tình trạng tham nhũng và vô trách nhiệm là phổ biến của giới cầm quyền, đi kèm với
việc thiếu những giải pháp xử lý mềm dẻo khôn ngoan với nợ (đàm phán gia hạn nợ,
đổi nợ thành đầu tư, đổi cơ cấu và điều kiện nợ, xin xoá nợ từng phần…). Do vậy, sự
chủ động và tỉnh táo khống chế nợ ở mức độ an toàn, theo những dự án đầu tư cụ thể,
được luận chứng kinh tế – kỹ thuật đầy đủ, và chấp nhận sự kiểm tra, giám sát của chủ
nợ để tránh hao hụt do tham nhũng hay sử dụng nợ sai mục đích là những nguyên tắc
hàng đầu cần được tuân thủ trong quá trình vay nợ nước ngoài.
1.5.1.2. FDI
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới mọi dạng sẽ an toàn và tốt hơn việc
trực tiếp vay nợ thương mại (kể cả dưới dạng mua hàng trả chậm theo L/C). Hơn nữa,
16
điều này còn tránh cho nước tiếp nhận đầu tư những khó khăn, lúng túng ban đầu về thị
trường, kinh nghiệm quản lý-kinh doanh quốc tế. Cùng với những bảo đảm pháp lý có
tính quốc tế, bằng cách điều chỉnh những chiếc “van” như: Ưu đãi thuế, tài chính, tiền
tệ, phát triển hạ tầng cứng-mềm, các thủ tục hải quan, hành chính, các nước chủ nhà có
thể hướng dẫn luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào đúng chỗ, đúng lúc, đủ khối

lượng cần thiết theo kế hoạch định hướng sự phát triển kinh tế-xã hội của mình. Song,
trong lĩnh vực tưởng chừng toàn những điều tốt lành này, những tác động mặt trái của
FDI vẫn ẩn khuất đâu đó:
Thứ nhất, thực tiễn thế giới cho thấy, dòng vốn đầu tư này chỉ thực sự tích cực
và góp phần làm dịu lạm phát khi chúng làm tăng cung những hàng khan hiếm, tăng
nhập khẩu phụ tùng thiết bị sản xuất và công nghệ tiên tiến, từ đó làm tăng tiềm lực
xuất khẩu, khả năng cạnh tranh, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu ngân sách cho
nước chủ nhà và giúp hạn chế sức ép tăng tỷ giá tiền tệ thực tế. Ngược lại, nếu thiên về
khuynh hướng kích thích nền kinh tế bong bóng, kích thích và thoả mãn những tiêu
dùng cao cấp vượt quá khả năng kinh tế và sự tích luỹ cần thiết của nước tiếp nhận đầu
tư, thì về lâu dài, chúng sẽ có hại cho các nguồn lực tăng trưởng kinh tế, tăng nhập siêu
và làm mất cân đối tài khoản vãng lai, do đó làm tăng các xung lực lạm phát tương lai
của đất nước.
Thứ hai, nếu việc chuyển giao công nghệ (cả phần “cứng” lẫn phần “mềm”)
không được thực hiện đầy đủ, hoặc chỉ chuyển giao những công nghệ lạc hậu, thì mặc
nhiên “những lợi thế tương đối của nước bắt đầu muộn” sẽ bị tước bỏ – đó là một mặt.
Mặt khác, khi đó nước tiếp nhận không chỉ không cải thiện được tình trạng công nghệ,
khả năng xuất khẩu, mà còn phải chịu thêm gánh nặng nuôi dưỡng và dỡ bỏ những
công nghệ “bất cập” này theo kiểu “bỏ thì vương, thương thì tội”. Ngoài ra, còn phải kể
thêm tình trạng phụ thuộc một chiều vào đối tác nước ngoài về kinh tế – kỹ thuật của
nước tiếp nhận dòng đầu tư kiểu ấy gây ra. Do đó, hiệu quả tiếp nhận vốn đầu tư sẽ
không như mong đợi, hoặc không tương xứng với chi phí của nước chủ nhà bỏ ra, cả về
chi phí tài chính, nhân lực và môi trường, tức “một tiền gà, ba tiền thóc”.
Thứ ba, để hấp thụ được 1 USD đầu tư nước ngoài, theo tính toán của các
chuyên gia thế giới, nước tiếp nhận cũng phải có sự bỏ vốn đầu tư đối ứng từ 0,5 – 3
USD, thậm chí nhiều hơn. Thêm nữa, lượng ngoại tệ đổ vào trong nước sẽ làm tăng
lượng cung tiền tệ lẫn lượng cầu hàng hoá và dịch vụ tương ứng. “Hợp lực” của những
yếu tố đó sẽ tạo nên những xung lực lạm phát mới do tính chất “quá nóng” của tăng
trưởng kinh tế gây ra.
Thứ tư, cần tính đến tác động kinh tế-xã hội và môi trường tổng hợp của các dự

