Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC LÊ NIN Nguồn gốc, bản chất, vai trò của ý thức và cá́c giải phá́p nâng cao tính tích cực, sá́ng tạo trong học tập của sinh viên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.25 KB, 16 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Học phần: Triết hoc Mác- Lênin

ĐỀ TÀI: Nguồn gốc, bản chất, vai trò của ý thức và cá́ c giải
phá́ p nâng cao tính tích cực, sá́ ng tạo trong học tập của sinh
viên hiện nay.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................... 2
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ Ý THỨC THEO TRIẾT
HỌC MÁC – LÊNIN..........................................................................................2
1.1. Nguồn gốc và bản chất của ý thức..............................................................2
1.2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức...........................................................5
Chương 2: Ý NGHĨA VÀ VẬN DỤNG
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ Ý
̣
THỨC CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VÀO NÂNG CAO TÍNH TÍCH
CỰC, SÁNG TẠO TRONG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY........8
2.1. Một số đặc điểm của sinh viên hiện nay.....................................................8
2.2. Hiểu rõ các vấn đề về ý thức của triết học Mác – Lênin góp phần hình thành

thế giới quan khoa học và phương pháp luận phù hợp xây dựng mục tiêu, lý
tưởng sống cho mỗi sinh viên......................................................................... 10
2.3. Một số giải pháp để nâng cao tính tích cực, sáng tạo trong học tập của
sinh viên Học viện Ngân hàng........................................................................ 12
KẾT LUẬN........................................................................................................13
TÀI LIỆ̣U THAM KHẢO................................................................................14




1

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề:
Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh từ lâu đã được Đảng, Nhà
nước ta xác định là nền tảng tư tưởng cho mọi hành động. Tính khoa học, ưu
việt của nền tảng đó đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh một
cách rõ nét qua những thành công rực rỡ trên mọi hoạt động, lĩnh vực.
Là một bộ phận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, triết học Mác-Lênin đóng vai
trị quan trọng trong việc xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học
theo chủ nghĩa duy vật biện chứng. Triết học Mác – Lênin thật sự là một ngành
khoa học cần coi trọng trong moi hoạt động, học tập và nghiên cứu. Có như vậy
mới ngày càng làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản mà triết học Mác – Lênin nghiên
cứu vận dụng sát với thực tiễn cuộc sống hằng ngày của mỗi cá nhân, tập thể và
các cơ quan, đơn vị trên mọi lĩnh vực.
Trong đó việc xác định các vấn đề về vật chất, ý thức, mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức là nền tảng cơ bản của triết học Mác – Lênin, hiểu được nguồn
gốc của ý thức, các mối quan hệ cơ bản của ý thức và vật chất là những vấn đề
hết sức thiết yếu trong học tập triết học Mác – Lênin.
2. Lý do chọn đề tài:
Nhằm nghiên cứu và làm rõ hơn nữa các vấn đề về ý thức cũng như sự vận
dụng lý luận triết học Mác – Lênin về ý thức vào thực tiễn học tập của sinh viên,
em lựa chọn đề tài: “Nguồn gốc, bản chất, vai trò của ý thức và các giải pháp
nâng cao tính tích cực, sáng tạo trong học tập của sinh viên hiện nay” làm
đề tài nghiên cứu của bản thân.
3. Y nghĩa ly luân va y nghĩa thưc tiễn
Ý nghia lý luận: Làm rõ nguồn gốc, bản chất và vai trò của ý thức.
Ý nghia thực tiễn: Vận dụng vào quá trình học tập của sinh viên hiện nay,

đưa ra cac giai phap phu hơp nhăm nâng cao chât lương hoc tâp cua sinh viên.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để hoàn thành bài tiểu luận này, em đã sử dụng những phương pháp nghiên
cứu sau: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp logic,…


