Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

tiểu luận một vài điều cần lưu ý khi kinh doanh ở hoa kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (931.58 KB, 83 trang )


Nhóm thực hiện : Nhóm 4 – Cao học Thương mại K15
GVHD : PGS.TS Đoàn Thò Hồng Vân - Trang 1 -





Tiểu luận

MỘT VÀI ĐIỀU CẦN LƯU Ý KHI
KINH DOANH VỚI HOA KỲ









Nhóm thực hiện : Nhóm 4 – Cao học Thương mại K15
GVHD : PGS.TS Đoàn Thò Hồng Vân - Trang 2 -




LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
Việt Nam - một đất nước mở cửa muộn (1986) khơng chỉ so với các nước có nền
kinh tế phát triển mạnh trên thế giới mà ngay cả với các nước khác trong khu vực. Tuy nhiên


trong những năm gần đây nền kinh tế của Việt Nam cũng đã có nhiều khởi sắc cụ thể là sản
xuất trong nước phát triển, kim ngạch xuất khẩu khơng ngừng gia tăng theo từng năm, tốc độ
tăng trưởng kinh tế trong năm 2005 đạt cao chưa từng có (GDP đạt, chỉ đứng sau Trung
Quốc.
Kết quả đó có được là nhờ vào sự nổ lực của cả một dân tộc trong điều kiện nền
kinh tế có nhiều biến đổi và dần có nhiều sự thay đổi trong trật tự thế giới với việc sụp đổ
của các nước CNXH ở Đơng Âu làm cho Việt Nam mất đi một thị trường lớn. Do vậy vấn đề
khó khăn đối với Việt Nam hiện nay là cần tìm ra những thị trường tiềm năng & có sức tiêu
thụ mạnh mà trong đó Mỹ là một trong những thị trường tiềm năng mà Việt Nam muốn
nhắm đến, bởi đây là một thị trường có sức hấp dẫn đối với nhiều nước trên thế giới trong đó
có cả các quốc gia phát triển và đang phát triển. Tuy nhiên để có thể thâm nhập vào thị
trường này một cách thuận lợi thì ngồi việc nghiên cứu về luật pháp cũng như chính sách ưu
đãi của Mỹ đối với Việt Nam thì các doanh nghiệp cần phải tìm hiểu sâu về những vần đề có
liên quan đến văn hố. Có hiểu rõ được về đất nước, con người Mỹ, các doanh nghiệp Việt
Nam mới có những chiến lược kinh doanh tốt nhất, hiệu quả nhất. Những năm qua, do khơng
hiểu rõ về các đối tác Mỹ cũng như về luật pháp Mỹ mà các ngành xuất khẩu của ta chịu
nhiều thiệt thòi, giảm lợi thế so sánh của các mặt hàng vốn đang có khả năng cạnh tranh
mạnh trên thị trường Mỹ.
Năm 2006 đánh dấu một bước phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam khi ta chính
thức trở thành thành viên của WTO. Đây cũng sẽ là năm mở đầu cho sự phát triển mạnhh về
mối quan hệ kinh tế giữa 2 nước Việt – Mỹ khi mà PNTR đã được Quốc hội Mỹ thống nhất
trao cho Việt Nam. Vì vậy, hơn bao giờ hết, đây chính là lúc ta càng cần phải hiểu rõ hơn về
Hoa Kỳ, về đất nước, con người Mỹ. Đây chính là lý do mà nhóm em chọn đề tài sau đây :
“MỘT VÀI ĐIỀU CẦN LƯU Ý KHI KINH DOANH VỚI HOA KỲ”
2. Mục đích của đề tài :

Nhóm thực hiện : Nhóm 4 – Cao học Thương mại K15
GVHD : PGS.TS Đoàn Thò Hồng Vân - Trang 3 -
Cung cấp cho mọi người những cái nhìn, những hiểu biết khái qt nhất về đất nước
con người Mỹ bao gồm : hệ thống chính trị - pháp luật, văn hố – xã hội Mỹ, nền kinh tế Mỹ

và mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ về cả mặt chính trị lẫn mặt thương mại trong đó
nhấn mạnh đặc biệt đến mối quan hệ thương mại song phương giữa hai nước.
Từ những hiểu biết cơ bản đó, nhóm cũng đã đưa ra một vài lưu ý mà các doanh
nghiệp Việt Nam cần quan tâm khi tiến hành kinh doanh với người Mỹ như các vấn đề về
tìm hiểu thị trường, tìm hiểu về đối tác, về việc đàm phán kinh doanh, xuất nhấp khẩu và ký
hợp đồng ngoại thương
Nhóm cũng đưa ra những điều mà các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý về bản
thân các doanh nghiệp để từ đó có thể đưa ra những chiến lược kinh doanh đúng đắn nhất
nhằm nắm bắt tốt nhất thời cơ mà thời đại đưa lại.
Tuy nhiên, do trong khn khổ nhỏ gọn của bài và do hạn chế thời gian cũng như
hiểu biết nên nhóm khơng thể diễn đạt hết tất cả những vấn đề mà chỉ có thể nêu lên những
điểm khái qt nhất. Trong bài cũng khơng thể tránh khỏi những thiếu sót mong cơ thơng
cảm.
3. Phương pháp nghiên cứu :
Chủ yếu sử dụng phương pháp tổng hợp và phân tích.
4. Tính mới của đề tài :
- Các tài liệu về thâm nhập thị trường Hoa Kỳ có rất nhiều nhưng chưa có một tài
liệu nào nói về mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong điều kiện Việt Nam được
hưởng PNTR.
- Đề cập đến nhiều vấn đề cần lưu ý khi kinh doanh với người Mỹ như cách giao
tiếp, đàm phán
5. Bố cục của đề tài :
PHẦN 1 : TỔNG QUAN VỀ HOA KỲ
A. CHÍNH TRỊ - PHÁP LUẬT
B. VĂN HỐ – XÃ HỘI
C. KINH TẾ
PHẦN 2 : QUAN HỆ VIỆT NAM – HOA KỲ
A. TỔNG QT
B. CÁC HIỆP ĐỊNH QUAN TRỌNG TRONG QUAN HỆ KINH TẾ GIỮA VIỆT NAM
VÀ HOA KỲ

C. QUAN HỆ THƯƠNG MẠI – ĐẦU TƯ
PHẦN 3 : MỘT VÀI ĐIỀU CẦN LƯU Ý KHI KINH DOANH VỚI HOA KỲ
A. TẠI SAO PHẢI KINH DOANH VỚI HOA KỲ?
B. CÁC KHĨ KHĂN VÀ THỬ THÁCH KHI KINH DOANH VỚI HOA KỲ

Nhóm thực hiện : Nhóm 4 – Cao học Thương mại K15
GVHD : PGS.TS Đoàn Thò Hồng Vân - Trang 4 -
C. MỘT VÀI ĐIỀU CẦN LƯU Ý KHI KINH DOANH VỚI NGƯỜI MỸ
D. DOANH NGHIỆP VIỆT NAM CẦN HIỂU RÕ BẢN THÂN

Nhóm thực hiện : Nhóm 4 – Cao học Thương mại K15
GVHD : PGS.TS Đoàn Thò Hồng Vân - Trang 5 -
PHẦN 1
TỔNG QUAN VỀ HOA KỲ

Vị trí địa lý: Hoa Kỳ nằm ở Bắc Mỹ, phía đơng là Bắc Đại tây dương, phía tây là Bắc Thái
bình dương, phía bắc tiếp giáp với Canada, và phía nam tiếp giáp với Mêhicơ.
Tổng diện tích: 9.629.091 km2 chiếm 6,2% diện tích tồn cầu, trong đó diện tích đất đai là
9.158.960 Km2 và diện tích mặt nước là 470.131 km2. Diện tích Hoa Kỳ bằng nửa Nga;
bằng khoảng 3/10 Châu Phi; bằng khoảng nửa Nam Mỹ; rộng hơn Trung Quốc khơng đáng
kể; và lớn hơn Tây Âu khoảng 2,5 lần.
Tài ngun: than đá, đồng, chì, molybdenum, phốt phát, uranium, bơ xít, vàng, quặng sắt,
thuỷ ngân, nicken, muối kali, bạc, tungsten, thiếc, dầu lửa, khí tự nhiên, gỗ.
Dân số: 296.410.404 (năm 2005), trong đó 20,48% ở độ tuổi 0 -14, 67,11% ở độ tuổi 15 - 64
và 12,41% ở độ tuổi trên 65. Tốc độ tăng dân số năm 2002 ước tính 0,89%.
Lực lượng lao động: 141,8 triệu (kể cả những người thất nghiệp – số liệu năm 2001, trong
đó: lao động quản lý và chun gia 31%, lao động hành chính và bán hàng 28,9%, lao động
dịch vụ 13,6%, lao động trong ngành cơng nghiệp chế tạo, khai khóang, giao thơng vận tải
và thủ cơng nghiệp 24,1%, lao động trong nơng, lâm, ngư nghiệp 2,4%)
Tuổi thọ: Trung bình 77,4 năm, trong đó đối với nam trung bình là 75,5 năm và với nữ là

80,2 năm.
Sắc tộc: Người da trắng 77,1%, người da đen 12,9%, người Châu Á 4,2%, còn lại là thổ dân
và các dân tộc khác. Khoảng 30% dân số Hoa Kỳ là người nhập cư. Hiện nay, hàng năm Hoa
Kỳ có khoảng 1 triệu người nhập cư
Các cảng chính: Anchorage, Baltimore, Boston, Charleston, Chicago, Duluth, Hampton
Roads, Honolulu, Houston, Jacksonville, Los Angeles, New Orleans, New York,
Philadelphia, Port Canaveral, Portland (Oregon), Prudhoe Bay, San Francisco, Savannah,
Seattle, Tampa, Toledo.
Sân bay: ở Hoa Kỳ có tổng cộng 14.695 sân bay (theo thống kê năm 2001), trong đó có
5.127 sân bay có đường băng trải nhựa.
Lịch sử: Hoa Kỳ tách ra khỏi khối thuộc địa Anh năm 1776 và được cơng nhận là một quốc
gia độc lập sau khi Anh và Hoa Kỳ ký Hiệp ước Paris năm 1783. Khi mới thành lập, Hoa Kỳ
chỉ có 13 bang. Hiện nay, Hoa Kỳ có 50 bang và 5 khu hành chính trực thuộc gồm thủ đơ
Washington D.C., Samoa, Guam, Virgin Islands và Puerto Rico. Chính vì thế quốc kỳ của
Hoa Kỳ hiện nay có 50 ngơi sao đại diện cho 50 bang và 13 vạch trắng và đỏ tượng trưng
cho 13 thuộc địa Anh đã tun bố độc lập và trở thành 13 bang đầu tiên của nước này.
Hoa Kỳ là nước có tiềm lực kinh tế và qn sự mạnh nhất thế giới hiện nay. Những sự kiện
đáng ghi nhớ nhất trong lịch sử Hoa Kỳ là cuộc Nội chiến Bắc - Nam (1861 - 1865), Đại suy

