Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tiểu luận quản lý xã hội về giáo dục đào tạo sự lãnh đạo của đảng đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.68 KB, 33 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................1
NỘI DUNG....................................................................................................4
CHƯƠNG I. SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỐI VỚI LĨNH VỰC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY................................................................................................................4
1.1. Khái niệm giáo dục.................................................................................4
1.2. Quan điểm coi giáo dục là quốc sách hàng đầu của Đảng..................4
1.2. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác giáo dục đào tạo trong văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII................................................10
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY........................................................................................18
2.1. Một số thành tựu..................................................................................18
2.2. Một số hạn chế......................................................................................22
2.3. Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng yếu kém.................................24
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÁT TRIỂN CÔNG
TÁC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG HIỆN NAY............................................................................25
KẾT LUẬN..................................................................................................27
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................28


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang trong tiến trình đổi mới, phát triển và hội nhập,
khơng những cần đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ mơi
trường mà cịn phải quan tâm đến đổi mới giáo dục- đào tạo, hướng đến mục
tiêu phát triển bền vững năm 2030 của Việt Nam là “Đảm bảo nền giáo dục
có chất lượng, cơng bằng, tồn diện và thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời
cho tất cả mọi người.”
Giáo dục vì sự phát triển bền vững hướng tới các kiến thức, kỹ năng,


giá trị và năng lực hành động để thực hiện các mục tiêu quốc gia theo các trụ
cột của phát triển bền vững. Xuyên suốt nhiều kỳ Đại hội Đảng cũng như
nhiều Hội nghị Trung ương, quan điểm giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu không thay đổi. Vấn đề giáo dục - đào tạo luôn được Đảng ta coi là
quốc sách hàng đầu để phát triển đất nước. Kế thừa tinh thần của các kỳ đại
hội trước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng rất quan tâm đến
vấn đề phát triển giáo dục - đào tạo, nhấn mạnh vai trò của giáo dục - đào
tạo và có những điểm mới nổi bật, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Nhằm mục đích nghiên cứu, tìm hiểu về sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở nước ta trên cơ sở thực
tiễn giáo dục và đào tạo ở Viêtn Nam, sinh viên xin lựa chọn đề tài: “Sự
lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện
nay” làm đề tài nghiên cứu kết thúc môn học của mình.

1


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về giáo dục đào tạo, quá trình
nhận thức và quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về giáo dục và đào
tạo, phân tích thực trạng giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay từ đó đề
xuất một số giải pháp tăng cường phát triển giáo dục và đào tạo ở nước ta
hiện nay dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Sinh viên tiến hành khái quát quan điểm lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam về giáo dục và đào tạo.
- Phân tích thực trạng giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay
- Đề xuất một số giải pháp tăng cường phát triển giáo dục và đào tạo ở
nước ta hiện nay dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực
giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay.

2


3.2. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu quá trình nhận thức và quan
điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về giáo dục và đào tạo từ Đại hội VI
đến Đại hội XIII.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu và đánh giá quá trình nhận thức và quan
điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về giáo dục và đào tạo, đồng thời có kế
thừa một số kết quả nghiên cứu có giá trị cúa các cơng trình khoa học khác
liên quan.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử với các
phương pháp lơ-gíc và lịch sử, phân tích và tơng hợp, quy nạp và diễn dịch,
thống kê và so sánh, trừu tượng và cụ thể và một số phương pháp khác.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận
được kết cấu gồm 3 chương, 6 tiết.

