Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận quản lí xã hội về giáo dục và đào tạo vai trò của giáo dục và đào tạo trong đời sống xã hội việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.13 KB, 26 trang )

Vai trò của giáo dục và đào tạo trong đời sống xã hội Việt Nam
hiện nay
Mục lục
Lời mở đầu...........................................................................................................1
1.Lí do lựa chọn đề tài.....................................................................................1
2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..............................................................1
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................1
4.Phương pháp nghiên cứu.............................................................................1
5.Kết cấu của tiểu luận....................................................................................1
Chương 1 : Các vấn đề chung về giáo dục và đào tạo......................................2
1.1 Khái niệm chung........................................................................................2
1.1.1 Nguồn gốc của giáo dục.....................................................................2
1.1.2 Khái niệm giáo dục và đào tạo..........................................................2
Chương 2 : Vai trò của giáo dục và đào tạo trong đời sống xã hội Việt Nam
hiện nay................................................................................................................3
2.1 Khái quát chung về tình hình đời sống xã hội ở Việt Nam hiện nay....3
2.1.1 Tình hình kinh tế-xã hội....................................................................3
2.1.2 Tình hình giáo dục và đào tạo...........................................................8
2.2 Vai trò của giáo dục và đào tạo trong đời sống xã hội hiện nay.........11
2.2.1 Vai trò của giáo dục và đào tạo đối với sự phát triển của xã hội. 11
2.2.2 Vai trò của giáo dục và đào tạo trong đời sống xã hội Việt Nam
hiện nay......................................................................................................14
Chương 3 : Phương hướng phát triển nền giáo dục và đào tạo Việt Nam
trong thời gian tới..............................................................................................16
3.1 Thực trạng việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong
thời gian qua..................................................................................................16
3.2 Một số giải pháp tăng cường đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo trong thời gian tới............................................................................21
Kết luận..............................................................................................................24
Danh mục các từ viết tắt...................................................................................24
Danh mục tài liệu tham khảo...........................................................................25



0


Lời mở đầu
1.Lí do lựa chọn đề tài
Giáo dục có vai trò như kim chỉ nam dẫn đến mọi sự phát triển và tiến bộ
của xã hội.Bất kì một quốc gia nào trên thế giới nếu muốn phát triển và trở nên
giàu mạnh đều đặc biệt chú trọng vào vấn đề giáo dục và đào tạo,sở dĩ vì tri thức
sẽ là sức mạnh nòng cốt quyết định đến vận mệnh của một quốc gia.Giữa thời kì
cơng nghiệp hóa hiện đại hóa,sự phát triển vượt bậc của cơng nghệ 4.0 dần nắm
giữ mọi hoạt động của xã hội,việc trang bị,đổi mới tri thức cho nhân loại ngày
càng trở nên quan trọng hơn.Việt Nam cũng là một quốc gia không ngoại lệ,để
hướng tới thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”,nước ta cũng vô cùng quan tâm đến phát triển nền giáo dục và đào tạo
cũng như nâng tầm tri thức cho thế hệ trẻ ngày nay.
2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm đem lại nhận thức,sự hiểu biết và
khẳng định vai trò,tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo trong đời sống xã hội
Việt Nam hiện nay.Đồng thời chỉ ra những mặt ưu điểm,nhược điểm của nền
giáo dục Việt Nam và đề xuất những giải pháp khắc phục cũng như phương
hướng phát triển trong thời gian tới.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Vai trò của giáo dục và đào tạo trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.
4.Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích và tổng thích hợp thuyết
- Phương pháp thu thập số liệu
-Phương pháp quan sát khoa học
-Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
5.Kết cấu của tiểu luận

Tiểu luận gồm 3 phần :
Chương 1 : Các vấn đề chung về giáo dục và đào tạo
1


1.1 Khái niệm chung
1.1.1 Nguồn gốc của giáo dục
Để tồn tại và phát triển, lồi người khơng ngừng tác động vào thế giới
khách quan, nhận thức thế giới khách quan để tích lũy kinh nghiệm, chinh phục
tự nhiên. Khi đã tích lũy được những kinh nghiệm bao gồm những kĩ năng, kĩ
xảo, tư tưởng, giá trị đạo đức,hành vi....con người có nhu cầu truyền đạt lại cho
nhau và cho những thế hệ tiếp nối sau đó.Trong q trình phát triển của xã hội,
thế hệ trước không ngừng truyền lại cho thế hệ sau những kinhnghiệm để tiếp
tục tham gia vào cuộc sống lao động và các hoạt động xã hội nhằm duy trì sự
phát triển xã hội lồi người, chính sự truyền thụ và lĩnh hội này gọi là giáo
dục.Do vậy, giáo dục là một hoạt động có ý thức của con người nhằm vào mục
đích phát triển chính con người và phát triển xã hội. Vì thế giáo dục là một hiện
tượng xã hội và là một trong những nhu cầu tất yếu của xã hội, vì nó chỉ xuất
hiện ở con người, giáo dục nảy sinh trên cơ sở kinh tế xã hội nhất định, nótồn tại
và phất triển cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội lồi người.Nói cách
khác giáo dục là một hoạt động gắn liền với tiến trình phát triển xã hội, ở mỗi
giai đoạn phát triển của lịch sử đều có nền giáo dục tương ứng, khi xã hội
chuyển từ hình thái xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác thì tồn bộ hệ
thống giáo dục cũng thay đổi theo. Giáo dục là một hình thái ý thức xã hội chịu
sự quy định của xã hội, giáo dục có mối quan hệ biện chứng với các hình thái ý
thức xã hội khác và với hạ tầng cơ sở.
1.1.2 Khái niệm giáo dục và đào tạo
Theo Từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản Đà Nẵng thì: “giáo dục đào tạo
là hoạt động tác động có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của con
người để họ dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra”