Nhóm thực hiện : Nhóm 4 – Cao học Thương mại K15
GVHD : PGS.TS Đoàn Thò Hồng Vân - Trang 6 -
thóai kinh tế trong những năm 30, thất bại trong chiến tranh ở Việt Nam, và vụ khủng bố
11/9 năm 2001.
A. CHÍNH TRỊ - PHÁP LUẬT
I. HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Hoa Kỳ là một nước cộng hồ liên bang thực hiện chế độ chính trị tam quyền phân
lập. Hiến pháp Hoa Kỳ qui định quyền lập pháp thuộc về Quốc hội, quyền hành pháp thuộc
về Tổng thống và quyền tư pháp thuộc về Tồ án tối cao. Mỗi bang có hệ thống hiến pháp và
pháp luật riêng nhưng khơng được trái với Hiến pháp của Liên bang.
 Quốc hội Liên bang Hoa Kỳ gồm Thượng viện và Hạ viện. Ngồi quyền

lập pháp, Quốc hội còn giám sát hoạt động của bộ máy hành pháp và tư
pháp.
Thượng viện gồm 100 thượng nghị sĩ, trong đó mỗi bang có hai thượng nghị sĩ. Các
khu hành chính trực thuộc khơng có đại diện tại Thượng viện. Nhiệm kỳ thượng nghị sĩ là 6
năm. Hai năm một lần, Thượng viện tổ chức bầu cử lại 1/3 số thượng nghị sĩ. Về mặt pháp
lý, Phó Tổng thống là Chủ tịch Thượng viện. Song trên thực tế, điều hành cơng việc hàng
ngày của Thượng viện là thủ lĩnh phe đa số trong Thượng viện. Phó Tổng thống chỉ bỏ phiếu
khi cần thiết để tránh bế tắc trong trường hợp Thượng viện rơi vào tình huống 50/50 về một
vấn đề nào đó.
Hạ viện gồm 435 hạ nghị sĩ. Nhiệm kỳ của hạ nghị sĩ là 2 năm. Khác với Thượng
viện, số hạ nghị sĩ đại diện cho bang phụ thuộc vào dân số của bang. Mỗi bang có quyền có
tối thiểu một hạ nghị sĩ. Việc phân bổ số hạ nghị sĩ cho các bang được tiến hành 10 năm một
lần dựa trên kết quả điều tra dân số. Ngồi ra, các khu hành chính trực thuộc như Samoa,
Thủ đơ Washington DC, Guam, và Virgin Islands cũng có đại diện khơng có quyền bỏ phiếu;
Khu vực Puerto Rico được đại diện bởi một Cao uỷ thường trú. Đứng đầu Hạ viện là Chủ
tịch Hạ viện. Chủ tịch Hạ viện là người thứ hai sau Phó Tổng thống kế nhiệm Tổng thống.
Phân chia quyền lực giữa hai viện: Cả hai viện đều có quyền quyết định chiến
tranh, kiểm sốt các lực lượng vũ trang, đánh thuế, vay tiền, phát hành tiền, điều tiết thương
mại, và ban hành luật cần thiết cho hoạt động của chính quyền. Trong đó, Thượng viện có
đặc quyền cố vấn và thơng qua các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngồi và các chức vụ
do Tổng thống bổ nhiệm. Ví dụ, Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ được chính phủ
hai nước ký tháng 7 năm 2000 và đến tháng 11 năm 2001 mới được Thượng viện Hoa Kỳ
thơng qua và đến 10/12/2001 mới có hiệu lực thi hành.
Tất cả các dự luật liên quan đến tài chính (thuế và phân bổ ngân sách) đều do Hạ
viện đề xuất; Thượng viện có thể bỏ phiếu thay đổi dự luật của Hạ viện và khi đó hai viện sẽ
họp chung để giải quyết bất đồng. Hạ viện có quyền bỏ biếu buộc tội Tổng thống và các các
quan chức liên bang, và Thượng viện có quyền quyết định có bãi chức người bị buộc tội đó
hay khơng.
Cả Thượng viện và Hạ viện đều có những uỷ ban riêng của mình. Tuy nhiên, giữa
Thượng viện và Hạ viện có một số uỷ ban phối hợp để xử lý một số cơng việc chung.

Dân biểu (thượng và hạ nghị sĩ liên bang và bang) được bầu từ các khu vực bầu cử.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của các dân biểu là bảo vệ và đem lại càng nhiều lợi

Nhóm thực hiện : Nhóm 4 – Cao học Thương mại K15
GVHD : PGS.TS Đoàn Thò Hồng Vân - Trang 7 -
ích cho các cử tri của mình càng tốt. Một trong những cách thơng thường nhất để thực hiện
nhiệm vụ này là đấu tranh dành ngân quĩ liên bang và bang cho các dự án ở khu vực bầu cử
của mình. Khá nhiều khoản tiền dành cho các dự án ở địa phương được lẩn trong các khoản
tiền phân bổ cho các cơ quan của chính quyền liên bang và bang.
Một cách khác mà các dân biểu thường làm là kiến nghị và vận động các cơ quan
lập pháp và hành pháp thơng qua các luật pháp và quyết định có lợi cho cử tri của mình. Ví
dụ, nhiều thượng và hạ nghị sĩ của các bang ở Hoa Kỳ có ni cá catfish đã bảo trợ và tích
cực vận động Quốc hội Liên bang thơng qua dự luật cấm cá da trơn của Việt Nam mang tên
catfish trên thị trường Hoa Kỳ.
 Chính quyền liên bang:
Quyền hạn của chính quyền liên bang do Hiến pháp Liên bang qui định và chủ yếu
tập trung ở các lĩnh vực có ảnh hưởng đến tồn liên bang như ngoại giao, quốc phòng và an
ninh, quản lý xuất nhập khẩu, quản lý di dân, bảo hộ sở hữu trí tuệ, và một số lĩnh vực khác.
Tổng thống là người đứng đầu cơ quan hành pháp liên bang và được bầu trực tiếp
với nhiệm kỳ 4 năm. Theo luật hiện hành, mỗi tổng thống chỉ được phục vụ khơng q 2
nhiệm kỳ. Tất cả các dự luật liên bang được Quốc hội liên bang thơng qua phải được Tổng
thống ký mới trở thành luật. Hiến pháp cho phép Tổng thống quyền phủ quyết dự luật đã
được Quốc hội liên bang thơng qua.
Ngồi Tổng thống, bộ máy hành pháp Hoa Kỳ còn có Phó Tổng thống, 15 bộ và
trên 60 ủy ban độc lập. Các bộ trưởng do Tổng thống bổ nhiệm và phải được Thuợng viện
thơng qua.
Trong hệ thống hành pháp liên bang còn có Văn phòng Nhà trắng, Văn phòng quản
trị và tài chính, các hội đồng cố vấn. Các hội đồng cố vấn đóng vai trò quan trọng trong
hoạch định chính sách của Tổng thống. Đáng chú ý nhất là Hội đồng an ninh quốc gia, Hội
đồng cố vấn kinh tế, và Hội đồng chính sách phát triển.

 Hệ thống tòa án liên bang:
Hệ thống tòa án liên bang gồm Tòa án liên bang tối cao và các tòa án liên bang khu
vực. Chánh án và các thẩm phán Tòa án tối cao liên bang do Tổng thống bổ nhiệm và được
Thượng viện thơng qua với nhiệm kỳ suốt đời. Những người này chỉ từ nhiệm khi họ muốn
hoặc bị buộc tội. Tồ án tối cao liên bang có quyền vơ hiệu hố bất cứ luật lệ liên bang hoặc
bang nào mà tồ xét thấy là trái với Hiến pháp. Ví dụ, năm 1897, Tồ án tối cao liên bang đã
ra phán quyết bác bỏ luật của Bang Louisiana cấm mua bảo hiểm của các hãng bảo hiểm
ngồi bang trừ phi các hãng bảo hiểm đó đáp ứng đuợc một số điều kiện tiên quyết nhất định.
 Các đảng phái chính trị:
Hệ thống chính trị Hoa Kỳ chủ yếu do hai Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa kiểm
sốt. Đảng Dân chủ quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề an sinh xã hội, y tế, giáo dục và cơng
ăn việc làm cho nguời nghèo, và do vậy được đơng đảo người nghèo và giới cơng đồn ủng
hộ. Đảng này chủ trương tăng cường quyền quản lý hành chính trong các lĩnh vực kinh tế và
xã hội.
Ngược lại, Đảng Cộng hòa muốn giảm thiểu sự can thiệp của chính phủ đối với nền
kinh tế, để nền kinh tế vận động theo qui luật của thị trường. Đảng này thường quan tâm

Nhóm thực hiện : Nhóm 4 – Cao học Thương mại K15
GVHD : PGS.TS Đoàn Thò Hồng Vân - Trang 8 -
nhiều hơn đến các giới chủ, các thế lực tài phiệt, giới chun gia và các tầng lớp trung lưu.
Trong lĩnh vực đối ngoại, Đảng Cộng hòa thường chủ trương tăng cường sức mạnh qn sự
và cứng rắn hơn trong việc giải quyết các xung đột quốc tế.
Trong các cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ ứng cử viên Đảng Cộng hòa thường có
ưu thế tại các bang phía Nam, trong khi đó ứng cử viên Đảng Dân chủ thường có ưu thế tại
các bang phía Bắc.
 Hệ thống chính quyền bang:
Hệ thống chính quyền bang nói chung cũng tương tự như hệ thống chính quyền liên
bang. Đứng đầu ngành hành pháp bang là thống đốc bang. Thống đốc bang do cử tri bầu trực
tiếp với nhiệm kỳ 2 hoặc 4 năm tùy theo bang. Có bang giới hạn số nhiệm kỳ của thống đốc
bang, có bang khơng. Ngồi quyền hành pháp, thống đốc bang còn có quyền kiến nghị và

phủ quyết luật pháp bang, và một số quyền tư pháp.
Ở cấp bang cũng có quốc hội bang gồm 2 viện như liên bang (trừ Bang Nebraska
chỉ có một viện). Quốc hội bang cũng có quyền làm một số luật áp dụng trong bang (chủ yếu
trong các lĩnh vực an sinh xã hội như y tế, giáo dục, an tồn, đạo đức, và phúc lợi của dân
chúng trong bang). Quốc hội bang có quyền sửa đổi và thơng qua ngân sách bang do thống
đốc bang đề xuất, trong đó có việc tăng, giảm, hoặc hồn thuế. Dưới bang là quận, thành
phố, thị trấn, và làng.
 Hoạt động vận động hành lang:
Có thể nói vận động hành lang là một trong những đặc trưng nổi bật của hệ thống
chính trị Hoa Kỳ. Tại Thủ đơ Washington DC hiện nay có tới trên 12 nghìn người vận động
hành lang chun nghiệp hoạt động. Các doanh nghiệp, các cơng đồn, các hiệp hội kinh
doanh, các nhóm tơn giáo, các trường đại học, các bang, các tổ chức xã hội, thậm chí cả
chính phủ nước ngồi đều tiến hành các hoạt động vận động hành lang.
Vận động hành lang được coi là một hình thức đề đạt ý nguyện của dân chúng đến
các các cơ quan quản lý nhà nước; do vậy, được pháp luật Hoa Kỳ cho phép. Trên thực tế,
các nhóm lợi ích thường tiến hành các hoạt động vận động hành lang để tác động tới các
quyết định lập pháp và hành pháp nhằm phục vụ cho lợi ích của mình. Vận động hành lang
cũng có thể khơng liên quan đến một biện pháp luật pháp hoặc chính sách hoặc quyết định cụ
thể mà chỉ nhằm cổ vũ cho một quan điểm hoặc một mối quan tâm nào đó.
Vận động hành lang khơng chỉ đơn thuần là nêu kiến nghị hoặc nguyện vọng.
Những người vận động hành lang thường phải cung cấp các lý lẽ, chứng cứ, và thậm chí các
bằng chứng khoa học có sức thuyết phục hỗ trợ cho kiến nghị hoặc nguyện vọng của mình.
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước, những thơng tin và lý lẽ thu lượm được từ các hoạt
động vận động hành lang cũng là những nguồn thơng tin bổ xung tốt phục vụ cho các cơ
quan này trong cơng việc lập pháp và hành pháp của mình.
Các hoạt động vận động hành lang có thể do nhóm hoặc cá nhân có lợi ích trực tiếp
tiến hành bằng cách gặp gỡ, gọi điện thoại, hoặc gửi kiến nghị đến các dân biểu của mình
cũng như với các cơ quan chính quyền. Vận động hành lang cũng có thể được tiến hành một
cách gián tiếp thơng qua các chiến dịch báo chí truyền thơng, th các cơng ty hoặc cá nhân
vận động hành lang chun nghiệp thay mặt tiến hành những việc nói trên, thơng qua các tổ

