Chịu trách nhiệm xuất bản
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PGS. TS. PHẠM MINH TUẤN
Chịu trách nhiệm nội dung
PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP
PHẠM THỊ THINH
Biên tập nội dung:
TS. VÕ VĂN BÉ
TS. HOÀNG MẠNH THẮNG
ĐINH ÁI MINH
NGUYỄN PHƯƠNG THÙY
TRẦN PHAN BÍCH LIỄU
Trình bày bìa:
Chế bản vi tính:
Sửa bản in:
Đọc sách mẫu:
LÊ THỊ HÀ LAN
NGUYỄN THỊ HẰNG
BIÊN TẬP KỸ THUẬT
ÁI MINH
VIỆT HÀ
5
[CHƯƠNG XIX]
T.R. MAN-TÚT1
[1) SỰ LẪN LỘN CỦA MAN-TÚT VỀ CÁC PHẠM TRÙ
HÀNG HÓA VÀ TƯ BẢN]
[XIII-753] Những tác phẩm của Man-tút cần được xem xét ở
đây là:
1) "The Measure of Value Stated and Illustrated". London,
1823.
2) "Definitions in Political Economy", etc. London, 1827 (xem
cả tác phẩm này theo bản in của Giơn Kê-dơ-nơ, Ln Đơn, 1853,
"với chú thích và nhận xét bổ sung của Kê-dơ-nô").
3) "Principles of Political Economy", etc. 2nd edition, London,
1836 (lần xuất bản thứ nhất năm 1820 hoặc vào khoảng ấy - cần
xem).
4) Còn phải chú ý đến một tác phẩm tiếp đó của một phần tử
theo Man-tút2 (nghĩa là một phần tử tán thành những quan điểm
của Man-tút chống lại phái Ri-các-đô): "Outlines of Political
Economy", etc. London, 1832.
Trong tác phẩm của mình, "Observations on the Effects of the
Corn Law" (1814), Man-tút cịn nói về A-đam Xmít:
"Rõ ràng cái thói quen của A-đam Xmít coi lao động" (cụ thể là giá trị lao động)
"là thước đo tiêu chuẩn của giá trị, cịn lúa mì là thước đo của lao động đã dẫn ơng ta
đến tiến trình tư tưởng ấy [nghĩa là đến việc khẳng định rằng giá cả thật sự của lúa
mì bao giờ cũng khơng thay đổi]... Giờ đây, một trong những thuyết không thể tranh
cãi nhất của khoa kinh tế chính trị là ý kiến cho rằng lao động, cũng như bất kỳ
một hàng hóa nào khác, đều khơng thể dùng làm thước đo chính xác của giá trị
6
[CHƯƠNG XIX]
trao đổi thực tế. Và thật vậy, điều đó đã toát ra ngay từ định nghĩa giá trị trao đổi
rồi" [tr. 11-12].
Trong tác phẩm của mình năm 1820, cuốn "Principles of
Political Economy", khi chống Ri-các-đô, Man-tút đã mượn cái
"thước đo tiêu chuẩn giá trị" ấy của Xmít mà bản thân Xmít
khơng hề dùng ở nơi nào mà ơng ta thật sự đẩy khoa học tiến tới3.
Trong tác phẩm vừa kể trên về các đạo luật về ngũ cốc, bản thân
Man-tút đã đi theo một định nghĩa khác của Xmít về giá trị, định
nghĩa cho rằng giá trị được quyết định bởi số lượng tư bản (lao
động tích lũy) và bởi lao động (trực tiếp) cần thiết để sản xuất ra
một vật phẩm.
Nói chung, khơng thể khơng thừa nhận rằng, cả cuốn
"Principles" của Man-tút, cũng như hai tác phẩm khác nói trên là
những tác phẩm phải phát triển một cách chi tiết hơn những điểm
cá biệt của những "Principles" ấy, sở dĩ xuất hiện là do Man-tút
ganh tị sự thành công của cuốn sách của Ri-các-đô4 và một lần
nữa lại cố ngoi lên vị trí hàng đầu, vị trí mà Man-tút, với tư cách
là một kẻ cóp nhặt khéo léo, đã chiếm được bằng cách bịp bợm
trước khi cuốn sách của Ri-các-đơ ra đời. Thêm vào đó, trong cuốn
sách của Ri-các-đơ, việc thực hành định nghĩa giá trị tuy cịn trừu
tượng, nhưng đã nhằm chống lại lợi ích của bọn địa chủ qúy tộc và
những tôi tớ của chúng, những lợi ích mà Man-tút bảo vệ cịn trực
tiếp hơn là những lợi ích của giai cấp tư sản cơng nghiệp. Đồng
thời cũng khơng thể phủ nhận rằng Man-tút có một sự quan tâm
nhất định đến việc nghị luận trong lĩnh vực lý luận. Tuy vậy, việc
ông ta đối lập lại với Ri-các-đô - và cái cách đối lập ấy - có thể
thực hiện được chỉ là vì Ri-các-đơ đã lầm lạc trong những sự
không nhất quán đủ mọi thứ.