án FDI, nhất là các dự án dùng nhiều đất nông nghiệp, tạo áp lực thất nghiệp và là
nguồn phát thải, gây ô nhiễm môi trường lớn trong tương lai. Đặc biệt, các dự án xây
dựng sân golf ở đồng bằng, vùng đất màu mỡ và những dự án “bán bờ biển” cho các
nhà kinh doanh du lịch nước ngoài rất dễ làm tổn thương đến lợi ích lâu dài của các thế
hệ tương lai.
1.5.1.3. Đầu tư gián tiếp FPI
Tăng mức độ nhạy cảm và khả năng bất ổn về kinh tế liên quan đến các nhân tố nước
ngoài. Khác với FDI, vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài được thực hiện dưới dạng đầu tư
tài chính thuần tuý với các chứng khoán có thể chuyển đổi và mang tính thanh khoản
cao trên thị trường tài chính, nên các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài dễ dàng và nhanh
chóng mở rộng hoặc thu hẹp, thậm chí đột ngột rút vốn đầu tư của mình về nước, hay
chuyển sang đầu tư dưới dạng khác, ở địa phương khác tuỳ theo kế hoạch và mục tiêu
17
kinh doanh của mình. Đặc trưng nổi bật đó cũng chính là nguyên nhân hàng đầu gây
nên nguy cơ tạo và khuyếch đại độ nhạy cảm và chấn động kinh tế ngoại nhập của dòng
vốn này đối với nền kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt khi việc chuyển đổi và
rút vốn đầu tư gián tiếp nói trên diễn ra theo kiểu “tháo chạy” đồng loạt trên phạm vi
rộng và số lượng lớn… Trong tình huống như vậy, một sự đổ vỡ, một cuộc khủng
hoảng đầu tư – tài chính – tiền tệ, lạm phát cao, thậm chí là khủng hoảng kinh tế hết sức
tệ hại và bất khả kháng là hoàn toàn có thể xảy ra đối với nước tiếp nhận đầu tư, nếu
không có và triển khai tốt các phương án phòng ngừa hiệu quả.
Gia tăng nguy cơ bị mua lại, sáp nhập, khống chế và lũng đoạn tài chính đối với các
doanh nghiệp và tổ chức phát hành chứng khoán.Sự gia tăng tỷ lệ nắm giữ chứng
khoán, nhất là các cổ phiếu, cổ phần sáng lập, được biểu quyết của các nhà đầu tư gián
tiếp nước ngoài đến một mức “vượt ngưỡng” nhất định nào đó sẽ cho phép họ tham dự
trực tiếp vào chi phối và quyết định các hoạt động sản xuất – kinh doanh và các chủ
quyền khác của doanh nghiệp, tổ chức phát hành chứng khoán, thậm chí lũng đoạn
doanh nghiệp theo phương hướng, kế hoạch, mục tiêu riêng của mình, kể cả các hoạt
động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là, tính chất gián tiếp của vốn
đầu tư nước ngoài đã chuyển hoá thành tính trực tiếp. Nhà đầu tư gián tiếp sẽ chuyển