[78, 734].
Theo Từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản Khoa học xã hội: “giáo dục đào
tạo là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần,

2


thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những
phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra” [78, 279].
Theo Tân Từ điển – Nhà xuất bản Khai Trí: “giáo dục đào tạo là hoạt
động dạy dỗ để phát triển khả năng thể chất, tri thức và đạo lý” [62, 592] và
“Đào tạo là quá trình nung nấu, gây dựng nên” [62, 479].
Theo Giáo trình Thống kê xã hội – Nhà xuất bản Thống kê: “giáo dục đào
tạo là một ngành hoạt động xã hội nhằm nâng cao dân trí, tạo nguồn lao động có
kỹ năng thích hợp và tạo nhân tài cho đất nước” [36, 70].
Qua các khái niệm trên, giáo dục đào tạo được hiểu trên các khía cạnh: Là
hoạt động của xã hội, không phải của riêng ngành giáo dục đào tạo ; giáo dục
đào tạo là cơ sở tạo ra nguồn lao động có chất lượng, phát hiện nhân tài và tạo
điều kiện cho họ phát huy hết khả năng của mình. Hoạt động giáo dục đào tạo
bao gồm giáo dục mẫu giáo, giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, trên đại học
và dạy nghề. Trong tất cả các hoạt động trên trường học là nơi đảm nhận vai trò
quan trọng và giáo viên là khâu chủ đạo.
Chương 2 : Vai trò của giáo dục và đào tạo trong đời sống xã hội Việt
Nam hiện nay.
2.1 Khái quát chung về tình hình đời sống xã hội ở Việt Nam hiện
nay.
2.1.1 Tình hình kinh tế-xã hội
Theo Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế-xã hội năm 2020 và 5
năm 2016-2020, tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2016-2019 đạt khá cao, bình quân
6,8%/năm. Năm 2020, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh, nhưng

tăng trưởng cả năm vẫn đạt 2,91%; là một trong những quốc gia tăng trưởng cao
nhất trong khu vực và trên thế giới. Quy mô GDP tăng khoảng 1,4 lần so với
năm 2015 (Theo Báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF), dự báo GDP Việt Nam năm 2020 ước đạt 340,6 tỷ USD, Việt Nam trở
thành quốc gia có nền kinh tế lớn thứ 4 khu vực Đơng Nam Á); GDP bình qn
đầu người năm 2020 ước đạt khoảng 2.750 USD. Năng suất lao động được cải
3


thiện rõ nét, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 tăng 5,8%/năm, cao hơn giai đoạn
2011 - 2015 (4,3%) và vượt mục tiêu đề ra (5%). Đóng góp của năng suất các
nhân tố tổng hợp (TFP) bình quân 5 năm đạt khoảng 45,2% (mục tiêu đề ra là 30
- 35%). Tăng trưởng từng bước chuyển dịch từ chiều rộng sang chiều sâu, giảm
dần sự phụ thuộc vào khai thác tài ngun, xuất khẩu thơ, lao động giá rẻ, mở
rộng tín dụng…, từng bước chuyển sang dựa vào ứng dụng khoa học, công nghệ
và đổi mới sáng tạo
Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực
biến động mạnh. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) giảm từ 18,6% năm 2011 xuống còn
dưới 4% trong giai đoạn 2016 - 2020. Tỷ giá, thị trường ngoại hối khá ổn định;
lãi suất có xu hướng giảm dần; cán cân thanh tốn thặng dư; hệ số tín nhiệm
quốc gia được cải thiện.
Kỷ cương, kỷ luật tài chính được tăng cường. Thu NSNN năm 2020 đạt
96% dự toán. Cơ cấu lại NSNN đạt kết quả tích cực, tỷ trọng thu nội địa tăng lên
81,6% so năm 2015; tỷ trọng chi đầu tư phát triển tăng lên 27 - 28%, tỷ trọng chi
thường xuyên giảm còn 62 - 63%. Bội chi NSNN và nợ cơng được kiểm sốt
trong giới hạn an toàn và giảm so với giai đoạn trước. Tổng vốn đầu tư toàn xã
hội so với GDP đạt khoảng 33,4%.
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt cao nhất trong lịch sử, tăng 1,7 lần
(từ 327,8 tỷ USD năm 2015 lên 516,6 tỷ USD năm 2020). Nnăm 2020 mặc dù bị
ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19 vẫn đạt 543,9 tỷ USD; xuất siêu 5 năm

liên tiếp, năm 2020 ước đạt 19,1 tỷ USD; thương mại điện tử tăng trưởng mạnh,
trở thành
một kênh phân phối quan trọng của nền kinh tế; du lịch tăng trưởng bình quân
gần 30%/năm, đạt 18 triệu lượt khách quốc tế vào năm 2019, tăng hơn 10 triệu
lượt so với năm 2015. Thị trường nội địa được chú trọng; quản lý thị trường,
phịng chống bn lậu, gian lận thương mại được tăng cường.
4