Những điểm xuất phát mà Man-tút dùng để tấn công Ri-các-đô,
một mặt, là vấn đề sự phát sinh giá trị thặng dư5, và mặt khác, là
cách Ri-các-đô lý giải việc san bằng các giá cả chi phí6 trong
những lĩnh vực vận dụng khác nhau của tư bản, coi đó là một sự
T.R. MAN-TÚT
TRANG ĐẦU CỦA PHẦN THỨ BA BẢN THẢO CỦA C.MÁC
"CÁC HỌC THUYẾT VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ"
(TRANG 753 TRONG QUYỂN VỞ XIII CỦA BẢN THẢO NĂM 1861-1863)
7
8
[CHƯƠNG XIX]
biến đổi của bản thân quy luật giá trị, và việc Ri-các-đô lẫn lộn
lợi nhuận và giá trị thặng dư (trực tiếp đồng nhất chúng với
nhau) trong suốt cuốn sách của ông ta. Man-tút không gỡ những
mâu thuẫn và quidproquo1* đó, mà lấy lại chúng từ Ri-các-đơ để
dựa vào sự lẫn lộn đó mà bác bỏ quy luật giá trị cơ bản v.v. của
Ri-các-đô và rút ra những kết luận dễ chịu cho những kẻ bảo hộ
của ông ta.
Công lao thật sự của Man-tút trong 3 tác phẩm nói trên của
ông ta là ở chỗ ông ta nhấn mạnh sự trao đổi bất bình đẳng giữa
tư bản và lao động làm th, trong lúc đó thì về thực chất, Ri-các-đơ
lại khơng giải thích như thế nào mà từ sự trao đổi hàng hóa theo
quy luật giá trị theo thời gian lao động chứa đựng trong chúng lại
nảy sinh sự trao đổi bất bình đẳng giữa tư bản và lao động sống,
giữa một số lượng lao động tích lũy nhất định với một số lượng lao
động trực tiếp nhất định, và vì vậy trên thực tế vẫn khơng làm
sáng tỏ được nguồn gốc của giá trị thặng dư (bởi vì ở Ri-các-đô tư
bản được trao đổi trực tiếp với lao động chứ không phải với sức lao
động). [754] Một trong số ít người sau này đi theo Man-tút,
Kê-dơ-nơ, trong lời tựa viết cho cuốn sách "Definitions" etc. nói
trên của Man-tút, đã cảm thấy điều đó và vì vậy đã nói:
"Sự trao đổi hàng hóa và việc phân phối chúng" (tiền công, địa tô, lợi nhuận) "phải
được xét tách riêng từng cái ra... Những quy luật phân phối hồn tồn khơng
phụ thuộc vào những quy luật áp dụng cho trao đổi" (Lời tựa, tr. VI, VII).
Ở đây, điều đó chẳng qua chỉ có nghĩa là tỷ lệ giữa tiền cơng và
lợi nhuận, - sự trao đổi giữa tư bản và lao động làm thuê, giữa lao
động tích lũy và lao động trực tiếp, - khơng trực tiếp nhất trí với
quy luật trao đổi hàng hóa.