3


NỘI DUNG

CHƯƠNG I. SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI
LĨNH VỰC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Khái niệm giáo dục
Giáo dục (tiếng Anh: education) theo nghĩa chung là hình thức học tập
theo đó kiến thức, kỹ năng, và thói quen của một nhóm người được trao
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo, hay
nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác,
nhưng cũng có thể thơng qua tự học. Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng
đáng kể lên cách mà người ta suy nghĩ, cảm nhận, hay hành động đều có thể
được xem là có tính giáo dục. Giáo dục thường được chia thành các giai
đoạn như giáo dục tuổi ấu thơ, giáo dục tiểu học, giáo dục trung học, và giáo
dục đại học.
Chính sách giáo dục: Là các chính sách do Đảng đặt ra nhằm điều
chỉnh lĩnh vực giáo dục và thực hiện những mục tiêu yêu cầu của giáo dục.
1.2. Quan điểm coi giáo dục là quốc sách hàng đầu của Đảng
Không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia khác trên thế giới
đều coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, cho nên ở Hội nghị Trung ương
Đảng lần thứ hai khóa VIII (tháng 12 năm 1996), Đảng ta đã khẳng định:
“Thực sự coi giáo dục - đào tạo, là quốc sách hàng đầu”. Mặc dù kinh tế đất
nước cịn nhiều khó khăn, song chúng ta vẫn quyết tâm thực hiện tốt quan
điểm chỉ đạo trên. Giáo dục Việt Nam những năm gần đây đã có sự khởi sắc
nhất định. Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế, cần tăng cường hơn nữa sự lãnh

4


đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, để xã hội hóa giáo dục, làm cho giáo
dục trở thành “ quốc sách hàng đầu” một cách đúng nghĩa và toàn vẹn nhất.
Trong thời đại hiện nay, khi khoa học và công nghệ đang phát triển
như vũ bão, tri thức đã trở thành thước đo sự phát triển và dự báo tương lai

cho mỗi quốc gia. Đối với một dân tộc có truyền thống hiếu học như Việt
Nam thì đây vừa là cơ hội giúp chúng ta nâng cao vị thế quốc gia, lại vừa là
thách thức lớn đối với vận mệnh tồn dân tộc.
Với tầm nhìn chiến lược sắc bén, ngay từ Hội nghị Trung ương Đảng
lần thứ hai khóa VIII (tháng 12 năm 1996), Đảng ta đã khẳng định: “Thực
sự coi giáo dục - đào tạo, là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc giáo
dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tǎng
trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư
phát triển. Thực hiện các chính sách ưu tiên ưu đãi đối với giáo dục - đào
tạo, đặc biệt là chính sách đầu tư và chính sách tiền lương. Có các giải
pháp mạnh mẽ để phát triển giáo dục”. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát
triển, giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân,
mục tiêu của giáo dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài, phát triển giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và củng cố
quốc phòng - an ninh.
Quốc sách hàng đầu: Là những chính sách trọng tâm có vai trị chính
yếu của đất nước, ln dành được sự ưu tiên hàng đầu, quan tâm đặc biệt
của Đảng, của nhà nước, được thể hiện qua một loạt các chính sách, các biện
pháp, phạm vi thực hiện và nguồn ngân sách chi cho chính sách đó.

5


Không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia khác trên thế giới
đều coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, bởi vì:
- Giáo dục đào tạo là điều kiện tiên quyết góp phần phát triển kinh tế.
Như chúng ta đã biết, để tăng trưởng kinh tế, chúng ta cần 5 yếu tố cơ
bản đó là: Vốn, khoa học và công nghệ, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế
chính trị và quản lý nhà nước. Trong đó yếu tố con người là quan trọng nhất.
Để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của quá trình tăng

trưởng kinh tế, ta phải phát triển giáo dục và đào tạo.
- Giáo dục đào tạo góp phần ổn định chính trị xã hội.
- Giáo dục đào tạo góp phần nâng cao chỉ số phát triển con người.
Chỉ số phát triển con người (Human Development Index- HDI) là một
trong những chỉ tiêu kinh tế- xã hội tổng hợp, là thước đo trình độ phát triển
của một quốc gia, được dùng làm căn cứ để đánh giá, so sánh trình độ phát
triển với các quốc gia khác.
HDI được đánh giá qua 3 tiêu chí: Sức khỏe (đo bằng tuổi thọ trung
bình); giáo dục (đo bằng tỉ lệ số người lớn biết chữ và tỉ lệ nhập học các cấp
giáo dục) và thu nhập (mức sống đo bằng GDP bình quân đầu người).
Trong ba chỉ số thành phần của HDI, chỉ số giáo dục phản ánh năng
lực phát triển con người về mặt trí lực, nền tảng để con người có khả năng
tiếp cận được cơ hội việc làm có thu nhập tốt hơn, từ đó có thể thoả mãn
6


