Tải bản đầy đủ (.pdf) (920 trang)

Các học thuyết về giá trị thặng dư Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.22 MB, 920 trang )


Chịu trách nhiệm xuất bản
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PGS. TS. PHẠM MINH TUẤN
Chịu trách nhiệm nội dung
PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP
PHẠM THỊ THINH
Biên tập nội dung:

TS. VÕ VĂN BÉ
TS. HOÀNG MẠNH THẮNG
ĐINH ÁI MINH
TRẦN TRUNG THÀNH TRẦN
PHAN BÍCH LIỄU

Trình bày bìa:
Chế bản vi tính:
Sửa bản in:
Đọc sách mẫu:

LÊ THỊ HÀ LAN
NGUYỄN THU THẢO
PHÒNG BIÊN TẬP KỸ THUẬT
ÁI MINH
VIỆT HÀ









5

[CHƯƠNG VIII]

ƠNG RỐT-BÉC-TÚT. HỌC THUYẾT MỚI
VỀ ĐỊA TƠ (NGỒI ĐỀ)1
[1) SỐ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ THỪA RA TRONG NÔNG NGHIỆP.
TRONG ĐIỀU KIỆN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN, NÔNG NGHIỆP
PHÁT TRIỂN CHẬM HƠN SO VỚI CÔNG NGHIỆP]

[X - 445] Herr Rodbertus. Dritter Brief an von Kirchmann von
Rodbertus: Widerlegung der Ricardoschen Lehre von der Grundrente
and Begründung einer neuen Rententheorie. Berlin, 1851.
Trước hết, cần nêu ra nhận xét sau đây. Khi chúng ta nói rằng
tiền cơng tất yếu bằng 10 giờ thì đơn giản hơn hết là giải thích điều
đó như sau: nếu tính trung bình, lao động trong thời gian 10 giờ
(nghĩa là số tiền ngang với 10 giờ) cho phép người cơng nhân làm
cơng nhật trong nơng nghiệp có thể mua được tất cả các tư liệu
sinh hoạt cần thiết cho họ - sản phẩm nơng nghiệp, cơng nghiệp,
v.v., thì đó là tiền cơng trung bình của lao động khơng có chun
mơn. Do đó, đây là nói đến giá trị của sản phẩm hàng ngày của
người công nhân mà anh ta phải được hưởng. Thoạt tiên, giá trị ấy
tồn tại dưới hình thức hàng hóa mà anh ta sản xuất ra, tức là dưới
hình thức một số lượng nhất định của hàng hóa ấy - số lượng này,
sau khi trừ đi bộ phận do chính bản thân anh ta đã tiêu dùng trong
số hàng hóa ấy (nếu anh ta tiêu dùng thứ hàng hóa đó), anh ta có
thể dùng để đổi lấy những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho anh ta.
Như thế là ở đây khơng phải chỉ có cái giá trị sử dụng

do chính anh ta sản xuất ra mới có ý nghĩa đối với số “thu nhập”


6

[CHƯƠNG VIII]