Xây dựng nơng thơn mới hồn thành trước thời hạn gần 2 năm; đến cuối
năm 2020 có khoảng 63% xã đạt chuẩn, vượt xa mục tiêu đề ra (50%). Nhiều
địa phương đã nỗ lực vươn lên mạnh mẽ, đóng góp quan trọng vào thành tựu
chung của đất nước.
Các đột phá chiến lược được tập trung thực hiện và đạt những kết quả tích
cực.Hệ thống pháp luật đã hình thành khá đầy đủ và toàn diện, kịp thời triển
khai thi hành Hiến pháp năm 2013 và thể chế hoá các chủ trương, đường lối của
Đảng trên các lĩnh vực.
Các loại thị trường vận hành cơ bản thông suốt, bước đầu gắn kết với khu
vực và quốc tế. Thị trường chứng khoán phát triển khá ổn định; kết nối cung cầu
thị trường lao động hiệu quả hơn; thị trường khoa học và công nghệ bước đầu
phát triển. Chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện, tỷ lệ lao động qua đào tạo
đạt 64,5%. Tiềm lực khoa học và công nghệ được tăng cường. Hợp tác quốc tế
được đẩy mạnh; công nghệ hiện đại được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh
vực; đã nghiên cứu, phát triển thành công một số công cụ, thiết bị y tế phục vụ
phòng chống dịch Covid-19; thu hút nhiều dự án công nghệ cao của một số tập
đoàn hàng đầu thế giới.
Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia có bước phát triển.
Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam năm 2020 xếp thứ 42/131,
đứng đầu nhóm 29 quốc gia, nền kinh tế cùng mức thu nhập.
Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội được tập trung nguồn lực đầu tư;

nhiều cơng trình, dự án quan trọng đã được khởi cơng, xây dựng, hồn thành,
đưa vào sử dụng, tạo thêm năng lực, sức cạnh tranh và diện mạo mới cho đất
nước.
Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng đạt nhiều kết
quả.Các trọng tâm cơ cấu lại về đầu tư công, hệ thống các tổ chức tín dụng, hệ
thống doanh nghiệp nhà nước được chú trọng; các quy định pháp luật liên quan
5


được rà sốt, hồn thiện. Vốn đầu tư cơng được tập trung cho những dự án cấp
bách, trọng điểm, có tính kết nối, lan toả cao; giải ngân vốn đầu tư công được
chỉ đạo quyết liệt; vốn đầu tư từ NSNN thực hiện năm 2020 đạt cao nhất trong
giai đoạn 2011-2020.
Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu được triển khai đồng
bộ, hiệu quả hơn, bảo đảm ổn định, an toàn hệ thống; tỷ lệ nợ xấu nội bảng ở
mức dưới 3%. Việc sắp xếp lại, cổ phần hoá, thoái vốn thực chất hơn; hiệu quả
hoạt động, năng lực cạnh tranh của nhiều DNNN được nâng lên.
Đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện,chính sách đối với người có
cơng với cách mạng được quan tâm thực hiện, đời sống người có cơng được
nâng lên. Đến nay, có gần 1,4 triệu người có cơng đang hưởng chế độ ưu đãi
hàng tháng.
Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm từ gần 10% năm 2015 xuống
dưới 3% năm 2020. Diện bao phủ bảo hiểm xã hội gấp hơn 1,3 lần so với năm
2015, chiếm gần 33% lực lượng lao động.
Hệ thống y tế dự phòng và mạng lưới y tế cơ sở được củng cố; triển khai
nền tảng hỗ trợ tư vấn khám chữa bệnh trực tuyến, từ xa, kết nối gần 30 bệnh
viện tuyến trên với 1.200 cơ sở khám chữa bệnh trên toàn quốc. Tỷ lệ tham gia
bảo hiểm y tế tăng từ 75% năm 2015 lên 90,85% năm 2020.
Đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào tạo được tích cực triển khai;
chất lượng giáo dục phổ thông, giáo dục đại học tiếp tục được nâng lên. Trong

bối cảnh dịch Covid-19, tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT thành hai đợt, bảo đảm
nghiêm túc, cơng bằng và an tồn.
Phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam có những chuyển biến
tích cực; các giá trị tốt đẹp của dân tộc được phát huy. Các lễ kỷ niệm lớn, sự
kiện quan trọng của đất nước được tổ chức trang trọng, thiết thực và an tồn.
Các chính sách dân tộc, tơn giáo, tín ngưỡng, người cao tuổi, trẻ em, gia đình,
6


bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ được đẩy mạnh; thể thao thành tích
cao có bước tiến bộ. Đã trình Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể và Chủ trương
đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KTXH vùng đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030. Chỉ số phát triển con người (HDI)
được cải thiện, Việt Nam thuộc nhóm nước có mức phát triển con người cao của
thế giới, xếp hạng 117/189 quốc gia và vùng lãnh thổ (năm 2019).
Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng lên,cơng tác cải cách hành
chính có nhiều chuyển biến tích cực, mơi trường kinh doanh được cải thiện;
phịng chống tham nhũng được chỉ đạo quyết liệt. Tổ chức bộ máy nhà nước tiếp
tục được kiện toàn tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tỷ lệ tinh giản biên
chế công chức, biên chế sự nghiệp hưởng lương từ NSNN lần lượt đạt 8,68% và
7,56%. Đã hoàn thành việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã.
Kỷ luật, kỷ cương hành chính được tăng cường. Tập trung thực hiện đơn
giản hoá, cắt giảm thủ tục hành chính, cải thiện mơi trường đầu tư kinh doanh,
nâng cao năng lực cạnh tranh. Đến nay, đã cắt giảm, đơn giản hóa 63% điều
kiện kinh doanh, 68% danh mục hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành. Cơ chế
một cửa, một cửa liên thông đi vào nền nếp, chất lượng giải quyết hồ sơ có sự
cải thiện rõ rệt, tỷ lệ giải quyết đúng hạn đạt trên 97%.
Tinh thần khởi nghiệp lan toả rộng rãi; các mơ hình kinh doanh mới và
phong trào đổi mới, sáng tạo được đẩy mạnh. Mỗi năm có trên 100 nghìn doanh
nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký bình quân tăng hơn 1,8 lần so với năm