Nếu xem xét việc sử dụng giá trị của tiền hoặc hàng hóa làm
1* - lẫn lộn khái niệm (nghĩa đen: lấy cái nọ làm cái kia)
T.R. MAN-TÚT
9
tư bản, - nghĩa là không phải xem xét giá trị của chúng mà xem xét
việc sử dụng giá trị của chúng theo kiểu tư bản chủ nghĩa, - thì giá
trị thặng dư chẳng qua chỉ là số dư của lao động (lao động không
được trả công) do tư bản chỉ huy, nghĩa là do hàng hóa hay tiền chỉ
huy, ngoài số lao động chứa đựng trong bản thân hàng hóa (= tổng
số lao động chứa đựng trong các yếu tố sản xuất cấu thành hàng
hóa + lao động trực tiếp bỏ thêm vào những yếu tố này), hàng hóa
cịn mua một số lao động dư ra, khơng chứa đựng trong hàng hóa
đó. Số dư đó cấu thành giá trị thặng dư; tỷ lệ làm tăng giá trị của
tư bản tùy thuộc vào đại lượng của số dư ấy. Và số lượng dư ra đó
của lao động sống mà hàng hóa được đổi lấy, cấu thành nguồn của
lợi nhuận. Lợi nhuận (hay nói cho đúng ra là giá trị thặng dư)
không phát sinh từ số lao động đã vật hóa được trao đổi với vật
ngang giá của nó - tức là với số lượng lao động sống ngang như
thế, - mà phát sinh từ bộ phận lao động sống bị chiếm hữu trong
cuộc trao đổi ấy mà không được trả bằng một vật ngang giá với nó,
từ số lao động không được trả công mà tư bản chiếm đoạt trong sự
trao đổi giả ấy. Do đó, nếu người ta bỏ qua những khâu trung gian
của quá trình ấy - mà Man-tút lại càng có quyền bỏ qua những
khâu trung gian ấy, vì chúng khơng có ở Ri-các-đơ, - nếu người ta
chỉ xem xét cái nội dung thực tế và kết quả của quá trình, thì việc
tăng giá trị, lợi nhuận, việc biến tiền hay hàng hóa thành tư bản, sẽ
nảy sinh khơng phải từ việc hàng hóa trao đổi theo quy luật giá trị,
cụ thể là được trao đổi tỷ lệ với số thời gian lao động tốn kém vào
chúng, mà nói cho đúng ra là ngược lại, sẽ nảy sinh từ chỗ hàng hóa
hay tiền (lao động vật hoá) được trao đổi với một số lao động sống
nhiều hơn số chứa đựng trong chúng, hay đã chi phí vào chúng.
Công lao duy nhất của Man-tút trong những cuốn sách nói
trên là ở chỗ ơng ta nhấn mạnh điểm ấy là điểm càng ít nổi bật ở
Ri-các-đơ, bởi vì Ri-các-đơ bao giờ cũng giả định sản phẩm đã
hồn thành được phân chia giữa nhà tư bản và công nhân, và không
10
[CHƯƠNG XIX]
xem xét đến trao đổi - đến quá trình trung gian - dẫn tới sự phân
chia ấy. Nhưng công lao ấy sau đó lại bị quy thành con số khơng,
bởi vì ơng ta lẫn lộn việc sử dụng tiền hay hàng hóa làm tư bản,
do đó lẫn lộn giá trị của chúng trong chức năng đặc biệt của tư
bản, với giá trị của hàng hóa với tư cách là như vậy. Vì vậy, trong
sự trình bày của mình, như chúng ta sẽ thấy, ông ta lại rơi trở lại
những quan niệm phi lý của hệ thống tiền tệ - tức là quan niệm
profit upon expropriation7 - và nói chung, rơi vào một sự lầm lẫn
thảm hại nhất. Như vậy, đáng lẽ phải tiến xa hơn Ri-các-đơ, thì
trong sự trình bày của mình Man-tút lại mưu toan kéo khoa kinh
tế chính trị thụt lùi lại đằng sau, khơng những so với Ri-các-đơ,
mà thậm chí so với Xmít và phái trọng nông nữa.
"Trong cùng một nước và trong cùng một thời gian, giá trị trao đổi của những
hàng hóa có thể chỉ phân giải thành lao động và lợi nhuận thôi, thì được đo một
cách chính xác bởi số lượng lao động nhận được bằng cách cộng thêm vào số lao
động tích lũy và trực tiếp thực tế chi phí để sản xuất ra chúng, một số lợi nhuận
luôn luôn thay đổi tính cho tất cả những khoản ứng trước biểu hiện trong lao
động. Nhưng cái đó nhất thiết phải bằng số lao động mà những hàng hóa đó sẽ chi
phối". ("The Measure of Value Stated and Illustrated", London, 1823, tr. 15, 16).
"Lao động mà một hàng hóa có thể chi phối được, là thước đo tiêu chuẩn của
giá trị" (s.đ.d, tr.61).
