TIỂU LUẬN
MƠN: QUẢN LÍ XÃ HỘI VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Đề tài: Vấn đề hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo tại Việt Nam
hiện nay.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................4
Đối tượng, phạm vi và mục tiêu nghiên cứu.............................................................4
Mục tiêu nghiên cứu..................................................................................................4
Nhiệm vụ nghiên cứu................................................................................................4
Bố cục........................................................................................................................5
CHƯƠNG I PHẦN NỘI DUNG............................................................6
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ GIÁO DỤC
ĐÀO TẠO NƯỚC TA HIỆN NAY.......................................................6
1. Khái quát chung về hợp tác quốc tế......................................................................6
1.1 Khái niệm hợp tác quốc tế...................................................................................6
1.2 Hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo...............................................................6
3. Tầm quan trọng của hợp tác quốc tế đối với giáo dục đào tạo ở...........................9
Việt Nam...................................................................................................................9
4. Các loại hình liên kết đào tạo..............................................................................10
4.1. Liên kết đào tạo trong khuôn khổ đàm phán, hợp tác song phương ở cấp
nhà nước..................................................................................................................11
4.2. Liên kết đào tạo trong khuôn khổ tự chủ, kí kết giữa các cơ sở đào tạo của
Việt Nam với các cơ sở đào tạo của nước ngoài.....................................................11
4.3. Liên kết do người dân tìm kiếm địa chỉ và chi trả kinh phí đào tạo.................12
CHƯƠNG II: VẤN ĐỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY..........................................13
1.Thực trạng hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay...............13
2. Đánh giá chung hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay
.................................................................................................................................15
2.1 Những thành tựu ban đầu..................................................................................15
2.2 Những hạn chế, yếu kém...................................................................................17
3. Thách thức về vấn đề hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện
nay...........................................................................................................................18
CHƯƠNG III MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG NHẰM NÂNG
CAO QUAN HỆ QUỐC TẾ VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY.........................................................................20
KẾT LUẬN.............................................................................................................23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................24
LỜI NĨI ĐẦU
Trong thời đại Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư với tốc độ phát triển
mạnh mẽ của khoa học và công nghệ (KH&CN), thế hệ công dân trong tương
lai cần phải được trang bị những năng lực, kỹ năng mới để có thể thành cơng
trong mơi trường cạnh tranh tồn cầu. Giáo dục và đào tạo có vai trị nhằm giữ
gìn, phát triển và truyền bá văn minh nhân loại, có vai trị đặc biệt quan trọng
của mỗi quốc gia. Là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Là điều kiện phát huy nguồn lực con người.
Với xu hướng tồn cầu hóa phát triển mạnh mẽ như hiện nay, hợp tác
quốc tế là con đường tất yếu của mỗi quốc gia. Hội nhập quốc tế diễn ra trên
mọi phương diện, đặc biệt là vấn đề giáo dục và đào tạo. Giáo dục và đào tạo
được coi là quốc sách hàng đầu, vì vậy cần phải liên tục được trau dồi, học hỏi,
hợp tác giữa các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm đẩy mạnh hơn nữa
sự nghiệp giáo dục của đất nước.
Là một sinh viên khoa Nhà nước và Pháp luật, ý thức được tầm quan
trọng và sự cần thiết của việc tìm hiểu về vấn đề hợp tác quốc tế nên khi học
xong môn học “Quản lí xã hội về giáo dục và đào tạo”, em đã chọn đề tài "
Vấn đề hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo” làm đề tài tiểu luận. Việc làm
này khơng ngồi mục đích tìm hiểu thực tế về hợp tác quốc tế về giáo dục và
đào tạo ở nước ta hiện nay, đánh giá thực trạng và tìm hiểu nguyên nhân đồng
thời bước đầu đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hợp
tác quốc tế về lĩnh vực giáo dục và đào tạo tại Việt Nam.
Em xin cám ơn cô Huỳnh Thị Chuyên, giảng viên Khoa Nhà nước và
Pháp luật đã giảng dạy và hướng dẫn chúng em học tập để hoàn thành bài tiểu
luật một cách tốt nhất.
MỞ ĐẦU
Đối tượng, phạm vi và mục tiêu nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo tại Việt
Nam
Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Việt Nam và các nước quốc tế
Về thời gian: Hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo tại Việt Nam giai đoạn
hiện nay
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập và xử lý thông tin: Thu thập các tài liệu liên quan đến
đề tài qua quá trình tìm hiểu nội dung nghiên cứu, từ đó sàng lọc, xử lí những
tài liệu cần thiết và loại bỏ những thông tin không cần thiết nhằm đưa vào đề
tài những thông tin khách quan nhất.
Phương pháp hệ thống: Xác định các mối quan hệ, vai trị, vị trí, tầm quan
trọng của hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo tại Việt Nam . Phương pháp
này còn được dùng để đánh giá một cách toàn diện những ưu điểm, hạn chế
cũng như những nguyên nhân trong mối quan hệ quốc tế về giáo dục và đào
tạo.
Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp: Qua quá trình khảo sát, tìm
hiểu và thu thập các tài liệu, em tổng hợp và đánh giá tồn bộ q trình liên
quan đến vấn đề hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo tại Việt Nam.
Mục tiêu nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu mối quan hệ về giáo dục và đào tạo của Việt Nam và
trên thế giới.
Báo cáo chuyên đề chủ yếu sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, dựa
trên các tài liệu thu thập được.
Đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hợp tác quốc tế về giáo dục
và đào tạo tại Việt Nam giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để làm rõ mục tiêu nghiên cứu của đề tài, có rất nhiều nhiệm vụ được đặt ra
trong đó tập trung vào các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
Thứ nhất: Phân tích cơ sở lý luận về vấn đề hợp tác quốc tế về giáo dục và đào
tạo tại Việt Nam
Thứ hai: Khảo sát, đánh giá thực trạng hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo
Thứ ba: Đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng hợp tác quốc tế về
giáo dục và đào tạo tại Việt Nam.
Bố cục
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của tiểu luận được chia thành ba
chương, bao gồm:
Chương I: Cơ sở lý luận về vấn đề hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo tại
Việt Nam
Chương 2. Thực trạng vấn đề hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo tại Việt
Nam
Chương 3. Định hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hợp tác quốc
tế về giáo dục và đào tạo tại Việt Nam
CHƯƠNG I PHẦN NỘI DUNG
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Khái quát chung về hợp tác quốc tế
1.1 Khái niệm hợp tác quốc tế
"Hợp tác" có nghĩa là cùng nhau chung sức để phát triển một công việc,
một lĩnh vực nào đó với cùng một mục tiêu chung, cùng một lợi ích chung, cịn
"quốc tế" nghĩa là tồn thế giới liên kết với nhau. Vì vậy, chúng ta có thể kết
hợp lại “Hợp tác quốc tế” là hoạt động của các chủ sở hữu thể có quan hệ quốc
tế cùng giúp đỡ nhau vì một lợi ích chung, khơng chống phá và chiến tranh với
nhau,
Đặc điểm của quốc tế đặc biệt là phải có từ 2 chủ có thể trở lên và phải có
chủ có thể có quốc tế yếu tố. Tức là hai chủ thể đó phải là 2 nước khác nhau
chứ không phải cùng một quốc gia. Hợp tác quốc tế giúp cho các quốc gia
cùng phát triển, cùng đi lên và khơng có đất nước nào bị quay ngược trở lại.
Đó là ý nghĩa quan trọng nhất của quốc tế hợp tác. Hợp tác quốc tế hình thức
áp dụng trên rất nhiều phương diện từ kinh tế, xã hội đến văn hóa, giáo dục.
1.2 Hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo
Giáo dục và đào tạo được xem là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục
chính là đầu tư cho sự phát triển. Do vậy, bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới
dù lớn hay nhỏ, dù giàu hay nghèo, dù phát triển hay đang phát triển bao giờ
cũng quan tâm đến giáo dục và đào tạo. Đây là hoạt động xã hội rộng lớn có
liên quan trực tiếp đến lợi ích, nghĩa vụ và quyền lợi của con người, tổ chức
kinh tế trong xã hội đồng thời có tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển
nhanh hay chậm của một quốc gia.
Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác giáo dục với trên 100 quốc
gia và vùng lãnh thổ, đồng thời là thành viên tích cực của các tổ chức giáo dục
quốc tế.
Việt Nam có nền an ninh chính trị ổn định, hành lang pháp lý trong đầu tư
vào giáo dục đã không ngừng được cải thiện. Gần đây nhất, việc ban hành Luật
Giáo dục 2019, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học
cùng các Nghị định quy định về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục... đã thúc đẩy,
huy động nguồn lực đầu tư trong lĩnh vực này.
Hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo đã được tích cực triển khai, góp
phần quan trọng vào cơng cuộc xây dựng và phát triển đất nước thông qua các
hoạt động ngoại giao và hội nhập quốc tế. Ý thức được tầm quan trọng của hội
nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo, ngành giáo dục đã xác định đây là một
trong những nhiệm vụ chủ yếu, sẽ tập trung triển khai trong thời gian tới.
Trước hết là hội nhập quốc tế về đào tạo thông qua các hoạt động liên kết đào
tạo, kiểm định chất lượng, công nhận văn bằng, tín chỉ... Nhiệm vụ này thời
gian qua chủ yếu được thực hiện bởi các trường đại học của Việt Nam thông
qua các hoạt động hợp tác song phương với các trường đại học nước ngồi,
chưa có sự triển khai một cách hệ thống, bài bản nên hiệu quả chưa cao. Thời
gian tới ngành giáo dục sẽ tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế về đào tạo, không
chỉ trong giáo dục đại học mà cả trong giáo dục phổ thơng. Làm tốt nhiệm vụ
này, sẽ có thêm nhiều chương trình đào tạo tốt, học tập được kinh nghiệm đào
tạo của các nước có nền giáo dục phát triển, nâng cao trình độ đội ngũ giáo
viên, qua đó góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của nước ta.