cần thiết của anh ta, mà cả công nghiệp, nơng nghiệp, v.v., cũng
đều có ý nghĩa đối với thu nhập đó. Nhưng điều đó đã được chứa
đựng trong bản thân khái niệm hàng hóa rồi. Người cơng nhân
sản xuất ra hàng hóa, chứ khơng phải chỉ sản xuất ra sản phẩm.
Vì thế cho nên về điều này khơng cần phải bàn nhiều.
Trước hết, ông Rốt-béc-tút nghiên cứu xem trong một nước mà
việc chiếm hữu ruộng đất và chiếm hữu tư bản khơng tách rời nhau thì
sự việc diễn ra như thế nào, và ở đây ông ta đi tới một kết luận quan
trọng là địa tô (ông ta hiểu địa tơ là tồn bộ giá trị thặng dư) chỉ ngang
với số lao động không được trả công, hoặc ngang với khối lượng sản
phẩm thể hiện lao động không được trả cơng đó.
Trước hết cần phải nhận xét rằng, Rốt-béc-tút chỉ muốn nói đến
việc tăng giá trị thặng dư tương đối, tức là chỉ nói đến việc tăng giá trị
thặng dư do năng suất lao động đã tăng lên quyết định, chứ khơng
phải nói đến việc tăng giá trị thặng dư do kéo dài bản thân ngày lao
động. Dĩ nhiên, theo một ý nghĩa nhất định thì bất cứ một giá trị thặng
dư tuyệt đối nào cũng là tương đối. Lao động phải có một năng suất
đủ để cho người cơng nhân khơng phải bỏ tồn bộ thì giờ của mình
vào việc duy trì sự sinh sống của bản thân. Nhưng sự khác nhau chính
là bắt đầu từ đây. Vả lại, nếu như lúc đầu lao động có năng suất rất thấp,
thì các nhu cầu cũng đơn giản đến cực độ (như ở người nơ lệ), cịn bản
thân người chủ thì sống cũng chẳng hơn gì người đầy tớ bao nhiêu. Năng
suất lao động tương đối cần thiết để cho kẻ ăn bám vơ vét lợi nhuận có

thể xuất hiện được, thì cịn rất thấp. Và nếu chúng ta thấy có một mức
lợi nhuận cao ở những nơi nào mà năng suất lao động cịn rất thấp, ở
những nơi khơng áp dụng máy móc, phân cơng lao động, v.v., thì điều
ấy chỉ giải thích được bằng những tình hình như sau: hoặc là - như điều
đó đã diễn ra ở Ấn Độ - nhu cầu của người công nhân thấp một cách
tuyệt đối và bản thân anh ta bị đàn áp đến mức anh ta còn tụt xuống quá
dưới mức những nhu cầu tồi tệ ấy, và mặt khác, năng suất lao động


TRANG ĐẦU CỦA PHẦN II TRONG BẢN THẢO CỦA C. MÁC
“CÁC HỌC THUYẾT VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ”
(TRANG 445 TRONG QUYỂN VỞ SỐ X CỦA BẢN THẢO
NĂM 1861 - 1863)


8

[CHƯƠNG VIII]

thấp cũng đồng thời với quy mô nhỏ bé của tư bản cố định so với bộ phận
tư bản chi phí vào tiền cơng, hay là đồng nhất với quy mơ to lớn của bộ
phận tư bản chi phí cho lao động so với tồn bộ tư bản thì cũng thế, - hoặc
là thời gian lao động bị kéo dài quá độ. Tình hình này xảy ra ở những nước
(như ở Áo và một số nước khác chẳng hạn), trong đó phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa đã tồn tại rồi nhưng lại phải cạnh tranh với những nước đã
đạt tới một trình độ phát triển cao hơn nhiều. Ở đây tiền cơng có thể rất
thấp, một phần vì nhu cầu của người cơng nhân ít phát triển hơn, một phần
vì các sản phẩm nơng nghiệp bị bán với một giá rẻ hơn hay có một giá trị
bằng tiền thấp hơn, thì đối với nhà tư bản điều đó cũng có nghĩa thế thơi.
Trong điều kiện năng suất lao động thấp thì lượng sản phẩm dùng để trả