2015.
Kinh tế tư nhân ngày càng đóng vai trị quan trọng trong nền kinh tế; đã
hình thành một số tập đồn kinh tế tư nhân lớn có năng lực cạnh tranh quốc tế.
Kinh tế tập thể, hợp tác xã có nhiều mơ hình mới, hiệu quả.
Xếp hạng mơi trường kinh doanh của Việt Nam được cải thiện đáng kể,
tăng từ xếp hạng 88/183 năm 2010 lên xếp hạng 70/190 quốc gia, vùng lãnh thổ
7


năm 2019. Công tác thanh tra, kiểm tra, tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo
được chú trọng và có chuyển biến tốt…
2.1.2 Tình hình giáo dục và đào tạo
Hệ thống cơ chế, chính sách trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo cơ bản
được hoàn thiện.
Bộ GD-ĐT đã rà sốt, trình Chính phủ, Quốc hội ban hành và ban hành
theo thẩm quyền các cơ chế, chính sách khắc phục những hạn chế, bất cập tồn
tại từ nhiều năm trước. Lần đầu tiên trong 2 năm liên tiếp, Bộ đã tham mưu
Chính phủ trình Quốc hội thơng qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Giáo dục đại học năm 2018 và Luật Giáo dục (sửa đổi, ban hành mới) năm
2019, giải quyết những “nút thắt” và tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo.
Năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành khung cơ cấu hệ thống giáo
dục quốc dân.
Đến nay, về cơ bản các chủ trương của Nghị quyết 29 đã được thể chế hóa
và được cụ thể trong các văn bản hướng dẫn thực hiện.
Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non; duy trì, nâng cao chất lượng phổ
cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở
Chỉ tiêu về đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non trên toàn quốc cho trẻ 5
tuổi đã hoàn thành ngay từ đầu năm 2017 với tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo 5 tuổi
đạt 99,98%.

Bên cạnh đó, cả nước đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2,
trong đó có 18/63 tỉnh, thành phố đạt mức độ; cả nước đạt chuẩn phổ cập giáo
dục trung học cơ sở mức độ 1, trong đó có 19/63 tỉnh, thành phố đạt mức độ 2,
mức độ 3...

8


Theo Bộ trưởng Nhạ, chủ trương một chương trình, nhiều bộ sách giáo
khoa nhằm khuyến khích sự sáng tạo trong dạy và học của giáo viên đã có
những thành cơng bước đầu.
Ban hành và tích cực triển khai Chương trình giáo dục phổ thông mới
Cuối năm 2019, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT đã phê duyệt 5 bộ sách giáo khoa
lớp 1, với tổng số 46 quyển của 9 môn học và hoạt động giáo dục cho phép sử
dụng trong năm học 2020-2021. Việc lựa chọn sách giáo khoa được các địa
phương thực hiện cơ bản nghiêm túc, công khai, minh bạch. Đây là lần đầu tiên
trong lịch sử ngành giáo dục nước ta thực hiện chủ trương này và đã có kết quả
bước đầu đáng khích lệ.
Cơng tác tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục ngày càng
thực chất, hiệu quả hơn
Đổi mới thi, kiểm tra và đánh giá chất lượng đối với giáo dục tiểu học,
trung học cơ sở và trung học phổ thông được triển khai theo hướng đánh giá
năng lực, kết hợp kết quả quá trình với kết quả cuối năm học.
Các bậc học sau phổ thông đã chuyển việc tổ chức đào tạo theo niên chế
sang tích lũy mơ đun hoặc tín chỉ. Việc kiểm tra, đánh giá trình độ đào tạo thạc
sĩ và tiến sĩ được thực hiện chặt chẽ hơn; chất lượng các luận văn, luận án từng
bước theo tiêu chuẩn quốc tế.
Công tác đổi mới thi tốt nghiệp trung học phổ thông, tuyển sinh đại học,
cao đẳng được triển khai theo hướng đánh giá năng lực, kết hợp kết quả quá
trình với kết quả cuối năm học, giảm áp lực và tốn kém cho xã hội.