2

NỘI DUNG
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ Ý THỨC THEO TRIẾT
HỌC MÁC – LÊNIN
1.1. Nguồn gốc và bản chất của ý thức
Vấn đề nguồn gốc, bản chất và vai trò của ý thức là một vấn đề hết sức phức
tạp của triết học, là trung tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm trong lịch sử. Dựa trên những thành tựu của triết học duy vật, của
khoa học và thực tiễn xã hội, triết học Mác – Lênin đã góp phần làm sáng tỏ vấn
đề trên đây.
1.1.1. Nguồn gốc của ý thức.
a. Nguồn gốc tự nhiên.
Trước Mác, nhiều nhà duy vật tuy khơng thừa nhận tính chất siêu tự nhiên
của ý thức, song do khoa học chưa phát triển nên cũng đã khơng giải thích đúng
nguồn gốc và bản chất của ý thức. Dựa trên những thành tựu của khoa học tự
nhiên nhất là sinh lý học thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định
rằng ý thức là một thuộc tính của vật chất nhưng khơng phải của mọi dạng vật
chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc
người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức. Ý́ thức là chức năng của bộ
óc người. Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên sở hoạt động sinh lý thần
kinh của bộ óc người. Ý́ thức phụ thuộc vào hoạt động bộ óc người, do đó khi bộ
óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ khơng bình thường hoặc bị rối loạn. Vì
vậy, không thể tách rời ý thức ra khỏi hoạt động của bộ óc. Ý́ thức khơng thể

diễn ra, tách rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người. Có thể nói dựa trên
quân điểm về vật chất của triết học Mác – Lênin có thể xác định bộ óc chính là
một vật chất phức tạp, có những đặc thù riêng biệt và các tính chất khoa học cần
phải tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu để làm rõ.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc khơng thơi mà khơng có sự tác động của thế giới
bên ngồi để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng khơng thể có ý thức. Phản
ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất, thuộc tính này
được biểu hiện ra trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa các đối tượng


3

vật chất với nhau, phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật
chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng.
Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật – vật tác động và vật nhận tác
động. Đồng thời quá trình phản ánh bao hàm q trình thơng tin. Nói cách khác,
vật nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động. Đây là điều hết
sức quan trọng để làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Là hình thức cao
nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát
triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự xuất hiện của con người. Ý́ thức là ý
thức của con người, nằm trong con người, không thể tách rời con người. Ý́ thức
bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất – thuộc tính phản ánh – phát triển
thành. Ý́ thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật
chất, nội dung của nó là thơng tin về thế giới bên ngồi, về vật được phản ánh. Ý́
thức và sự phản ánh thế giới bên ngồi vào trong bộ óc người. bộ óc người là cơ
quan phản ánh song chỉ có riêng bộ óc thơi thì chưa thể có ý thức. Khơng có sự
tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt
động ý thức khơng thể xảy ra. Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngồi
tác động lên bộ óc, đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
b. Nguồn gốc xã hội.

Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng,
không thể thiếu được, song chưa đủ điều kiện quyết định cho sự ra đời cùng với
q trình hình thành bộ óc người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã
hội, ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội, nó phụ thuộc và xã hội, và ngay
từ đầu đã mang tính chất xã hội.
Q trình hình thành ý thức khơng phải là q trình con người thu nhận thụ
động. Nhờ có lao động con người tác động vào các đối tượng hiện thực, bắt
chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động
của mình thành những hiện tượng nhất định và các hiện tượng này tác động vào
bộ óc người. ý thức được hình thành khơng phải chủ yếu là do tác động thuần
túy, tự nhiên của thế giới khách quan vào bộ óc người, mà chủ yếu là do hoạt
động của con người cải tạo thế giới khách quan làm biến đổi thế giới đó. Quá