chức quần chúng, đảng phái, thậm chí thơng qua các cuộc biểu tình

Nhóm thực hiện : Nhóm 4 – Cao học Thương mại K15
GVHD : PGS.TS Đoàn Thò Hồng Vân - Trang 9 -
Các tổ chức và cá nhân làm dịch vụ vận động hành lang chun nghiệp có thu tiền
đều phải đăng ký với Quốc hội, trừ những những trường hợp có mức phí dịch vụ dưới 5.000
USD trong thời gian 6 tháng. Thời hạn đăng ký là trong vòng 45 ngày kể từ khi bắt đầu tiếp
xúc vận động hành lang hoặc kể từ ngày ký hợp đồng với khách hàng.
Hầu hết các hiệp hội kinh doanh và cơng ty lớn của Hoa Kỳ đều có đại diện của
mình ở Thủ đơ Washington DC và ở thủ phủ các bang mà họ có hoạt động kinh doanh để
tiến hành các hoạt động vận động hành lang đối với quốc hội và chính quyền liên bang và
bang.
Trong lĩnh vực thương mại quốc tế, các cơng ty Hoa Kỳ đặc biệt quan tâm đến các
vòng đàm phán thương mại đa biên và song phương giữa Hoa Kỳ và các nước. Họ thường
xun vận động và thậm chí gây sức ép với Quốc hội và Chính quyền liên bang để đảm bảo
kết quả các cuộc đàm phán thương mại quốc tế có lợi cho hoạt động kinh doanh của mình.
Ví dụ, trong vấn đề hạn ngạch dệt may đối với Việt Nam, các nhà sản xuất dệt may
nội địa Hoa Kỳ đã liên tục gây sức ép với Quốc hội và Chính quyền đòi đàm phán sớm hiệp
định dệt may và thậm chí đòi đơn phương áp đặt hạn ngạch với Việt Nam. Ngược lại, các
nhà nhập khẩu và bán lẻ Hoa Kỳ đã tích cực vận động chính phủ Hoa Kỳ khơng áp dụng hạn
ngạch nhập khẩu hoặc dành cho Việt Nam hạn ngạch cao. Nhiều cơng ty thuộc cả hai phía đã
cử đại diện vào Việt Nam và đến Washington DC để vận động trong q trình đàm phán
nhằm giành thuận lợi tối đa cho những mặt hàng mà họ quan tâm.
II. CƠ CHẾ HOẠCH ĐỊNH VÀ THỰC THI CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI
Hiến pháp Hoa Kỳ qui định Quốc hội Hoa Kỳ có quyền quản lý ngoại thương và
quyết định về thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, do việc tăng hoặc giảm thuế nhập khẩu, ấn định
hạn ngạch nhập khẩu, hoặc đàm phán các hiệp định thương mại quốc tế rất phức tạp và ảnh
hưởng đến lợi ích khơng những của Hoa Kỳ mà còn của các nước khác; nên nhiều trách
nhiệm trong những lĩnh vực này đã đuợc Quốc hội uỷ quyền cho các cơ quan hành pháp.
Trong q trình thực hiện những nhiệm vụ được Quốc hội uỷ quyền, các cơ quan hành pháp

được uỷ quyền có trách nhiệm tham vấn thường xun và chặt chẽ với các uỷ ban có liên
quan của Quốc hội và các nhóm cố vấn của khu vự tư nhân.
 Quốc hội liên bang
Vai trò của Quốc hội trong chính sách thương mại cơ bản gồm hai phần: ban hành
và giám sát thi hành các luật thương mại.
Tất cả các luật thương mại ở Hoa Kỳ đều do Quốc hội ban hành. Quốc hội có thể uỷ
quyền cho chính quyền tiến hành các cuộc đàm phán thương mại quốc tế, song tất cả các
hiệp định thương mại song phương và đa phương do chính quyền ký kết với các nước đều
phải được Quốc hội thơng qua mới có hiệu lực thi hành.
Luật thương mại qui định rõ năm thành viên của Uỷ ban Chính sách và Tài chính
(Ways and Means Committee) thuộc Hạ viện và năm thành viên của Uỷ ban Tài chính
Thượng viện (Finance Committee) được chỉ định là cố vấn của Quốc hội cho các đồn đàm
phán thương mại quốc tế của chính quyền. Văn phòng Đại diện thương mại Hoa Kỳ (USTR)
– là cơ quan chủ trì đàm phán thương mại quốc tế của chính quyền – có trách nhiệm cung
cấp cho các cố vấn này đầy đủ thơng tin về mục tiêu và tình hình các cuộc đàm phán thương

Nhóm thực hiện : Nhóm 4 – Cao học Thương mại K15
GVHD : PGS.TS Đoàn Thò Hồng Vân - Trang 10 -
mại quốc tế của Hoa Kỳ cũng như những khả năng có thể phải điều chỉnh luật pháp hiện
hành của Hoa Kỳ để phù hợp với hiệp định sẽ ký kết.
Quốc hội cũng u cầu USTR và Uỷ ban thương mại quốc tế (ITC) của Hoa Kỳ gửi
các báo cáo hàng năm để Quốc hội nắm được tình hình thực thi các luật và chương trình
thương mại. Đáng chú ý là báo cáo hàng năm của USTR với tiêu đề: “Báo cáo đánh giá
thương mại quốc gia về các rào cản ngoại thương” và báo cáo hàng năm của ITC với tiêu đề
“Năm thương mại: Hoạt động của chương trình các hiệp định thương mại”.
Để đảm bảo các cơ quan chính quyền triển khai đúng các luật thương mại, Quốc hội
u cầu các cơ quan này phải thường xun tham khảo ý kiến Quốc hội và thơng báo rộng
rãi trên các phương tiện thơng tin đại chúng để tranh thủ ý kiến của cơng chúng trước khi
trình dự thảo hiệp định hoặc dự thảo luật triển khai.
Ngồi ra, Quốc hội có thể điều tiết và kiểm sốt việc thực hiện các luật và chương

trình thương mại thơng qua quyền phân bổ ngân sách của mình cho các cơ quan chính quyền
về thương mại.
 Chính quyền liên bang
Chính sách thương mại là nhân tố cơ bản của chính sách kinh tế và ngoại giao của
Hoa Kỳ. Do các quyết định về chính sách thương mại có ảnh hưởng sâu rộng đến cả lợi ích
trong và nước ngồi nên có nhiều cơ quan chính phủ Hoa Kỳ có vai trò trong hoạch định các
chính sách thương mại. Nhiều cơ chế phối hợp liên ngành đã được sử dụng để phối hợp các
quan điểm và lợi ích khác nhau nhằm đảm bảo cho chính sách thương mại quốc gia được
nhất qn và cân bằng.
Uỷ ban chính sách thương mại (TPC) chịu trách nhiệm chính trong phối hợp chính
sách thương mại. TPC bao gồm Trưởng Đại diện thương mại (USTR) là chủ tịch và các
thành viên là Bộ trưởng các Bộ Thương mại, Ngoại giao, Nơng nghiệp, Tài chính và Lao
động. Ngồi ra, đại diện của các cơ quan khác cũng được mời dự họp về chính sách thương
mại khi cần thiết.
Chức năng cơ bản của TPC là: giúp Tổng thống thực hiện các chức năng của Tổng
thống theo các luật thương mại và cố vấn cho USTR thực hiện các chức năng của USTR;
giúp Tổng thống và cố vấn cho USTR trong việc xây dựng và thực hiện các mục tiêu chính
sách thương mại quốc tế; và cố vấn cho Tổng thống và USTR trong việc phối hợp giữa các
mục tiêu chính sách thương mại quốc tế với các lĩnh vực chính sách lớn khác. Khi cần quyết
định của Tổng thống về chính sách thương mại, chủ tịch TPC (USTR) sẽ đệ trình lên Tổng
thống các khuyến nghị và lời khun của TPC.
Dưới TPC có hai nhóm phối hợp trực thc: Nhóm rà sốt chính sách thương mại
(TPRG) và Uỷ ban tham mưu về chính sách thương mại (TPSC). TPSC bao gồm các quan
chức cao cấp của các cơ quan thành viên TPC. TPSC có hơn 60 tiểu ban và nhóm theo lĩnh
vực cơng việc. Các vấn đề khơng đạt được sự nhất trí trong TPSC hoặc có tầm quan trọng thì
sẽ được chuyển sang TPRG để xem xét. TPRG gồm các thành viên cấp thứ trưởng các cơ
quan thành viên TPC và phó đại diện USTR. Các vấn đề khơng đạt được sự nhất trí trong
TPRG sẽ được chuyển lên TPC để xem xét.
Nấc cuối cùng trong cơ chế liên ngành về thương mại là Uỷ ban Kinh tế Quốc gia
(NEC) do Tổng thổng làm chủ tịch. Các thành viên khác của NEC gồm Phó Tổng thống, các


Nhóm thực hiện : Nhóm 4 – Cao học Thương mại K15
GVHD : PGS.TS Đoàn Thò Hồng Vân - Trang 11 -
Bộ trưởng Ngoại giao, Tài chính, Nơng nghiệp, Thương mại, Lao động, Bộ Phát triển Đơ thị
và Nhà ở, Giao thơng Vận tải, và Năng lượng; Chủ nhiệm Cơ quan Bảo vệ Mơi trường;
Giám đốc Văn phòng Quản lý và Ngân sách, Đại diện Thương mại Hoa Kỳ; chủ tịch Hội
đồng Cố vấn Kinh tế; Cố vấn An ninh Quốc gia; và các trợ lý Tổng thống về chính sách kinh
tế, chính sách đối nội, chính sách khoa học và cơng nghệ.
Khi các quyết định về chính sách được đưa ra trong cơ chế liên ngành này, USTR sẽ
đảm đương trách nhiệm chỉ đạo triển khai thực hiện quyết định đó.
 Đại diện Thương mại
Đại diện Thương mại Hoa Kỳ (USTR) là thành viên nội các, mang hàm đại sứ và có
những nhiệm vụ sau:
- Chịu trách nhiệm chính trong việc xây dựng và điều phối thực hiện chính sách
thương mại quốc tế của Hoa Kỳ;
- Là cố vấn chính cho Tổng thống về chính sách thương mại quốc tế và tư vấn
cho Tổng thống về ảnh hưởng của các chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ đối với thương mại
quốc tế;
- Chịu trách nhiệm lãnh đạo tiến hành và là đại diện chính của Hoa Kỳ trong các
cuộc đàm phán thương mại quốc tế, kể cả các cuộc đàm phán về trao đổi hàng hố và đầu tư
trực tiếp;
- Phối hợp chính sách thương mại với các cơ quan khác;
- Là phát ngơn viên chính của Tổng thống về thương mại quốc tế;
- Báo cáo và chịu trách nhiệm trước Tổng thống và Quốc hội về việc điều hành
chương trình các hiệp định thương mại, kể cả cố vấn về các hàng rào phi thuế, các hiệp định
nơng sản quốc tế, và các vấn đề khác liên quan đến chương trình các hiệp định thương maị;

- Là chủ tịch Uỷ ban chính sách thương mại TPC.
Theo luật, USTR là đại điện cao cấp tại tất cả các cơ quan mà Tổng thống lập ra để
cố vấn cho Tổng thống về các chính sách kinh tế trong đó các vấn đề thương mại quốc tế

đóng vai trò chủ đạo. Luật cũng qui định USTR tham dự tất cả các hội nghị thượng đỉnh kinh
tế và các cuộc họp quốc tế khác mà tại đó thương mại quốc tế là một chủ đề chính. USTR có
trách nhiệm lãnh đạo phía Hoa Kỳ tại tất cả các cuộc đàm phán về bất cứ vấn đề gì nằm dưới
sự bảo trợ của Tổ chức Thương mại Thế giới. Luật Cạnh tranh và Thương mại Omnibus năm
1988 đã nâng thêm tầm quan trọng của USTR bằng cách phân cấp trách nhiệm thực hiện các
hành động theo điều 301 của Luật này từ Tổng thống sang cho USTR. Tuy nhiên, việc thực
hiện này phải tn theo sự chỉ đạo cụ thể của Tổng thống, nếu có.
Văn phòng USTR có hai phó Đại diện, một làm việc tại Washington, D.C và một ở
Geneva, Thuỵ Sĩ.
 Bộ Thương mại
Trách nhiệm chính về thương mại của Bộ Thương mại tập trung vào Cơ quan Quản
lý Thương mại Quốc tế và Cục Quản lý Xuất khẩu.
Cơ quan Quản lý Thương mại Quốc tế có trách nhiệm quản lý nhà nước về ngoại
thương đối với các mặt hàng phi nơng nhiệp, chỉ đạo và điều hành cơng tác phát triển xuất