những nhu cầu cơ bản của con người. Như vậy rõ ràng, giáo dục là chỉ số cơ
bản và tiên quyết giúp con người đạt được các chỉ số còn lại, tiến tới nâng
cao chỉ số phát triển con người
Từ 3 lý do đó, ta thấy rõ ràng tầm ảnh hưởng trực tiếp của giáo dục tới
kinh tế và chính trị- 2 lĩnh vực trọng tâm và then chốt của quá trình phát
triển đất nước trong giai đoạn hiện nay. Từ đó càng khẳng định sự đúng đắn
trong quan điểm chỉ đạo của Đảng ta.
Quan điểm chỉ đạo: “giáo dục là quốc sách hàng đầu” của Đảng ta
được thể hiện qua hai nội dung cơ bản, một là chính sách về giáo dục qua
các kì Đại hội và hai là nguồn chi ngân sách nhà nước cho giáo dục.
Trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã ln khẳng
định giáo dục và đào tạo đóng vai trị then chốt, là những chính sách trọng
tâm, có vai trị chính yếu của Nhà nước, được ưu tiên trước nhất, thậm chí đi
trước một bước so với các chính sách phát triển kinh tế - xã hội khác. Ngay

từ khi mới thành lập, Đảng ta đã có nhiều quan điểm chỉ đạo về phát triển
giáo dục và đào tạo. Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng
Chính phủ, chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày với các Bộ trưởng 6 nhiệm vụ
cấp bách của đất nước lúc bấy giờ, trong đó có nhiệm vụ về giáo dục: Diệt
giặc dốt.
Nghị Quyết Trung ương Đảng lần thứ 3, khoá VII năm 1993 khẳng
định: “Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu;
đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”.

7


Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 2, khoá VIII, năm 1996 khẳng
định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”.
Quan điểm này tiếp tục được khẳng định thông qua các chủ trương
phát triển và giải pháp cải thiện giáo dục trong các văn kiện của Đảng Công
sản Việt Nam sau này.
Tại đại hội Đảng lần VIII, Đảng ta đưa ra mục tiêu: “Nâng cao mặt
bằng dân trí, bảo đảm những tri thức cần thiết để mọi người gia nhập cuộc
sống xã hội và kinh tế theo kịp tiến trình đổi mới và phát triển đất nước. Đào
tạo bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá... Phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng
nhân tài, chú trọng các lĩnh vực khoa học và cơng nghệ, văn hố - nghệ
thuật, quản lý kinh tế, xã hội và quản trị sản xuất kinh doanh”
Để đạt được mục tiêu đề ra, về cơ bản, chúng ta cần thực hiện:
Thanh toán nạn mù chữ cho những người lao động ở độ tuổi 15 - 35
và thu hẹp diện mù chữ ở các độ tuổi khác. Tích cực xoá mù chữ cho nhân
dân ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa và những vùng cịn khó khăn.
Mở rộng và nâng cao chất lượng dạy ngoại ngữ, tin học từ cấp phổ
thông. Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, trang bị đủ kiến thức

cần thiết đi đôi với tạo ra năng lực tự học, sáng tạo của học sinh, khắc phục
tình trạng phải dạy thêm quá nhiều ngồi giờ học chính khố.