4

trình hình thành ý thức là kết quả hoạt động, chủ động của con người. Như vậy,
không phải bỗng nhiên thế giới khách quan tác động vào bộ óc người để con
người có ý thức mà trái lại, con người có ý thức chính vì con người chủ động tác
động vào thế giới thông qua hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới, con người
chỉ có ý thức do có tác động vào thế giới. Nói cách khác, ý thức chỉ được hình
thành thơng qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ tác động vào thế giới
mà con người khám phá ra những bí mật của thế giới, ngày càng làm phong phú
và sâu sắc ý thức của mình về thế giới. Ngơn ngữ do nhu cầu của lao động và
nhờ vào lao động mà ý thức. Không có hệ thống tín hiệu này – tức ngơn ngữ ,
thì ý thức khơng thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ, theo C. Mác là cái vỏ
vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Khơng có ngơn ngữ, con
người khơng thể có ý thức.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và
phát triển của ý thức là lao động , là thực tiên xã hội. Ý́ thức là sự phản ánh hiện

thực khách quan vào trong bộ óc người thơng qua lao động, ngơn ngữ và các
quan hệ xã hội. Ý́ thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
1.1.2. Bản chất của ý thức.
Ý́ thức là cái phản ảnh thế giới khách quan, nhưng nó là cái thuộc phạm vi
chủ quan, là thực tại chủ quan, khơng có tính vật chất. Ý́ thức là hình ảnh phi
cảm tính của các đối tượng vật chất có tồn tại cảm tính. Nếu coi ý thức cũng là
một hiện tượng vật chất thì sẽ lẫn lộn giữa vật chất và ý thức , làm mất ý nghĩa
của sự đối lập giữa vật chất và ý thức, từ đó dẫn đến làm mất đi sự đối lập giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Tuy nhiên, ý thức không phải là bản sao giản đơn, thụ động máy móc của sự
vật. Ý́ thức là của con người, mà con người là một thực thể xã hội năng động
sáng tạo. Ý́ thức phản ảnh thế giới khách quan trong quá trình con người tác
động cải tạo thế giới. Do đó, ý thức con người là sự phản ảnh có tính năng động,
sáng tạo. Ý́ thức là sự phản ảnh sáng tạo lại hiện thực, theo nhu cầu thực tiển xã
hội, vì vậy ý thức “Chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc


5

con người, và được cải biến đi ở trong đó. Nói cách khác, ý thức là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan.
Ý́ thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người, song đây
là sự phản anh đặc biệt – phản anh trong quá trình con người, cải tạo thế giới.
Quá trình ý thức là quá trình thống nhất của 3 mặt sau đây :
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này
mang tính chất hai chiều, có định hướng và chọn lọc các thơng tin cần thiết.

Hai là, mơ hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
Thực chất đây là quá trình “sáng tạo lại” hiện tượng của ý thức, theo nghĩa mã
hóa các đối tượng vật chất thành các ý thức tinh thần phi vật chất.

Ba là, chuyển mơ hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức q trình hiện
thực hóa tư tưởng, thơng qua hoạt động thực tiên biến cái quan niệm thành cái
thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài
hiện thực. Trong giai đoạn này con người lựa chọn những phương pháp, phương
tiện, công cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích
của mình. Điều đó càng nói lên tính năng động sáng tạo của ý thức.
Tính sáng tạo của ý thức khơng có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Sáng tạo
của ý thức là sáng tạo của sự phản ảnh, theo qui luật và trong khuôn khổ của sự
phản ánh, mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sự sáng tạo
của ý thức không đối lập, loại trừ, tách rời sự phản ánh mà ngược lại thống nhất
với phản ánh, trên cơ sở phản ánh. Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản
chất của ý thức. Ý́ thức trong bất cứ trường hợp nào - cũng là sự phản ánh và
chính thực tiển xã hội của con người tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng động,
sáng tạo của bộ óc.
1.2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
1.2.1. Vai trò của vật chất đối với ý thức.
Ý́ thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ
khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật
chất thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất...