Nhóm thực hiện : Nhóm 4 – Cao học Thương mại K15
GVHD : PGS.TS Đoàn Thò Hồng Vân - Trang 12 -
khẩu và cơ quan xúc tiến thương mại Hoa Kỳ ở nước ngồi, thực thi luật chống bán phá giá
và luật thuế chống bù giá, kiểm sốt xuất khẩu, hỗ trợ điều chỉnh thương mại cho các cơng
ty, nghiên cứu và phân tích ngoại thương, và theo dõi việc tn thủ các hiệp định thương mại
quốc tế trong đó Hoa Kỳ là một bên tham gia.
Cục Quản lý Xuất khẩu đặc trách kiểm sốt việc xuất khẩu hàng hố và cơng nghệ
vì lý do an ninh quốc gia, chính sách đối ngoại, và thiểu cung. Cục Quản lý Xuất khẩu cấp
giấy phép xuất khẩu dựa trên các quy chế kiểm sốt xuất khẩu.
 Cục Hải quan và Bảo vệ Biên giới
Cục Hải quan và Bảo vệ Biên giới trực thuộc Bộ An ninh Nội địa Hoa Kỳ. Người
đứng đầu Cục này (Commissioner of Customs) do Tổng thống bổ nhiệm và được Quốc hội
thơng qua.
Cục có chức năng thu thuế nhập khẩu và thi hành hơn 400 luật và các quy định liên
quan đến thương mại quốc tế. Một số trách nhiệm của Hải quan bao gồm việc ngăn chặn và

tịch thu hàng hố nhập vào bất hợp pháp; giải quyết thủ tục cho người, tàu chun chở, hàng
hố, thư từ vào và ra khỏi Hoa Kỳ; quản lý hạn ngạch và các hạn chế nhập khẩu khác, và hỗ
trợ thực thi các luật của Hoa Kỳ về quyền tác giả, quyền sáng chế và thương hiệu.
 Uỷ ban Thương mại Quốc tế (Hoa Kỳ)
Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (ITC) là một cơ quan độc lập và gần như là tồ
án. ITC thực hiện các cơng việc nghiên cứu, báo cáo và điều tra, và khuyến nghị lên Tổng
thống và Quốc hội về rất nhiều các vấn đề liên quan đến thương mại quốc tế.
Các nhiệm vụ của ITC được qui định trong các Luật Thuế quan năm 1930, Luật
Điều chỉnh Nơng nghiệp, Luật Phát triển Thương mại năm 1962, Luật Thương mại năm
1974, Luật về các Hiệp định Thương mại năm 1979, Luật Thương mại và Thuế quan năm
1984, Luật Cạnh tranh và Thương mại Omnibus năm 1988, và Luật về các Hiệp định Vòng
Uruguay.
Theo các luật trên, ITC có trách nhiệm cố vấn, điều tra, nghiên cứu, và thu thập và
phân tích số liệu thuộc các lĩnh vực: cố vấn đàm phán thương mại; ưư đãi thuế quan phổ cập
chung; hạn chế nhập khẩu để hỗ trợ các ngành cơng nghiệp trong nước; thương mại Đơng –
Tây; điều tra về thiệt hại do hàng nhập khẩu được trợ giá hoặc bán phá giá gây ra đối với
ngành cơng nghiệp liên quan của Hoa Kỳ (đây là một trong những chức năng chính của
ITC); ảnh hưởng của nhập khẩu đối với các chương trình nơng nghiệp; các tập qn khơng
cơng bằng trong thương mại nhập khẩu; xây dựng hệ thống dữ liệu thống kê thống nhất; các
vấn đề liên quan đến biểu thuế nhập khẩu của Hoa Kỳ; nghiên cứu thương mại quốc tế; lập
các báo cáo tóm tắt về thương mại và thuế quan.
Theo Điều 337 của Luật Thuế quan năm 1930, ITC có quyền ra lệnh thực thi các
hành động để cứu trợ ngành cơng nghiệp trong nước trong tình huống khẩn cấp do những
biện pháp hoặc hành động cạnh tranh khơng bình đẳng của hàng nhập khẩu gây ra. Tuy
nhiên, Tổng thống có quyền phủ quyết những hành động do ITC đưa ra.
ITC có sáu uỷ viên, trong đó có khơng q ba uỷ viên từ một đảng chính trị. Nhiệm
kỳ của các uỷ viên là chín năm, trừ trường hợp được bổ nhiệm thay thế người chưa hết
nhiêm kỳ. Các uỷ viên đã phục vụ trên 5 năm có thể khơng được bổ nhiệm lại. Chủ tịch và

Nhóm thực hiện : Nhóm 4 – Cao học Thương mại K15

GVHD : PGS.TS Đoàn Thò Hồng Vân - Trang 13 -
phó chủ tịch được Tổng thống bổ nhiệm với nhiệm kỳ 2 năm. Chủ tịch kế nhiệm phải là
người thuộc đảng chính trị khác với chủ tịch hết nhiệm kỳ.
 Các Uỷ ban Cố vấn Tư nhân hoặc Chính phủ
Năm 1974, Quốc hội Hoa Kỳ đã thành lập hệ thống uỷ ban cố vấn khu vực tư nhân
để đảm bảo rằng các chính sách thương mại và các mục tiêu đàm phán thương mại của Hoa
Kỳ phản ánh thoả đáng các lợi ích thương mại và kinh tế của Hoa Kỳ. Gần 30 năm qua,
Quốc hội đã mở rộng và nâng tầm vai trò của hệ thống này, đến nay bao gồm 33 uỷ ban cố
vấn, với số thành viên cố vấn xấp xỉ 1.000 người.
USTR quản lý một cơ cấu uỷ ban cố vấn ba cấp. Các uỷ ban này họp thường kỳ, thu
thập những thơng tin nhậy cảm về các cuộc đàm phán thương mại đang diễn ra và các vấn đề
chính sách thương mại khác, và báo cáo lên Tổng thống ý kiến của mình về tất cả các hiệp
định thương mại được ký kết theo luật thương mại Hoa Kỳ.
Cấp cao nhất, Uỷ ban Cố vấn Chính sách và Đàm phán Thương mại (ACTPN), là
một cơ quan gồm 45 thành viên do Tổng thống bổ nhiệm bao gồm đại diện của Chính phủ,
cơng đồn, cơng nghiệp, nơng nghiệp, doanh nghiệp nhỏ, dịch vụ, bán lẻ, bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng, và cơng chúng. Nhóm này, được triệu tập họp theo u cầu của USTR, xem
xét các vấn đề chính sách thương mại trong bối cảnh tổng thể lợi ích quốc gia.
Cấp thứ hai bao gồm 7 uỷ ban cố vấn chính sách, đại diện cho các lĩnh vực kinh tế
nói chung, như cơng nghịêp, nơng nghiệp, cơng đồn, và dịch vụ. Vai trò của cấp này là cố
vấn cho chính phủ về những ảnh hưởng của các bịên pháp thương mại đối với các lĩnh vực
tương ứng của họ.
Cấp thứ ba bao gồm 25 uỷ ban cố vấn phân theo lĩnh vực, chức năng, và kỹ thuật,
bao gồm các chun gia từ các lĩnh vực khác nhau. Các chun gia này cung cấp thơng tin
và ý kiến kỹ thuật cụ thể về các vấn đề thương mại liên quan đến lĩnh vực cụ thể của họ. Các
thành viên của cấp thứ hai và cấp thứ ba do USTR và các bộ trưởng của các bộ hoặc cơ quan
có liên quan bổ nhiệm.
III. SƠ LƯỢC VỀ HỆ THỐNG LUẬT PHÁP HOA KỲ
1. Hiến pháp
2. Hiệp ước quốc tế

3. Pháp lệnh và pháp luật
4. Nghị định và các văn bản dưới luật của ngành hành pháp
5. Quy chế của các cơ quan cấp Liên bang ban hành
6. Hiến pháp của Bang
7. Luật của Bang
8. Quy chế của Bang
9. Quy chế của thành phố, quận và của các cấp địa phương khác

Hoa kỳ là một nước cộng hồ liên bang gồm 50 bang. Ngồi hệ thống pháp luật liên
bang, mỗi bang đều có hệ thống pháp luật riêng nhưng khơng được trái với Hiến pháp của
liên bang. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa luật liên bang và luật bang hoặc luật địa
phương, thì luật liên bang sẽ có hiệu lực. Có những giao dịch hoặc vấn đề chịu sự điều tiết
của riêng luật liên bang, riêng luật bang, hoặc có thể cả luật biên bang và luật bang. Ví dụ, ở

Nhóm thực hiện : Nhóm 4 – Cao học Thương mại K15
GVHD : PGS.TS Đoàn Thò Hồng Vân - Trang 14 -
Hoa kỳ khơng có những qui định chung áp dụng cho cả liên bang về thành lập cơng ty hoặc
văn phòng đại diện mà những qui định này ở mỗi bang một khác.
Hiến pháp Hoa kỳ qui định quyền quản lý ngoại thương và thu thuế xuất nhập khẩu
thuộc về các cơ quan quản lý nhà nước liên bang, do vậy các hoạt động xuất nhập khẩu chịu
sự điều tiết trực tiếp và chủ yếu của hệ thống luật liên bang. Tuy nhiên, có một số luật của
một số bang cũng có ảnh hưởng gián tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu. Ví dụ, nhập khẩu xe
hơi vào Hoa kỳ chịu sự điều tiết trực tiếp và chủ yếu của các luật liên bang liên quan đến
nhập khẩu xe hơi. Tuy nhiên, do luật bảo vệ mơi trường của một số bang đề ra những u
cầu bảo vệ mơi trường khắt khe hơn so với các luật liên bang về mơi trường, cho nên xe hơi
nhập khẩu muốn tiêu thụ được ở các bang đó phải đáp ứng các u cầu về mơi trường của
các bang đó. Một ví dụ khác, luật của Bang Pennsylvania chỉ qui định ngun liệu nhồi trong
đồ chơi khơng được có chất gây hại, trong khi đó luật của Bang Ohio lại qui định khắt khe
hơn là ngun liệu nhồi trong đồ chơi phải là mới và phải được kiểm tra phòng truyền nhiễm
bệnh do vi khuẩn.

Hoa kỳ và tất cả các bang (trừ bang Louisiana theo hệ thống luật Châu Âu) đều theo
hệ thống luật Anh – Mỹ (common law system - thường được dịch sang tiếng Việt là hệ thống
thơng luật). Điều này có nghĩa là những giải thích luật của tồ án sẽ trở thành luật áp dụng
trong các trường hợp sau và tương tự. Do vậy, ngồi việc nghiên cứu các luật, việc nghiên
cứu các quyết định của tồ án cũng là một phần khơng thể thiếu để hiểu đầy đủ về luật pháp
Hoa kỳ đối với một vấn đề nào đó.
Một điều kiện tiên quyết để thành cơng trên thị trường Hoa Kỳ là phải nắm và hiểu
rõ được một số Luật trong hệ thống luật pháp đồ sộ và phức tạp của Hoa Kỳ. Hệ thống luật lệ
của Hoa Kỳ nhằm xây dựng những cơ chế và biện pháp cho phép cơng dân hay doanh nghiệp
Mỹ có quyền khiếu nại khi có thiệt hại do hàng hóa nước ngồi gây ra và cho phép Chính
phủ Mỹ được quyền đơn phương áp dụng các biện pháp trừng phạt nếu doanh nhân hay
Chính phủ nước ngồi bị kết luận có hành vi vi phạm.
Nhìn chung, bốn loại luật pháp bảo hộ mậu dịch của Hoa Kỳ mà doanh nghiệp Việt
Nam đã và sẽ gặp phải gồm:
 Loại luật quản lý nhập khẩu nhằm bảo hộ kinh tế nội địa bằng các biện pháp
trừng phạt hoặc hạn chế nhập khẩu.
1) Luật về chống phá giá và luật thuế bù giá :
Hai đạo luật phổ biến nhất bảo hộ các ngành cơng nghiệp Mỹ chống lại hàng nhập
khẩu khơng cơng bằng là Luật thuế bù giá (CVD) và Luật Chống phá giá. Cả hai luật này
quy định rằng phần thuế bổ sung sẽ được ấn định đối với hàng nhập khẩu nếu chúng bị phát
hiện là được trao đổi khơng cơng bằng. Cả hai luật bao gồm những thủ tục tương tự để tiến
hành điều tra, ấn định thuế, và sau đó là kiểm tra và có khả năng loại bỏ thuế.
 Luật thuế bù giá (CVD):
Luật thuế bù giá quy định một khoản bồi thường dưới dạng thuế nhập khẩu phụ thu
để bù vào phần trợ giá của sản phẩm nước ngồi, mà việc bán sản phẩm đó ở Mỹ gây thiệt
hại các nhà sản xuất những hàng hố giống hoặc tương tự của Mỹ. Mục đích của CVD là làm
vơ hiệu hố ưu thế cạnh tranh khơng bình đẳng của nhà sản xuất/xuất khẩu (NSXXK) nước
ngồi đối với NSXXK Hoa kỳ nhờ có trợ cấp của nước họ. Thuế đối kháng đúng bằng trị giá