"Khơng ở đâu" (trước khi có cuốn sách của Man-tút "The Measure of Value"
etc.) "tôi thấy xác định rằng số lượng lao động bình thường mà một hàng hóa chi
phối được, phải biểu hiện và do số lượng lao động đã chi phí để sản xuất ra hàng
hóa đó cộng với lợi nhuận" ("Definitions in Political Economy" etc, London, 1827,
tr.196).
Ông Man-tút muốn gộp "lợi nhuận" ngay vào trong định nghĩa
giá trị, để lợi nhuận trực tiếp toát ra từ định nghĩa ấy - một điều
khơng có ở Ri-các-đơ. Qua đó ta thấy rằng Man-tút cảm thấy khó
khăn bao hàm ở chỗ nào.
Vả lại, điều hết sức phi lý ở ông ta là ơng ta đồng nhất hóa giá
trị hàng hóa và việc sử dụng giá trị hàng hóa làm tư bản.
Khi hàng hóa hoặc tiền (nói tóm lại là lao động vật hóa) được
T.R. MAN-TÚT
11
đổi, với tư cách là tư bản, lấy lao động sống, thì chúng bao giờ
cũng được đổi lấy một [755] số lượng lao động lớn hơn là số chứa
đựng trong bản thân chúng; và nếu người ta so sánh, một mặt,
hàng hóa trước khi xảy ra sự trao đổi ấy, và mặt khác - cái sản
phẩm nhận được do trao đổi hàng hóa ấy lấy lao động sống, thì
người ta thấy rằng hàng hóa được trao đổi lấy giá trị của bản
thân nó (vật ngang giá) + một số dư ngồi giá trị của nó, tức giá
trị thặng dư. Nhưng vì thế, sẽ là phi lý nếu nói rằng giá trị của
hàng hóa = giá trị của nó + số dư ngồi giá trị đó. Vì vậy, nếu
hàng hóa được trao đổi với tư cách là hàng hóa lấy một hàng hóa,
chứ khơng phải trao đổi với tư cách là tư bản lấy lao động sống,
thì chúng được trao đổi, - trong chừng mực chúng được trao đổi
lấy một vật ngang giá, - lấy cùng một số lượng lao động vật hóa
chứa đựng trong hàng hóa ấy.
Như vậy, điều duy nhất đáng chú ý là theo Man-tút, lợi nhuận
đã tồn tại sẵn trong giá trị của hàng hóa, và một điều đã rõ đối với
Man-tút là: hàng hóa bao giờ cũng chi phối một số lao động lớn
hơn là số chứa đựng ở trong nó.
"Chính vì số lao động là một hàng hóa thường chi phối, đo số lao động thực sự
chi phí để sản xuất ra nó cộng với lợi nhuận, cho nên người ta có quyền coi nó"
(lao động) "là thước đo của giá trị. Do đó, nếu cho rằng giá trị thơng thường của
một hàng hóa được quyết định bởi những điều kiện tự nhiên và cần thiết để đưa
nó ra thị trường, thì chắc chắn rằng số lao động mà nó thường có thể chi phối là
thước đo duy nhất của những điều kiện ấy" ("Definitions in Political Economy",
London, 1827, tr. 214).
"Những chi phí sản xuất sơ đẳng là một biểu hiện tương đương một cách
chính xác với những điều kiện để đưa hàng hóa ra thị trường" ("Definitions in
Political Economy", edited by Cazenove, London, 1853, tr.14).
"Thước đo những điều kiện để đưa hàng hóa ra thị trường là số lượng lao động
được đổi lấy hàng hóa, ở trạng thái tự nhiên và thơng thường của nó" (s.đ.d.).
"Số lượng lao động là một hàng hóa chi phối, biểu hiện một cách chính xác số
lượng lao động đã chi phí vào việc sản xuất ra nó, cộng với lợi nhuận cho những
khoản ứng trước, và vì vậy nó thực sự biểu hiện và đo những điều kiện tự nhiên cần
12
[CHƯƠNG XIX]
thiết để đưa nó ra thị trường, tức những chi phí sản xuất sơ đẳng quyết định giá
trị" (s.đ.d., tr. 125).