cơng cho công nhân và được sản xuất ra trong thời gian 10 giờ lao động tất
yếu chẳng hạn, cũng rất ít. Nhưng nếu đáng lẽ làm việc 12 giờ anh ta lại
làm việc 17 giờ, thì điều đó có thể bù đắp chỗ năng suất lao động thấp [cho
nhà tư bản]. Nói chung, khơng nên quan niệm rằng do chỗ trong một nước
nào đó, giá trị tương đối của lao động giảm xuống theo sự phát triển của
năng suất lao động trong nước đó, nên trong các nước khác nhau tiền công
tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Sự việc chính là ngược lại. Một nước
càng có năng suất cao hơn so với nước khác trên thị trường thế giới, thì
trong nước đó tiền cơng càng cao hơn so với các nước khác. Ở nước Anh,
không những tiền công danh nghĩa, mà cả tiền công thực tế nữa, cũng cao
hơn ở lục địa. Người công nhân ăn nhiều thịt hơn, thỏa mãn một số nhu cầu
lớn hơn. Tuy nhiên điều đó chỉ có hiệu lực đối với cơng nhân công nghiệp
chứ không phải đối với công nhân nông nghiệp. Nhưng tiền công ở Anh
không phải cao hơn theo mức độ mà năng suất của công nhân Anh vượt quá
năng suất của cơng nhân các nước khác.
Địa tơ nói chung (tức là hình thái hiện đại của quyền sở hữu
ruộng đất) - bản thân sự tồn tại của địa tô, chứ chưa nói đến sự
khác nhau của địa tơ, do sự khác nhau về độ phì của các khoảnh


ÔNG RỐT-BÉC-TÚT. HỌC THUYẾT MỚI VỀ ĐỊA TÔ...

9

đất quyết định, - cũng đã có thể có được vì tiền cơng trung bình của
cơng nhân nơng nghiệp thấp hơn tiền cơng trung bình của cơng nhân
cơng nghiệp. Vì ở đây, lúc đầu là theo truyền thống (vì người thuê
ruộng đất thời cổ biến thành nhà tư bản trước khi các nhà tư bản biến
thành những người thuê ruộng đất), nhà tư bản ngay từ đầu đã đem
một phần thu nhập của mình nộp cho người chủ ruộng đất, cho nên y

đã tự thưởng cho mình bằng cách hạ thấp tiền cơng xuống dưới mức
của nó. Do chỗ cơng nhân bỏ làng đi nên tiền công đã phải tăng lên và
thực tế nó đã tăng lên. Nhưng áp lực loại đó vừa mới bắt đầu tác động
thì người ta liền sử dụng các máy móc, v.v., và ở nơng thơn lại có tình
hình nhân khẩu thừa (tương đối) (ví dụ như ở nước Anh). Giá trị thặng
dư có thể tăng lên mà không phải kéo dài thời gian lao động và cũng
không phải tăng sức sản xuất của lao động, mà chính là bằng cách hạ
thấp tiền công xuống dưới mức cổ truyền của nó. Và điều này đã thực
sự xảy ra ở khắp những nơi mà sản xuất nông nghiệp được tiến hành
theo phương thức tư bản chủ nghĩa. Ở nơi nào mà người ta khơng thể
đạt được điều đó bằng máy móc thì người ta sẽ đạt được bằng cách
biến ruộng đất cày cấy thành đồng cỏ chăn cừu. Vì thế, ở đây đã có
sẵn cái khả năng [446] có địa tơ, bởi vì tiền cơng của cơng nhân nơng
nghiệp thực tế khơng bằng tiền cơng trung bình. Khả năng tồn tại ấy
của địa tơ hồn tồn khơng phụ thuộc vào giá cả sản phẩm, là cái
được giả định ngang với giá trị của nó.
Cách thứ hai tăng địa tơ - tức là thu địa tô nhờ một số lượng sản phẩm
nhiều hơn, được bán cũng theo một giá ấy, - thì Ri-các-đơ cũng đã biết rồi,
nhưng ơng ta khơng tính tới cách đó, bởi vì ơng ta tính tốn địa tơ theo qc-tơ
chứ khơng phải theo a-cơ-rơ. Ơng ta sẽ khơng nói rằng địa tơ đó tăng lên vì 20
quác-tơ với giá 2 si-linh một quác-tơ thì nhiều hơn là 10 quác-tơ với giá 2
si-linh một quác-tơ hay là 10 quác-tơ với giá 3 si-linh một quác-tơ (theo cách
đó địa tơ có thể tăng lên ngay cả trong trường hợp giá cả giảm xuống).