Nhóm thực hiện : Nhóm 4 – Cao học Thương mại K15

GVHD : PGS.TS Đoàn Thò Hồng Vân - Trang 15 -
tịnh của phần trợ cấp và được thu khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Trong hầu hết các trường hợp,
phần trợ giá phải bù lại có thể do chính phủ nước ngồi trực tiếp trả, nhưng luật này cũng áp
dụng đối với loại trợ giá gián tiếp bị phát hiện sau khi điều tra theo luật thuế bù giá.
Việc điều tra theo luật thuế bù giá thường được tiến hành do có đơn khiếu nại của
các ngành cơng nghiệp trong nước trình lên Bộ Thương mại Mỹ và Ủy ban Thương mại
Quốc tế, tuy nhiên Bộ Thương mại có thể tiến hành độc lập một luật thuế.
Bộ Thương mại và Ủy ban Thương mại Quốc tế đều có thể tiến hành điều tra. Bộ
Thương mại điều tra để xác định xem có sự trợ giá "chịu thuế" trực tiếp hoặc gián tiếp ở
nước hoặc lãnh thổ xuất xứ cho việc chế tạo, sản xuất hoặc xuất khẩu sản phẩm là đối tượng
bị điều tra hay khơng.
Ðiều tra của Ủy ban Thương mại Quốc tế xác định xem việc khiếu nại của ngành
cơng nghiệp Mỹ bị thiệt hại vật chất hoặc đe doạ thiệt hại vật chất, hoặc các cơ sở kinh
doanh của một ngành có bị thiệt hại vật chất hay khơng do hàng nhập khẩu được trợ giá.
"Thiệt hại vật chất" được định nghĩa trong luật khơng phải là những thiệt hại nhỏ, vơ hình,
hoặc khơng quan trọng.
Ðể áp đặt thuế bù giá, bộ Thương mại phải xác định phần trợ giá chịu thuế bù giá và
Ủy ban Thương mại Quốc tế phải tìm ra những thiệt hại.
Luật thuế bù giá còn đề cập đến cả các loại "trợ giá ngược chiều" những hình thức
trợ giá cho sản xuất các yếu tố đầu vào được tính vào sản phẩm cuối cùng xuất khẩu sang
Mỹ.
 Luật chống phá giá:
Luật chống phá giá được sử dụng rộng rãi hơn luật thuế bù giá. Thuế chống phá giá
được ấn định vào hàng nhập khẩu khi người ta xác định được là hàng nước ngồi được bán
"phá giá", hoặc sẽ bán phá giá ở Mỹ với giá "thấp hơn giá trị thơng thường". Thấp hơn giá trị
thơng thường có nghĩa là giá của hàng nhập khẩu vào Mỹ tức là giá mua hoặc giá bán của
nhà xuất khẩu thấp hơn mức giá của hàng hố đó ở nước xuất xứ.
Cũng giống như trường hợp theo luật thuế bù giá, các thủ tục chống phá giá được
tiến hành khi có đơn khiếu kiện của một ngành cơng nghiệp hoặc bộ Thương mại tiến hành
độc lập.

Điểm cần nhấn mạnh là nếu bị đối xử như một quốc gia “phi kinh tế thị trường” thì
thủ tục và biện pháp rất phân biệt đối xử, rất ngặt nghèo, thuế nhập khẩu phản kích có thể
hơn từ vài chục đến vài trăm phần trăm so với những quốc gia “kinh tế thị trường”.
Trong trường hợp các nhà xuất khẩu của một quốc gia xuất hàng và bán tại Mỹ (US
price) với một giá mà thấp hơn thị trường tại nơi sản xuất thì có sự bán phá giá. trong trường
hợp này những người liên quan ở Mỹ có quyền khởi tố một vụ kiện chống phá giá. Những
người muốn khởi kiện phải chứng minh được sự thiệt hại đáng kể của sự bán phá giá cho
ngành sản xuất đó tại Mỹ, và phải chứng minh được giá bán của sản phẩm đó tại Mỹ thấp
hơn tại thị trường của nhà sản xuất. Khi đó, Bộ Thương mại Mỹ sẽ sang nước sản xuất để
điều tra giá bán tại thị trường đó và sẽ tiến hành xác định giá bán. Nếu thị trường đó có nền
kinh tế khơng thị trường thì Bộ Thương mại Mỹ sẽ ấn định giá theo cách khác, cách căn bản:
từ giá đất, giá nước, giá nhân cơng mà tính ra giá thành thay vì tìm hiểu giá bán trực tiếp

Nhóm thực hiện : Nhóm 4 – Cao học Thương mại K15
GVHD : PGS.TS Đoàn Thò Hồng Vân - Trang 16 -
ngồi thị trường. Trong trường hợp tất cả các giá bán đó đều bị rối loạn thì luật Mỹ cho phép
Bộ Thương mại chọn một nơi tương tự xác định giá.
Đơn kiện bán phá giá được nộp vào cho đồng thời hai nơi: ITA (International Trade
Association) và ITC (International Trade Committee). Cơ quan ITC sẽ có một quyết định
tạm thời sự nhập cảng loại hàng đó có gây thiệt hại cho sản xuất trong nước hay khơng, nếu
khơng thiệt hại thì vụ kiện chấm dứt. Nếu có thiệt hại thì ITA sẽ ra một quyết định tạm thời
thứ hai xem có phá giá khơng. Sau khi có quyết định tạm thời là có sự phá giá thì sản phẩm
đó sẽ bị tính thuế phá giá. ITA có quyết định tạm có sự phá giá thì sẽ đi đến giai đoạn cuối
cùng. Giai đoạn này kéo dài vì hai bên sẽ đưa ra những dữ kiện để tranh cãi. Nếu sau khi
ITA có quyết định có sự phá giá thì vụ kiện được chuyển lại cho ITC để có một quyết định
tối hậu có gây thiệt hại cho nhà sản xuất nội địa hay khơng. Khi ITC quyết định có sự thiệt
hại thì lượng hàng đó sẽ phải chịu một mức thuế gọi là thuế chống phá giá (giá tại nơi sản
xuất – giá tại thị trường tiêu thụ = thuế). Nếu bên thua kiện khơng đồng ý với kết quả đó thì
sẽ kiện chính phủ Mỹ ra một tồ án đặc biệt thì đây thực sự là một vụ kiện, và thường thì tồ
sẽ quyết định xử lại theo hình thức thủ tục hơn là theo những phán xét về mặt dữ liệu. Nếu

kết quả của tồ án thương mại quốc tế khơng được ưng thuận nữa thì sẽ được kháng án lên
cấp cao hơn.
2) Luật thuế chống trợ giá :
Mục đích của thuế chống trợ giá là triệt tiêu lợi thế cạnh tranh khơng bình đẳng của
những sản phẩm nước ngồi được chính phủ nước ngồi trợ giá xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Do
vậy, mức thuế chống trợ giá được áp đặt bằng với mức trợ giá. Luật của Hoa Kỳ cũng như
qui định của WTO cho phép một số loại trợ cấp được miễn trừ áp dụng luật chống trợ giá
như một số trợ cấp nghiên cứu và phát triển, một số trợ cấp cho những vùng khó khăn, một
số trợ cấp bảo vệ mơi trường WTO gọi những loại trợ cấp được phép này là “trợ cấp đèn
xanh”.
Thuế chống trợ giá được áp dụng khi có đủ hai điều kiện (1) Bộ Thương mại Hoa
Kỳ (DOC) phải xác định sản phẩm nước ngồi nhập khẩu vào Hoa Kỳ được trợ giá trực tiếp
hoặc gián tiếp cho việc chế tạo, sản xuất, hoặc xuất khẩu ở nước hoặc lãnh thổ xuất xứ. Trợ
cấp trực tiếp hoặc gián tiếp cho sản xuất các yếu tố đầu vào của sản phẩm cũng là đối tượng
điều tra theo luật này (thường gọi là trợ giá ngược chiều), và (2) Uỷ ban Thương mại Quốc tế
Hoa Kỳ (USITC) phải xác định hàng nhập khẩu được trợ giá đã gây thiệt hại vật chất, hoặc
đe dọa gây thiệt hại vật chất, hoặc ngăn cản hình thành ngành cơng nghiệp tương tự tại Hoa
Kỳ. “Thiệt hại vật chất” được định nghĩa trong luật khơng phải là những thiệt hại vụn vặt, vơ
hình, hoặc khơng quan trọng.
Việc điều tra theo luật chống trợ giá thường được tiến hành khi có đơn khiếu kiện
của ngành cơng nghiệp trong nước trình lên DOC và USITC. Tuy nhiên, DOC có thể tự khởi
xướng và tiến hành điều tra theo luật chống trợ giá, khơng cần phải có đơn kiện của ngành
cơng nghiệp trong nước nếu DOC thấy có lý do chính đáng.
Nếu một nhà sản xuất thấy có một sản phẩm thâm nhập vào có giá bán thấp hơn của
họ và họ có thể chứng minh được giá thấp đó là do nơi sản xuất có sự bao cấp thì họ có thể
khởi tố. Bao cấp được xác định có 3 cấp độ:

Nhóm thực hiện : Nhóm 4 – Cao học Thương mại K15
GVHD : PGS.TS Đoàn Thò Hồng Vân - Trang 17 -
 Red line: khơng chấp nhận được vì có sự trợ giúp của Chính phủ cho hàng xuất

khẩu.
 Yellow line: có thể chấp nhận nhưng cũng có thể khơng vì sự trợ giúp của
Chính phủ khơng dành cho xuất khẩu.
 Green line: chấp nhận được vì sự bao cấp này để nghiên cứu sản phẩm, hoặc để
phát triển sản phẩm của một vùng.
Khi được xác định hàng nhập khẩu vào Mỹ có bao cấp, việc tố tụng sẽ rơi vào một
trong ba trường hợp sau:
 Nếu nước sản xuất là một thành viên của WTO thì tiến trình vụ kiện giống như
một vụ kiện chống bán phá giá.
 Nếu nước sản xuất khơng là thành viên của WTO và khơng có nền kinh tế thị
trường thì vụ kiện đơn giản hơn vì khơng cần phải chứng minh có sự thiệt hại
cho thị trường nội địa.
 Nếu nước sản xuất có nền kinh tế thị trường thì vụ kiện sẽ được đưa ra tồ và
được coi như là một vụ kiện chống phá giá.
3) Luật về thực thi tác quyền của Hoa Kỳ theo các hiệp định thương mại và
đáp lại hành vi thương mại của nước ngồi:
Có thể dẫn đến đình chỉ, thu hồi hoặc ngăn chặn những ưu đãi thương mại dành cho
nước ngồi đã được ghi trong hiệp định: áp đặt thuế nhập khẩu hoặc hạn chế nhập khẩu trên
hàng hố, hoặc thu phí hoặc hạn chế các dịch vụ của nước ngồi trong một khoảng thời gian
mà Đại diện Thương mại Hoa Kỳ (USTR) thấy cần thiết; rút lại hoặc đình chỉ các ưu đãi
thuế quan đang áp dụng theo các hiệp ước đa quốc gia; ký những thoả ước buộc nước vi
phạm từ bỏ việc vi phạm, chấm dứt việc gây trở ngại hay hạn chế thương mại của Hoa Kỳ
hay đền bù cho Hoa Kỳ những quyền lợi mà USTR thấy thích hợp. USTR còn có quyền áp
dụng những biện pháp khác thuộc quyền hạn của Tổng thống nếu Tổng thống chỉ thị. Đó là
các điều 301, 301 Super, 301 Special (Luật Thương mại 1974) và 307 (Luật Thương mại và
thuế quan 1984).
Luật về Khống chế nhập khẩu để bảo vệ kinh tế nội địa: Nổi bật là Luật về áp dụng
điều khoản an tồn (safeguard clause) được WTO và Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa
Kỳ cho phép
 Loại Luật quản lý xuất khẩu nhằm hạn chế xuất những mặt hàng hoặc bán

hàng cho những nước mà Mỹ muốn hạn chế và khuyến khích xuất những mặt
hàng có lợi cho Mỹ
Ví dụ: Luật kiểm sốt những sản phẩm liên quan đến kỹ thuật hạt nhân, quốc phòng
hoặc cơng nghệ phi qn sự nhưng lưỡng dụng. Mỹ thiết lập danh mục kiểm sốt xuất khẩu
(Commodity Control List – CCL) gồm 200 chủng loại hàng và cơng nghệ, áp dụng phân biệt
cho 7 nhóm nước, và phải có giấy phép mới được xuất.
Chính phủ Mỹ kiểm sốt một số mặt hàng xuất khẩu để bảo vệ an ninh quốc gia,
nâng cao những lợi ích của chính sách đối ngoại của Mỹ, hạn chế sự phát triển các loại vũ
khí sinh học và hố học và cơng nghệ tên lửa, và để đảm bảo cung ứng đủ trong nước các
loại hàng còn thiếu.