"... Lượng cầu về một hàng hóa, mặc dầu khơng tỷ lệ với số lượng của một
hàng hóa khác nào đó mà người mua sẵn sàng và có thể bỏ ra để đổi lấy nó,
nhưng trên thực tế thì nó tỷ lệ với số lượng lao động mà người mua sẽ bỏ ra để đổi
lấy nó; sở dĩ như vậy là vì nguyên nhân sau đây: số lượng lao động mà một hàng
hóa thường chi phối, biểu hiện một cách chính xác cho số cầu thực tế về hàng hóa
ấy; bởi vì nó đại biểu một cách chính xác cho tổng số lao động và lợi nhuận cần
thiết cho việc đưa hàng hóa đó ra thị trường; trong lúc đó thì lượng lao động thực
tế mà một hàng hóa có thể chi phối, nếu nó chênh lệch với số lượng thông thường,
lại biểu hiện một số dư hoặc một số hụt của lượng cầu do những nguyên nhân
nhất thời gây ra" (s.đ.d., tr.135).
Cả trong điều này, Man-tút cũng đúng. Những điều kiện để
đưa ra thị trường, nghĩa là những điều kiện của sản xuất, hay nói
cho đúng hơn, là của tái sản xuất hàng hóa trên cơ sở nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa, là hàng hóa hay giá trị của nó (số tiền mà
nó chuyển hóa thành) được trao đổi - trong quá trình sản xuất và
tái sản xuất ra nó - lấy một số lao động nhiều hơn là số lao động
chứa đựng trong nó; bởi vì nó được sản xuất chỉ là để thực hiện
một lợi nhuận.
Ví dụ, một chủ xưởng sản xuất vải hoa bán vải hoa của hắn.
Điều kiện để đưa vải hoa mới ra thị trường là trong quá trình tái
sản xuất vải hoa, hắn trao đổi tiền - giá trị trao đổi của vải hoa lấy một số lao động nhiều hơn là số lao động đã chứa đựng trong
vải hoa hoặc được biểu hiện bằng tiền. Vì rằng chủ xưởng vải hoa
sản xuất vải hoa với tư cách là nhà tư bản. Cái mà hắn ta muốn
sản xuất không phải là vải hoa, mà là lợi nhuận. Việc sản xuất vải
hoa chỉ là một phương tiện sản xuất ra lợi nhuận. Nhưng từ đó,
cần rút ra điều gì? Trong vải hoa đã sản xuất ra, có nhiều thời
gian lao động hơn, có nhiều lao động hơn là trong vải hoa ứng
trước. Số thời gian lao động thặng dư đó - số giá trị thặng dư đó cũng được đại biểu trong sản phẩm thặng dư, trong nhiều vải
hoa hơn so với số được đem đổi lấy lao động. Như vậy, một
T.R. MAN-TÚT
13
bộ phận sản phẩm khơng phải hồn lại số vải đã đổi lấy lao động,
mà tạo thành một sản phẩm thặng dư thuộc về chủ xưởng. Hoặc
nếu chúng ta xem xét tồn bộ sản phẩm, thì mỗi ác-sin vải hoa
chứa đựng một phần nhất định (hay giá trị của nó chứa đựng một
phần nhất định) mà người ta khơng trả một vật ngang giá nào cả
và là lao động khơng được trả cơng. Do đó, nếu người chủ xưởng
bán một ác-sin vải hoa theo giá trị của nó, nghĩa là đem nó ra trao
đổi lấy một số tiền hay hàng hóa cũng chứa đựng từng ấy thời
gian lao động, thì hắn ta thực hiện được một số tiền nhất định hay
nhận được một số lượng hàng hóa nhất định khơng tốn kém gì cho
hắn cả. Bởi vì hắn bán vải hoa không phải theo số thời gian lao
động hắn đã trả công, mà theo số thời gian lao động chứa đựng
trong vải hoa ấy, trong đó có một phần [756] hắn không trả công.
Vải hoa chứa đựng một thời gian lao động bằng 12 si-linh chẳng
hạn. Trong số đó, chủ xưởng chỉ trả có 8 si-linh. Hắn bán vải lấy
12 si-linh, nếu như bán theo giá trị của vải, - và do đó lãi được 4
si-linh.
[2) QUAN NIỆM TẦM THƯỜNG VỀ "LỢI NHUẬN DO
CHUYỂN NHƯỢNG" THEO CÁCH LÝ GIẢI CỦA MAN-TÚT.