Thứ hai là hội nhập quốc tế trong nghiên cứu khoa học, thơng qua các đề tài,
dự án, chương trình nghiên cứu hợp tác giữa các trường đại học, các viện
nghiên cứu và các nhà khoa học của Việt Nam với các đối tác nước ngồi. Đây
là điểm cịn hạn chế trong hội nhập quốc tế của nước ta thời gian qua. Nếu làm
tốt nhiệm vụ này sẽ tranh thủ được kinh nghiệm, công nghệ và khả năng sáng
tạo của các nhà khoa học nước ngoài để giải quyết các bài tốn thực tiễn đặt ra
trong q trình phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cũng góp phần nâng cao
năng lực nghiên cứu và chất lượng các hoạt động đào tạo.
Thứ ba là hội nhập quốc tế thông qua các hoạt động trao đổi giảng viên, sinh
viên. Đây là hoạt động truyền thống, phổ biến thời gian qua. Tuy nhiên, hoạt
động này thường diễn ra riêng lẻ, chưa có một kế hoạch tổng thể để thơng qua
đó có thể quản lý hiệu quả và có được nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp
với nhu cầu của đất nước. Làm tốt công tác trao đổi giảng viên, sinh viên cũng
sẽ góp phần nâng cao hiểu biết về văn hóa, con người giữa nước ta với các
nước.
2. Thời cơ của giáo dục và đào tạo Việt Nam
Ngày 7 tháng 11 năm 2006, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Sự kiện này đã tạo nền tảng vững chắc
cho giáo dục đại học Việt Nam: giờ đây chúng ta có cơ hội tốt hơn để tham gia
vào các xu hướng phát triển giáo dục hiện đại và học hỏi kinh nghiệm giáo dục
thành cơng trên thế giới.
Có nhiều tiềm năng thu hút đầu tư vào khoa học, công nghệ, cơ sở hạ
tầng, trang thiết bị dạy học, hiện đại hóa điều kiện học tập và tuyển dụng lực
lượng chuyên gia giáo dục từ các nước, đặc biệt là người Việt Nam ở nước
ngồi. nước.
Có sự phối hợp phát triển các cơ sở đào tạo đại học và chuyên nghiệp
100% vốn nước ngoài, cho phép sinh viên Việt Nam được “học tập ở nước
ngồi” với chi phí giảm và chất lượng cao hơn. Nó có thể là một lựa chọn tốt
hơn so với việc học tập ở nước ngoài.
Hình thức mới địi hỏi phải nâng cấp mơi trường làm việc của hoạt động
giáo dục, thay đổi chế độ quản lý, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật, xây dựng hệ thống giáo dục chuẩn dựa trên dữ liệu quốc tế.
Sau khi trở thành thành viên WTO, sản xuất kinh doanh được mở rộng,
cải cách giáo dục được đẩy mạnh nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã
hội về nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực được cải thiện.
Có năng lực tham gia tích cực vào giáo dục quốc tế, tham gia các tổ chức
kiểm định chất lượng quốc tế và ký kết thừa nhận lẫn nhau về mức độ tương
thích trên cơ sở hợp tác, liên kết, liên doanh để xác định. Tạo thương hiệu của
riêng bạn.
Hợp tác quốc tế giúp xây dựng nhiều chuyên ngành khác nhau, mở ra cơ
hội mới và kết nối việc làm của sinh viên.
Chúng tôi đã tư vấn về các điều kiện làm việc dựa trên thị trường, tích
hợp với khu vực và phần cịn lại của thế giới, đồng thời nâng cao năng lực
quản lý của đội ngũ nhân viên hiện tại.
3. Tầm quan trọng của hợp tác quốc tế đối với giáo dục đào tạo ở
Việt Nam
Hợp tác quốc tế về đào tạo hiện nay là hợp tác về các hoạt động đào tạo
giữa các cá nhân, chủ thể tại Việt Nam với các cá nhân, chủ thể người nước
ngồi nhằm một mục đích phát triển giáo dục, đào tạo của cả 2 bên. Sự cần
thiết của hợp tác quốc tế đối với đào tạo ở nước ta được thể hiện qua 3 nội
dung chính :
Thứ nhất, để bắt đầu, hợp tác quốc tế địi hỏi phải triển khai và phát triển
tính quốc tế trong môi trường sư phạm ở giáo dục Việt Nam. Chính sách phát
triển giáo dục và đào tạo của nước ta hiện nay cũng đã thừa nhận hội nhập
quốc tế sâu rộng về giáo dục, nhưng bản sắc và chủ quyền quốc gia cũng phải
được giữ vững. Trong nền văn hóa hiện đại ngày nay, việc hợp tác giáo dục
quốc tế là điều khó tránh khỏi nhằm giữ cho hệ thống giáo dục của đất nước
luôn cập nhật những xu hướng mới và sự hiểu biết của con người. Nền giáo
dục của chúng ta là rất cần thiết nếu chúng ta muốn hoàn thành trách nhiệm
cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Để có thể phát triển
cùng thế giới, kéo gần khoảng cách về giáo dục của Việt Nam với thế giới bắt
buộc các trường Đại học ở nước ta hiện nay phải tranh thủ thời cơ để cọ xát, để
cạnh tranh với các nền giáo dục quốc tế và tự đánh giá năng lực của mình để
đề ra những định hướng phát triển đúng đắn.