Nhóm thực hiện : Nhóm 4 – Cao học Thương mại K15
GVHD : PGS.TS Đoàn Thò Hồng Vân - Trang 18 -
Ðạo luật Quản lý Xuất khẩu năm 1979 (EAA):
Luật này đã hết hiệu lực tháng 9 năm 1990, nhưng chính phủ của Bush và Cliton đã
duy trì hệ thống kiểm sốt xuất khẩu hoạt động theo một luật liên quan đến tình trạng khẩn
cấp gọi là Ðạo luật về Quyền hạn Kinh tế trong Tình trạng Khẩn cấp Quốc tế (International
Emergency Economic Powers Act - IEEPA). Do vướng mắc về lợi ích kinh doanh và quốc
phòng, Quốc hội đã một vài lần khơng thơng qua được luật cải tổ Ðạo luật quản lý xuất khẩu
trong Kỷ ngun Chiến tranh lạnh (Cold War- era EAA). Theo các điều luật của EAA, Bộ
Thương mại Mỹ kiểm sốt các hoạt động xuất khẩu các mặt hàng được sử dụng hai mục đích
- những mặt hàng dân sự nhưng cũng có tiềm năng ứng dụng vào mục đích qn sự.
Cục Quản lý Xuất khẩu của Bộ Thương mại (BXA) là cơ quan chính cấp phép xuất
khẩu những mặt hàng được sử dụng hai mục đích. Bộ Ngoại giao cấp phép xuất khẩu các
mặt hàng và dịch vụ quốc phòng theo quy định của Luật Kiểm sốt Xuất khẩu Vũ khí, trong
khi một số loại vật tư, thiết bị hạt nhân nhất định lại do Ủy ban Kiểm sốt Hạt nhân cấp phép
theo quy định của Luật Năng lượng Ngun tử.
Một tỷ lệ rất nhỏ các mặt hàng xuất khẩu và tái xuất khẩu u cầu phải trình đơn xin
cấp phép lên Cục Quản lý Xuất khẩu. Những u cầu về giấp phép phụ thuộc vào các đặc
điểm kỹ thuật của hàng hố, nơi nhập khẩu, việc sử dụng cuối cùng và người sử dụng cuối

cùng của mặt hàng đó, và các hoạt động khác của người sử dụng cuối cùng. Bước đầu tiên
mà người xuất khẩu phải thực hiện để tìm hiểu xem có u cầu về giấy phép hay khơng là
phải xác định hoặc u cầu Cục Quản lý Xuất khẩu xác định xem sản phẩm đó có trong
Danh sách Kiểm sốt Thương mại (CCL) hay khơng. Ðây là danh sách các sản phẩm là đối
tượng của kiểm sốt xuất khẩu do Bộ Thương mại quản lý.
Cục Quản lý Xuất khẩu sẽ kiểm tra tất cả các đơn xin giấy phép xuất khẩu để đảm
bảo các mặt hàng khơng bị xuất khẩu bất hợp pháp. Ngồi ra, Cục này cũng kiểm tra các đơn
xin cấp phép của từng cá nhân/đơn vị cụ thể để xác định những rủi ro vu hồi, xác định những
vi phạm tiềm năng, và xác định mức độ tin cậy của những người nhận những hàng hố hoặc
thơng tin kỹ thuật có xuất xứ từ Mỹ trong diện bị kiểm sốt. Cục Quản lý Xuất khẩu còn tiến
hành việc xác minh sau khi xuất khẩu để đảm bảo rằng một mặt hàng có xuất xứ từ Mỹ trong
diện bị kiểm sốt thực tế có được giao cho đúng người sử dụng cuối cùng hoặc người nhận
được ủy quyền hay khơng, và đảm bảo rằng mặt hàng đó được sử dụng theo đúng như khai
nhận trong đơn xin giấy phép xuất khẩu.
Những người bị phát hiện vi phạm các quy định kiểm sốt xuất khẩu sẽ bị phạt
50.000 đơ-la hoặc gấp 5 lần giá trị của hàng xuất khẩu có liên quan hoặc nhiều hơn, ngồi án
tù có thể lên tới 5 năm. Nếu một người biết mặt hàng đó sẽ được sử dụng để phục vụ lợi ích
của - hoặc biết nơi đến hoặc nơi dự định đến của mặt hàng là - một quốc gia mà khi đến đó
hàng xuất khẩu bị cấm sử dụng cho mục đích an ninh quốc gia hoặc chính sách đối ngoại,
hình phạt đối với cá nhân đó sẽ tăng lên 250.000 đơ-la, phạt tù cao nhất lên đến 10 năm, hoặc
cả hai. Hình phạt đối với các cơng ty có thể là 1 triệu đơ-la hoặc gấp năm lần giá trị hàng
xuất khẩu có liên quan hoặc nhiều hơn.
Tính hiệu quả của nhiều biện pháp kiểm sốt được tăng cường bằng việc đưa vào
thành một nội dung của các hiệp định kiểm sốt đa phương. Hiện nay, Mỹ là thành viên của

Nhóm thực hiện : Nhóm 4 – Cao học Thương mại K15
GVHD : PGS.TS Đoàn Thò Hồng Vân - Trang 19 -
Nhóm Các Nhà Cung cấp Ngun tử, Nhóm Ơxtrâylia, Hệ thống Kiểm sốt Cơng nghệ Tên
lửa, và Thoả thuận Wassenaar.
 Luật quản lý xuất nhập khẩu bởi các lý do an ninh chính trị hay an ninh

kinh tế.
1) Luật Thẩm quyền kinh tế trong tình trạng khẩn cấp của quốc gia: Năm 1977
Nghị viện HK đưa ra một số sửa đổi bổ xung và thơng qua Luật về quyền hạn trong các
trường hợp kinh tế quốc tế khẩn cấp –IEEPA thực hiện trong cả thời bình và thời chiến.
Tổng thống được quyền áp dụng Luật này “ khi có mối đe doạ nguy hiểm và bất thường có
nguồn gốc một phần hoặc tồn bộ từ bên ngồi Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến anh ninh quốc gia,
chính sách đối ngoại, hoặc kinh tế của Hoa Kỳ, nếu Tổng thống tun bố tình trạng “khẩn
cấp quốc gia ” (national emergency)
Luật u cầu Tổng thống với khả năng cho phép phải tham khảo với Nghị viện
trước khi tun bố tình trạng khẩn cấp quốc gia và cả trong thời gian tun bố có hiệu lực.
Khi tun bố có hiệu lực, Tổng thống phải đệ trình lên quốc hội một báo cáo chi tiết và bảo
vệ cho hành động của mình và đưa ra danh sách các nước bị áp dụng các biện pháp trừng
phạt và lý do tại sao áp dụng.
2) Luật Bn bán với kẻ thù: Luật kinh doanh với kẻ thù-TWEA được áp dụng
từ năm 1917 nghiêm cấm kinh doanh với kẻ thù hoặc nước đồng minh của kẻ thù trong thời
gian chiến tranh. Tổng thống được tra quyền quyết định những lĩnh vực kinh doanh nào với
kẻ thù sẽ bị cấm, kể cả kiểm sốt các giao dịch tài chính nội địa cho tới tài chính quốc tế, áp
đặt các biện pháp cấm vận kinh tế, kiểm sốt phong toả tài sản của nước thù nghịch và các
hình thức trừng phạt kinh tế khác nhau.
3) Luật về kiểm sốt bn bán ma t.
Luật này, là một bộ phận của Luật Cưỡng chế, Giáo dục, và Kiểm sốt Ma t
(Drug Enforcement, Education, and Cotrol Act) năm 1986, thiết lập một quy trình dùng làm
căn cứ để tổng thống áp đặt một mức độ trừng phạt thương mại được coi là phù hợp đối với
các nước lớn sản xuất ma t hoặc trung chuyển ma t mà khơng chịu hợp tác với Mỹ.
Theo luật này, nếu một nước bị coi là khơng hợp tác đầy đủ với Mỹ trong những
nỗ lực chống ma t, tổng thống có thể hủy bỏ tất cả những đối xử ưu đãi thuế quan, như
GSP, CBI, và ATPA, đánh thuế lên tới 50% giá trị của các sản phẩm, đình chỉ các dịch vụ
thương mại hàng khơng, và thực hiện các biện pháp khác.
4) Luật về hợp tác phát triển và an ninh quốc tế: Luật này cấm nhập khẩu từ
những nước mà Hoa Kỳ cho rằng đã hỗ trợ cho các họat động khủng bố hoặc tổ chức khủng

bố hoặc chứa chấp những kẻ khủng bố hoặc tổ chức khủng bố. Tổng thống phải thăm dò ý
kiến trước ở Quốc hội về việc sử dụng quyền này và phải trình báo cáo lên Quốc hội hai lần
một năm.
5) Luật kiểm sốt xuất khẩu :
Nghị viện uỷ quyền cho Tổng thống kiểm sốt việc xuất khẩu của nhiều loai sản
phẩm. Có 3 loai chương trình kiểm sốt xuất khẩu quan trọng nhất là: xt khẩu sản phảm và
cơng gnhệ hạt nhân, hàng hố và dịch vụ qn sự, hàng hố và cơng nghệ lưỡng dụng-dân sự

Nhóm thực hiện : Nhóm 4 – Cao học Thương mại K15
GVHD : PGS.TS Đoàn Thò Hồng Vân - Trang 20 -
và qn sự. Theo mỗi chương trình có các loai giấy phép-visa- xuất khẩu khác nhau được áp
dụng.
Những hàng hố bị kiểm sốt se đưa vào danh sách CCL (Commodity Control List)
phải được Bộ Thương mại cấp giấy phép mới được xuất khẩu.
Các hàng hố bị kiểm sốt nhẹ hơn thì đưa vào danh mục OGL- Open General
license người xuất khẩu sẽ tự mình đánh dấu vào tờ khai xuất khẩu là hàng”G-DEST”general
Destinartion khơng phải xin giấy phép.
Uỷ ban kiểm sốt hạt nhân cấp giấy phép cho ngun liệu và cơng nghệ hạt nhân
theo Luật về năng lượng ngun tử. Bộ ngoại giao phụ trách cấp phép xt khẩu hàng và
dịch vụ quan sự và duy trì danh sách kiểm sốt vũ khí theo Luật kiểm sốt xuất khẩu vũ khí.
Hầu hết các hàng hố thương mại và dữ liệu kỹ thuật được cấp giấy phép do Ban
quản lý xuất khẩu của Bộ Thương mại.
 Luật về tự do hố thương mại và cấm phân biệt đối xử:
Cơ bản là các quy định phù hợp các quy tắc của WTO. Tuy nhiên luật này bị các
loại luật trên đây hạn chế, thậm chí “vơ hiệu hố”, một khi có những quy định ngoại lệ được
ghi trong Hiệp định ký kết.
Quy chế tối huệ quốc
Quy chế tối huệ quốc (MFN) hay còn gọi là khơng phân biệt đối xử, hiện nay đổi là
Quan hệ thương mại bình thường (NTR) được hình thành trong Luật về thuế quan năm 1930
cuả Hoa Kỳ và quy định trong Điều 1 của GATT 1947.