10

[CHƯƠNG VIII]

Vả lại, dù có giải thích bản thân địa tơ như thế nào đi nữa, thì ở

địa tơ vẫn cịn có sự khác nhau lớn so với cơng nghiệp là: trong cơng
nghiệp, có được giá trị thặng dư thặng ra là nhờ vào việc sản xuất ra
sản phẩm rẻ hơn, cịn trong nơng nghiệp thì lại nhờ vào việc sản xuất
đắt hơn. Nếu giá cả trung bình của một pao sợi là 2 si-linh, nhưng tơi
có thể sản xuất nó với giá 1 si-linh một pao, thì muốn giành được thị
trường, tất nhiên tơi sẽ phải bán nó với giá 11/2 si-linh, hay ít ra cũng
với một giá thấp hơn 2 si-linh một chút. Điều đó thậm chí cịn là một
điều tuyệt đối cần thiết. Bởi vì việc sản xuất rẻ hơn giả thiết phải sản
xuất với một quy mơ lớn hơn. Như vậy, tơi gây nên tình trạng thị
trường bị tràn ngập hàng hóa so với trước. Tơi cần phải bán ra nhiều
hơn trước kia. Nếu tôi chỉ phải bỏ ra cho mỗi pao sợi một si-linh
thơi, thì đó chính là vì tơi đã sản xuất ra 10.000 pao chẳng hạn, chứ
không phải 8.000 pao như trước. Sở dĩ có được tình trạng rẻ hơn thì
đó chỉ là vì tư bản cố định được phân phối cho 10.000 pao. Nếu như
tơi chỉ bán có 8.000 pao thơi thì sự hao mịn máy móc sẽ tăng giá
mỗi pao lên một phần năm, hay 20%. Vì thế, để có thể bán được 10.000
pao, tôi sẽ bán sợi của tôi với giá dưới hai si-linh [1 1/2 si-linh chẳng
hạn]. Như thế, tôi vẫn nhận được một lợi nhuận siêu ngạch
là 1/2 si-linh, tức là 50% giá trị sản phẩm của tôi, giá trị đó bằng một
si-linh và đã bao gồm cả lợi nhuận thơng thường rồi. Dầu sao
thì bằng cách ấy tôi cũng đã làm hạ giá cả thị trường và kết quả là,
nói chung, người tiêu thụ nhận được sản phẩm với một giá rẻ hơn.
Cịn trong nơng nghiệp thì trong trường hợp tương tự, tôi bán với giá 2
si-linh, bởi vì nếu như ruộng đất phì nhiêu của tơi có đủ thì ruộng đất
kém phì nhiêu hơn sẽ khơng được canh tác. Nếu như số lượng ruộng
đất phì nhiêu, hay là độ phì của ruộng đất xấu nhất, tăng lên tới mức
tơi có thể thỏa thuận được số cầu, thì tồn bộ câu chuyện đó sẽ chấm
dứt. Ri-các-đơ khơng những khơng phủ nhận mà cịn nhấn mạnh luận
điểm đó một cách hết sức rõ ràng.
Như thế, dù chúng ta có nhìn nhận rằng, sự khác nhau về độ



ÔNG RỐT-BÉC-TÚT. HỌC THUYẾT MỚI VỀ ĐỊA TÔ...

