Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Chủ trương ngoại giao “vừa đánh vừa đàm” trong kháng chiến chống Mỹ và bài học cho ngoại giao Việt Nam thời hội nhập.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.5 KB, 17 trang )

Đề tài 7: Chủ trương ngoại giao “vừa đánh vừa đàm” trong kháng chiên
chống My và bài học cho ngoại giao Việt Nam thời hội nhập.


MỞ ĐẦU
Trong cuộc kháng chiên chống My, chủ trương ngoại giao "vừa đánh vừa
đàm" đã trở thành một phương thức quan trọng và hiệu quả, đặt ra những
thách thức và cơ hội đặc biệt cho Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Thời kỳ
đó, nước ta khơng chỉ đối mặt với sức mạnh quân sự của đối phương mà
còn phải đối đầu với những tình thê phức tạp ở trên bàn đàm phán quốc tê.
Chủ trương "vừa đánh vừa đàm" không chỉ thể hiện sự linh hoạt chiên
lược mà còn là biểu tượng của sự khơn ngoan ngoại giao, góp phần quan
trọng vào chiên thắng lịch sử của dân tộc.
Ngày nay, khi Việt Nam đang hiện diện trong bối cảnh hội nhập quốc tê
và tham gia vào các diễn đàn kinh tê, chính trị quốc tê, việc rút ra bài học
từ chủ trương ngoại giao "vừa đánh vừa đàm" trở nên vô cùng quan trọng.
Những kinh nghiệm và chiên lược ngoại giao này khơng chỉ là di sản lịch
sử mà cịn là nguồn lực quý báu, định hình và đẩy mạnh q trình hội
nhập, đồng thời góp phần xây dựng uy tín và vai trị quan trọng của Việt
Nam trên trường quốc tê. Trong tiểu luận này, chúng ta sẽ cùng nhìn lại
chủ trương ngoại giao "vừa đánh vừa đàm" trong kháng chiên chống My
và điều tra những bài học quý báu mà nó mang lại cho ngoại giao Việt
Nam trong thời kỳ hội nhập ngày nay.


NỘI DUNG
I. Cơ sơ ly luân
1. Làm ro đanh và đàm, biêu hiên
Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
trước khi My đưa quân vào miền Nam, tháng 1-1965, Hội nghị Trung
ương Cục miền Nam lần thứ ba họp, dự báo đúng tình hình, khẳng định


lập trường tư tưởng và xác định quyêt tâm đánh thắng giặc My xâm lược:
“Địch có thể đưa thêm 130.000 quân vào miền Nam, nên cần chuẩn bị tư
tưởng thật vững vàng trong tình thê quyêt thắng giặc My. Chống các loại
tư tưởng ngán My, sợ My và sợ lâu dài ác liệt, ảo tưởng hịa bình”. Từ
chiên thắng tiêu diệt một đại đội My ở Núi Thành, Quảng Nam (tháng 51965) đên chiên thắng một tiểu đoàn My ở Vạn Tường, Quảng Ngãi
(tháng 8-1965), Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã đúc kêt phương châm
quân sự độc đáo “Nắm thắt lưng địch mà đánh”. Nhờ vậy, ta đã tiêu diệt
được cả tiểu đoàn My ở Đất Cuốc, Phước Thành vào tháng 11-1965 và
làm thiệt hại nặng 2 sư đoàn cơ động của My ở Plây-me, Bầu Bàng vào
tháng 10-1965. Từ những chiên thắng quan trọng này và chiên công bắn
hạ 700 máy bay My ở miền Bắc (tính tới tháng 10-1965), trong phiên họp
bê mạc Hội nghị lần thứ 12 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào
ngày 27-12-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Qua những ý
kiên của các đồng chí đã phát biểu ở hội nghị, thấy nổi bật hai điểm quan
trọng: Ta quyêt tâm đánh thắng giặc My xâm lược; Ta nhất định thắng”.
Những thắng lợi to lớn liên tiêp trên cả hai miền Nam, Bắc trong năm
1966 là cơ sở thực tiễn quyêt định để Hội nghị Trung ương lần thứ 13
(tháng 1-1967) ban hành Nghị quyêt “Về đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao,
chủ động tiên công địch, phục vụ sự nghiệp chống My, cứu nước của
nhân dân ta”. Trong “Thư trả lời Tổng thống My Johnson” đăng trên Báo
Nhân dân ngày 22-3-1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân dân