SỰ PHI LÝ TRONG QUAN NIỆM CỦA MAN-TÚT VỀ
GIÁ TRỊ THẶNG DƯ]
Cịn về người mua thì, theo tiền đề, trong tất cả mọi hoàn
cảnh, anh ta chỉ trả giá trị của vải hoa thôi. Nghĩa là anh ta bỏ ra
một số tiền trong đó chứa đựng một thời gian lao động như trong
vải. Ở đây có thể có ba trường hợp. 1) Người mua là một nhà tư
bản. Số tiền (nghĩa là giá trị của hàng hoá) mà anh ta trả để mua
vải hoa cũng chứa đựng một bộ phận lao động khơng được trả
cơng. Do đó, nếu người này bán lao động khơng được trả cơng, thì
người kia mua với lao động không được trả công. Mỗi người đều
thực hiện được lao động không công, một người với tư cách là người
14
[CHƯƠNG XIX]
bán, người kia với tư cách là người mua. 2) Hoặc người mua là một
người sản xuất độc lập. Trong trường hợp này người ấy nhận được
một vật ngang giá về một vật ngang giá. Dầu cho số lao động mà
người bán bán cho anh ta trong hàng hóa có được trả cơng hay
khơng, điều ấy cũng khơng hề liên quan gì đến anh ta. Anh ta
nhận được một lao động vật hóa ngang với số anh ta bỏ ra. 3) Hoặc,
cuối cùng, người mua là một công nhân làm thuê. Ngay cả trong
trường hợp này - với giả định là hàng hóa được bán theo giá trị
của chúng - người công nhân, giống như mọi người mua khác,
cũng nhận được dưới dạng hàng hóa một vật ngang giá với số tiền
của anh ta. Anh ta nhận được dưới dạng hàng hóa một lao động
vật hóa, ngang với số anh ta bỏ ra dưới dạng tiền. Nhưng để nhận
số tiền cấu thành tiền công của anh ta, anh ta đã bỏ ra nhiều lao
động hơn số lao động chứa đựng trong số tiền ấy. Anh ta đã hoàn
lại số lao động chứa đựng trong tiền + số lao động thặng dư mà
anh ta cung cấp không công. Vậy, anh ta đã trả cho số tiền đó cao
hơn giá trị của nó, do đó, cũng đã trả cho vật ngang giá của tiền,
tức vải hoa, v.v., cao hơn giá trị của nó. Do đó, đối với anh ta với tư
cách là người mua thì các chi phí lại lớn hơn là đối với người bán
bất kỳ một hàng hóa nào khác, mặc dầu trong hàng hóa anh ta
nhận được một vật ngang giá với số tiền của anh ta; nhưng trong
tiền anh ta không nhận được vật ngang giá nào về lao động của
mình; ngược lại, trong lao động anh ta đã bỏ ra nhiều hơn là vật
ngang giá. Như vậy, công nhân là người mua duy nhất trả cho tất
cả mọi hàng hóa nhiều hơn giá trị của chúng, ngay cả khi anh ta
mua chúng theo giá trị, bởi vì anh ta đã mua vật ngang giá phổ biến
ấy, tức là tiền, bằng một số lao động vượt quá giá trị của nó. Đối với
người bán hàng hóa cho cơng nhân, thì điều đó khơng đem lại cho họ
một món lãi nào cả. Người cơng nhân, cũng như mọi kẻ mua khác,
không trả cho họ nhiều hơn, - anh ta trả giá trị do lao động tạo ra.
Nhà tư bản bán trở lại cho cơng nhân những hàng hóa do công
T.R. MAN-TÚT
15
nhân sản xuất ra, quả thật đã thực hiện được một lợi nhuận trong
việc bán ấy, nhưng đó cũng chỉ là số lợi nhuận mà hắn thực hiện
được khi bán hàng hóa của hắn cho mọi người mua khác. Vì vậy,
lợi nhuận của nhà tư bản - khi bán hàng hóa cho cơng nhân của
hắn - nảy sinh khơng phải do chỗ hắn bán hàng hóa cho cơng
nhân cao hơn giá trị của chúng, mà vì trong thực tế, trước đó, tức
là trong q trình sản xuất, hắn đã mua hàng hóa ấy của người
cơng nhân dưới giá trị của nó.