Ngun tắc cơ bản của MFN là khi hai bên dành cho nước thứ 3 quy chế gì tốt nhất
thì cũng phải dành cho bên kia như vậy.
Lĩnh vực áp dụng chủ yếu là trong biểu thuế quan, các biện pháp phi thuế
v.v Trong Điều 1 của GATT có liệt kê các biện pháp này.
Mỹ đã sửa đổi nhiều lần quy chế MFN (Luật Thương mại 1974, với điều luật bổ
sung Jackson-Vanik ) đưa ra các quy chế về việc dành MFN cho các nước cộng sản.
Theo quy chế này MFN dành cho các nước có nền kinh tế phi thị trường phải bị xem
xét lại hàng năm, khi nào chuyển hẳn sang cơ chế thị trường thì được vĩnh viễn (PNTR) như
Trung quốc hiện nay đang trong thời kỳ chuyển đổi trong vấn đề này với Mỹ.
Hiện nay Mỹ áp dụng MFN với tất cả các nước thành viên WTO và hầu hết các
nước XHCN cũ đã qua thủ tục về MFN với Mỹ.
Ngồi ra Mỹ còn ký một số Hiệp định tự do hố song phương với nhiều nước khác
dành cho họ quy chế đặc biệt (trong Biểu thuế gọi là thuế suất đặc biệt-Special) còn cao hơn
cả MFN như :
- Các nước vùng Caribe : trong Biểu thuế của Mỹ có các ký hiệu như: E=Caribbean
Basin Initiative (CBI), E*=Certain countries or products excluded from CBI eligibility.
- Ixrael : trong Biểu thuế của Mỹ có các ký hiệu IL=Israel Special Rate
- Các nước ADEAN : J=Andean Trade Preference Act (ATPA)
- Một số nước Mỹ La Tinh : J*=Certain countries or products excluded from ATPA
eligibility
- Một số nước tham gia Hiệp định về dược phẩm: K=Agreement on Trade in
Pharmaceutical Products

Nhóm thực hiện : Nhóm 4 – Cao học Thương mại K15
GVHD : PGS.TS Đoàn Thò Hồng Vân - Trang 21 -
- Một số nước tham gia Hiệp định về thuốc nhuộm: L=Uruguay Round Concessions on
Intermediate Chemicals for Dyes
- Các nước NAFTA (Canada và Mexico)
- Ưu đãi GSP cho các nước đang phát triển và kém phát triển. Trong biểu thuế ký hiệu
là A hay A*.

Các ưu đãi này được luật Mỹ và GATT cho phép.
Luật về nguồn gốc xuất xứ hàng hố
Luật thuế quan năm 1930, phần 304 và đã được bổ xung, nêu rõ: với một số trường hợp
ngoại lệ, mọi hàng hố có xuất xứ nước ngồi (hoặc trong một số trường hợp đặc biệt, vỏ
đựng của nó) “ sẽ phải ghi rõ ở một chỗ rõ ràng, thường xun theo đúng bản chất của hàng
hố (vỏ đựng) của hàng hố đó, để người tiêu dùng ở HK thấy rõ tên hàng bằng tiếng Anh
của nước xuất xứ của hàng hố đó”.
Mục đích điều này là để người tiêu dùng Hoa Kỳ chọn lựa giữa hàng của Hoa Kỳ với
nước ngồi hay giữa các nước với nhau.
Ngoại lệ: Bộ trưởng tài chính có quyền miễn u cầu ghi rõ xuất xứ như trên nếu như
thực tế một số loai hàng do tính chất lý hố khơng thể ghi rõ xuất xứ như trên được hoặc gây
hại đến chất lượng hàng hố.
Luật thuế quan năm 1984 bắt buộc ghi xuất xứ đối với những loai ống, khớp nối, xy
lanh ga, nắp cống, khung nhập khẩu.
Luật thương mại và cạnh tranh năm 1988 OTCA u cầu ghi rõ xuất xứ nơi thu hoạch
nấm đối với nấm đóng hộp.
Luật nhãn mác ơtơ HK có những quy định chi tiết về xuất xứ phụ tùng, việc lắp ráp ơtơ
và ơtơ ngun chiếc.
+ Phạt do vi phạm quy định ghi nơi xuất xứ : Hàng nhập khẩu khơng ghi rõ ràng xuất
xứ sẽ bị phạt 10% trị giá (khơng kể các loai thuế, phí khác), đồng thời nhà nhập khẩu vẫn
phải tn thủ những quy định có liên quan khác, ví dụ hầu hết hàng hố/hàng trong bao bì
khơng ghi rõ ràng xuất xứ sẽ bị giữ tại hải quan cho đến khi nhà nhập khẩu thu xếp tái xuất,
tiêu huỷ/marking lại cho đúng quy định dưới sự giám sát của hải quan. Nếu có một phần của
lơ hàng hố đã được thơng quan thì nhà nhập khẩu phải vận chuyển phần đó về cho hải quan
giám sát việc tái xuất, tiêu huỷ/marking lại cho đúng quy định. Phần 1907 (a) của OTCA
tăng mức phạt tối đa có thể tới 100.000USD cho lần đầu việc cố tình vi phạm thay đổi hoặc
xố marking xuất xứ và 250.000USD cho lần sau.
 Qua trình bày trên, chúng ta có thể phần nào nhận ra bức tranh chung về hệ
thống luật của Mỹ mà một nhà xuất khẩu khi muốn đưa hàng của mình vào thị trường này
cần quan tâm. Chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận thấy rằng có rất nhiều quy định của Hoa

Kỳ nhằm bảo hộ thị trường và doanh nghiệp trong nước của họ, mà họ cho là hợp lý và hợp
pháp và chúng ta phải tn theo một khi đã ký kết Hiệp định. Trên thực tế, đó là những rào
cản mang tính kỹ thuật và vơ hình cản ngăn dòng xâm nhập của sản phẩm xuất khẩu từ các
nước. Đối với từng ngành hàng thì lại có những qui định cụ thể riêng biệt cần nghiên cứu
riêng và việc doanh nghiệp Việt Nam ngay lập tức nắm bắt tất cả những vấn đề luật pháp
nói trên là rất khó nếu muốn nói là khơng thể. Nhưng đây là một vấn đề bắt buộc và mang
tính sống còn mà doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm cho một q trình làm ăn lâu dài với
thị trường đầy tiềm năng này.

Nhóm thực hiện : Nhóm 4 – Cao học Thương mại K15
GVHD : PGS.TS Đoàn Thò Hồng Vân - Trang 22 -
B. VĂN HỐ – XÃ HỘI
Hiểu về văn hóa nói chung và văn hóa kinh doanh nói riêng ở một nước ngồi sẽ có
ích cho các doanh nghiệp trong quan hệ kinh doanh với các bạn hàng ở nước đó. Phần này
nhằm tóm tắt và hướng dẫn một số nét cơ bản về văn hóa kinh doanh ở Hoa Kỳ với hy vọng
phần nào giúp các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp mới thiết lập quan hệ
kinh doanh với các bạn hàng ở Hoa Kỳ, giao tiếp và duy trì quan hệ kinh doanh có hiệu quả
hơn với các bạn hàng ở nước này.
Là một nước có diện tích lớn thứ 3 trên thế giới và với khoảng 290 triệu dân có
nguồn gốc từ nhiều nơi khác nhau trên thế giới, Hoa Kỳ là một xã hội đa dạng nhất trên thế
giới. Mặc dù đại bộ phận người Mỹ được coi là có nguồn gốc từ Châu Âu, song những người
thiểu số như người gốc Mỹ (người da đỏ), người Mỹ gốc Phi, người Hispanic, và người
Châu á cũng rất đơng. Hiện nay, mỗi năm có tới trên một triệu người nước ngồi di cư đến
Hoa Kỳ sinh sống và làm ăn, và dự kiến đến năm 2050 người Mỹ da trắng chỉ còn chiếm
dưới 50%. Các cộng đồng đang sinh sống ở Hoa Kỳ đều có những bản sắc riêng của họ, kể
cả ngơn ngữ, tơn giáo, tín ngưỡng, và phong tục, dưới đây là một số đặc điểm về văn hố
kinh doanh cuả Hoa Kỳ:
1) Cách viết họ tên
Tên người Mỹ được viết theo thứ tự tên riêng trước, sau đó đến tên đệm và cuối
cùng là họ. Họ lấy theo họ bố; khơng dùng họ mẹ. Ví dụ, Bill William Clinton trong đó Bill

là tên riêng, William là tên đệm, và Clinton là họ. Tên đệm thường được viết tắt hoặc thậm
chí khơng viết. Ví dụ, Bill William Clinton thường được viết là Bill W. Clinton hoặc chỉ viết
ngắn gọn là Bill Clinton. Họ tên cũng có thể viết theo tứ tự họ trước rồi đến tên riêng, và
cuối cùng là tên đệm. Trong trường hợp này sau họ có dấu phẩy. Ví dụ: Clinton, Bill
William.
Phụ nữ Mỹ khi lấy chồng đổi họ theo họ chồng. Có một số người dùng cả họ mình
và họ chồng. Ví dụ, Hillary Rodham Clinton, trong đó Hillary là tên riêng; Rodham là họ của
Hillary; và Clinton là họ của chồng.
2) Cách xưng hơ
Trừ một số trường hợp đặc biệt, người Mỹ thường gọi nhau bằng tên riêng. Tuy
nhiên, có một số ngun tắc phổ biến mà các nhà kinh doanh nước ngồi nên theo.
- Đối với lần tiếp xúc trực tiếp hoặc qua thư từ đầu tiên, nên gọi nhau bằng Mr.,
Mrs., Miss, Ms. hoặc Dr. và tiếp theo là họ. Ví dụ, Mr. Clinton.
- Có thể gọi tên riêng khi được mời hoặc sau khi đã có quan hệ thân mật.
- Khơng gọi tên riêng (trừ phi được mời) đối với những người hơn nhiều tuổi,
hoặc có địa vị hoặc cấp bậc cao hơn mình nhiều, hoặc đối với những người mà
bạn muốn thể hiện sự tơn trọng.
- Đối với trẻ em thì ln ln có thể gọi tên riêng.
- Đối với qn nhân hoặc cảnh sát nên gọi bằng cấp bậc (nếu biết) hoặc gọi
chung là “Officer” và tiếp theo là họ. Ví dụ, General Clark hoặc Officer Lugar.

Nhóm thực hiện : Nhóm 4 – Cao học Thương mại K15
GVHD : PGS.TS Đoàn Thò Hồng Vân - Trang 23 -
- Đối với người mới gặp lần đầu và khơng biết tên (ví dụ như nhân viên bán
hàng, thư ký, lái xe, nhân viên khách sạn ) có thể gọi “Sir”, “Mr.”, “M’am”
hoặc “Miss”.
3) Một số tính cách đặc trưng của người Mỹ
Mặc dù hiện nay nhiều doanh nhân Mỹ quan tâm đến phong cách quản lý, sự phát triển
kinh tế của vòng cung châu Á- Thái Bình Dương và chiến lược tồn cầu hố việc kinh doanh
trong vài thập kỷ qua, nhưng nhiều nhà quản lý Mỹ vẫn hẹp hòi trong cách nhìn nhận của