8


Cụ thể hố và thể chế hố chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước về xã hội hoá sự nghiệp giáo dục đào tạo, trước hết là về đầu tư phát
triển và bảo đảm kinh phí hoạt động. Ngồi việc ngân sách dành một tỷ lệ
thích đáng cho sự nghiệp phát triển giáo dục đào tạo, cần thu hút thêm các
nguồn đầu tư từ các cộng đồng, các thành phần kinh tế, các giới kinh doanh
trong và ngoài nước đi đơi với việc sử dụng có hiệu quả nguồn đầu tư cho
giáo dục đào tạo. Những doanh nghiệp sử dụng người lao động được đào tạo
có nghĩa vụ đóng góp vào ngân sách giáo dục, đào tạo. Đổi mới chế độ học
phí phù hợp với sự phân tầng thu nhập trong xã hội, loại bỏ những đóng góp
khơng hợp lý, nhằm bảo đảm tốt hơn kinh phí giáo dục, đồng thời cải thiện
điều kiện học tập cho học sinh nghèo.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định
quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng đầu” thông qua 1 loạt các chủ trương
cụ thể như:
Nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên các cấp.
Xây dựng hoàn chỉnh, phát triển các trường đại học và cao đẳng theo
mạng lưới hợp lý để hình thành một số trường đại học có chất lượng đào tạo
ngang tầm với những trường đại học có chất lượng cao trong khu vực.
Số học sinh tuyển mới vào đại học và cao đẳng tăng 5%/năm. Đặc biệt
chú trọng đào tạo chất lượng cao một số ngành công nghệ, kinh tế và quản lý
nhà nước để đáp ứng nhu cầu nhân lực và nhân tài của đất nước.

9



Tiếp tục đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy và
phương thức đào tạo đội ngũ lao động có chất lượng cao, đặc biệt là trong
các ngành kinh tế, kỹ thuật mũi nhọn, công nghệ cao. Gắn việc hình thành
các khu cơng nghiệp, khu cơng nghệ cao với hệ thống các trường đào tạo
nghề. Phát triển nhanh và phân bố hợp lý hệ thống trường dạy nghề trên địa
bàn cả nước; mở rộng các hình thức đào tạo nghề đa dạng, linh hoạt, năng
động.
Đổi mới cơ bản công tác quản lý và tổ chức giáo dục; xây dựng hệ
thống giáo dục nhằm tạo điều kiện cho mọi người có thể học tập suốt đời
theo hướng thiết thực, hiện đại, gắn chặt với yêu cầu của xã hội. Hoàn thiện
cơ chế, chính sách và luật pháp để bảo đảm sự nghiệp giáo dục phát triển ổn
định, chất lượng, hiệu quả đáp ứng nhu cầu về con người và nguồn nhân lực
cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Ngăn chặn và đẩy lùi những
hiện tượng tiêu cực trong ngành giáo dục, xây dựng một nền giáo dục lành
mạnh.
Nhà nước dành tỷ lệ ngân sách thích đáng, kết hợp đẩy mạnh xã hội
hoá phát triển giáo dục và đào tạo. Huy động và sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn lực cho giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về phát triển
giáo dục và đào tạo. Chủ động dành một lượng kinh phí thích đáng của ngân
sách để tăng nhanh số học sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh được đào tạo ở
một số nước phát triển.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định: Giáo dục và
đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng
và động lực thúc đẩy cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
10


Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ
chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện "chuẩn hoá, hiện

đại hoá, xã hội hoá", chấn hưng nền giáo dục Việt Nam.
Chuyển dần mơ hình giáo dục hiện nay sang mơ hình giáo dục mở mơ hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên
thông giữa các bậc học, ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập
cho mọi người và những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu
cầu học tập thường xuyên; tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người
học, bảo đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định rõ: “Giáo dục và đào tạo có sứ
mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp
phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người
Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học là
quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển”.
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát
triển xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá, dân
chủ hoá và hội nhập quốc tế. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc
biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi; đội ngũ cán bộ khoa học, cơng
nghệ, văn hố đầu đàn; đội ngũ doanh nhân và lao động lành nghề. Tiếp tục
đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo trên tinh thần tăng cường tính tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục, đào tạo.

11


Nội dung thứ 2 thể hiện quan điểm này là nguồn ngân sách chi cho
giáo dục đào tạo. Giáo dục là quốc sách hàng đầu, nên giáo dục luôn được
ưu tiên đi trước một bước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội… Nhà nước ta đã chi một ngân khoản không nhỏ cho giáo dục, bình
quân khoảng 10% đến 20% ngân sách, thuộc diện lớn nhất thế giới. Và con
số này không ngừng tăng qua các năm.
Tuy nhiên, do ngân sách còn hạn hẹp nên mặc dù phần trăm (%) đầu