Ấy thế mà ơng Man-tút - vì ơng ta đã biến việc sử dụng giá trị
của hàng hóa với tư cách là tư bản thành giá trị của hàng hóa - lại
biến một cách triệt để tất cả mọi người mua thành công nhân làm
thuê, nghĩa là Man-tút bắt tất cả những người mua phải trao đổi
lao động trực tiếp, chứ khơng phải hàng hóa, với nhà tư bản, và
trả lại cho hắn nhiều lao động hơn là số chứa đựng trong hàng
hóa, trong khi đó thì ngược lại, lợi nhuận của hắn bắt nguồn từ
chỗ hắn bán toàn bộ lao động chứa đựng trong hàng hóa, nhưng
hắn chỉ trả có một phần lao động chứa đựng trong hàng hóa mà
thơi. Như vậy, nếu như ở Ri-các-đơ sự khó khăn nảy sinh do chỗ
quy luật trao đổi hàng hóa khơng trực tiếp giải thích sự trao đổi
giữa tư bản và lao động làm thuê, mà ngược lại, hình như lại mâu
thuẫn với sự trao đổi ấy, thì Man-tút giải quyết sự khó khăn ấy
bằng cách là ơng ta biến việc mua (trao đổi) hàng hóa thành việc
trao đổi giữa tư bản và lao động làm thuê. Điều mà Man-tút
không hiểu là sự khác nhau giữa tổng số lao động chứa đựng
trong hàng hóa và tổng số lao động được trả cơng chứa đựng trong
hàng hóa ấy. Chính số chênh lệch ấy cấu thành nguồn lợi nhuận.
Nhưng sau đó Man-tút nhất thiết phải giải thích lợi nhuận bằng
sự việc là người bán bán hàng hóa khơng phải chỉ cao hơn cái nó
tốn kém đối với người đó (và nhà tư bản cũng làm như thế), mà
cịn cao hơn số nó trị giá, nghĩa là Man-tút quay trở lại cái quan
điểm tầm thường coi lợi nhuận là "lợi nhuận do chuyển nhượng",
do đó, giải thích giá trị thặng dư bằng sự việc là người bán bán hàng
16
[CHƯƠNG XIX]
hóa cao hơn giá trị của chúng (nghĩa là lấy một số thời gian lao
động nhiều hơn số thời gian lao động chứa đựng ở trong
chúng). Như vậy, cái mà anh ta được với tư cách là người bán
một hàng hóa, thì anh ta lại mất với tư cách là người mua
hàng hóa khác, và tuyệt đối khơng thể hiểu được rằng bằng con
đường tăng giá cả danh nghĩa lên một cách phổ biến như vậy
thì trong thực tế người ta "được lợi" gì. [757] Điều đặc biệt khó
hiểu là làm thế nào mà một xã hội en masse1* lại có thể giàu
lên bằng cách ấy, làm thế nào mà một giá trị thặng dư hay sản
phẩm thặng dư thật sự lại có thể nảy sinh bằng cách ấy. Đó là
một quan niệm phi lý, ngu ngốc.
Như chúng ta đã thấy2*, A-đam Xmít đã nói lên một cách ngây
thơ tất cả những yếu tố mâu thuẫn nhau, và như vậy, học thuyết
của ông ta đã trở thành một nguồn, thành điểm xuất phát cho
những quan niệm hoàn toàn trái ngược nhau. Dựa vào những
luận điểm của A-đam Xmít, ơng Man-tút mưu toan - một mưu
toan rối rắm, nhưng dựa trên một cảm giác và một nhận thức
đúng đắn về sự khó khăn cịn chưa khắc phục được - đem một học
thuyết mới ra đối lập với học thuyết của Ri-các-đơ và giành về cho
mình "vị trí hàng đầu". Bước chuyển từ mưu toan ấy sang cái
quan điểm tầm thường phi lý diễn ra như sau:
Nếu chúng ta xét việc sử dụng giá trị của hàng hóa với tư cách
là tư bản, nghĩa là nếu chúng ta xét hàng hóa trong việc nó trao
đổi lấy lao động sản xuất sống, thì ngồi số thời gian lao động
chứa đựng ở trong bản thân nó - dưới dạng vật ngang giá mà
người cơng nhân tái sản xuất ra, - hàng hóa cịn chi phối được
một số thời gian lao động thặng dư cấu thành nguồn của lợi nhuận.
1* – xét về toàn bộ, với tư cách là một tổng thể
2* Xem tập này, phần I, chương III và IV.