hoá thành nhà đầu tư trực tiếp. Thậm chí, về lô-gích, quá trình “diễn biến hoà bình” này
đạt tới quy mô và mức độ nào đó còn có thể làm chuyển đổi về chất quyền sở hữu và
tính chất kinh tế ban đầu của doanh nghiệp và quốc gia.
Tăng quy mô, tính chất và sự cấp thiết đấu tranh với tình trạng tội phạm kinh tế
quốc tế như: Hoạt động lừa đảo, hoạt động rửa tiền, hoạt động tiếp vốn cho các kinh
doanh phi pháp và hoạt động khủng bố, cùng các loại tội phạm và các đe doạ an ninh
phi truyền thống khác. Sự cộng hưởng của các hoạt động tội phạm và tác động mặt trái
của các dòng vốn kể trên, nhất là khi chúng diễn ra một cách “có tổ chức” của giới đầu
cơ hay lực lượng thù địch chính trị quốc tế, sẽ ít nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, trước
mắt và lâu dài gây tổn hại tới hoạt động kinh tế lành mạnh và làm tăng tính dễ tổn
thương và có thể gây ra lạm phát cao của nền kinh tế nước tiếp nhận đầu tư trong bối
cảnh toàn cầu hoá hiện nay; Thậm chí trong một số trường hợp, chúng còn làm mất uy
tín nhà nước và gây sụp đổ một nội các chính phủ…
1.5.2. Về phía nước xuất khẩu vốn đầu tư
• Việc chuyển đổi ra nước ngoài ồ ạt làm cho cán cân thanh toán quốc gia bị giảm,
khả năng đầu tư cho phát triển kinh tế trong nước bị hạn chế.
• Vốn và tài sản từ hoạt động bất hợp pháp: tham nhũng, kinh doanh bất chính…
được chuyển ra nước ngoài đầu tư làm cho đất nước bị thấ thoát tài sản mà chính
phủ khó kiểm soát và thu hồi rất tốn kém.
• Chảy máu chất xám, sự mất vị thế độc quyền về công nghệ cũng có nguyên nhân
từ chuyển vốn và công nghệ ra nước ngoài để đầu tư.
• Tạo ra thị trường cạnh tranh với sản xuất và kinh doanh trong nước.
1.6 Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư của các nuớc và giải pháp rút ra cho Việt
Nam
1.6.1. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư của các nuớc
1.6.1.1. Kinh nghiệm thu hút FDI
1.6.1.1.1 Kinh nghiệm thu hút FDI của Trung quốc
18
Trong các nước đang phát triển thì Trung Quốc là nước có môi trường đầu tư
hấp dẫn thứ hai sau Singapore. Theo con số thống kê của Bộ Mậu dịch đối ngoại và

Hợp tác Trung Quốc (MOFTEC) thì trong 9 năm 1993-2002 nước này thu hút được khá
nhiều vốn FDI. Năm 2002, FDI vào Trung Quốc đạt trên 50 tỷ USD, vượt Mỹ và trở
thành nước nước thu hút FDI nhiều nhất thế giới. Cho đến nay có khoảng 400 TNCs
trong số 500 TNCs hàng đầu trên thế giới đầu tư vào Trung Quốc, số còn lại cũng đang
chuẩn bị đầu tư vào nước này.
Chính sách cơ bản trong việc thu hút FDI của Trung Quốc là:
Thứ nhất: Chính sách phát triển ngành sản xuất: Trong từng giai đoạn, Chính Phủ
Trung Quốc ban hành những quy định hướng dẫn đầu tư đối với thương nhân nước
ngoài và danh mục hướng dẫn về ngành sản xuất để thu hút FDI.
Thứ hai: Chính sách phát triển vùng lãnh thổ: Chính phủ Trung Quốc chủ yếu thông
qua các biện pháp như thành lập khu kinh tế đặc biệt, khu phát triển khoa học kỹ thuật
và mở cửa các thành phố ven biển, tạo điều kiện thuận lợi và tập trung thu hút FDI vào
đó.
Từ năm 1999, trọng điểm chiến lược phát triển kinh tế từng bước chuyển về phía tây.
Chính phủ Trung Quốc đã đề ra chính sách nâng đỡ và hỗ trợ các tỉnh Miền Tây Trung
Quốc. Đồng thời tích cực hướng dẫn thương nhân nước ngoài đầu tư vào địa phương
này bằng các biện pháp:
- Ban hành “dạnh mục ngành sản xuất ưu thế của miền Trung và Miền tây Trung Quốc
kêu gọi thương nhân nước ngoài đầu tư”
- Chính phủ gia tăng một cách thích đáng nguồn vốn tín dụng trong nước, các khỏan
vay chính phủ nước ngoài và các khoản vay ưu đãi của các tổ chức tài chính tiền tệ
quốc tế nhằm sử dụng chủ yếu vào xây dựngc các công trình hạ tầng, công trình bảo vệ
môi trường trọng điểm của miền trung và miền tây.
- Đối với những hạng mục trong danh mục khuyến khích đầu tư nước ngoài, nếu đầu tư
vào miền trung và miền tây Trung Quốc, sau khi hết thời hạn được hưởng ưu đãi về
thuế thu nhập doanh nghiệp thì tiếp tục được giảm 15% thuế thu nhập doanh nghiệp
trong 3 năm tiếp theo.
- Khuyến khích thương nhân nước ngoài đã đầu tư vào khu vực miền Đông Trung Quốc
tái đầu tư vào khu vực miền tây và miền Trung.
- Cho phép các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại các thành phố ven biển nhận