Thứ hai, Các trường đại học của Việt Nam được hưởng lợi từ sự hợp tác
quốc gia nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và tuyển thêm sinh viên. Do sự
phát triển kinh tế nhanh chóng của đất nước, Việt Nam ngày nay có cả cơ sở
giáo dục cơng lập và tư thục. Các trường đại học ở Việt Nam khơng chỉ phải
cạnh tranh với nhau, mà cịn với nhiều trường đại học tiên tiến trên thế giới.
Hàng năm, những nền giáo dục đẳng cấp nhất thế giới như Singapore, Hoa Kỳ,
Anh Quốc và những nước khác được mệnh danh là thị trường xuất khẩu giáo
dục thu hút hàng trăm nghìn sinh viên quốc tế, trong đó có một lượng khá lớn
sinh viên Việt Nam. Chính vì vậy, những khó khăn này đã tạo ra nhu cầu bức
thiết đối với nền giáo dục Việt Nam là phải bắt kịp và nắm bắt mọi xu hướng
giáo dục mới nhất của thế giới để có thể cạnh tranh với các hệ thống giáo dục
tinh vi và các cơ sở giáo dục tiên tiến nhất trên thế giới. Chỉ có như vậy nó mới
có thể tồn tại và phát triển trong tương lai. Khác là hợp tác quốc tế. Nhu cầu
quốc tế hóa đã thúc đẩy các nền giáo dục không thể phát triển mà khơng có
tính chất quốc tế và hoạt động theo những chuẩn mực nhất định của giáo dục,
đào tạo quốc tế. Bốn điểm số chung của xếp hạng giáo dục tồn cầu được tính
ra từ các tiêu chỉ sau: giảng dạy, tính quốc t , thu nhập và đổi mới, năng lực
nghiên cứu , uy tín và ảnh hưởng nghiên cứu. Trong đó tính quốc tế được
chiếm đến 7,5 % tổng số điểm .
Do đó, ngồi việc chỉ tập trung vào các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu
khoa học theo cách truyền thống, để có thể bắt kịp xu hướng của thế giới,
không để bị là một đất nước tụt hậu thì hợp tác quốc tế là điều tất yếu phải diễn
ra.
Nhận thức đúng sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quán triệt bài học về " phát huy cao độ
nội lực, đồng thời ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại 7 trong điều kiện mới. Phát huy nội lực xem là nhân tố quyết
định đối với sự phát triển ; đồng thời coi trọng huy động các nguồn ngoại lực,
thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để
phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất
nước nhanh và bền vững, trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã
hội chủ nghĩa”. Đường lối này chỉ đạo mọi hoạt động của nhân dân ta trên mọi
mặt của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực văn hóa - giáo dục. Hơn nữa, như
đã nêu trên, Hồ Chí Minh là một gương sáng cho chúng ta noi theo về việc tiếp
thụ văn hóa , giáo dục nước ngoài để làm phong phú kiến thức của bản thân,
xây dựng nền văn hóa, giáo dục cách mạng theo con đường xã hội chủ nghĩa.
4. Các loại hình liên kết đào tạo
4.1. Liên kết đào tạo trong khuôn khổ đàm phán, hợp tác song phương ở
cấp nhà nước
4.1.1 Liên kết đào tạo bằng ngân sách của nhà nước:
Nhằm tăng cường lực lượng nòng cốt trẻ tuổi cho đội ngũ nghiên cứu
khoa học, công nghệ, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH, nên Đảng, Nhà nước ta
đã đầu tư kinh phí từ ngân sách để gửi ra nước ngoài đào tạo, chủ yếu là đào
tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ, thực tập sinh (theo Đề án 322). Đối tượng du học
theo hình thức này là những người thuộc nguồn giảng viên, nghiên cứu viên trẻ
tuổi, có tiềm năng trở thành cốt cán, chuyên gia trong tương lai. Từ năm 2000
đến nay, mỗi năm có khoảng 400 người được tuyển đi du học.
Ngồi việc thực hiện Đề án 322, Bộ Giáo dục và Đào tạo cịn có Đề án
đào tạo 20.000 Tiến sĩ (từ nay đến 2020), trong đó dự kiến gửi ra nước ngồi
khoảng 10.000 người, số cịn lại sẽ đào tạo trong nước.
4.1.2 Liên kết đào tạo bằng kinh phí viện trợ:
Tại các cuộc hội đàm cấp nhà nước giữa Việt Nam và một số nước có
nền giáo dục tiên tiến, Chính phủ ta đã đạt được thoả thuận và ký kết hiệp định
hợp tác trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Kinh phí đào tạo từ nguồn “xử lý
nợ với Liên bang Nga”(khoảng 50 triệu USD, bắt đầu từ năm 2000), hoặc “quĩ
phát triển giáo dục Việt Nam - Hoa Kỳ”(5 triệu USD/năm, bắt đầu từ 2001 đến
2016). Bên cạnh đó cịn có nguồn kinh phí do các tổ chức phi chính phủ viện
trợ, với điều kiện tuyển đối tượng đào tạo theo các tiêu chí mà tổ chức viện trợ
yêu cầu.