Chất lượng giáo dục phổ thông cả đại trà và mũi nhọn đều được nâng lên,
được quốc tế ghi nhận, đánh giá cao

9


Theo báo cáo năm 2020 của Ngân hàng Thế giới về Vốn nhân lực, thành
phần kết quả giáo dục của Việt Nam đứng thứ 15, tương đương với các nước
như Hà Lan, New Zealand, Thụy Điển.
Nhiều chỉ số về Giáo dục của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực,
như: tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành Chương trình tiểu học sau 5 năm đạt
92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN; kết quả Chương trình Đánh giá kết
quả học tập của học sinh tiểu học các nước Đông Nam Á (SEA PLM) năm 2019
cho thấy chất lượng giáo dục tiểu học của Việt Nam đứng vào tốp đầu của các
nước ASEAN. Trong các đợt đánh giá PISA, Việt Nam có kết quả vượt trội so
với trung bình của các nước trong khối OECD trong khi mức đầu tư cho giáo
dục thấp hơn hẳn.
Kết quả thi Olympic của học sinh Việt Nam những năm vừa qua có bước
tiến bộ vượt bậc với 49 huy chương Vàng trong giai đoạn 2016-2020 so với 27
huy chương Vàng trong giai đoạn 2011-2015; nhiều học sinh Việt Nam đạt điểm
số cao nhất ở các nội dung thi.
Tự chủ đại học được đẩy mạnh, chất lượng đào tạo đại học có nhiều
chuyển biến tích cực
Nếu như trước đây chỉ có hai đại học quốc gia được giao quyền tự chủ
cao, thì từ năm 2014 đã có 23 cơ sở giáo dục đại học được thí điểm thực hiện tự
chủ tương đối tồn diện theo Nghị quyết 77 của Chính phủ.
Năm 2019, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam xếp thứ 68/196 quốc gia
trên thế giới, tăng 12 bậc so với năm 2018. Lần đầu tiên, Việt Nam có 4 cơ sở
giáo dục đại học được vào top 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới; có 11 cơ sở
giáo dục đại học Việt Nam nằm trong danh sách 500 trường đại học hàng đầu

Châu Á.
Cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh,
sinh viên có nhiều chuyển biến tích cực
10


Trong Chương trình giáo dục phổ thơng mới, nội dung giáo dục đạo đức,
lối sống, kỹ năng sống tiếp tục được chú trọng, thực hiện thông qua tất cả các
môn học, hoạt động giáo dục.
Tăng cường ứng dụng công nghệ thơng tin, đẩy mạnh chuyển đổi số trong
ngành giáo dục
Tồn ngành Giáo dục đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong
các hoạt động quản lý, dạy và học.
Lần đầu tiên, toàn ngành Giáo dục đã xây dựng cơ sở dữ liệu ngành về
giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông. Công nghệ thông tin được sử dụng
rộng rãi trong các trong các hoạt động dạy và học; dạy học qua internet, trên
truyền hình được thực hiện mạnh mẽ, nhất là trong thời gian thực hiện giãn cách
xã hội để phòng, chống dịch Covid-19.
Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục,
đào tạo.
Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác giáo dục với hơn 100
quốc gia và vùng lãnh thổ.
2.2 Vai trò của giáo dục và đào tạo trong đời sống xã hội hiện nay.
2.2.1 Vai trò của giáo dục và đào tạo đối với sự phát triển của xã hội.
Từ khi ra đời, giáo dục đã trở thành một yếu tố cơ bản thúc đẩy sự phát
triển thông qua việc thực hiện các chức năng xã hội của nó. Đó chính là những
tác động tích cực của giáo dục đến các mặt hay các quá trình xã hội và tạo ra sự
phát triển cho xã hội. Nghiên cứu giáo dục với tư cách là một hiện tượng xã hội
và một hệ thống được tổ chức đặc biệt, ta thấy giáo dục có ba chức năng quan
trọng, đó là: Chức năng kinh tế - sản xuất, chức năng chính trị - tư tưởng và

chức năng văn hóa - xã hội.
Một là,chức năng kinh tế - sản xuất.Sự phát triển xã hội được đặc trưng
bởi sự phát triển kinh tế. Mọi xã hội được xây dựng trên nền tảng của các nền
11


kinh tế và được tạo ra bởi các yếu tố kinh tế. Bất kỳ một quốc gia nào trên thế
giới muốn phát triển về kinh tế cũng cần có rất nhiều nguồn lực như nguồn lực
nhân lực, nguồn lực nguồn vốn, nguồn lực tàinguyên ….; trong đó nguồn lực
nhân lực (người lao động) là quan trọng nhất. Bởi vì,nếu muốn đưa xã hội càng
phát triển, địi hỏi phải có những người có trình độ cao, có kỹ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn lao động sản xuất, có những phẩm chất cầnthiết của
người lao động mới. Muốn có nguồn nhân lực như vậy thì xã hội cần phải có
giáo dục. Bởi vì giáo dục thơng qua hệ thống giáo dục và dạy học, bằng nhiều
hình thức khác nhau, giáo dục trực tiếp đào tạo ra đội ngũ người lao động đủ về
số lượng, đồng bộ về cơ cấu và có trình độ cao, một mặt, để thay thế cho những
lao động đã mất; mặt khác , để bổ sung, nâng cao và đáp ứng nguồn nhân lực
cho yêu cầu mở rộng và phát triển sản xuất (mở rộng các khu vực sản xuất,
chuyển dịch cơ cấu, hiện đại hóa, cơng nghiệp hóa …). Chất lượng nguồn nhân
lực được đặc trưng bởi trình độ được đào tạo (tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, kỹ thuật,
năng lực công nghiệp,…). Tất cả đều do giáo dục quyết định. Vì vậy, phát triển
nguồn nhân lực có chất lượng tốt là tạo động lực cho sự phát triển kinh tế.Giáo
dục đã trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến các nguồn lực cần thiết cho xã hội,
làm cho xã hội ngày càng phát triển. Thơng qua các q trình giáo dục và
dạyhọc, bằng nhiều hình thức khác nhau; giáo dục đã: Đào tạo ra những con
người mới, là những người có trình độ văn hóa, am hiểu về khoa học kỹ thuật –
khoa học cơng nghệ; có khả năng vận dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật –
cơng nghệ vào q trình sản xuất lao động. Nhờ vậy làm tăng năng suất lao động
xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, tạo động lực cho xã hội phát triển.
Giáo dục tái sản xuất sức lao động xã hội, tạo ra nguồn nhân lực mới để