11

phì của đất khơng phải giải thích bản thân địa tơ mà chỉ giải thích
sự khác nhau của các địa tơ, thì quy luật cho rằng, nếu như trong
ngành công nghiệp người ta thu được lợi nhuận siêu ngạch thì
thơng thường đó là vì sản phẩm rẻ đi, cịn trong nơng nghiệp thì đại
lượng tương đối của địa tô xuất hiện không phải chỉ do việc đắt lên
một cách tương đối (nâng giá cả sản phẩm của ruộng đất phì nhiêu
lên cao hơn giá trị của nó), mà cịn do sản phẩm rẻ được bán theo
những chi phí sản xuất của sản phẩm đắt hơn, - quy luật ấy vẫn cịn
có hiệu lực. Nhưng, cũng như tơi đã chỉ rõ (Pru-đơng)², - đó chỉ là
quy luật cạnh tranh, xuất phát không phải từ “ruộng đất”, mà chính
là từ bản thân nền “sản xuất tư bản chủ nghĩa”.
Hơn nữa, có thể là Ri-các-đơ cịn có lý ở một điểm khác nữa, chỉ có
một điều là theo thói quen của các nhà kinh tế chính trị, ông ta đã biến
một hiện tượng lịch sử thành một quy luật vĩnh cửu. Hiện tượng lịch sử
ấy là, ngược lại với nông nghiệp, công nghiệp (ngành sản xuất tư sản
chính cống) phát triển tương đối nhanh hơn. Nơng nghiệp cũng trở
thành có năng suất hơn nhưng khơng phải với mức độ như công nghiệp.
Ở nơi nào mà năng suất cơng nghiệp tăng lên 10 lần thì năng suất nơng
nghiệp có thể chỉ tăng lên 2 lần. Vì thế cho nên nông nghiệp tương đối
kém năng suất hơn, mặc dù là năng suất của nó có tăng lên một cách
tuyệt đối. Điều đó chỉ xác minh sự phát triển kỳ dị đến cao độ của nền
sản xuất tư sản và những mâu thuẫn cố hữu của nó. Nhưng cũng khơng
phải vì điều đó mà luận điểm cho rằng nơng nghiệp trở thành tương đối
kém năng suất hơn, nghĩa là so với sản phẩm cơng nghiệp thì giá trị của

sản phẩm nơng nghiệp – và cùng với nó là địa tơ - tăng lên, sẽ khơng
cịn đúng nữa. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa càng phát triển thì lao
động nơng nghiệp càng trở nên có năng suất tương đối kém hơn là lao
động cơng nghiệp, điều đó chỉ có nghĩa là năng suất nông nghiệp phát
triển không phải với một tốc độ, với một mức độ như vậy mà thôi.


12

[CHƯƠNG VIII]

Chúng ta giả thiết rằng tỷ lệ của ngành sản xuất A so với ngành B
bằng 1:1. Vì rằng lúc đầu nơng nghiệp có năng suất hơn, bởi vì ở đây
tham gia vào sản xuất có máy móc do chính thiên nhiên tạo ra, chứ
khơng phải chỉ có những lực lượng của thiên nhiên mà thôi; ở đây từng
người lao động ngay từ đầu đã dùng máy móc đó để làm việc. Vì vậy,
trong thời Cổ và thời Trung cổ, sản phẩm nông nghiệp tương đối rẻ hơn
nhiều so với sản phẩm cơng nghiệp điều đó đã thể hiện ra một cách rõ ràng
(xem U-ê-đơ)³ trong tỷ lệ tham gia của hai loại sản phẩm đó vào tiền cơng
trung bình.
Cứ cho rằng tỷ lệ 1:1 đồng thời cũng nói lên năng suất của hai
ngành sản xuất ấy. Nếu bây giờ ngành A = 10, tức là đã tăng năng suất
của nó lên gấp 10 lần, trong khi ngành B = 3, tức là chỉ tăng năng suất lên
gấp 3, thì tỷ lệ của hai ngành sản xuất trước kia là 1 so với 1 sẽ là 10 so
với 3, hay là 1 so với 3 10. Năng suất của ngành B đã giảm đi một cách
tương đối là 7 10, mặc dù nó có tăng lên gấp ba một cách tuyệt đối. Đối
với địa tơ cao nhất thì điều đó - so với cơng nghiệp - cũng có hiệu lực
như thể là địa tô cao nhất đã tăng lên, vì đất đai xấu nhất đã kém phì
nhiêu hơn trước mất 7 10.
Thực ra, từ đó quyết khơng nên rút ra kết luận như Ri-các-đô đã