tư cho giáo dục rất cao, nhưng số tiền chi cho giáo dục thực chất cịn rất ít,
mức chi bình qn cho một học sinh, sinh viên còn rất thấp so với các nước
trong khu vực và thế giới. Mặc dù vậy, cũng đã thấy được sự nỗ lực, cố gắng
của Đảng và Nhà nước ta trong việc đầu tư cho giáo dục, minh chứng cụ thể
cho quan điểm chỉ đạo: “giáo dục là quốc sách hàng đầu” của Đảng ta.
1.2. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác giáo dục đào tạo
trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII
Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng xác định: “Phát
triển toàn diện con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội”. Điều này thể hiện nhận thức ngày
càng sâu sắc hơn của Đảng ta về vai trò, vị trí và ý nghĩa quan trọng của việc
chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện, cân bằng giữa cuộc sống vật chất và tinh thần, hài hòa giữa các
nhu cầu kinh tế và đời sống đạo đức, văn hóa; là giải pháp quan trọng để
phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp của con người Việt Nam, xây dựng đất nước
phồn vinh, hạnh phúc, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm
2045.

12


Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có con người xã hội chủ nghĩa”. Mục tiêu
duy nhất, cao cả nhất của Người là đấu tranh giải phóng dân tộc, đem lại
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho con người. Vì vậy, trong quá trình
hoạt động cách mạng và trên cương vị là người đứng đầu Nhà nước, Người
ln u cầu Đảng, Chính phủ phải phục vụ Nhân dân, việc gì có lợi cho
Nhân dân thì phải làm, việc gì có hại cho Nhân dân thì phải tránh.
Trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới xã
hội chủ nghĩa, kế thừa nội dung về xây dựng con người ở những kỳ Đại hội

trước, Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng không chỉ đặt ra vấn đề “đúc
kết, xây dựng hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị con người Việt Nam”, mà còn
nhấn mạnh, làm rõ hơn yêu cầu: “Xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị
văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia
đình Việt Nam trong thời kỳ mới”. Trong giai đoạn đất nước ngày càng phát
triển, hội nhập ngày càng sâu rộng vào các tiến trình của thế giới, việc chăm
lo, giáo dục, bồi dưỡng phát triển con người sẽ đánh thức, khơi dậy thế
mạnh đang còn ở dạng tiềm năng, chưa được phát huy ở mỗi con người vào
các hoạt động kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội khác nhau.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, đặc biệt ở thời kỳ
trị vì đất nước của các triều đại phong kiến, tư tưởng về chăm lo, giáo dục,
bồi dưỡng phát triển con người luôn được chú trọng quan tâm để tạo sự đoàn
kết, ổn định, phát triển đi lên trong toàn xã hội. Thời nhà Trần đã để lại
những quan điểm, tư tưởng bất hủ cho hậu thế, với câu nói nổi tiếng của
Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn: “Thời bình, phải khoan thư sức dân để
làm kế sâu rễ bền gốc. Đó là thượng sách giữ nước”; thời nhà Lê với những
13


quan điểm, tư tưởng hết sức sâu sắc về chăm lo, bồi dưỡng sức dân của Anh
hùng dân tộc Nguyễn Trãi: “Khắp thơn cùng xóm vắng khơng một tiếng hờn
giận ốn sầu, bởi vì đó là cái gốc của lễ nhạc”, và “Đẩy thuyền cũng là dân,
lật thuyền cũng là dân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho tồn Đảng, toàn dân và toàn quân
ta di sản lý luận, thực tiễn đồ sộ về vai trò của quần chúng nhân dân trong
lịch sử, Người chỉ rõ: “Trong bầu trời khơng có gì q bằng nhân dân,
trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân dân. Khi
sức dân được huy động, được tổ chức, được tập hợp dưới sự lãnh đạo của
Ðảng thì thành vơ địch” … Những quan điểm, tư tưởng trên không đề cập
trực tiếp đến việc chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng phát triển con người, nhưng