thaythế những sức lao động cũ bị mất đi do ốm đau, bệnh tật, tuổi già, tai nạn …
Hiện nay hầu như các nước trên thế giới đều ý thức được tầm quan trọng,
vai trò của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế. Vì thế các nước trên thế giới
đều coi trọng giáo dục, ưu tiên cho giáo dục, đầu tư cho giáo dục , xây dựng hệ
12


thống giáo dục hoàn thiện đáp ứng nhu cầu xã hội.Như: tăng ngân sách cho giáo
dục, trang bị thiết bị giáo dục cho các trường …. Hầu như nước nào quan tâm
đến giáo dục thì nước đó đều có sự phát triển mạnh về kinh tế, điển hình như
Nhật Bản, Singapore. Đầu tư giáo dục là đầu tư cho tương lai, vì thế khơng
những là các nước trên thế giới mà Việt Nam chúng ta cũng đang đầu tư rất lớn
cho giáo dục. Đã chú trọng đến những chính sách phù hợp để nâng cao tay nghề,
nghiệp vụ cho người lao động như:Đưa người sang các nước bạn để học hỏi
những kiến thức, kinh nghiệm của các nước khác; mở các lớp chuyên tu, tại
chức, cao học, ….Giáo dục đã trở thành một yếu tố quan trọng trong việc tạo ra
sự phát triển cho các nền kinh tế. Vì thế muốn phát triển kinh tế thì trước hết
phải tập trung mọi nỗ lực để phát triển giáo dục, dựa vào giáo dục và lấy giáo
dục làm động lực.
Hai là,chức năng chính trị - xã hội.Sự phát triển xã hội cũng được thể hiện
ở sự ổn định của hệ thống chính trị của mỗi quốc gia. Giáo dục góp phần đắc lực
và làm ổn định hệ thống chính trị thơng qua việc thực hiện chức năng tuyên
truyền; làm cho những đường lối, chính sách,chiến lược, hệ thống luật pháp của
nhà nước… đến được với mọi tầng lớp của nhân dân; làm thay đổi ý thức, hình
thành niềm tin lý tưởng… Đó là điều kiện cơ bản để tạo ra sức mạnh tinh thần to
lớn đảm bảo cho sự thành công của sự nghiệp cách mạng của giai cấp.Giáo dục
đã đào tạo ra những con người trung thành với giai cấp, đáp ứng yêu cầu của
cuộc cách mạng, có đủ khả năng để thực hiện thành cơng sự nghiệp chính trị của
giai cấp; góp phần khẳng định củng cố địa vị chính trị của giai cấp. Giáo dục
trong bất kỳ xã hội nào cũng phục vụ đắc lực cho chính trị, khơng thể có một

nền giáo dục nào thốt ly chính trị, phi chính trị.
Giáo dục đã mở rộng các cơ hội để cho mọi thành phần dân cư, không
phân biệt đều được tiếp nhận giáo dục một cách bình đẳng và dân chủ để phát
triển; làm thay đổi vị trí xã hội của mỗi cá nhân và cộng đồng. Giáo dục vừa là
mục tiêu, vừa là phương tiện hữu hiệu cho các cuộc cách mạng xã hội trên phạm
13


vi toàn nhân loại cũng như ở mỗi quốc gia. Ở nước ta, Đảng cộng sản Việt Nam
lãnh đạo nhà nước, đại diện cho quyền lực“ của dân, do dân, vì dân” trên nền
tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đang quyết tâm xây
dựng đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Giáo dục phải phục vụ cho mục đích chính trị tốt đẹp và tư tưởng cao q
đó bằng tồn bộ hoạt động của mình thể hiện từ quan điểm,mục đích, nội dung,
phương pháp....sao cho các chủ trương, đường lối chính trị của đảng, pháp luật
của nhà nước, tư tưởng Hồ Chí Minh thấm nhuần sâu sắc vào mọi tầng lớp nhân
dân để biến thành hành động thực tiễn nhằm đưa đất nước phát triển nhanh,
mạnh, vững chắc.
2.2.2 Vai trò của giáo dục và đào tạo trong đời sống xã hội Việt Nam
hiện nay
Ngày nay, trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, tỷ
lệ lao động cơ bắp ngày một giảm, lao động trí tuệ ngày càng gia tăng, lợi thế so
sánh dựa trên số lượng lao động và giá nhân công rẻ cũng ngày một giảm và
đang chuyển dần về phía những quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao.
Do đó, chất lượng nguồn nhân lực đang trở thành yếu tố quyết định nhất
đối với phát triển nhanh và bền vững của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, Đảng ta
cũng nhất quán quan điểm khẳng định: “Nguồn lực con người là q báu, có vai
trị quyết định, đặc biệt đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật
chất còn hạn hẹp”.
Tuy nhiên, để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, đáp ứng địi hỏi

ngày càng cao của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta phải cần
đến một hệ thống giải pháp đồng bộ về giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe,
nâng cao chất lượng dân số, cải thiện môi trường sống, tạo việc làm, tổ chức
khai thác lực lượng lao động, phát triển văn hóa tạo ra động lực kích thích tính
tích cực ở con người.