nghĩ, cho rằng tỷ suất lợi nhuận giảm xuống là vì tiền cơng đã tăng lên
do sản phẩm nông nghiệp trở nên tương đối đắt đỏ hơn [447], - bởi vì
tiền cơng trung bình khơng phải do giá trị tương đối mà là do gia trị
tuyệt đối của các sản phẩm đã gia nhập vào tiền cơng đó quyết định.
Nhưng từ đó, thực ra nên rút ra kết luận cho rằng, tỷ suất lợi nhuận
(nói cho đúng ra là tỷ suất giá trị thặng dư) đã tăng lên không theo
cùng với mức độ mà sức sản xuất của công nghiệp chế biến đã tăng
lên, và nguyên nhân của điều đó là năng suất tương đối thấp hơn của
nông nghiệp (chứ không phải của đất đai). Và điều đó hồn tồn chẳng
có gì để nghi ngờ nữa. Thời gian lao động cần thiết giảm đi không
đáng kể so với sự tiến bộ của công nghiệp. Điều đó thể hiện ra trong
việc những nước như nước Nga, v.v., đã có thể đánh bại nước


ÔNG RỐT-BÉC-TÚT. HỌC THUYẾT MỚI VỀ ĐỊA TÔ...

13

Anh trên thị trường nông sản phẩm. Trong vấn đề này, giá trị thấp hơn
của tiền trong các nước giàu có hơn (tức là chi phí sản xuất ra tiền
tương đối khơng đáng kể đối với các nước giàu có hơn) khơng đóng
một vai trị gì cả. Bởi vì vấn đề chính là ở chỗ: tại sao trong sự cạnh
tranh giữa các nước giàu có hơn và các nước nghèo hơn, tình hình đó lại
khơng ảnh hưởng đến sản phẩm cơng nghiệp mà chỉ ảnh hưởng đến sản
phẩm nông nghiệp của các nước đó thơi. (Vả lại, điều đó khơng chứng
minh rằng các nước nghèo sản xuất rẻ hơn, rằng lao động nông nghiệp ở
các nước đó có năng suất cao hơn. Ngay cả ở nước Mỹ, như nhiều cuộc
điều tra thống kê cách đây không lâu đã xác minh, tổng số lúa mì bán
theo một giá nhất định tuy có tăng lên, nhưng điều đó đã diễn ra khơng
phải là vì người ta đã thu hoạch nhiều hơn trên mỗi a-cơ-rơ mà vì người

ta đã canh tác một số a-cơ-rơ nhiều hơn. Khơng thể nói rằng, đất đai có
năng suất cao hơn ở những nước nào có những khối lượng đất đai lớn,
và ở đó những khoảnh ruộng đất lớn, được canh tác sơ sài, với một chi
phí lao động như nhau, cũng đem lại một lượng sản phẩm tuyệt đối
nhiều hơn so với những khoảnh ruộng đất nhỏ hơn nhiều ở những nước
phát triển hơn).
Việc chuyển sang canh tác những đất đai có năng suất kém hơn
khơng phải là một bằng chứng không thể chối cãi được để cho rằng
nông nghiệp đã trở thành kém năng suất hơn. Trái lại, điều đó có thể
chứng minh rằng nơng nghiệp đã trở nên có năng suất hơn. Đất đai xấu
được canh tác khơng phải chỉ vì giá cả sản phẩm nơng nghiệp đã tăng
lên tới mức có thể hồn lại được tư bản đầu tư vào ruộng đất, mà cịn vì
tư liệu sản xuất đã phát triển tới mức làm cho đất đai khơng có năng
suất trở thành có “năng suất”, và đất đai ấy khơng những đã có thể đem
lại lợi nhuận thơng thường mà cịn đem lại cả địa tơ nữa. Đất đai nào tỏ
ra là phì nhiêu đối với một trình độ phát triển nhất định của các lực
lượng sản xuất, thì đối với một trình độ thấp hơn, đất đai đó tỏ ra khơng
phải là phì nhiêu.
Trong nơng nghiệp, việc kéo dài một cách tuyệt đối thời gian