Việt Nam quyêt không khuất phục trước vũ lực và qut khơng nói
chuyện trước sự đe dọa của bom đạn”.
Để tạo cơ sở cho đấu tranh ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ
Chính trị xúc tiên kê hoạch mở một cuộc tiên công chiên lược ở chiên
trường miền Nam nhằm “giáng cho chúng những địn tiên cơng sấm sét
làm thay đổi cục diện chiên tranh, làm lung lay hơn nữa ý chí xâm lược
của đê quốc My, buộc My phải thay đổi chiên lược, phải xuống thang

chiên tranh”. Sau khi Đại tướng Nguyễn Chí Thanh mất vào ngày 6-71967, đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ
tướng Phạm Hùng được cử làm Bí thư Trung ương Cục miền Nam kiêm
Chính ủy Quân Giải phóng. Năm 1967, quân và dân ta ở miền Bắc đã bắn
hạ hơn 1.000 máy bay My, trong đó có 4 máy bay B-52. Ngày 28-121967, Bộ Chính trị đã họp và ra Nghị quyêt “Về tình hình và nhiệm vụ
cách mạng miền Nam”, quyêt định mở cuộc Tổng tiên công và nổi dậy
Têt Mậu Thân năm 1968. Trong cuộc họp lịch sử này, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ thị: “Kê hoạch phải thật tỷ mỉ; hợp đồng phải thật ăn khớp;
bí mật phải thật tuyệt đối; hành động phải thật kiên quyêt; cán bộ phải
thật gương mẫu”. Nghị qut này của Bộ Chính trị sau đó được Hội nghị
Trung ương lần thứ 14 thông qua và trở thành Nghị quyêt của Hội nghị.
Thắng lợi to lớn của cuộc Tổng tiên công Têt Mậu Thân năm 1968 đã
làm nhụt ý chí xâm lược của quân My và làm đảo lộn thê chiên lược của
chúng trên chiên trường. Đêm 31-3-1968, Tổng thống My B. Johnson
buộc phải đơn phương tuyên bố chấm dứt vai trò chiên đấu trực tiêp của
quân đội My trên chiên trường miền Nam và trao trả trách nhiệm cho
qn đội Sài Gịn, ngừng tồn bộ hành động không quân và hải quân
chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chấm dứt ném bom miền Bắc từ vĩ
tuyên 20 trở ra và sẵn sàng cử đại diện đàm phán với phía Việt Nam Dân


chủ Cộng hịa. Cuộc tiên cơng lần thứ hai của quân ta bắt đầu vào đêm
mồng 4, rạng sáng ngày 5-5-1968 và tám ngày sau, vào ngày 13-5-1968,
phiên họp công khai đầu tiên giữa phái đoàn My với phái đoàn Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đã được khai mạc tại Hội trường Kléber, Thủ đô Paris,
Pháp.
Ngày 21-8-1968, bốn ngày sau khi ta mở cuộc tiên công lần thứ ba (ngày
17-8-1968), phía My ngỏ ý muốn có cuộc tiêp xúc cấp cao và phía ta
chấp nhận. Tới thời điểm này, hai bên đã có 18 phiên họp cơng khai và 4
cuộc tiêp xúc riêng cấp Phó Đồn.
2. Làm ro bươc chun biến cua ngoai giao VN

Thành cơng đầu tiên của Đồn đàm phán của ta ở Paris là đã chủ động
kiên nghị với Bộ Chính trị điều chỉnh yêu cầu đối với đối phương, nhờ
vậy tranh thủ được thời gian để ngày 31-10-1968, kịp đi tới thỏa thuận về
việc My chấm dứt ném bom miền Bắc vô điều kiện và tiên hành họp bốn
bên. Thắng lợi này là sự ủng hộ mạnh mẽ cho chiên trường miền Nam khi
đó đang gặp khó khăn sau “màn ba” của cuộc Tổng tiên cơng Têt Mậu
Thân. Như vậy, ngoại giao đã trở thành một mặt trận quan trọng, có ý
nghĩa chiên lược, đã được khẳng định trong Nghị quyêt của Bộ Chính trị
tháng 4-1969. Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, đồng chí Bí thư thứ
nhất Lê Duẩn gánh vác trách nhiệm lãnh đạo cuộc đàm phán.
Trong gần ba năm đàm phán, My luôn đưa ra yêu cầu muốn cả hai bên
phải cùng rút quân. Cho đên ngày 11-10-1971, phía My mới khơng cịn
nêu vấn đề qn miền Bắc. Trong giai đoạn này, để hậu thuẫn cho đấu
tranh ngoại giao, ta tập trung đẩy mạnh tiên công quân sự, làm thất bại
cuộc tấn công của địch ở Mỏ Vẹt, Campuchia (tháng 4-1970) và làm phá
sản cuộc hành quân Lam Sơn 719 sang Đường 9 Nam Lào (tháng 2-1971).