thông qua việc bồi dưỡng “sức dân”, khẳng định vị trí, vai trị của Nhân dân
trong tiến trình lịch sử đã cho thấy từ các vương triều phong kiến đến thời
đại Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng phát
triển con người toàn diện, nhất là những người “vừa hồng”, “vừa chuyên”,
phục vụ cho sự nghiệp dựng xây và kiến thiết đất nước.
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn nhận thức đầy đủ và sâu sắc
về tầm quan trọng của nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc; luôn quan tâm tạo điều kiện phát huy sức mạnh con người vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng ta xác
định: con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển, xây dựng
và phát huy nhân tố con người, đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Chính những quan điểm, chính
sách hợp lý, đúng đắn đó đã đáp ứng được nhiệm vụ của từng thời kỳ cách
mạng đem lại những thắng lợi vẻ vang cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng
14


giải phóng dân tộc. Nhấn mạnh đến yếu tố con người và coi con người là
chủ thể của mọi hoạt động, sáng tạo, phát kiến thực hiện thắng lợi những
yêu cầu, nhiệm vụ mà đại hội đảng các cấp đã đề ra. Đó là xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
của đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Điều đó đã khẳng định, Đảng ta khơng chỉ quan tâm xây dựng chủ
trương, chính sách mà cịn bằng những hoạt động thực tiễn, có chiến lược,
kế hoạch chăm lo, bồi dưỡng phát triển con người cụ thể, sâu sắc để khơng
ngừng hịa nhập với nền kinh tế thế giới. Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ
XIII của Đảng nêu rõ: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển tồn diện,
có sức khỏe, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân,
gia đình, xã hội và Tổ quốc”.
Tiếp tục khẳng định vị trí, vai trị quan trọng của giáo dục và đào tạo,

yêu cầu phải “Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu
quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước”. Trước
đây chỉ đề cập phương hướng chung: “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Văn
kiện lần này yêu cầu xác định rõ mục tiêu của giáo dục và đào tạo trong giai
đoạn tới, nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển tồn diện, có sức
khoẻ, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia
đình, xã hội và Tổ quốc và “Chú trọng giáo dục phẩm chất, năng lực sáng
tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn
dân tộc, khơi dậy khát vọng phát triển, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Gắn
giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất,

15


nâng cao tầm vóc con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Nhấn mạnh, giáo dục và đào tạo thích ứng với Cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế, do vậy phải đẩy mạnh phát triển
nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Phát triển đội ngũ chuyên
gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực
số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp;
nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người. Trước
đây chỉ đề cập:“ chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo
nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức”, điểm mới lần này nhấn mạnh đổi
mới chế độ tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân tài trong quản lý, quản trị
nhà nước, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đặc biệt, chú ý phát
hiện, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút nhân tài cho phát triển kinh tế - xã hội.
Đồng thời, đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp theo hướng
mở, linh hoạt; bảo đảm thống nhất với chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện

giáo dục và đào tạo. Tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển
dịch nhanh cơ cấu lao động, nhất là ở nông thôn; giảm tỉ lệ lao động khu vực
phi chính thức. Hình thành đội ngũ lao động lành nghề, góp phần nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc gia, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng lao
động.
Cụ thể hóa u cầu hồn thiện hệ thống giáo dục quốc dân, sắp xếp lại
hệ thống trường học, phát triển hài hồ giữa giáo dục cơng lập và ngồi cơng
lập, giữa các vùng, miền, ưu tiên các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc
thiểu số, biên giới, hải đảo và các đối tượng chính sách. Đa dạng hóa các
loại hình đào tạo. Đặc biệt chú trọng giáo dục mầm non, tiểu học trong điều
16


kiện mới, tạo tiền đề và bảo đảm điều kiện thuận lợi, để mỗi người dân đều
được thụ hưởng một cách công bằng thành quả của nền giáo dục. Thúc đẩy
xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời. Củng cố và nâng cao chất lượng
phổ cập giáo dục.
Thực hiện cơ chế tự chủ đối với đào tạo bậc đại học phù hợp với xu
thế chung của thế giới. Có chính sách đột phá phát triển, nâng cao chất
lượng giáo dục đại học. “Có cơ chế hỗ trợ xây dựng một số trường đại học
lớn và đại học sư phạm trở thành những trung tâm đào tạo có uy tín trong
khu vực và thế giới”. Thúc đẩy phát triển các cơ sở giáo dục nghề nghiệp
chất lượng cao. Xây dựng các cơ chế, chính sách và giải pháp để đào tạo lại
lực lượng lao động phải chuyển đổi nghề nghiệp do quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và tác động của Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư.
Tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ phát triển giáo dục và đào tạo, như:
thực hiện phổ cập giáo dục mầm non và giáo dục tiểu học bắt buộc. Đưa vào
chương trình giáo dục phổ thơng nội dung kỹ năng số và ngoại ngữ tối thiểu,
chú trọng xây dựng nền tảng kỹ năng nhận thức và hành vi cho học sinh phổ