4.2. Liên kết đào tạo trong khuôn khổ tự chủ, kí kết giữa các cơ sở đào tạo
của Việt Nam với các cơ sở đào tạo của nước ngồi
Cả nước có khoảng gần 200 chương trình liên kết thì hình thức liên kết
này chiếm đa số (các chương trình liên kết trong khn khổ thoả thuận hợp tác
ở cấp Chính phủ chỉ chiếm 50 chương trình). Theo phân cấp quản lý, các
trường đại học, các cơ sở đào tạo của Việt Nam được phép liên kết đào tạo với
các cơ sở đào tạo của nước ngồi. Hình thức liên kết này khá đa dạng và phức
tạp:
Có dạng hồn tồn theo chương trình và qui trình của cơ sở nước ngoài,
do người nước ngoài giảng dạy, được cơ sở nước ngồi cấp bằng;
Có dạng vừa tiếp thu một phần chương trình hiện đại của nước ngồi,
vừa đưa thêm một phần chương trình cơ sở trong nước (chủ yếu liên quan đến
các mơn chính trị), bằng do cả 2 bên liên kết cùng cấp, hoặc do phía cơ sở của
ta cấp;
Các chuyên ngành liên kết đào tạo chủ yếu thuộc lĩnh vực quản lý, cơng
nghệ, tin học; chương trình, giáo trình của nước ngồi, giảng dạy bằng tiếng
nước ngồi; tuy nhiên gần đây đã có những cơ sở giảng dạy hỗ trợ bằng Tiếng
Việt.
4.3. Liên kết do người dân tìm kiếm địa chỉ và chi trả kinh phí đào tạo
Con đường tự túc du học ở nước ngoài hoặc trong nước đang trở thành
trào lưu với một bộ phận con em các gia đình có thu nhập cao (học phí vào các
trường này hoàn toàn vượt ngoài khả năng của các gia đình có mức thu nhập
trung bình và khá). Phạm vi liên kết của loại hình này chủ yếu tại các thành
phố lớn, đối tượng đi học bao gồm: mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung
học phổ thơng, tới đại học, sau đại học. Hình thức liên kết này mang tính tự
phát, người học trực tiếp trả học phí theo qui định của cơ sở giáo dục và đào
tạo, một số ít được trợ cấp học bổng. Việc quản lý loại hình liên kết này hết
sức lỏng lẻo, hiện khơng có qui định cơ quan, tổ chức nào trong hệ thống quản
lý nhà nước chịu trách nhiệm. Phần lớn những phụ huynh cho con em theo học
các cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngồi tại Việt Nam đều muốn trang bị Tiếng
Anh làm công cụ để đi du học (nên bắt đầu tăng cường học Tiếng Anh từ mầm
non).
Đến nay việc thống kê số lượng học sinh, sinh viên học tập tại các cơ sở
nước ngoài (du học nước ngoài hoặc trong nước) gặp rất nhiều khó khăn, chưa
có cơ quan quản lý nào được giao theo dõi, nắm tình hình cụ thể.
CHƯƠNG II: VẤN ĐỀ HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO
TẠO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.Thực trạng hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay
Việt Nam hiện đã thiết lập quan hệ hợp tác giáo dục với hơn 100 quốc
gia và lãnh thổ. Theo Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo. Trong 7 năm qua, hợp
tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo được nâng lên, giúp nâng cao hiệu
quả về hợp tác quốc tế và vị thế của Việt Nam trên thế giới.
Hợp tác song phương với các nước trong khu vực tiếp tục được duy trì và
mở rộng. Hợp tác với nhóm các nước Lào, Campuchia. Myanma tiếp tục được
tăng cường, số lượng học bổng giữa Việt Nam và các nước trong nhóm tiếp tục
tăng lên. Sinh viên nước ngoài đến học tập tại Việt Nam (chủ yếu là Lào và
Campuchia) tiếp tục tăng nhanh .
Công tác phát triển nguồn nhân lực trong khuôn khổ hợp tác các nước
CLMV (Campuchia, Lào, Myanma và Việt Nam), ASEAN, ASEM, EU,
APEC được chú trọng; sử dụng hiệu quả các nguồn viện trợ, hỗ trợ từ UN,
UNESCO, UNICEF, GPE, các tổ chức phi chính phủ và các định chế tài chính
WB và ADB cho giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và nguồn lực từ các
quốc gia phát triển cho các chương trình tăng cường chất lượng giáo dục ĐH,
đảm bảo triển khai bám sát chủ trương, chiến lược đổi mới, phát triển giáo dục
của Việt Nam.