Sau chuyên thăm Trung Quốc của Tổng thống My R. Nixon vào tháng 21972, ngày 22-3-1972, My tuyên bố tạm ngừng Hội nghị Paris vô điều
kiện với hy vọng dùng tác động bên ngoài để tạo sức ép với ta. Ngày 303-1972, quân giải phóng miền Nam mở chiên dịch Xuân Hè tấn công địch
từ Quảng Trị đên Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Ngày 6-4-1972, My
quay trở lại tiêp tục ném bom miền Bắc Việt Nam. Tháng 5-1972, Tổng
thống My R. Nixon thăm Mát-xcơ-va (Nga) và đưa ra gợi ý rằng Cố vấn
đặc biệt Lê Đức Thọ có thể tới Bắc Kinh (Trung Quốc) hoặc Mát-xcơ-va
để có cuộc bàn thảo với H. Kissinger. Tuy nhiên, phía ta đều nhã nhặn từ
chối và buộc My phải tiêp tục đàm phán trực tiêp với ta ở Paris.
Ngày 28-6-1972, khi đàm phán riêng được nối lại, đồng chí Cố vấn đặc
biệt Lê Đức Thọ đã trực tiêp nói với H. Kissinger: “Trong một ván cờ,
quyêt định thắng bại phải là người trong cuộc, khơng có cách nào khác.
Chúng tơi độc lập giải quyêt vấn đề của chúng tôi” (11). Ngày 8-10-1972,

trong cuộc gặp riêng, đồng chí Lê Đức Thọ đã trao cho H. Kissinger bản
“Dự thảo Hiệp định về chấm dứt chiên tranh, lập lại hịa bình ở Việt
Nam”. Ngày 20-10-1972, trong thông điệp gửi Thủ tướng Phạm Văn
Đồng, Tổng thống My R. Nixon xác nhận “văn bản Hiệp định coi như đã
hồn thành” và cam kêt Hiệp định sẽ được chính thức ký kêt vào ngày
31-10-1972 tại Paris. Tuy nhiên, từ tối ngày 18 đên ngày 30-12-1972,
phía My đã “lật lọng” và tiên hành chiên dịch Linebacker II khơng kích
Thủ đơ Hà Nội, Hải Phòng và nhiều địa phương ở miền Bắc bằng máy
bay chiên đấu B-52 liên tục trong 12 ngày đêm nhằm ép ta ký kêt Hiệp
định Paris theo những sửa đổi của My. Nhưng rốt cuộc, My đã thất bại
thảm hại trong trận “Điện Biên Phủ trên không”, buộc My phải quay lại
bàn đàm phán, đúng như dự báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh “My chỉ chịu
thua Việt Nam sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”.


Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris về chấm dứt chiên tranh, lập lại hịa
bình ở Việt Nam chính thức được ký kêt với nội dung cơ bản như dự thảo
của ta đưa ra hồi tháng 10-1972. Với thắng lợi ngoại giao này, tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Đánh cho My cút” đã được thực hiện để
sau đó, ta tiêp tục “Đánh cho ngụy nhào” trong cuộc Tổng tiên cơng mùa
Xn năm 1975 với Chiên dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước.
II. Vân dụng
1. Bài học kinh nghiêm
Từ tiên trình lịch sử của quá trình kêt hợp “vừa đánh, vừa đàm” trong
cuộc kháng chiên chống My, cứu nước, có thể rút ra một số bài học:
Một là, vai trò quyêt định thuộc về người đứng đầu có tư duy chiên lược
vượt trội. Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Lê Duẩn đã có những dự
đốn sắc bén, xác định lộ trình chiên lược đúng đắn, kêt hợp phương thức
“vừa đánh, vừa đàm” từ trước khi My đưa quân vào miền Nam. Tổng Bí