6

Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức là
chính bản thân thế giới vật chất (thế giới khách quan), hoặc là những dạng tồn
tại của vật chất (bộ óc người, hiện tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ)...
Vật chất quyết định nội dung, đặc điểm của ý thức: Biểu hiện điều kiện vật
chất như thế nào thì ý thức như thế đó.
Từ vấn đề này có thể giải thích một số vấn đề thực tiễn như: Vì sao chất
lượng giáo dục đại học ở Việt Nam so với thế giới rất thấp? Có thể đánh giá đó

là sự tác động do các yếu tố vật chất như điều kiện cơ sở hạ tầng, trang thiết bị
nghiên cứu, công cụ hỗ trợ giảng dạy, hay rộng hơn là các biện pháp tác động
vào ý thức sinh viên như: Phương pháp giảng dạy, môi trường và điều kiện xã
hội,… chính những vấn đề đó đã là nguyên nhân cơ bản khiến chất lượng giáo
dục đại học ở nước ta thấp hơn các nước trong khu vực và thế giới măc du ta
thường xuyên đạt kết quả cao trong các kì thi Olympic quốc tế.
Vật chất quyết định sự biến đổi của ý thức. Khi cơ sở, điều kiện vật chất thay
đổi thì ý thức cũng thay đổi theo.
Từ vấn đề này có thể giải thích một số vấn đề thực tiễn như: Nhu cầu về đời sống
vật chất ở Việt Nam hiện nay có gì khác so với thời kỳ bao cấp? Trước đây khi đất
nước còn phải chịu những hậu quả nặng nề của chiến tranh thì quan điểm của của
con người chỉ là ăn no mặc ấm, nhưng khi kinh tế xã hội phát triển, điều kiện vật
chất có nhiều thay đổi con người dần chuyển sang quan điểm, ăn ngon mặc đẹp hay
ăn sung mặc sướng, sau đó lại chịu tác động của kinh tế thị trường một số thực
phẩm ngày càng ô nhiễm và nhiều chất độc hại, con người lại dần thích ăn sạch. Đó
là sự biến đổi về mặt ý thức khi các điều kiện vật chất thay đổi.

1.2.2. Vai trò của ý thức đối với vật chất
Bản chất của ý thức mang tính năng động, sáng tạo, ý thức là ý thức của con
người, chỉ có con người mới có ý thức nên nói tới sự tác động trở lại của ý thức
đối với vật chất chính là nói đến sự tác động của con người đối với vật chất
thông qua hoạt động thực tiễn.
Ý́ thức chỉ đạo, hướng dẫn con người trong hoạt động thực tiễn, (ý thức trang
bị cho con người tri thức về thực tại khách quan), giúp con người xác định được:


7

Mục tiêu, phương hướng, lựa chọn phương pháp, biện pháp, cơng cụ... để đạt
được mục tiêu của mình

Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng tích cực
hoặc tiêu cực, thể hiện:
Tác động tích cực: Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có
tình cảm cách mạng, có nghị lực... thì hành động của con người phù hợp với các
quy luật khách quan, vượt qua những thách thức trong q trình thực hiện mục
đích của mình, cải tạo được thế giới...
Tác động tiêu cực: Ý́ thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất,
quy luật khách quan thì hướng hành động của con người đi ngược lại các quy luật
khách quan, hành động đó sẽ tác động tiêu cực đến hoạt động thực tiễn...

1.2.3. Ý nghĩ̃a phương pháp luận
Xuất phát từ vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức: Đòi hỏi trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng
khách quan, thể hiện:
Tôn trọng quy luật, nhận thức và hành động theo quy luật.
Tôn trọng vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần
của con người, của xã hội.
Phải xuất phát từ điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội nhất định để đề ra đường
lối, chủ trương, chính sách đúng đắn thúc đẩy xã hội tiến lên.
Nếu chủ quan, duy ý chí, nơn nóng tất yếu dẫn đến sai lầm trong hoạt động
nhận thức và thất bại trong hoạt động thực tiễn.
Lưu ý: Nếu tuyệt đối hóa yếu tố vật chất sẽ rơi vào quan điểm duy vật tầm
thường. Hay nói cách khác là quá coi trọng yếu tố vật chất, coi các vấn đề vật
chất mang tính quyết định tới các sự vật, hiện tượng.
Xuất phát từ sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất: Địi hỏi phải ln
ln chú ý phát huy đầy đủ tính năng động, chủ quan, sự sáng tạo của con người
trong việc nhận thức và cải tạo thế giới. Muốn vậy, ta cân:


8


Tơn trọng tri thức khoa học, tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức
khoa học và truyền bá vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin, hướng
dẫn quần chúng hành động...
Khơi dậy trong nhân dân lịng u nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của
con người Việt Nam, quyết tâm xây dựng đât nước ta ngày càng to lớn hơn,
đúng như tâm nguyện của Bác Hồ vĩ đại.....
Lưu ý: Nếu tuyệt đối hóa vai trị của ý thức, sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
Khi khơng đánh giá đúng vai trị của vật chất tác động đến các sự vật hiện tượng
sẽ khơng kiểm sốt được q trình vận động, phát triển dễ rơi vào chủ quan, duy
ý chí, xa rời thế giới quan khoa học và phương pháp luận biện chứng khi đánh
giá các sự vật hiện tượng.
Chương 2: Ý NGHĨA VÀ VẬN DỤNG
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ Ý
̣
THỨC CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VÀO NÂNG CAO TÍNH TÍCH
CỰC, SÁNG TẠO TRONG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY.
2.1. Một số đặc điểm của sinh viên hiện nay.
Sinh viên Việt Nam hiện nay là một bộ phận thanh niên đã được tuyển chọn
qua các kỳ thi quốc gia và được đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng có
tuổi đời cịn trẻ chủ yếu khoảng từ 18 - 23, bản thân họ sẽ là những người tiếp
thu tri thức, công nghệ, kỹ thuật, tham gia nghiên cứu khoa học và trực tiếp trở
thành nguồn lao động có trình độ cao trên nhiều mặt kể cả là các mặt quản lý xã
hội hay cơng nghệ kỹ thuật. Có thể khẳng định sinh viên chính là những người
chủ tương lai của đất nước và quyết định sự phát triển của tất cả các mặt kinh tế
xã hội, văn hóa….. Trong đó ở nước ta hiện nay sinh viên có một số đặc điểm
nhất định đó là:
Một là, chiếm tỷ lệ nhất định trong hệ thống dân số và có xu hướng ngày
càng tăng dần. Do sự phát triển của giáo dục và nhu cầu chiếm lĩnh tri thức ngày
càng cao mà sinh viên ngày càng phát triển về số lượng đặc biệt là trong những

năm gần đây, tuy có thay đổi về phương pháp tuyển sinh, nhưng nhìn chung số
lượng sinh viên vẫn đang gia tăng hằng năm.