Hợp tác đa phương được đẩy mạnh, đặc biệt trong khuôn khổ EU,
ASEM, APEC trên cơ sở Hiệp định hợp tác, đối tác giữa Việt Nam và Liên
minh châu Âu về hợp tác giáo dục. Hợp tác trong khuôn khổ ASEAN đạt kết
quả ấn tượng, khẳng định vai trị, vị trí quan trọng của Việt Nam trong những
năm giữ vị trí chủ tịch SEAMEC, thực hiện các kết quả theo tuyên bố chung
ASEAN về giáo dục ĐH, xây dựng và tích cực triển khai thực hiện Đề án
ASEAN, Khung trình độ tham chiếu ASEAN...
Tính đến hết năm 2019, Việt Nam đã có trên 500 dự án hợp tác đầu tư
còn hiệu lực của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục, với tổng số vốn đầu tư
4,4 tỷ USD; có 5 cơ sở giáo dục đại học, gần 100 cơ sở giáo dục ở các bậc
mầm non, phổ thơng có vốn đầu tư nước ngồi và hơn 450 chương trình đào
tạo quốc tế được giảng dạy tại 70 cơ sở giáo dục đại học.
Với chính sách thúc đẩy xã hội hóa giáo dục, đến nay, Việt Nam có gần
3.000 cơ sở giáo dục ngồi cơng lập ở các bậc học, qua đó góp phần bổ sung
nguồn lực cho giáo dục.
Chính sách hội nhập quốc tế trong giáo dục đã góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo và cải thiện thứ hạng của Việt Nam trên bản đồ giáo dục thế
giới.
Việt Nam đã có 3 cơ sở giáo dục được xếp hạng vào danh sách 1.000 cơ
sở giáo dục đại học hàng đầu thế giới, 8 cơ sở được xếp hạng trong nhóm 500
trường đại học hàng đầu châu Á.
Giai đoạn 2016 - 2020, Bộ GD-ĐT đã chủ trì đàm phán, ký kết 75 thỏa
thuận và điều ước quốc tế cấp Chính phủ và cấp Bộ. Đặc biệt, năm học 20192020, Bộ GD-ĐT đã chủ trì, ký kết được 21 văn bản hợp tác quốc tế (gồm 6
văn bản cấp Chính phủ, 15 văn bản cấp Bộ) và ký kết thỏa thuận về công nhận
văn bằng để thúc đẩy việc dịch chuyển sinh viên với các nước trong khu vực
và trên thế giới như: Hiệp định về trường đại học Việt-Đức, Hiệp định về việc
giảng dạy tiếng Anh theo chương trình hịa bình; Cơng hàm trao đổi về Dự án
học bổng phát triển nguồn nhân lực với Nhật Bản; Hiệp định giữa Chính phủ
Việt Nam và Chính phủ Armenia về hợp tác trong lĩnh vực giáo dục và khoa
học; Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Latvia về hợp tác trong
lĩnh vực giáo dục; Thỏa thuận giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Pháp về
việc phát triển CFVG giai đoạn 2019-2023.
Theo Bộ GD-ĐT, các điều ước, thoả thuận hợp tác về giáo dục giữa Bộ
GD-ĐT và các đối tác đều đã được các bên chủ động xúc tiến, thực hiện cam
kết một cách có hiệu quả, thiết thực. Tính đến nay, cả nước có tổng số 455 dự
án FDI của nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Trong năm 2021 vừa qua, Bộ GD-ĐT đã tổ chức nhiều diễn đàn, hội nghị
để kết nối hợp tác giữa các chuyên gia giáo dục, nhà đầu tư, cơ sở giáo dục
trong và ngoài nước để chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác và đầu tư,
nâng cao chất lượng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo như: Diễn đàn tồn cầu
của UNESCO về giáo dục vì Phát triển bền vững và Cơng dân tồn cầu tại,
triển lãm giáo dục Việt Nam tại Lào; Hội nghị hiệu trưởng các trường đại học
Việt Nam - Liên bang Nga, Hội nghị Giáo dục Việt Nam - Đài Loan (Trung
Quốc), Hội nghị thúc đẩy cơ hội học tập các chương trình giáo dục quốc tế tại
Việt Nam.
Hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và chính phủ các nước cũng đã đem
lại hàng ngàn học bổng hằng năm cho công dân Việt Nam đi học tập tại nước
ngồi. Hiện có 19 nước cấp học bổng Hiệp định cho Việt Nam, trong đó, có
nhiều nước có nền giáo dục tiên tiến, nền tảng khoa học kỹ thuật hiện đại. Số
lượng học bổng do chính phủ nước ngồi cấp cho Chính phủ Việt Nam đã tăng
từ khoảng 400 học bổng/năm (năm 2013) lên 1.400 học bổng/năm (năm 2019).
Việt Nam hiện cũng đang trở thành điểm đến được nhiều sinh viên quốc
tế lựa chọn, với những ưu điểm về chất lượng giáo dục liên tục được nâng lên,
chi phí học tập, sinh hoạt hấp dẫn, mơi trường sống an tồn. Đến năm học 2019
- 2020 đã có hơn 21.000 du học sinh đến từ 67 quốc gia trên thế giới học tập tại
Việt Nam, trong đó, có 14.400 sinh viên theo học các chương trình đào tạo từ
đại học trở lên.