khoán quản lý kinh doanh các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các xí nghiệp
Trung Quốc tại các tỉnh miền tây và miền Trung.
-Cho phép các tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc tỉnh và khu vực tự trị của miền tây
và miền trung lựa chọn thành lập khu phát triển cấp nhà nước
- Nhà nước ưu tiên lựa chọn một số hạng mục về nông nghiệp, giao thông, năng lượng,
nguyên vật liệu để bảo vệ đầu tư nước ngoài vào các tình miền tây và miền Trung.
Đồng thời tăng cường sự hỗi trợ của chính phủ về vốn và các biện pháp khác đối với
các hạng mục trên.
Thứ ba: Chính sách chi viện về tài chính đối với các xí nghiệp đầu tư nước ngoài.
19
- Xí nghiệp đầu tư tại Trung Quốc có nhu cầu về vốn căn cứ theo quy định của pháp
luật được vay vốn của các ngân hàng tại Trung Quốc. Thời hạn, lãi suất và phí vay về
cơ bản áp dụng như các xí nghiệp của Trung Quốc
- Xí nghiệp nước ngoài khi muốn vay vốn tại Trung Quốc được các ngân hàng thương
mại của Trung Quốc bảo lãnh. Các khoản tiền vốn ngoại tệ của các đơn vị này có thể
dùng để thế chấp vay vốn.
- Cho phép xí nghiệp nước ngoài đầu tư dùng tài sản của họ ở hải ngoại để thế chấp vay
vốn tại các chi nhánh ngân hàng Trung Quốc ở nước ngoài.
- Các xí nghiệp nước ngoài ở Trung Quốc nếu có đủ tiêu chuẩn được xin phép phát
hành cổ phiếu.
- Căn cứ theo nguyên tắc chủ động và thoả đáng, Chính phủ Trung Quốc cung cấp sự
đảm bảo về rủi ro chính trị, bảo hiểm về thực hiện hợp đồng, bảo hiểm về bảo lãnh đối
với những hạng mục đầu tư trọng điểm trong các lĩnh vực năng lượng , giao thông mà
chính phủ khuyến khích đầu tư.
Thứ tư: Ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài
Trung Quốc ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài
như: như Luật xí nghiệp chung vốn kinh doanh giữa Trung Quốc với nước ngoài của
nươc Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Điều lệ chi tiết thi hành Luật Xí nghiệp chung
vốn kinh doanh giữa Trung Quốc với nước ngoài: Luật xí nghiệp do nước ngoài đầu tư,

các quy định và ưu đãi về thuế, ưu đãi về vay vốn đầu tư, về quyền sử dụng đất….
1.6.1.1.2 Kinh nghiệm thu hút FDI của Ấn độ
Trước đây, Ấn Độ được coi là nước thuộc thế giới thứ ba và dựa vào chính sách
độc quyền để dập mẫu những hàng hoá phương tây. Điều này đã khiến nhà đầu tư nói
chung và các TNCs thường không tập trung vào Ấn Độ. Tuy nhiên, ngày nay, Quốc gia
này đã thay đổi trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển ở những ngành có khả năng thu
hút FDI như: phần mềm, sản xuất ô tô, dịch vụ văn phòng, dược phẩm … Chính vì vậy
mà ngày càng nhiều TNCs đầu tư vào Ấn Độ.
Để tạo lập sự khác biệt trong lợi thế cạnh tranh với các nước khác, đặc biệt là Trung
Quốc, Ấn Độ đã không chọn lao động giản đơn hay tài nguyên làm lợi thế so sánh của
mình mà sử dụng tri thức là chất “xúc tác”, chọn dịch vụ làm thế mạnh để phát triển
kinh tế. Ấn Độ tập trung vào ngành công nghệ thông tin, dịch vụ tài chính ngân hàng,
phần mềm, dược phẩm – những lĩnh vực mũi nhọn của mình. Bên cạnh đó, quốc gia
này còn tập trung vào việc đào tạo một lực lượng lao động kỹ thuật lớn với tay nghề
cao đáp ứng tốt yêu cầu về trình độ cũng như ngoại ngữ của các TNCs. Hàng năm,
nước này tạo ra khoảng hơn 3 triệu cử nhân trong đó cử nhân về kỹ thuật, y học và kinh
doanh chiếm tỷ lệ rất lớn.
Chính nhờ chiến lược trên mà tổng số vốn FDI vào Ấn Độ liên tục tăng lên trong các
năm. Chẳng hạn từ năm 2003 đến năm 2005 con số lần lượt là 4,3 tỷ USD; 5,3 tỷ USD
và 6,0 tỷ USD. Đặc biệt, chủ thể của dòng vốn FDI này chủ yếu là từ các TNCs lớn trên
thế giới. Theo kết qủa cuộc điều tra hàng năm của UNCTAD về đánh giá của các TNCs
đối với các nước nhận đầu tư thì trong hai năm trở lại đây Ấn Độ là địa điểm đầu tư lý
tưởng nhất trên thế giới. Cũng theo thống kê của Liên đoàn các Phòng Công nghiệp và
20
thương mại Ấn Độ (FICCI), 70% các công ty đầu tư vào Ấn Độ làm ăn có lãi. Đây
chính là những nguyên nhân khiến TNCs tin tưởng và tăng cường đầu tư vào Ấn Độ.
1.6.1.1.3 Kinh nghiệm thu hút FDI của Singapore
Trong số các quốc gia Châu Á thì Singapore được coi là nước thu hút được nhiều TNCs
nhất. Để làm được điều này, Singapore đã thực hiện những chính sách sau:
- Về cân đối ngoại tệ, quản lý ngoại hối: Chính phủ Singapore không có sự quản lý về