9

Hai là, sinh viên là đội dự bị trí thức, người chủ tương lai của đất nước.
Sóng sau xơ sóng trước là quy luật tất yếu của quá trình vận động, tuy chỉ đang
trong giai đoạn học tập, tiếp thu trí thức, tuy nhiên sinh viên cũng cực kì năng
động, sáng tạo, sẵn sàng đảm đương và giải quyết tốt các cơng việc khó, các
thách thức lớn qua đó dần rèn giũa bản lĩnh và trình độ năng lực của bản thân.
Ba là, sinh viên chưa có một “vị trí thực” trong cơ cấu nghề nghiệp cũng
như trong xã hội. Bởi lẽ, tuy có tác động nhất định tới nghề nghiệp sau này,
nhưng công việc chủ yếu của sinh viên là học tập chứ không phải tác động đến
nghề nghiệp, nhất là hiện nay tồn tại thực trạng sau khi ra trường các sinh viên
hoạt động, công tác trong các lĩnh vực trái với ngành nghề họ được đào tạo.
Bốn là, chịu tác động của xu thế tồn cầu hóa và cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0. Sinh ra và lớn lên trong những năm đầu thế kỉ XXI sinh viên đã chịu
những ảnh hưởng có cả tích cực và tiêu cực của xu thế tồn cầu hóa và cách
mạng khoa học, công nghệ tạo ra những thời cơ và thách thức đan xen phức tạp
tác động trực tiếp đến quá trình phát triển của mỗi sinh viên. Do đó khơng ít
sinh viên bị sa vào chủ nghĩa cá nhân, thích hưởng thụ, chạy theo văn hóa
phương Tây làm mất đi bản chất vốn có, truyền thống văn hóa tốt đẹp của người
Việt Nam, đó là một vấn đề rất đáng báo động hiện nay.
Ngồi ra sinh viện hiện nay cịn có những biểu hiện riêng về phẩm chất đạo đức
và năng lực, như sinh viên hiện nay năng động, sáng tạo và thực tế hơn, sinh viên
xác định rõ phương pháp thực hiện lý tưởng của mình, sinh viên hiện nay nhạy bén
hơn trong cách tiếp cận các vấn đề xã hội. Có thể thấy sự năng động, sáng tạo là
yếu tố đặc trưng của tuổi trẻ, tuy nhiên hiện nay với nhịp độ cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở mức cao thì các yếu tố này càng có cơ hội để phát triển và trở thành yêu

cầu bắt buộc đối với sinh viên, cùng với đó kinh tế thị trường đã tạo nên một xã hội
ngày càng thực tế và tác động trực tiếp đến sinh viên. Về lý tưởng của bản thân do
được định hướng rõ ràng và công tác hướng nghiệp ngày càng quan trọng cơ bản lý
tưởng, hồi bão của sinh viên ln khá rõ ràng và đúng đắn, nhất là trong xã hội xã
hội chủ nghĩa hiện nay, việc định hướng tư tưởng, giáo dục lý tưởng cách mạng,
mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của cách mạng Việt


10

Nam luôn được tổ chức đặc biệt tốt tác động to lơn đến sinh viên. Cuối cùng là sự
đan xen phức tạp và những yếu tố bất ngờ khó lường trước của bối cảnh, thế giới,
khu vực và trong nước dần tạo nên sự thích nghi một cách nhạy bén của sinh viên
đối với các vấn đề xã hội, như chủ trương đường lối, xu thế phát triển, mục tiêu
ngắn hạn, dài hạn của đất nước, hay pháp luật, quy định….tạo nên một thế hệ sinh

viên có khả năng xử lý tốt các tình huống phát sinh nhất là trong điều kiện dịch
COVID-19 kéo dài như hiện nay.
2.2. Hiểu rõ các vấn đề về ý thức của triết học Mác – Lênin góp phần
hình thành thế giới quan khoa học và phương pháp luận phù hợp xây
dựng mục tiêu, lý tưởng sống cho mỗi sinh viên.
Vì vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải
xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và tuân theo quy luật khách
quan.Vì ý thức tác động trở lại vật chất nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta
phải chú ý giáo dục và nâng cao nhận thức cho con người.
Qua học tập và nghiên cứu các vấn đề về ý thức nói chung sẽ là tiền đề cốt
lõi để mỗi sinh viên xác định rõ thế giới quan khoa học đúng đắn của bản thân.
Tránh tuyệt đối hóa các yếu tố trừu tượng, siêu nhiên, tư tưởng hóa, thần thánh
hóa theo hướng duy tâm, mà có cách xác định những góc nhìn khoa học một
cách biện chứng thống nhất giữa các mối quan hệ, sự tác động qua lại, vận động