Đối với các cơ sở giáo dục đại học chủ động và tích cực mở rộng hợp tác
nghiên cứu khoa học, tăng số lượng các chương trình giảng dạy bằng tiếng
nước ngồi, chuyển giao cơng nghệ, liên kết đào tạo, cơng nhận tín chỉ, liên
thơng chương trình với các trường đại học nước ngồi có uy tín, và xây dựng
chính sách thu hút sinh viên, nhà khoa học nước ngoài đến học tập và nghiên
cứu tại Việt Nam. Hiện đã có hơn 450 chương trình đào tạo quốc tế của 70 cơ
sở giáo dục đại học. Các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài đã tuyển
được tổng số 86.000 sinh viên, học viên. Liên kết đào tạo với nước ngoài đã
tăng cường hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, nâng cao vị thế
các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam trên thế giới.
Năm học 2019-2020, trong bối cảnh diễn biến phức tạp của dịch, bệnh
Covid-19, Bộ GD-ĐT đã chủ động phối hợp Bộ Ngoại giao hướng dẫn du học
sinh cơng tác phịng, chống dịch bệnh; phối hợp các cơ quan đại diện Việt
Nam ở nước ngoài, cơ quan đại diện nước ngoài ở Việt Nam, các hội du học
sinh để thu thập thông tin về tình hình du học sinh Việt Nam ở nước ngồi, báo
cáo Ban chỉ đạo Quốc gia phịng, chống dịch Covid-19, đề xuất biện pháp hỗ
trợ phù hợp. Bộ GD-ĐT cũng đã chỉ đạo các cơ sở giáo dục đại học có những
hoạt động cụ thể để tạo điều kiện cho các du học sinh Việt Nam ở nước ngoài
và các du học sinh nước ngoài đến học tập tại Việt Nam.
Tại Học viện Báo chí và tuyên truyền hiện nay cũng đã liên kết với Đại
học Middlesex mở Chương trình Cử nhân quốc tế Quảng cáo, PR và Thương
hiệu. ĐH Middlesex cử giáo sư giỏi sang giảng dạy tại Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, ĐH Middlesex sẽ trao học bổng cho 1 giảng viên của Học viện
sang làm việc tại Anh trong 1 năm.
2. Đánh giá chung hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo ở nước ta
hiện nay
2.1 Những thành tựu ban đầu
Chính sách của Đảng và Nhà nước về hội nhập quốc tế, những năm qua,
ngành giáo dục đã chủ động xây dựng, ban hành khung cơ cấu hệ thống giáo
dục quốc dân theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các cấp học, trình độ
và giữa các phương thức GD&ĐT, bảo đảm tính tương thích với bảng phân
loại giáo dục quốc tế.
Ngành giáo dục đã xây dựng, ban hành cơ cấu hệ thống giáo dục quốc
dân với cấu trúc 8 bậc học, làm căn cứ để xây dựng chương trình đào tạo; thúc
đẩy việc học tập suốt đời của người dân; xây dựng quy hoạch, chính sách bảo
đảm chất lượng, nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
hội nhập quốc tế.Thực hiện chiến lược mở rộng giáo dục và đào tạo, hợp tác
đào tạo theo con đường ngoại giao đã tạo nền tảng vững chắc cho quan hệ đối
ngoại, đặc biệt là hợp tác giáo dục và đào tạo giữa nước ta với các nước có nền
giáo dục tiên tiến. Đảng và Nhà nước ta đang cùng hợp tác trên cơ sở đa
phương.
Tạo khả năng cho một số lượng lớn người Việt Nam tham gia các quy
trình đào tạo tiên tiến của nước ngồi, dẫn đến sự thay đổi về phương pháp đào
tạo, trước hết là tại các cơ sở liên kết của chúng tôi.
Hỗ trợ một bộ phận cán bộ giảng dạy, nghiên cứu của các cơ sở đào tạo
liên kết với các trường đại học, viện nghiên cứu của nước ta tiếp cận và bồi
dưỡng quy trình đào tạo tiên tiến; mặt khác cũng tạo ra lực lượng trẻ làm nòng
cốt trong giảng dạy và nghiên cứu đối với một số lĩnh vực khoa học và công
nghệ mà nước ta cần tập trung phát triển.
5 năm qua, nước ta đã có hơn 70 thỏa thuận quốc tế và 23 điều ước quốc
tế được ký kết, góp phần tạo hành lang pháp lý triển khai nhiều chương trình
hợp tác, như: Trao đổi học sinh, sinh viên, giáo viên, giảng viên; hợp tác giáo
dục, nghiên cứu, đào tạo, trao đổi chuyên gia... Ngành giáo dục và các cơ sở
đại học đã phê duyệt, ký kết trên 530 chương trình liên kết đào tạo với nước
ngồi, với khoảng 85.000 người đã theo học, trong đó hơn 45.000 người đã
hồn thành chương trình và được cấp bằng. Đây là nguồn nhân lực chất lượng
cao góp phần phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Do chủ động, tích cực mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực GD&ĐT,
chất lượng giáo dục các cấp học đều được nâng lên; được quốc tế ghi nhận,
đánh giá cao. Trong các đợt đánh giá PISA (Chương trình đánh giá học sinh
quốc tế) của Tổ chức OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế), Việt Nam
đã đạt nhiều kết quả vượt trội so với trung bình của các nước trong khối. Đến
nay, Việt Nam có 4 trường đại học nằm trong tốp 1.000 thế giới; 11 trường đại
học nằm trong tốp các trường đại học hàng đầu châu Á; nhiều ngành, lĩnh vực
đào tạo đứng trong tốp 500 thế giới. Theo báo cáo năm 2020 của Ngân hàng
thế giới (WB), về vốn nhân lực, chỉ số vốn nhân lực của Việt Nam đứng thứ
38/174 nền kinh tế; tiêu chí về kết quả giáo dục của Việt Nam đứng thứ 15,
tương đương với các nước, như: Hà Lan, New Zealand, Thụy Điển...