thông. Nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học ngoại ngữ, coi trọng dạy,
học và sử dụng tiếng Anh. Đẩy mạnh phân luồng sau trung học cơ sở; định
hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông. Giảm tỉ lệ mù chữ ở vùng đặc
biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số. Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về
chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo. Nghiên cứu để hoàn thiện, ổn định hệ
thống sách giáo khoa và chế độ thi cử ở các cấp học.

17


Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang
phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; từ học chủ yếu trên
lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý dạy và học trực tuyến, qua
Internet, truyền hình, các hoạt động xã hội, ngoại khoá, nghiên cứu khoa
học; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
”Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách
nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công
nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế”.
Thứ sáu, xây dựng và hồn thiện thể chế, chính sách phát triển giáo
dục Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, “Lấy
chất lượng và hiệu quả đầu ra làm thước đo. Xây dựng và triển khai thực
hiện lộ trình tiến tới miễn học phí đối với học sinh phổ thông, trước hết là
đối với học sinh tiểu học và trung học cơ sở”. Đồng thời, hoàn thiện cơ chế,
chính sách phát triển các cơ sở đào tạo ngồi cơng lập phù hợp với xu thế
của thế giới và điều kiện của Việt Nam trên cơ sở bảo đảm công bằng xã hội
và các giá trị cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhấn mạnh hơn u
cầu thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội trong giáo dục và đào tạo.
Tiếp tục thực hiện cơ chế tự chủ một số trường phổ thông tại các đơ thị lớn,
các nơi có điều kiện; thí điểm cơ chế cho thuê một số cơ sở giáo dục sẵn có
theo nguyên tắc bảo đảm tất cả học sinh được đến trường.

Tiếp tục hoàn thiện các khâu, các yếu tố của q trình đào tạo theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh đổi mới đồng
bộ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý và quản trị nghiệp
vụ chuyên môn trong giáo dục và đào tạo, từng bước thực hiện có hiệu quả
cơ chế tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục và đào
18


tạo. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kiên quyết khắc phục bệnh
thành tích, ngăn ngừa và xử lý nghiêm các tiêu cực trong giáo dục và đào
tạo. Hoàn thiện và thực hiện ổn định các phương thức đánh giá, kiểm định
chất lượng giáo dục và đào tạo, thi tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển
sinh vào các trường đại học, cao đẳng và đào tạo nghề. Xây dựng và thực
hiện có hiệu quả chiến lược hợp tác và hội nhập quốc tế về giáo dục và đào
tạo.
Đặt ra mục tiêu Việt Nam tham gia thị trường đào tạo nhân lực quốc
tế, vì vậy u cầu hồn thiện cơ chế, chính sách để đẩy mạnh và nâng cao
chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của các
cơ sở giáo dục và đào tạo. Gắn kết chặt chẽ giáo dục và đào tạo với nghiên
cứu, triển khai, ứng dụng các thành tựu khoa học và cơng nghệ mới; hình
thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc, các nhóm đổi mới sáng tạo mạnh.
Thực hiện đào tạo theo nhu cầu của thị trường lao động. Cùng với đề cao vị
trí, vai trị và trách nhiệm xã hội, cần đổi mới mạnh mẽ chính sách đãi ngộ,
chăm lo xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then
chốt, sắp xếp, đổi mới căn bản hệ thống các cơ sở đào tạo sư phạm, thực
hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách và giải pháp để cải thiện mức sống,
nâng cao trình độ và chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.
Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong
khu vực.


19



×