phát triển của mọi sự vật hiện tượng theo chủ nghĩa duy vật biện chứng.Từ đó
góp phần quyết định vào nâng cao chất lượng học tập, tính khoa học trong giải
quyết các vấn đề nảy sinh của cuộc sống hay nhìn nhận các sự vật hiện tượng
xảy ra xung quanh theo góc nhìn của thế giới quan duy vật một cách chính xác.
Tuy nhiên, thế giới quan khoa học khơng hình thành một cách tự động, tức
cứ trang bị tri thức là có thế giới quan. Trái lại, đó cịn phải là q trình chuyển
tri thức thành niềm tin khoa học trong mỗi sinh viên. Cơ sở để hình thành và
phát triển thế giới quan là những nhận thức về tự nhiên và xã hội, là kết quả của
quá trình giáo dục và những kinh nghiệm được tích lũy trong thực tiễn của sinh
viên. Đó chính là quá trình hình thành và phát triển các quan điểm, quan niệm,


11

niềm tin về vai trò và khả năng của con người trong quá trình nhận thức và cải
tạo thế giới. Nói cách khác, tri thức, niềm tin, lý tưởng và tình cảm là những yếu
tố cơ bản nhất cấu thành nên thế giới quan. Trong đó, tri thức tự nó chưa thể trở
thành thế giới quan. Nó chỉ gia nhập thế giới quan khi trở thành niềm tin trong
mỗi người. Nhờ có niềm tin, tri thức mới trở thành cơ sở cho hành động của mỗi
người. Khi biến thành niềm tin, tri thức đóng vai trị động cơ, động lực tinh thần
cho hoạt động của con người, giúp con người xác định lý tưởng sống. Đạt đến
"độ" này, mỗi sinh viên thể hiện trình độ sâu sắc trong nhận thức và tri thức,
hình thành thế giới quan và khi đó, thế giới quan trở thành nhân tố định hướng
quan trọng trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Lý tưởng giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống của mỗi sinh viên, vì lý
tưởng là mục đích cao nhất, đẹp nhất, tạo ra nghị lực giúp con người vượt qua
mọi thách thức đạt đến mục tiêu đề ra. Mục tiêu cao nhất mà lý tưởng cộng sản
hướng tới là xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp: Xã hội xa hôi chủ nghĩa và sau
này là xã hội cộng sản chủ nghĩa. Ở đó, con người được tự do, bình đẳng và
hạnh phúc. Sinh viên khi tiếp nhận những tri thức khoa học Mác - Lênin sẽ tìm

kiếm được sức mạnh từ chính bản thân tri thức ấy để tự mình vươn lên, bồi
dưỡng lý tưởng cộng sản, tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Có
niềm tin, có hồi bão, sinh viên tất có ý chí thực hiện lý tưởng. Việc thực hiện lý
tưởng khơng phải trừu tượng, xa vời, mà ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà
trường họ cần xác lập ý chí học tập để sau này góp phần xây dựng Tổ quốc.
Đồng thời, họ cần có tinh thần đấu tranh với những hành vi lệch chuẩn của một
bộ phận sinh viên sống thiếu trách nhiệm, mất phương hướng, lòng tin, lý tưởng
sa đà vào cuộc sống hưởng thụ, thực dụng chỉ nghĩ đến lợi ích riêng mình, vơ
cảm với lợi ích của đồng loại, của dân tộc. Đặc biệt hiểu rõ vị trí của vật chất và
ý thức sẽ khơng để xảy ra hiện tượng mơ hồ, tư tưởng phụ thuộc, bị động trông
chờ vào các thế lực siêu nhiên, hay tuyệt đối hóa các điều kiện vật chất sẵn có
gây nên những lý tưởng, mục tiêu cuộc sống sai lầm, thụ động của mỗi sinh
viên.