thư Nguyễn Văn Linh đã khẳng định: “Ta có Bác Hồ, có đồng chí Tổng
Bí thư, có Bộ Chính trị làm Bộ Tham mưu tối cao nhất của phong trào
miền Nam”.
Hai là, sau khi có quyêt sách chiên lược chi tiêt, cần ưu tiên lựa chọn và
bố trí cán bộ lãnh đạo ngang tầm. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã chỉ
đạo các trận đánh mở đường chiên thắng đê quốc My xâm lược ở miền
Nam. Đồng chí Phùng Thê Tài đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được
Bác Hồ giao: nghiên cứu B-52 từ 1962, đánh B-52 từ 1966 và chuẩn bị hạ
B-52 trên bầu trời Hà Nội từ 1967. Đồng chí Nguyễn Duy Trinh đã cùng
với CP.50 giúp Bộ Chính trị chỉ đạo đàm phán sát sao. Lãnh đạo hai đoàn


đàm phán khơng chỉ có tinh thần cách mạng tiên cơng, ý thức kỷ luật mà
cịn có tầm tư duy chiên lược, bản lĩnh vững vàng và phương pháp sáng
tạo, linh hoạt. H. Kissinger đã phải thừa nhận rằng, Cố vấn Lê Đức Thọ
“như một nhà phẫu thuật lành nghề”, “phục vụ lý tưởng một cách khéo
léo và tận tụy”. Bên cạnh đó, tham gia hai đồn đàm phán ở Paris đều là
những cán bộ ưu tú được lựa chọn từ các ngành ngoại giao, quân sự,
thông tin - báo chí... Đó là một “binh chủng hợp thành” đặc biệt, đồn kêt,
gắn bó, tận tâm, tận lực, đều mang trong mình đủ trí tuệ, bản lĩnh, văn
hóa chính trị, năng lực và nghiệp vụ để đàm phán với phái đoàn My. Hai
đoàn của ta “tuy hai nhưng là một và một lại là hai”. “Bộ ba” Lê Đức Thọ
- Xuân Thủy - Nguyễn Thị Bình và “bộ ba” Lê Đức Thọ - Xuân Thủy Nguyễn Cơ Thạch đã phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả ở mặt trận ngoại
giao. Chính H. Kissinger sau này cũng phải thừa nhận: “Khi họ đối diện
với người đại diện của cường quốc hùng mạnh nhất thê giới, họ tỏ ra tinh
tê, kỷ luật và kiên nhẫn biêt bao”.
Ba là, cần bảo đảm sự lãnh đạo tồn diện và tuyệt đối của Đảng trong q
trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại. Cuộc đàm phán Paris
là một công việc quan trọng hàng đầu được Bộ Chính trị chỉ đạo sát sao.
Khi cần thiêt, đồng chí lãnh đạo Đồn đàm phán có thể về nước báo cáo,

trình bày ý kiên và tiêp thu ý kiên chỉ đạo của Bộ Chính trị. Trong bối
cảnh đàm phán quan trọng như cuộc đàm phán Paris, sự lãnh đạo tồn
diện và tuyệt đối của Đảng là điều khơng thể phủ nhận. Điều này đặt ra
một trách nhiệm nặng nề đối với các đồng chí lãnh đạo Đồn đàm phán,
họ phải không chỉ là người đại diện cho quốc gia mà còn phải thể hiện rõ
vai trò và tầm quan trọng của Đảng trong mọi quyêt định và hành động.
Các đồng chí lãnh đạo Đồn đàm phán cần chú ý đên việc duy trì và củng
cố sự đồng thuận trong Đảng, đồng thời đảm bảo rằng mọi quyêt định đều
được hịa nhập và thực hiện đồng bộ với các chính sách và chỉ đạo của Bộ