14

[CHƯƠNG VIII]

lao động - cũng có nghĩa là tăng giá trị thặng dư tuyệt đối - chỉ có thể
thực hiện được trong một mức độ không đáng kể mà thôi. Trong nông
nghiệp không thể làm việc dưới ánh sáng của đèn đốt bằng hơi, v.v.. Dĩ
nhiên là trong mùa hè và mùa xn người ta có thể bắt đầu cơng việc sớm
hơn. Nhưng việc đó sẽ bù vào những ngày ngắn hơn trong mùa đơng là

lúc mà nói chung chỉ có thể làm được một khối lượng cơng việc tương
đối ít. Vì thế cho nên về phương diện này, giá trị thặng dư tuyệt đối trong
công nghiệp lớn hơn, chỉ cần là ngày lao động bình thường khơng bị
cưỡng bức điều tiết bởi pháp chế. Độ dài của thời kỳ trong đó sản phẩm
nơng nghiệp nằm trong q trình sản xuất mà không cần phải bỏ thêm lao
động mới, độ dài của thời kỳ đó chính là ngun nhân thứ hai làm cho
nông nghiệp tạo ra một khối lượng giá trị thặng dư nhỏ hơn. Nhưng mặt
khác, - trừ một vài ngành của nông nghiệp như chăn nuôi gia súc, chăn
ni cừu trên đồng cỏ, v.v., trong đó dân số bị gạt đi một cách tuyệt đối, tỷ lệ khối lượng người làm việc so với số tư bản bất biến đã đầu tư - ngay
cả trong nền đại nông nghiệp tiên tiến nhất - cũng vẫn còn cao hơn nhiều
so với cơng nghiệp, ít nhất là so với các ngành cơng nghiệp chủ
yếu. Như vậy, về mặt đó, tỷ suất lợi nhuận trong nơng nghiệp có
thể cao hơn trong công nghiệp, dù là ở đây, do những nguyên
nhân đã nói trên, khối lượng giá trị thặng dư ít hơn một cách
tương đối so với trong công nghiệp, khi người ta sử dụng cũng
một số lượng người như thế, hơn nữa, tình hình này một phần lại
mất tác dụng đi do chỗ tiền công của công nhân nông nghiệp sụt
xuống dưới mức trung bình của nó. Cịn nếu như trong nơng
nghiệp có những ngun nhân nào đó (điều nói trên, chúng tôi chỉ
mới phác họa trên những nét chung nhất mà thôi) để nâng cao tỷ
suất lợi nhuận (không phải là tạm thời mà nâng lên một cách trung
bình, so với cơng nghiệp) thì ngay bản thân sự tồn tại của những
kẻ sở hữu ruộng đất cũng sẽ dẫn tới chỗ làm cho lợi nhuận siêu
ngạch đó được cố định lại và rơi vào tay kẻ sở hữu ruộng đất, chứ
khơng tham gia vào q trình san bằng tỷ suất lợi nhuận chung.


ÔNG RỐT-BÉC-TÚT. HỌC THUYẾT MỚI VỀ ĐỊA TÔ...

15


[2) TỶ SUẤT LỢI NHUẬN TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI
TỶ SUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ. GIÁ TRỊ CỦA NGUYÊN LIỆU
NÔNG NGHIỆP VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT YẾU TỐ
CỦA TƯ BẢN BẤT BIẾN TRONG NƠNG NGHIỆP]

Nhìn chung, vấn đề cần phải giải đáp trong khi nghiên cứu thuyết của
Rốt-béc-tút có thể quy lại như sau:
Hình thái chung của tư bản ứng trước là:
Tư bản bất biến
Máy móc. Nguyên vật liệu