ngoại hối mà để cho thị trường này hoạt động tự do theo những quy luật của thị trường.
- Về quy định vay vốn, quản lý đất đai: Nhà đầu tư có thể huy động vốn qua phát hành
cổ phiếu, trái phiếu, vay tổ chức tài chính trong nước và nước ngoài.
- Thủ tục đầu tư: Các thủ tục này được thực hiện theo chế độ một cửa, đảm bảo giải
quyết nhanh gọn về các thủ tục cho nhà đầu tư.
- Về lĩnh vực đầu tư: Mở cửa hầu hết đối với các lĩnh vực kinh tế trừ lĩnh vực liên
quan đế an ninh quốc phòng và an toàn xã hội.
Như vậy, mỗi quốc gia đều có những chiến lược riêng trong việc thu hút vốn FDI của
các TNCs. Tuỳ từng điều kiện cụ thể và phương hướng chiến lược phát triển kinh tế của
mỗi nước mà các quốc gia này xây dựng cho mình những chính sách thu hút TNCs
riêng. Đối với Việt Nam, để thành công trong việc thu hút vốn FDI từ TNCs chúng ta
cũng nên học hỏi và tham khảo những chính sách của một số quốc gia đã rất thành công
trong việc thu hút FDI từ TNCs ở trên.
1.6.1.2 Kinh nghiệm thu hút FII (FPI)
Trung Quốc luôn giữ được mức tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều thập niên trở lại
đây. Dù có những chính sách điều tiết vốn khá nghiêm ngặt nhưng giới đầu tư nước
ngoài vẫn rất quan tâm đến nền kinh tế này và xem ra chính sách điều tiết nghiêm ngặt
sự di chuyển của dòng vốn nước ngoài đã giúp Trung Quốc ổn định được các điều kiện
kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Qua xem xét quá trình thu hút FPI của
Trung Quốc, những thành công nổi bật là:
Thứ nhất, các giải pháp thu hút FPI mang tính đồng bộ, có lộ trình cụ thể, phù hợp với
từng giai đoạn lịch sử của Trung Quốc, kết hợp chặt chẽ với các biện pháp phát triển
kinh tế, hoàn thiện và phát triển TTCK, nâng cao khả năng quản lý của Chính phủ.
Thứ hai, Trung Quốc đã xác định chiến lược, mục tiêu, phương hướng thu hút vốn FPI
đúng đắn, phù hợp với đặc điểm nền kinh tế. Trung Quốc xác định rõ muốn thu hút FPI
có hiệu quả, trước hết phải cải thiện môi trường trong nước, dựa vào trong nước là
chính, khi TTCK phát triển, môi trường đầu tư tốt tất yếu vốn chảy vào; đồng thời
không ngừng nâng cao chất lượng hàng hoá trên TTCK Trung Quốc.
Thứ ba, Trung Quốc đã biết kết hợp thu hút FPI và quản lý dòng vốn này một cách hiệu
quả, không thu hút FPI với mọi giá. Khi thu hút FPI, Trung Quốc đã tính toán những