14


Không chỉ trong điều kiện hiện nay, mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác – Lênin lúc đương thời đã rất coi trọng vai trị của giáo dục,ln đặt giáo
dục, đào tạo ở vị trí trung tâm trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong tác phẩm “Bàn về chế độ hợp tác”, V.I. Lênin viết: “Sự thay đổi
căn bản đó là ở chỗ: trước đây chúng ta đã đặt và không thể không đặt trọng tâm
công tác của chúng ta vào cuộc đấu tranh chính trị, vào cách mạng, vào việc
giành lấy chính quyền… thì trọng tâm cơng tác của chúng ta hiện nay quả thật là
xốy vào hoạt động giáo dục”.
Người cũng giải thích rõ tại sao giáo dục, đào tạo lại có tầm quan trọng
đặc biệt như vậy. Đó là vì cơ sở vật chất duy nhất của chủ nghĩa xã hội chỉ có
thể là nền đại cơng nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nơng nghiệp và để có
được cơ sở đó, khơng có cách nào khác là nước Nga phải tiến hành điện khí hóa
tồn quốc.
Nhưng cơng việc điện khí hóa tồn quốc lại “khơng thể do những người
mù chữ mà thực hiện được, mà chỉ biết chữ thơi thì cũng khơng đủ. Cơng việc
tiến hành điện khí hóa tồn quốc chỉ có thể thực hiện trên cơ sở một nền học vấn
hiện đại, nền học vấn mà thiếu nó thì chủ nghĩa cộng sản vẫn chỉ là một nguyện
vọng mà thơi”.
Và để có được nền học vấn đó thì cũng chỉ có một cách duy nhất là tập
trung vào phát triển giáo dục, đào tạo. Từ những chỉ dẫn của các nhà kinh điển
và yêu cầu của thực tiễn, Đảng ta đã coi giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu.

Bởi lẽ, “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền
văn hóa và con người Việt Nam”.
Đồng thời, Đảng xác định ba mục tiêu mà sự nghiệp giáo dục, đào tạo
phải đạt tới là nâng cao dân trí, phát triển nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, trong
đó phát triển nhân lực là mục tiêu có ý nghĩa quan trọng và được ưu tiên hơn.
15


Nói đến nguồn nhân lực là nói đến tổng thể các yếu tố thể lực, trí lực, kỹ
năng lao động, thái độ và phong cách làm việc, kinh nghiệm sống, đạo đức, lý
tưởng, chất lượng văn hóa, năng lực chuyên mơn, tính năng động trong cơng
việc mà bản thân con người và xã hội có thể huy động vào cuộc sống lao động
sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ của xã hội.
Phát triển nguồn nhân lực có thể hiểu là tổng thể các hình thức, phương
pháp, chính sách và biện pháp nhằm tạo ra sự tăng trưởng về số lượng và chất
lượng nguồn nhân lực; đồng thời, nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng để nguồn
lực này đáp ứng ngày càng tốt hơn sự phát triển bền vững của đất nước.
Từ nội dung của phát triển nguồn nhân lực như vậy, chúng ta có thể thấy
vai trị của giáo dục, đào tạo đối với phát triển nguồn nhân lực thực chất là làm
gia tăng về chất lượng của nguồn nhân lực và đảm bảo cơ cấu về số lượng lao
động một cách hợp lý trong từng ngành, lĩnh vực.
Từ những vai trò nêu trên, giáo dục cần phải được coi trọng và đầu tư hơn
nữa, vì mục tiên phát triển bền vững, sánh vai với các cường quốc trên thế giới.
Chương 3 : Phương hướng phát triển nền giáo dục và đào tạo Việt
Nam trong thời gian tới.
3.1 Thực trạng việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
trong thời gian qua
Giáo dục và đào tạo (GDĐT) luôn được coi là quốc sách hàng đầu, là sự
nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát

triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế –
xã hội. Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT, đáp ứng
u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã nêu rõ mục tiêu: “Tạo chuyển
biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày
càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân
dân.
16


Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất
tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu
đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Xây dựng nền giáo dục mở, thực học,
thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp
lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng;
chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống
giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc.
Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu
vực”.
Sau khi Nghị quyết số 29-NQ/TW ra đời, mặc dù trong bối cảnh đất nước
cịn nhiều khó khăn và nguồn lực còn hạn hẹp, song với sự quan tâm của Đảng,
Nhà nước, sự nỗ lực của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục (CBQLGD),
sự nghiệp GDĐT nước ta đã có những chuyển biến căn bản về chất lượng và
hiệu quả, được các tổ chức giáo dục thế giới ghi nhận, đánh giá cao. Cụ thể:
Thứ nhất, hệ thống cơ chế, chính sách về GDĐT tiếp tục được chú trọng
hoàn thiện nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập, giải quyết những “nút thắt”
trong hoạt động đổi mới giáo dục, tạo hành lang pháp lý để các địa phương, các
cơ sở GDĐT thực hiện. Bộ GDĐT đã trình và được Quốc hội thơng qua hai luật
quan trọng, đó là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học
năm 2018 và Luật Giáo dục năm 2019.