mình. Do truyền thống lịch sử của Mỹ là sống biệt lập, thường nhìn vào bên trong chứ khơng
nhìn ra bên ngồi và do sự thống trị thế giới của Mỹ về mặt chính trị và kinh tế trong 50 năm
qua, nhiều người Mỹ tin rằng họ có thể tiên hành kinh doanh ở nước ngồi theo bối cảnh Mỹ.
Do vậy, họ thường khơng giỏi ngoại ngữ, kém quan tâm đến thương mại quốc tế và
kém tế nhị trong các tình huống kinh doanh, giao lưu văn hố với các bạn hàng của mình
Phong cách chung của doanh nhân Mỹ là ít chú ý đến nghi lễ, đi thẳng vào vấn đề,
và muốn có kết quả nhanh. Trong đàm phán, người Mỹ thường xác định trước và rõ mục tiêu
cần đạt được, chiến lược và chiến thuật đàm phán, và dùng số liệu để chứng minh cho các
luận điểm của mình. Họ muốn dành chiến thắng về phần mình, song cũng sẵn sàng thỏa hiệp
trên cơ sở đơi bên cùng có lợi. ở Hoa Kỳ, “có đi có lại” là ngun tắc quan trọng trong đàm
phán chính trị cũng như trong kinh doanh.
Người Mỹ thích nói thẳng, rõ ràng, và dễ hiểu. Họ khơng thích kiểu nói vòng vo, xa
xơi, hoặc ví von. Nhìn chung, khi người Mỹ nói “được” thì có nghĩa là được và “khơng
được” có nghĩa là khơng được. Người Mỹ khơng ngại ngùng khi trả lời “tơi khơng biết” nếu
như họ khơng biết về vấn đề mà bạn quan tâm, hoặc “tơi khơng phụ trách việc này” nếu như
vấn đề bạn quan tâm khơng trong phạm vi trách nhiệm của họ. Tuy nhiên, người Mỹ thường
sẵn sàng chỉ cho bạn biết bạn phải hỏi ai hoặc tìm ở đâu để có những thơng tin mà bạn cần,
hoặc ai là người phụ trách việc mà bạn quan tâm.
Tính thẳng thắn và sự lịch thiệp cũng có mức độ khác nhau tuỳ theo vùng. Người
New York nổi tiếng là trực tính, và thậm chí hơi thơ bạo nếu so sánh với văn hóa Châu á.
Người ở vùng Trung Tây cũng thẳng thắn nhưng thường lịch sự hơn nhiều. Người California
khơng phải lúc nào cũng nói đúng ý nghĩ của họ. Ví dụ ở Los Angeles – miền đất của những
giấc mơ - nếu ai đó nói với bạn “Tơi sẽ trở lại vấn đề này với bạn” thì cũng có thể là họ sẽ
làm như vậy thật, song cũng có thể họ ngụ ý là “Bạn khơng có cơ hội”.
Người Mỹ thừa nhận là các mối quan hệ cá nhân ln ln là rất quan trọng. Nhưng
dù sao đi nữa, phần lớn người Mỹ khơng cần đến một quan hệ lâu dài với một người nào đó
đã tiến hành cơng việc kinh doanh với chính người đó.
Nhìn chung, người Mỹ khơng có thói quen nói hoặc cười to trong khi ăn uống hoặc
ở nơi cơng cộng. Họ rất tự giác xếp hàng đợi đến lượt mình khi có từ hai người trở lên, và
khơng có thói quen chen ngang hàng. Tại cửa ra vào thang máy, tầu điện ngầm, hoặc xe

bt, người ở ngồi thường đợi cho người ở trong ra hết rồi mới vào. Người Mỹ có thói quen
cám ơn khi được người khác giúp đỡ dù chỉ là một việc rất nhỏ như nhường đường chẳng
hạn.
Đối với các nhà quản lý người Mỹ, một sự bất đồng hay va chạm khơng nhất thiết là
xấu. Các nhà quản lý Mỹ tin rằng một tổ chức đang phát triển lành mạnh thì ln tăng trưởng

Nhóm thực hiện : Nhóm 4 – Cao học Thương mại K15
GVHD : PGS.TS Đoàn Thò Hồng Vân - Trang 24 -
và vận động.Tính cách riêng một cách tự nhiên của người Mỹ tạo cho họ để xem sự va chạm
trong điều kiện chiến thắng hay thất bại. “ Nếu tơi chiến thắng điều đó có nghĩa là ai đó phải
thất bại”
4) Chào hỏi
Cũng như ở các nơi khác, ở Hoa Kỳ, bắt tay là một cách chào phổ biến. Bạn có thể
bắt tay cả đàn ơnng và phụ nữ ở những lần gặp nhau đầu tiên hoặc sau đó. Người Mỹ có thói
quen bắt tay chặt dùng cả bàn tay chứ khơng phải chỉ ngón tay (khơng có nghĩa là bóp chặt
đến mức làm đau tay người khác) để thể hiện sự thân thiện và nhiệt tình. Bắt tay lỏng lẻo có
thể bị coi là khơng chắc chắn, thiếu tự tin, và thậm chí là hờ hững trong quan hệ. Rất ít khi
thấy người Mỹ dùng cả hai tay để bắt tay. Thỉnh thoảng bạn có thể thấy đàn ơng với đàn bà
hoặc đàn bà với đàn bà chào nhau bằng cách ơm, và thậm chí cọ má vào nhau hoặc hơn nhẹ
lên má nhau. Hình thức chào này thường chỉ dành cho những người là bạn bè lâu, hoặc ít
nhất cũng đã quen nhau. Ngồi ra, người Mỹ rất ít đụng chạm vào nhau.
Khơng nên hỏi tuổi, hoặc thu nhập của người Mỹ. Tơn giáo, chính trị, và tình dục
cũng là những lĩnh vực nhạy cảm ở Mỹ. Tốt nhất là bạn nên tránh những chủ đề này trừ phi
với những người bạn thân.
Khi nói chuyện, người Mỹ thường nhìn thẳng vào người đối diện và đứng khơng
qúa gần. Khơng nhìn thẳng vào người mình đang nói chuyện, nói năng nhỏ nhẹ, thái độ bẽn
lẽn có thể bị coi là người khơng có quyền hành hoặc yếu đuối. Bạn cũng có thể nhìn thấy
người Mỹ gác chân nọ lên chân kia và ngả người về phía sau khi ngồi nói chuyện với khách.
Những nét văn hóa này thường mẫu thuẫn với truyền thống tơn trọng lễ phép và khiêm tốn
của người Châu á. Nói như vậy khơng có nghĩa là người Mỹ kiêu ngạo hoặc thơ lỗ. Người

Mỹ thường coi trọng tính hiệu qủa hơn là sự lịch thiệp.
5) Thời gian là tiền bạc
Ở Hoa Kỳ, “thời gian là tiền bạc”. Thời gian cũng được coi là một loại hàng hóa
như tất cả các loại hàng hóa khác. Người Mỹ tiết kiệm thời gian cũng như tiết kiệm tiền bạc.
Những người cung cấp dịch vụ như luật sư, kế tốn, tư vấn, các nhà tâm lý học, thợ sửa chữa
cơ khí thường tính phí hoặc tiền cơng dựa trên số giờ làm việc cho khách hàng, đơi khi kể
cả thời gian tiếp và/hoặc nói chuyện qua điện thoại với khách hàng. Do vậy, các nhà kinh
doanh, khi cần sử dụng luật sư, cần phải chuẩn bị rất kỹ các câu hỏi và nội dung cần tư vấn,
và đi thẳng vào vấn đề để tiết kiệm tối đa thời gian sử dụng luật sư, tức là tiết kiệm chi phí
cho chính mình.
Tương tự như vây, các nhà kinh doanh Mỹ khơng có nhiều thời gian để nói chuyện
rơng dài hoặc đọc những bức thư dài hoặc chờ đợi sự trả lời chậm trễ. Các bức thư chào hàng
hoặc giao dịch trước hết phải thu hút được sự chú ý của người đọc, và phải ngắn gọn và rõ
ràng, trả lời thẳng vào các vấn đề hoặc cung cấp đúng những thơng tin mà đối tác u cầu.
Sự chậm trễ trả lời các thư hỏi hàng của đối tác Mỹ chắc chắn sẽ làm mất cơ hội kinh doanh.
6)Giao tiếp kinh doanh
6.1 Gặp gỡ làm việc
Người Mỹ muốn biết trước nội dung cuộc gặp, vai trò và quyền hạn, và thậm chí cả
thân thế sự nghiệp của khách. Rất nhiều trường hợp, nhất là đối với các cuộc gặp với các
quan chức chính phủ hoặc lãnh đạo doanh nghiệp cấp cao, bên chủ thường u cầu gửi trước

Nhóm thực hiện : Nhóm 4 – Cao học Thương mại K15
GVHD : PGS.TS Đoàn Thò Hồng Vân - Trang 25 -
tiểu sử tóm tắt của trưởng đồn. Họ thường định trước thời lượng cho các cuộc gặp gỡ (các
cuộc tiếp xã giao thường kéo dài 30 – 45 phút và hiếm khi q 1 tiếng) và khơng ngại ngùng
chủ động kết thúc khi hết giờ, nhất là khi họ có việc bận tiếp sau đó, hoặc thấy cuộc gặp
khơng mang lại lợi ích gì. Khơng thiếu những cuộc gặp kết thúc trong khi phía khách chưa
kịp đề cập hết các vấn đề muốn nói.
Người Mỹ thường rất đúng giờ. Sự chậm trễ được hiểu là thiếu quan tâm, coi thường
đối tác hoặc kém cỏi trong sắp xếp thời gian. ở các thành phố lớn thường xảy ra tắc nghẽn

giao thơng thì có thể cho phép sớm muộn đơi chút song khơng nhiều. Nếu khơng may bị
muộn 10 -15 phút thì nên gọi điện thoại báo trước và xin lỗi, và, nếu có thể, cho biết lý do.
Nhiều thành phố ở Hoa Kỳ rất rộng; đi từ địa điểm này đến địa điểm khác có khi mất hàng
giờ. Do vậy, khi sắp xếp các cuộc gặp cần phải tính trước thời gian đi lại và trừ hao thời gian
tắc nghẽn giao thơng. Ngược lại, đến sớm có thể làm bên chủ bối rối do chưa sẵn sàng tiếp
đón hoặc được hiểu là q sốt ruột hoặc khơng có việc gì tốt hơn để làm. Nói chung, nên đến
vào đúng thời gian ghi trên giấy mời hoặc đã hẹn.
Cũng vì muốn tiết kiệm thời gian, nên các cuộc gặp làm việc với người Mỹ thường là
ngắn, tập trung và đi thẳng vào vấn đề. Đối với một số nền văn hóa vừa gặp nhau đã bàn
ngay đến chuyện làm ăn thì có thể bị coi là mất lịch sự, trong khi đó người Mỹ lại thích nói
chuyện làm ăn trước, sau đó mới nói đến chuyện cá nhân và các chuyện khác. Vì vậy,
thường thì khách, nhất là những người chào hàng phải chuẩn bị rất kỹ và đi thẳng vào nội
dung sau những câu chào hỏi xã giao ngắn gọn. u cầu này càng quan trọng nếu cuộc làm
việc được tiến hành thơng qua phiên dịch vì thực chất thời gian làm việc chỉ còn tối đa một
nửa. Trong các cuộc họp hoặc gặp gỡ làm việc, người Mỹ có thể cắt ngang lời nhau để hỏi
hoặc nêu ý kiến của mình. Thói quen này có thể bị coi là bất lịch sự trong một số nền văn
hóa Châu á. Do vậy, các nhà kinh doanh nước ngồi khơng nên ngạc nhiên khi bị người Mỹ
cắt lời để hỏi hoặc nêu ý kiến của họ.
Khi thấy khơng còn nội dung cần thảo luận và bên chủ khơng muốn nói sang vấn đề
khác thì khách cũng nên chủ động kết thúc cuộc gặp. Nếu cuộc gặp đã đủ dài và bạn thấy có
người vào phòng thì thầm với người tiếp chính bên chủ hoặc đưa cho người đó một mảnh
giấy thì bạn cũng nên hiểu đó là tín hiệu bên chủ muốn kết thúc cuộc gặp. Trước khi kết thúc
cuộc gặp nên chủ động tóm tắt những việc đã bàn hoặc thỏa thuận và nói rõ những việc mà
hai bên dự định sẽ triển khai. Sau mỗi cuộc gặp gỡ quan trọng, phía khách nên gửi thư cám
ơn và tranh thủ nhắc lại những vấn đề mà hai bên đã bàn hoặc thoả thuận.
6.2 Kiểm tra an ninh tại nơi làm việc
Sau sự kiện khủng bố 11/9, việc kiểm tra an ninh được thực hiện rất nghiêm ngặt
khơng những tại các sân bay mà còn tại các nơi làm việc quan trọng và đơng người. Khách
đến làm việc nhất là tại các cơ quan của chính phủ và các tòa nhà lớn ở những thành phố lớn,
nên mang theo giấy tờ tùy thân có dán ảnh để xuất trình tại thường trực, và khơng nên mang

theo hành lý cồng kềnh. ở một số cơng sở, do người ra vào đơng, cho nên việc đăng ký để
lấy thẻ ra vào và kiểm tra an ninh đơi khi khá mất thời gian. Để khơng bị muộn hoặc bị rút
ngắn thời gian cuộc gặp, khách đến làm việc (nhất là các đồn đơng người) ở những cơng sở
này thường phải đến sớm để “trừ hao” thời gian đăng ký lấy thẻ ra vào và kiểm tra an ninh.
6.3 Trang phục

×