giải pháp quản lý phù hợp; kết hợp chặt chẽ việc thu hút FPI với chính sách kinh tế vĩ
mô của Chính phủ, đặc biệt là chính sách quản lý ngoại hối và tiền tệ; có những giải
pháp quản lý, hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của dòng vốn này với sự phát triển
kinh tế của đất nước.
21
Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn phải đối mặt với nhiều vấn đề đáng quan tâm. Theo đó, các
giải pháp thu hút FPI mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định song so với tiềm
lực và khả năng thu hút của Trung Quốc kết quả đạt được vẫn còn rất khiêm tốt, chưa
tương xứng với tiềm năng hiện có. Cụ thể:
Thứ nhất, vẫn tồn tại nhiều hạn chế đối với NĐTNN, hệ thống pháp luật liên quan đến
dòng vốn này vẫn còn nhiều sơ hở, thiếu sót, cần tiếp tục hoàn thiện.
Thứ hai, NĐTNN tham gia TTCK vẫn chủ yếu là NĐT nhỏ lẻ trong khi đó NĐT tổ
chức chiếm tỷ trọng khá ít. Công tác quản lý của Chính phủ vẫn chưa theo kịp sự phát
triển của dòng vốn này. Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo cũng thừa nhận, vẫn còn
tồn tại nhiều biện pháp hành chính trong việc thu hút và quản lý dòng vốn này. Tỷ trọng
vốn FPI trong tổng nguồn vốn đầu tư xã hội của Trung Quốc vẫn còn rất thấp.
Thứ ba, vấn nạn tin đồn vẫn là vấn đề lớn, chưa thể giải quyết và gây ra không ít hệ lụy
cho TTCK Trung Quốc. Sự kiện ngày 27/2/2007, được gọi là “ngày thứ ba đen tối” của
TTCK Trung Quốc, khi tin đồn về việc Chính phủ sẽ đánh thuế 20% lên lợi tức chứng
khoán. Tin đồn nay ngay lập tức tác động đến TTCK Trung Quốc và các TTCK khác
trên thế giới. NĐT trong nước và NĐTNN nhanh chóng bán tháo cổ phiếu để rút vốn
khỏi TTCK. Chỉ trong vòng một ngày, chỉ số chứng khoán trên Sở giao dịch Thượng
Hải mất 8,8%, mức sụt giảm kỷ luc trong vòng 10 năm qua, ước tính tương đương
khoản 100 tỷ USD.
Cùng với sự sụt giảm TTCK Trung Quốc, hàng loạt thị trường khác trên thê giới như:
Mỹ, Anh, Pháp, Nhật, Hàn Quốc, Singapore… cũng bị ảnh hưởng theo. Đây là bài học
quan trọng cho những nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc trong việc thiết lập
các biện pháp kiểm soát vốn. Sự kiện trên cũng cho thấy sự nhạy cảm của dòng vốn FPI
đối với các chính sách liên quan đến TTCK. Đồng thời cho thấy các biện pháp kiểm
soát vốn trực tiếp (biện pháp hành chính) không còn phù hợp, thay vào đó là các biện

pháp kiểm soát vốn gián tiếp (kiểm soát dựa trên thị trường).
Việc Việt Nam gia nhập WTO và sự phát triển mạnh mẽ của TTCK trong nước những
năm qua là cam kết đầy hứa hẹn của dòng vốn FPI vào nước ta. Việc thu hút nguồn vốn
này có một ý nghĩa rất quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước trong những năm tới. Là quốc gia nước láng giềng có nhiều nét tương đồng về
điều kiện chính trị, văn hoá và thể chế kinh tế xã hội, Việt Nam và Trung Quốc có
những điểm tương đồng trong việc hình thành, quản lý và phát triển TTCK, đều đang
đứng trước những vấn đề liên quan đến việc hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực tài
chính.
1.6.2 Giải pháp rút ra cho Việt Nam
1.6.2.1 ODA
Từ những kết quả đã đạt được và những yếu kém trong thu hút và sử dụng ODA, có
thể rút ra những bài học chủ yếu sau:
a. ODA là một nguồn lực bên ngoài có ý nghĩa quan trọng, song không thể thay thế
được nguồn lực trong nước ở cấp độ quốc gia cũng như trong phạm vi một lĩnh vực cụ
thể. Do vậy, cần phải coi ODA là một chất xúc tác một nguồn lực bổ sung cho quá trình
phát triển.
b. Để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA, cần gắn kết và lồng ghép một cách
đồng bộ chiến lược và kế hoạch thu hút và sử dụng ODA với các chiến lược phát triển,
22
các chính sách và quy hoạch phát triển ngành, vùng và quốc gia cũng như các kế hoạch
dài hạn và hàng năm bảo đảm sự chủ động của ta trong sử dụng ODA.
c. ODA nguồn hỗ trợ của Chính phủ, các Tổ chức quốc tế và liên Chính phủ dành
cho Chính phủ. Do vậy, Chính phủ nước tiếp nhận phải nhận trách nhiệm điều phối và
sử dụng ODA với nhận thức sâu sắc rằng nhân dân sẽ là người gánh chịu cái giá phải
trả cho sự thất bại nếu nguồn vốn ODA không được sử dụng có hiệu quả.
d. Cần nhận thức đúng đắn về ODA, coi ODA là nguồn lực bên ngoài có tính chất
bổ sung chứ không thay thế nguồn lực nội sinh đối với quá trình phát triển ở cấp độ
quốc gia, ngành, địa phương và đơn vị thụ hưởng. ODA không phải là "thứ cho không"
mà chủ yếu là vay nợ nước ngoài theo các điều kiện ưu đãi, gắn với uy tín và trách