Chính trị. Việc về nước để báo cáo và trình bày ý kiên cũng trở nên quan
trọng, không chỉ là để thơng tin mà cịn để nhận được sự chỉ đạo một cách
rõ ràng và chi tiêt từ Bộ Chính trị.
Bốn là, phải bám sát thực tiễn trong nước và quốc tê để hoạch định, triển
khai đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước một cách hiệu quả.
Nghị quyêt Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (tháng 12-1965) về quyêt
tâm đánh thắng giặc My xâm lược và Nghị quyêt Hội nghị Trung ương
lần thứ 13 (tháng 1-1967) về mở mặt trận ngoại giao kêt hợp đánh với
đàm đều là thành quả khái quát từ lý luận đên thực tiễn trong chiên
trường cả trên hai miền Nam, Bắc và kinh nghiệm quốc tê. Từ bài học
này, có thể thấy, chỉ có bám sát thực tiễn trên cả hai bình diện trong nước
và quốc tê thì mới có thể dự báo chính xác tình hình, làm cơ sở khoa học
cho việc hoạch định đường lối và chính sách của Đảng, góp phần thực
hiện thắng lợi mục tiêu chiên lược đên năm 2045 và khắc phục các hạn
chê mà Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra về hoạt động đối ngoại và hội
nhập quốc tê có lúc chưa theo kịp diễn biên tình hình, chưa lường hêt
được những diễn biên bất lợi.
Năm là, độc lập tự chủ gắn liền với đoàn kêt quốc tê là điều kiện tiên
quyêt để kêt hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Ta đã độc lập

tự chủ, chủ động mở đầu đánh và đàm, và cũng chủ động kêt thúc đàm và
đánh. Nhờ vậy, đã hình thành được mặt trận thê giới ủng hộ Việt Nam
chống My, cứu nước, tranh thủ tối đa sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tê, đồng
thời phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của đất nước ở cả hai miền Nam,
Bắc.
Sáu là, Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc "chiêng có to thì tiêng
mới lớn" không chỉ là một tuyên ngôn đơn thuần về âm nhạc, mà còn là


một nguyên tắc cơ bản trong việc phát triển thực lực ngoại giao của quốc
gia. Ông đã nhấn mạnh rằng, để có thể đạt được ảnh hưởng lớn trong các
mối quan hệ quốc tê, chúng ta cần phải xây dựng một cơ sở vững mạnh
về mọi lĩnh vực. Trước hêt, việc phát triển kinh tê là chìa khóa quan trọng.
Một nền kinh tê mạnh mẽ không chỉ tạo ra nguồn lực để hỗ trợ đối ngoại
mà còn là cơ sở để quốc gia tỏ ra độc lập và tự chủ trong các mối quan hệ
quốc tê. Đồng thời, quốc phòng và an ninh mạnh mẽ là điều kiện tiên
quyêt để bảo vệ chủ quyền và đảm bảo an ninh quốc gia, giúp quốc gia tự
tin hơn trong các cuộc đàm phán và giao thương quốc tê.
Ngoài ra, sự tiên bộ trong lĩnh vực khoa học - công nghệ là yêu tố quyêt
định để nâng cao vị thê của quốc gia trên trường quốc tê. Việc đầu tư và
phát triển công nghệ không chỉ tăng cường sức mạnh kinh tê mà cịn làm
tăng cường uy tín và đẳng cấp của quốc gia trong cộng đồng quốc tê. Hơn
nữa, văn hóa đóng vai trị quan trọng trong việc xây dựng hình ảnh quốc
gia và tạo dựng sự gần gũi trong giao tiêp quốc tê. Việc bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa, cũng như thúc đẩy văn hóa hiện đại đặc sắc, sẽ giúp
quốc gia trở thành một đối tác giao thương hấp dẫn và đồng cảm trong
cộng đồng quốc tê.
Bảy là, đấu tranh ngoại giao là một hoạt động mang tính khoa học và
nghệ thuật “dĩ bất biên ứng vạn biên”. Khoa học và nghệ thuật này có
nghĩa là phải hiểu rõ thực lực giữa ta và đối phương; phải nắm vững tình

hình nội bộ, biêt rõ chiên lược, sách lược và âm mưu của đối phương;
phải dự tính đường đi, nước bước một cách khéo léo, linh hoạt, chính xác
và cần nắm vững thời cơ. Khoa học và nghệ thuật đàm phán đòi hỏi phải
biêt giành thắng lợi ở từng phần và phải biêt “ngả bài đúng lúc”; quán
triệt sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dùng lối nói chuyện thì
phải nhân nhượng nhau đúng mức”. Có như vậy, đối ngoại và ngoại giao