Tư bản khả biến
Sức lao động

Hai yếu tố của tư bản bất biến, dưới hình thái chung nhất của nó, là tư
liệu lao động và đối tượng lao động. Yếu tố sau không nhất thiết phải là hàng
hóa, là sản phẩm của lao động. Do đó, nó có thể khơng tồn tại như là một yếu
tố của tư bản, mặc dù bao giờ nó cũng tồn tại như là một yếu tố của quá
trình lao động. Ruộng đất là đối tượng lao động “đối với người làm ruộng,
mỏ than - đối với nhà công nghiệp than, nước - đối với người đánh cá, và
ngay cả rừng - đối với người đi săn. Nhưng hình thái đầy đủ nhất của tư bản
sẽ diễn ra khi nào tất cả ba yếu tố nói trên của q trình lao động thể hiện ra
như là ba yếu tố của tư bản, nghĩa là khi nào tất cả các yếu tố ấy đều là hàng
hóa, là những giá trị sử dụng có một giá trị trao đổi và là sản phẩm của lao
động. Trong trường hợp này, tất cả ba yếu tố ấy cũng đều tham gia vào quá
trình hình thành giá trị, mặc dù là máy móc tham gia vào q trình ấy khơng
phải với quy mơ như chúng tham gia vào quá trình lao động, mà chỉ tham gia
theo mức độ chúng được tiêu dùng đi trong quá trình lao động mà thơi.
Như thế, vấn đề được đề cập đến ở đây là như sau: sự thiếu mặt của một

trong những yếu tố ấy có thể làm tăng tỷ suất lợi nhuận (không phải tỷ suất
giá trị thặng dư) trong ngành sản xuất khơng có yếu tố đó hay không? Bản
thân công thức sau đây trả lời cho câu hỏi đó dưới một dạng chung:


16

[CHƯƠNG VIII]

Tỷ suất lợi nhuận bằng tỷ lệ của giá trị thặng dư so với tổng số tư bản
ứng trước.
Toàn bộ việc nghiên cứu được tiến hành dựa trên giả thiết là tỷ suất
giá trị thặng dư, tức là sự phân phối giá trị sản phẩm giữa nhà tư bản và
công nhân làm thuê không thay đổi.
[448] Tỷ suất giá trị thặng dư =

m
m
. Chính
; tỷ suất lợi nhuận =
v
cv

vì m’ - tức là tỷ suất giá trị thặng dư - đã được cho sẵn, cho nên v cũng đã
cho sẵn, và
lượng

m
được giả thiết như là một đại lượng bất biến. Do đó, đại
v


m
chỉ có thể biến đổi trong trường hợp c+v biến đổi, nhưng vì
cv

v đã cho sẵn, cho nên

m
chỉ có thể tăng hoặc giảm khi c giảm hoặc
cv

m
sẽ tăng hoặc giảm không phải theo tỷ lệ c đối với v
cv
m
m
mà theo tỷ lệ c đối với tổng số c+v. Nếu c bằng 0 thì
sẽ bằng
.
cv
v
Nói một cách khác, trong trường hợp này, tỷ suất lợi nhuận sẽ bằng tỷ
suất giá trị thặng dư, và trường hợp này biểu thị cái giới hạn mà tỷ suất
lợi nhuận không thể vượt qua được, bởi vì khơng có một cách tính tốn
nào có thể thay đổi được đại lượng v và m. Nếu v = 100, cịn m = 50, thì
m
50
1
=
=

= 50%. Nếu cộng một tư bản bất biến là 100 thêm vào đó,
v
100
2
50
thì tỷ suất lợi nhuận sẽ là
= 50 = 1 = 25%. Tỷ suất lợi
100  100
200
4
nhuận sẽ giảm xuống một nửa. Nếu cộng thêm 150 vào 100, thì tỷ suất
50
= 50 = 1 = 20%. Trong trường hợp thứ
lợi nhuận sẽ là
150  100
250
5
nhất, toàn bộ tư bản bằng v, bằng tư bản khả biến, vì thế cho nên tỷ suất
lợi nhuận cũng bằng tỷ suất giá trị thặng dư. Trong trường hợp thứ hai,

tăng. Hơn nữa



×