nhiệm quốc gia trong quan hệ với cộng đồng tài trợ quốc tế và đòi hỏi trách nhiệm rất
cao của Chính phủ nước tiếp nhận trước dư luận trong nước cũng như dư luận nước tài
trợ.
e. Các thành tựu về cải cách đổi mới toàn diện, phát triển kinh tế - xã hội và hội
nhập kinh tế quốc tế là cơ sở quan trọng tạo dựng niềm tin của cộng đồng quốc tế đối
với Việt Nam và là tiền đề bảo đảm cho sự thành công cho việc vận động và thu hút
ODA trong giai đoạn tới.
f. ODA gắn với mục tiêu chính trị và lợi ích kinh tế của nhà tài trợ. Do vậy, thành
hay bại của ODA tuỳ thuộc chủ yếu vào vai trò làm chủ của các cơ quan thực hiện, từ
khâu hình thành dự án cho đến quá trình tổ chức thực hiện và duy trì tính bền vững của
dự án sau này.
g. Năng lực thể chế, năng lực con người là chìa khoá quyết định sự thành bại của
ODA.
h. Sự cam kết mạnh mẽ, chỉ đạo sát sao và có sự tham gia của các đối tượng thụ
hưởng sẽ bảo đảm việc thực hiện các chương trình, dự án ODA có hiệu quả, phòng và
chống được lãng phí và tham nhũng.
i. Xây dựng mối quan hệ đối tác tin cậy với các nhà tài trợ trên cơ sở tin cậy lẫn
nhau, hợp tác xây dựng và cùng chia sẻ trách nhiệm trong cung cấp và tiếp nhận ODA
là yếu tố không thể thiếu để quản lý và sử dụng ODA có hiệu quả.
k. Rà soát lại toàn bộ hoạt động của các PMU, nghiên cứu chuyển PMU sang mô
hình doanh nghiệp tư vấn dự án hoạt động theo luật doanh nghiệp.
1.6.2.2. FDI
1.6.2.2.1 Chú trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư an toàn,
minh bạch, ổn định để tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài
Để tăng cường thu hút FDI, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật liên
quan đến thu hút FDI nói riêng phù hợp với thông lệ quốc tế. Bởi vì, không thể hội nhập
thành công nếu như hệ thống luật pháp và chính sách chưa phù hợp với các nguyên tắc
chung của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực. Do vậy, cần nhanh chóng rà soát, sửa đổi, bổ
sung để hoàn thiện hệ thống pháp luật, chẳng hạn quy định về giao dịch vốn, cạnh tranh, bảo hộ
sản phẩm nội địa, bảo hộ quyền sở hữu tài sản, quyền sở hữu trí tuệ, cải cách hệ thống thuế...

Kinh nghiệm cho thấy, để tiến hành hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo môi
trường
23
thuận lợi thu hút FDI cần nghiêm túc và nhất quán cải cách kinh tế theo hướng thị trường
nhiều hơn, vì quan hệ kinh tế thị trường là điều kiện cần thiết thúc đẩy nền kinh tế hội nhập
sâu rộng vào đời sống KTQT theo xu hướng tự do hóa thương mại, tự do hóa đầu tư. Từ đó,
chính sự nhất quán, ổn định và hiệu lực cao trong thực thi các cam kết quốc tế sẽ tạo uy tín và
môi trường mang tính cạnh tranh để tăng cường thu hút FDI của nước ta. Điều đó cũng có
nghĩa là, vai trò của nhà nước không chỉ đẩy nhanh tốc độ cải thiện môi trường đầu tư mà
còn chú ý định hướng chất lượng của môi trường đầu tư. Từ kinh nghiệm của Malaixia cho
thấy, để tiếp tục thúc đẩy thu hút FDI, nhà nước cần:
- Nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Đầu tư năm 2005 và các luật
liên quan đến FDI. Thực tế, các doanh nghiệp FDI là do các nhà đầu tư nước ngoài ở các nước
có nền kinh tế phát triển, có quan hệ đối ngoại rộng lớn và có quan hệ hợp tác đa phương; họ
luôn phải quan tâm đến lợi ích của đồng vốn đầu tư bỏ ra ở nước ngoài, cho nên đòi hỏi về việc
hiểu biết và tuân thủ luật pháp quốc tế ở các nước sở tại là hết sức cần thiết. Đồng thời khi Việt
Nam đã trở thành thành viên của WTO, ảnh hưởng của một số thiết chế toàn cầu như vấn đề tự
do hóa thương mại và đầu tư đã trở thành một khuynh hướng không thể đảo ngược và có ảnh
hưởng trực tiếp đến chính sách và pháp luật về phát triển đầu tư đối với nước ta.
Đồng thời về môi trường pháp lý, cần tiếp tục thực hiện các chính sách ưu đãi đối với các
nhà đầu tư. Trong thời gian tới, để ưu đãi đầu tư có hiệu quả, về nguyên tắc nên tuân thủ các
yêu cầu sau: Sử dụng các ưu đãi một cách chọn lọc và thận trọng trong việc đưa ra các ưu đãi cụ
thể sát với điều kiện thực tế; ưu đãi phải được thực hiện đơn giản, dễ dàng; các ưu đãi phải được
ban hành rõ ràng, cụ thể và công bố công khai để tránh tình trạng áp dụng tùy tiện; những ưu
đãi đầu tư phải dựa trên cơ sở kết quả hoạt động của dự án đầu tư mà không dựa trên