mới giúp xây dựng đất nước vững mạnh và bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa
trong mọi tình thê biên đổi khôn lường của thời cuộc.
2. Vân dụng
Chủ trương ngoại giao "vừa đánh vừa đàm" trong giai đoạn kháng chiên
chống My đã đánh dấu một chương mới trong lịch sử ngoại giao của Việt
Nam. Nhìn lại quá khứ, ta nhận thấy những chiên lược linh hoạt và sáng
tạo được áp dụng trong thời kỳ đó vẫn cịn mang lại những bài học quan
trọng cho ngoại giao Việt Nam trong thời đại hội nhập ngày nay. Đối mặt
với thách thức kép của chiên tranh quân sự và đàm phán quốc tê, Việt
Nam đã áp dụng một chiên lược linh hoạt, tận dụng mọi cơ hội để bảo vệ
và phát triển đất nước.
Một trong những thực tiễn quan trọng của chủ trương ngoại giao "vừa
đánh vừa đàm" là khả năng linh hoạt trong quản lý mối quan hệ quốc tê.
Trong kháng chiên, Việt Nam không chỉ chiên đấu trên chiên trường quân
sự mà còn chiên đấu trên bàn đàm phán quốc tê. Bài học đầu tiên cho
ngoại giao Việt Nam là sự linh hoạt này vẫn giữ nguyên giá trị ngày nay.
Việc áp dụng linh hoạt này vào thời kỳ hội nhập có thể thấy rõ qua việc
mở rộng mối quan hệ với nhiều đối tác, không chỉ tập trung vào một số
nước. Việt Nam đã ký kêt các hiệp định thương mại quan trọng, tham gia
vào các cơ quan và diễn đàn kinh tê quốc tê như WTO, APEC, và CPTPP.
Việc này không chỉ tạo ra cơ hội thị trường mới mà còn làm tăng cường
đàm phán và quan hệ ngoại giao với nhiều bên, từ đó tối đa hóa lợi ích

quốc gia.
Chủ trương "vừa đánh vừa đàm" của Việt Nam trong giai đoạn kháng
chiên chống My đã không chỉ mang lại sự tự chủ và linh hoạt trong ngoại


giao mà cịn đặt nền móng cho vai trị quan trọng của Việt Nam trong duy
trì hịa bình và an ninh quốc tê trong thời đại hội nhập ngày nay.
Trong bối cảnh thách thức từ chiên tranh quân sự và áp lực quốc tê, Việt
Nam đã phát triển chiên lược ngoại giao linh hoạt, kêt hợp giữa quân sự
và đàm phán quốc tê. Bài học lớn nhất từ giai đoạn này là khả năng duy
trì mối quan hệ hịa bình và hợp tác quốc tê trong khi vẫn bảo vệ lợi ích
quốc gia.
Trong thời kỳ hội nhập, chủ trương này đã trở thành nguyên tắc quan
trọng khi Việt Nam mục tiêu trở thành một đồng minh đáng tin cậy trên
trường quốc tê. Việc tham gia tích cực trong cộng đồng ASEAN là một ví
dụ điển hình. Việt Nam khơng chỉ là thành viên chủ chốt mà cịn là người
đóng góp tích cực vào việc duy trì hịa bình và ổn định trong khu vực.
Mối quan hệ tốt đẹp này không chỉ làm tăng cường sức mạnh cả khu vực
mà còn đóng góp vào hệ thống an ninh quốc tê.
Một ví dụ khác là vai trò của Việt Nam trong giữ gìn an ninh biển Đơng.
Việt Nam đã khéo léo sử dụng các cơ hội đàm phán và hợp tác quốc tê để
giải quyêt tranh chấp và duy trì ổn định trong khu vực biển Đông. Bằng
cách này, Việt Nam không chỉ bảo vệ lợi ích quốc gia mà cịn đóng góp
vào việc xây dựng một mơi trường hịa bình và công bằng.
Hơn nữa, Việt Nam đã chủ động tham gia vào các nhiệm vụ duy trì hịa
bình của Liên Hợp Quốc. Việc cung cấp lực lượng gìn giữ hịa bình là
một bước quan trọng, thể hiện cam kêt của Việt Nam đối với sự ổn định
và hịa bình tồn cầu. Điều này cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam được
nhìn nhận là một đối tác quốc tê đáng tin cậy và có trách nhiệm.