Chất lượng giáo dục phổ thông được nâng lên, được quốc tế ghi nhận và
đánh giá cao. Theo báo cáo “Tăng trưởng thông minh hơn: Học tập và Phát triển
cơng bằng ở Đơng Á – Thái Bình Dương” năm 2018 của Ngân hàng Thế giới đã
khẳng định 7 trong số 10 hệ thống giáo dục đổi mới hàng đầu của thế giới nằm ở
khu vực Đông Á – Thái Bình Dương, trong đó sự phát triển thực sự ấn tượng là
ở hệ thống giáo dục của Việt Nam và Trung Quốc. Báo cáo Phát triển 2018 của
Ngân hàng Thế giới “Learning to realize education’s promise” tái khẳng định
đánh giá trong nhiều nghiên cứu là năng lực học sinh lứa tuổi 15 nước ta – một
17


nước thu nhập trung bình thấp, có kết quả vượt mức trung bình của học sinh các
nước khối OECD1.
Việc triển khai chương trình, sách giáo khoa mới được tích cực thực hiện;
thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học, đổi mới kiểm tra,
đánh giá học sinh theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực. Công tác giáo
dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh có bước chuyển biến.
Đến nay, Bộ GDĐT đã hồn thành và ban hành Chương trình giáo dục
phổ thơng tổng thể, tổ chức thực nghiệm chương trình mơn học trong chương
trình giáo dục phổ thơng mới. Chương trình phổ thông mới thay đổi căn bản
cách tiếp cận từ “theo nội dung” sang theo hướng “phát triển năng lực và phẩm
chất”, dạy học “tích hợp” ở cấp dưới, dạy “phân hóa” ở cấp trên, tăng cường các
mơn tự chọn. Mặc dù chương trình chưa áp dụng chính thức, nhưng các yếu tố
về phương pháp giáo dục, dạy học và kiểm tra đánh giá đã được áp dụng từng
phần ở các bậc học.
Chất lượng giáo dục đại học (GDĐH) ngày càng được quan tâm, văn hóa
chất lượng từng bước được hình thành trong các cơ sở GDĐH. Một số trường
đại học đã triển khai đào tạo hiệu quả nguồn nhân lực theo các chương trình tiên
tiến được chuyển giao từ các nước phát triển; đẩy mạnh việc triển khai thực hiện
hỗ trợ khởi nghiệp đối với sinh viên. Những năm qua, chất lượng GDĐH từng

bước được thế giới công nhận thông qua kiểm định chất lượng và xếp hạng đại
học tạo tiền đề để Bộ GDĐT đề xuất nâng chuẩn trình độ đào tạo cho giáo viên
trong sửa đổi Luật Giáo dục.
Bên cạnh đó, Bộ GDĐT cũng đã trình Thủ tướng Chính phủ Đề án nâng
cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở GDĐH và các trường
cao đẳng sư phạm đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT giai đoạn
2018 – 2030. Xây dựng khung năng lực giáo viên phổ thông các môn học đặc
thù; xây dựng chuẩn nghề nghiệp giảng viên sư phạm; xây dựng cơ chế phối hợp
giữa các cơ quan quản lý với trường sư phạm và trường phổ thông trong bồi
18


dưỡng nhà giáo, CBQLGD. Đồng thời, rà soát mạng lưới, quy mô, phương thức
đào tạo của các cơ sở đào tạo giáo viên; triển khai Chương trình phát triển các
trường sư phạm để nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý cơ sở
giáo dục phổ thông (ETEP); khảo sát nhu cầu sử dụng giáo viên của địa phương
làm căn cứ xác định chỉ tiêu đào tạo giáo viên, nâng cao chất lượng đầu ra sư
phạm.
Khung năng lực giáo viên ngoại ngữ, bộ tiêu chí đánh giá các đơn vị tổ
chức bồi dưỡng giáo viên ngoại ngữ, các hệ thống trực tuyến bồi dưỡng giáo
viên về năng lực ngoại ngữ và năng lực sư phạm đã được hoàn thành; số lượng
giáo viên đạt yêu cầu về năng lực ngoại ngữ của các cấp học được nâng lên.
Thứ ba, ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong công tác quản lý, chỉ
đạo, điều hành và trong dạy học ngày càng được đẩy mạnh. Cơ sở dữ liệu của
các cấp học đã được thống kê; dữ liệu về đội ngũ nhà giáo và CBQLGD được
đưa vào sử dụng làm cơ sở cho cơ quan quản lý ra các quyết định về chính sách
hiệu quả, khắc phục tối đa những bất cập hiện nay như thừa, thiếu giáo viên,
nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, chính sách cho nhà giáo. Kiểm định
chất lượng giáo dục được triển khai tích cực, hiệu quả, đánh giá đúng chất lượng
đào tạo của các cơ sở giáo dục. Kết quả kiểm định chất lượng làm căn cứ để xác

định chất lượng GDĐH, vị thế và uy tín của cơ sở GDĐH.
Thứ tư, hợp tác quốc tế được đẩy mạnh, nhiều thỏa thuận, biên bản ghi
nhớ được ký kết. Nhiều cơ sở GDĐT đã chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
thơng qua các chương trình liên kết đào tạo với nước ngồi và các chương trình
trao đổi sinh viên, giảng viên, hợp tác nghiên cứu.
Cơng tác thanh tra được đẩy mạnh, góp phần phịng ngừa, phát hiện
những sai phạm, hạn chế, thiếu sót trong quản lý và kịp thời kiến nghị xử lý vi
phạm, đề xuất các biện pháp khắc phục, góp phần chấn chỉnh, duy trì kỷ cương,
nền nếp trong hoạt động giáo dục…
19



×