kế
hoạch hay những đề xuất trong kế hoạch của các nhà đầu tư. Dựa trên các nguyên tắc chung
này, nhà nước cần có sự đổi mới chính sách ưu đãi trong hoạt động đầu tư ở nước ta hiện nay
như sau:


+ Chính sách ưu đãi thuế. Nhà nước có thể chuyển sang áp dụng nhiều hơn hình thức khấu
hao nhanh để khuyến khích thực sự các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, thúc đẩy quá trình
đổi mới công nghệ. Do vậy, cần lựa chọn các tiêu chí ưu đãi sát với mục tiêu cần ưu đãi, tránh
ưu đãi tràn lan. Chính sách này còn có tác dụng định hướng và thu hút FDI vào các lĩnh
vực, các ngành, các địa phương gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của đất
nước.
24
+ Chính sách ổn định tiền tệ, chống lạm phát. Hiện nay vấn đề này đang trở
thành vấn đề thời sự đối với điều hành và quản lý vĩ mô nền kinh tế nước ta. Việc ổn định tiền
tệ, chống lạm phát không chỉ đơn thuần là việc đưa ra các chính sách, giải pháp đúng cho
một thời kỳ nhất định mà còn là năng lực điều chỉnh chính sách và hệ thống công cụ để
chúng thích nghi được với những biến động nhanh chóng của tình hình thực tế. Tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp FDI có đủ điều kiện
được niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán.
+ Chính sách đất đai. Cần tiếp tục rà soát và xem xét lại giá cho thuê đất, quy định
miễn, giảm thuế đất trong một số năm đầu để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp FDI;
sớm giải quyết dứt điểm vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng đang gây ách tắc đối với việc
triển khai dự án FDI ở một số địa phương hiện nay.

+ Về lĩnh vực đầu tư và hình thức đầu tư, cần có chính sách xử lý linh hoạt để tăng cường
mức độ tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài. Việt Nam gia nhập WTO, cần mở rộng danh
mục các dự án cho phép nhà đầu tư nước ngoài được chủ động lựa chọn lĩnh vực kinh doanh
và hình thức đầu tư xuất phát từ hiệu quả sản xuất, kinh doanh ngoại trừ những lĩnh vực do
yêu cầu về an ninh quốc phòng; cho phép các doanh nghiệp liên doanh trong một số trường
hợp chuyển sang doanh nghiệp 100% vốn trong nước hoặc 100% vốn nước ngoài.
+ Về giải quyết vấn đề phá sản và tranh chấp đối với doanh nghiệp FDI . Từ thực tế cho
thấy, không ít doanh nghiệp FDI sản xuất kinh doanh kém hiệu quả và có những doanh nghiệp
đã rơi vào tình trạng phá sản. Như vậy, cần nghiên cứu và đảm bảo thủ tục giải thể và phá sản
một cách nhanh chóng đối với các doanh nghiệp FDI phù hợp với thông lệ quốc tế mà không

nên gây cản trở về thủ tục hành chính đối với các nhà đầu tư nước ngoài về vấn đề này.
Về giải quyết các tranh chấp trong thời gian tới cần nghiên cứu tiếp tục sửa đổi Luật
Khiếu nại, tố cáo theo hướng mở rộng quyền khiếu kiện của các nhà đầu tư nước ngoài ra
toà án, kể cả đối với quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của cơ quan nhà nước.
Ngoài ra, cần nghiên cứu để tham gia Công ước giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước
ngoài với nước nhận đầu tư Công ước ISCID) nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
nhà đầu tư nước ngoài.
1.6.2.2.2. Thu hút FDI cần gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung
của đất nước
Thời gian qua, chủ trương đa dạng hóa các lĩnh vực, hình thức và đối tác đầu tư đã
25

×