Chủ trương "vừa đánh vừa đàm" không chỉ là một chiên lược quốc tê mà
còn là biểu tượng của sự khôn ngoan và sáng tạo trong ngoại giao. Những
bài học từ quá khứ không chỉ là nguồn động viên mà còn là hướng dẫn
cho Việt Nam trong việc đối mặt với những thách thức và cơ hội đa dạng
của thê giới ngày nay.
Chủ trương "vừa đánh vừa đàm" còn mang lại bài học quan trọng về cách
quản lý hiệu quả các thách thức đối ngoại. Trong kháng chiên, Việt Nam
đã đối mặt với áp lực lớn từ cả chiên tranh và cộng đồng quốc tê. Sự đối
mặt thông minh với thách thức và giữ vững đàm phán đã giúp Việt Nam
vượt qua khó khăn và tạo ra một tương lai hịa bình và ổn định. Áp dụng
bài học này vào thời đại hội nhập, Việt Nam tiêp tục đối mặt với những
thách thức đa dạng, từ biên đổi khí hậu đên đối đầu thương mại toàn cầu.
Chủ trương ngoại giao "vừa đánh vừa đàm" giúp Việt Nam khơng chỉ
thích ứng mà còn tận dụng cơ hội từ những thách thức này. Việc xây
dựng năng lực chống chọi và đàm phán thơng minh là chìa khóa để vượt
qua các thách thức đối ngoại và bảo vệ lợi ích quốc gia.
Trong việc quản lý hiệu quả các thách thức đối ngoại, chủ trương "vừa
đánh vừa đàm" của Việt Nam đã đem đên nhiều bài học quan trọng từ
quá khứ và áp dụng chúng vào thời đại hội nhập ngày nay. Trong kháng
chiên chống My, Việt Nam không chỉ đối mặt với áp lực từ chiên tranh
mà còn phải đối diện với thách thức lớn từ cộng đồng quốc tê.
Sự đối mặt thông minh với thách thức đã trở thành một trong những đặc
điểm nổi bật của chủ trương này. Việt Nam đã học cách linh hoạt điều
chỉnh chiên lược ngoại giao dựa trên tình hình thê giới thay đổi, từ đó tối
ưu hóa lợi ích quốc gia. Trong thời đại hội nhập, Việt Nam tiêp tục đối


mặt với thách thức đa dạng như biên đổi khí hậu, đối đầu thương mại
toàn cầu, và những vấn đề địi hỏi sự đàm phán thơng minh.

Chủ trương "vừa đánh vừa đàm" đã giúp Việt Nam khơng chỉ thích ứng
với những biên động này mà còn tận dụng cơ hội. Việc xây dựng năng
lực chống chọi không chỉ trong lĩnh vực quân sự mà còn trong khả năng
đàm phán và thương lượng đã trở thành chìa khóa quan trọng. Việt Nam
học được rằng, để bảo vệ lợi ích quốc gia, cần phải có sự đổi mới và sáng
tạo khơng chỉ trong chiên lược mà còn trong cách tiêp cận với các đối tác
quốc tê.
Một ví dụ rõ nét là việc tham gia vào các hiệp định thương mại quốc tê
như CPTPP. Bằng cách này, Việt Nam không chỉ mở rộng thị trường xuất
khẩu mà còn tạo ra cơ hội đàm phán và hợp tác với nhiều quốc gia. Tham
gia các tổ chức và diễn đàn quốc tê khác như WTO và APEC cũng là một
phần của chiên lược này, giúp Việt Nam tăng cường vai trị và ảnh hưởng
của mình trên trường quốc tê.
Chủ trương ngoại giao "vừa đánh vừa đàm" khơng chỉ chú trọng đên khía
cạnh qn sự và kinh tê mà còn đặt sự tầm quan trọng lớn vào giá trị văn
hóa. Trong kháng chiên, văn hóa Việt Nam trở thành một biểu tượng
quan trọng, giúp tạo ra lịng tự hào và thái độ tích cực từ cộng đồng quốc
tê. Ứng dụng bài học này vào thời đại hội nhập, Việt Nam tiêp tục bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa của mình. Văn hóa khơng chỉ làm phong
phú thêm hình ảnh quốc gia trên trường quốc tê mà còn làm tăng cường
quan hệ với các đối tác quốc tê. Hơn nữa, văn hóa Việt Nam trở thành
một điểm thu hút du lịch quan trọng, giúp thúc đẩy ngành du lịch và tạo
nguồn thu nhập mới.


Việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của Việt Nam khơng chỉ làm
phong phú hình ảnh quốc gia trên trường quốc tê mà cịn đóng góp vào
việc xây dựng một hình ảnh tích cực và đặc sắc trong tâm trí các đối tác
quốc tê. Trong thời kỳ hội nhập, nền văn hóa độc đáo của Việt Nam trở
thành một yêu tố quan trọng, tạo nên một danh tiêng vững chắc và thu hút

sự quan tâm từ thê giới.
Ngồi ra, văn hóa Việt Nam đã đóng vai trị quan trọng trong việc thúc
đẩy ngành du lịch. Đất nước được biêt đên với các di tích lịch sử, văn hóa
truyền thống, và đặc sản ẩm thực, tất cả đều tạo nên một trải nghiệm du
lịch độc đáo. Việt Nam đã thông qua chủ trương "vừa đánh vừa đàm" để
chia sẻ câu chuyện văn hóa của mình với thê giới, từ đó thu hút lượng lớn
du khách quốc tê. Sự kêt hợp giữa văn hóa, du lịch và kinh tê đã tạo ra
một chuỗi giá trị gia tăng, giúp thúc đẩy ngành du lịch và đóng góp vào
nguồn thu nhập quốc gia.
Hơn nữa, việc phát triển văn hóa cịn góp phần vào việc củng cố quan hệ
với các đối tác quốc tê. Sự hiểu biêt và tôn trọng đối với văn hóa của một
quốc gia là yêu tố quan trọng trong quan hệ ngoại giao. Việt Nam đã sử
dụng văn hóa làm cầu nối để tạo ra sự giao thoa và hiểu biêt giữa các
cộng đồng, từ đó xây dựng mối liên kêt vững chắc và lâu dài.
Những bước chuyển biên thực tê từ chủ trương ngoại giao "vừa đánh vừa
đàm" trong kháng chiên đã chứng minh sức mạnh và linh hoạt của nó.
Bài học từ q khứ khơng chỉ giúp xây dựng một nền ngoại giao hiện đại
mà còn giúp Việt Nam đối mặt với những thách thức và cơ hội của thê
giới ngày nay.


KẾT LUẬN
Trong cuộc kháng chiên chống My, chủ trương ngoại giao "vừa đánh vừa
đàm" không chỉ là một chiên lược hiệu quả trong việc giữ vững lịng
dũng cảm và khí thê chiên đấu mà cịn là bí qut quan trọng để giúp Việt
Nam có được sự ủng hộ và tơn trọng từ cộng đồng quốc tê. Tầm quan
trọng của chiên lược này không chỉ giới hạn trong thời kỳ chiên tranh, mà
còn vươn ra, làm tươi sáng bức tranh ngoại giao của Việt Nam trong thời
đại hội nhập ngày nay.
Trên hành trình hội nhập này, ngoại giao Việt Nam có thể học hỏi và

chuyển giao những giá trị truyền thống và lịng u nước sâu sắc. Tích
lũy kinh nghiệm từ quá khứ, chúng ta có thể xây dựng mối quan hệ đối
ngoại mạnh mẽ, tạo ra không gian cho đàm phán và hợp tác, từ đó thúc
đẩy hình ảnh tích cực của Việt Nam trên trường quốc tê. Như vậy, chủ
trương ngoại giao "vừa đánh vừa đàm" không chỉ là một chương trình
lịch sử, mà cịn là nguồn động viên và chiên lược quan trọng để xây dựng
một ngoại giao Việt Nam hiện đại, tích cực tham gia vào sự hình thành và
quyêt định tương lai của thê giới.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

2. Sách: "Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong chiên tranh chống My
(1954-1975)", Đặng Văn Cường, NXB Khoa học Xã hội, 2004.
3. "Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các giai đoạn",
Vũ Khoan.
4. Bài báo: "Đổi mới chiên lược ngoại giao của Việt Nam trong thời đại
tồn cầu hóa", Vũ Thanh Cơng.
5. Sách: "Chiên lược ngoại giao của Việt Nam hiện nay", Lê Mạnh Hùng.



×