12

2.3. Một số giải pháp để nâng cao tính tích cực, sáng tạo trong học tập
của sinh viên Học viện Ngân hàng.
Thứ nhất, cần xác định rõ mục tiêu, lý tưởng của q trình học tập từ đó xây
dựng ý chí quyết tâm, động cơ học tập đúng đắn.
Ý́ thức sẽ quyết định phần lớn đến quá trình và kết quả học tập, một ý thức
tự giác cao, một mục tiêu học tập tốt sẽ thúc đẩy quá trình học tập của mỗi sinh
viên càng thêm tích cực. Tự bản thân mỗi sinh viên sẽ tìm tịi các biện pháp để
khắc phục những khó khăn trong q trình học tập từ đó sáng tạo các phương
pháp, cách học, cách tiếp thu kiến thức để đạt kết quả cao nhất.
Thứ hai, chủ động xây dựng kế hoạch học tập một cách khoa học hợp lý.
Việc xây dựng tốt kế hoạch học tập của bản thân sẽ tạo ra tâm lý chủ động,
từ đó sinh viên có tâm thế tốt, ý thức được các công việc mà bản thân phải thực
hiện chuẩn bị sẵn sàng, đầy đủ các nội dung và giải quyết các vấn đề trong q

trình học tập thơng qua đó giải quyết các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn đã xác
định, thúc đẩy sự cố gắng nỗ lực sáng tạo để đạt được các mục tiêu đó góp phần
nâng cao chất lượng học tập của sinh viên.
Thứ ba, đứng vững trên lập trường duy vật biện chứng
Trong thời đại công nghiệp 4.0 ngày nay việc tiếp thu các kiến thức từ nhiều
nguồn luôn là xu thế khách quan của sinh viên trong q trình học tập. Do đó
khi trau dồi kiến thức mỗi sinh viên phải đứng vững trên nền tảng thế giới quan
và phương pháp luận duy vật biện chứng để giải quyết các vấn đề một cách
khách quan, tồn diện, lịch sử, cụ thể. Thơng qua đó dần đưa q trình học tập,
nghiên cứu vào đời sống một cách khoa học, tích cực, hiệu quả.
Thứ tư, chú trọng rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Mỗi sinh viên đều là người chủ tương lai của đất nước, đối với sinh viên
Học viện Ngân hàng sau này trên các cương vị công tác là những người tiếp xúc
nhiều các vấn đề nhạy cảm về tài chính, do đó địi hỏi ngay từ khi trên ghế giảng
đường mỗi sinh viên đều phải bồi dưỡng phẩm chất cao đẹp của con người mới
Xã hôi chủ nghĩa tránh sa vào lối sống ham hưởng thụ, vụ lợi, cá nhân, từ đó đễ
dẫn tới sa sút trong q trình học tập, suy thối trong cơng tác sau này.


13

KẾT LUẬN
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin thế hệ trẻ nói chung và sinh viên
Việt Nam nói riêng hiện nay đã và đang được sống trong một mơi trường hịa
bình với những điều kiện tốt đẹp để phát triển toàn diện những khả năng của bản
thân. Việc học tập triết học Mác – Lênin nói chung và các vấn đề liên quan đến
ý thức của con người đã và đang được tiến hành đúng đắn trong mọi nhà trường,
đó là cơ sở quan trọng để mỗi sinh viên có điều kiện nhận thức sâu sắc hơn nữa
những giá trị của bản thân có thể đạt được cũng như tránh biểu hiện thiếu tính
khoa học, chủ quan, tiêu cực trong quá trình học tập cũng như trong giải quyết

các vấn đề cuộc sống. Do dung lượng của tiểu luận có hạn nên em chỉ đi sâu làm
rõ một số vấn đề mang tính quy luật và nêu lên một số nhìn nhận đánh giá của
bản thân. Qua đó chứng minh những tác động của vấn đề ý thức đối với quá
trình sáng tạo và học tập của sinh viên và bản thân trong giai đoạn hiện nay.


14

TÀI LIỆ̣U THAM KHẢO
1. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
2. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
3. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
4. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
5. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
6. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
7. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Tồn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
8. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, (2016), Văn phịng Trung
ương Đảng, Hà Nội.
9. Hồ Chí Minh, Tồn tập, (2002), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. />


×