Nhiều chỉ số về giáo dục phổ thông của Việt Nam được đánh giá cao
trong khu vực, như: Tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99% (đứng thứ hai
khu vực Đông Nam Á, sau Singapore); tỷ lệ học sinh đi học và hồn thành
chương trình tiểu học sau 5 năm đạt gần 93%, đứng ở tốp đầu của khối
ASEAN; chương trình đánh giá kết quả học tập tiểu học các nước Đông Nam
Á (SEA PLM) năm 2019 cho thấy, học sinh tiểu học Việt Nam đứng vào tốp
đầu các nước ASEAN ở cả 3 năng lực được khảo sát là đọc hiểu, viết và toán
học.
Đặc biệt, Việt Nam trở thành điểm sáng trong khu vực Đông Nam Á và
châu Á-Thái Bình Dương về kết quả, thành tích các cuộc thi Olympic quốc tế
dành cho học sinh. 5 năm qua (2016-2020), Việt Nam có 174 lượt học sinh
tham dự thi các mơn văn hóa tại các kỳ thi Olympic khu vực và quốc tế. Kết
quả, học sinh Việt Nam đã đoạt 170 huy chương và bằng khen, trong đó có 54
huy chương vàng, 68 huy chương bạc, 40 huy chương đồng và 8 bằng khen
quốc tế. Đáng ghi nhận là số huy chương vàng mà học sinh Việt Nam đạt được
tăng gấp đôi so với giai đoạn 2011-2015 và chiếm tỷ lệ 32% trong tổng số huy
chương học sinh giành được. Bên cạnh đó, Việt Nam đã đăng cai và tổ chức
thành công các kỳ Olympic khu vực và quốc tế, như: Olympic Sinh học quốc
tế năm 2016, Olympic Vật lý châu Á năm 2018, để lại dấu ấn sâu đậm trong
lòng bạn bè quốc tế về đất nước, con người và trí tuệ Việt Nam.
Chính sách hội nhập quốc tế trong giáo dục đã góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo và cải thiện thứ hạng của Việt Nam trên bản đồ giáo dục thế
giới. Việt Nam đã có 3 cơ sở được xếp hạng vào danh sách 1.000 cơ sở giáo
dục đại học hàng đầu thế giới và 8 cơ sở được xếp hạng trong nhóm 500
trường đại học hàng đầu châu Á. Đối với giáo dục phổ thơng, học sinh Việt
Nam ln đạt thành tích cao trong các cuộc thi quốc tế và khu vực và được xếp
hạng cao trong chương trình đánh giá quốc tế PISA
2.2 Những hạn chế, yếu kém
Điều 20, Luật Giáo dục (2005) đã nêu “...Cấm lợi dụng các hoạt động
giáo dục vì mục đích vụ lợi”. Điều 107 của luật này cũng khẳng định: “Nhà
nước mở rộng, phát triển hợp tác quốc tế về giáo dục theo nguyên tắc tôn trọng
độc lập, chủ quyền quốc gia, bình đẳng và các bên cùng có lợi”. Khi đàm phán
vào WTO, cam kết của ta về “mở cửa” lĩnh vực giáo dục là: chỉ cho phép các
cơ sở nước ngoài liên kết đào tạo ở bậc đại học, cao đẳng, giới hạn trong một
số ngành tự nhiên, khoa học - công nghệ, ngoại ngữ, công nghệ thông tin. Tuy
nhiên, trong thực tế liên kết đào tạo, chúng ta cũng đã có những sơ hở, để cho
một số đối tác nước ngồi lợi dụng vì mục đích vụ lợi, làm ảnh hưởng đến lợi
ích của người học.
Việc cấp phép hoạt động liên kết đào tạo hiện tại chưa có sự thống nhất,
ngồi Đề án 322, Đề án 20.000 tiến sĩ do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý, cịn
các loại hình liên kết khác lại do Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội, thậm chí cịn có cả những tổ chức phi chính phủ tham
gia vào việc tạo lập mối liên kết.
Liên kết tự phát giữa các cơ sở đào tạo trong nước với các cơ sở đào tạo
của nước ngồi rất khó quản lý chương trình, qui trình, địa điểm, thiết bị; có
những cơ sở dạy chương trình nước ngoài (do cơ sở nước ngoài cấp bằng,
nhưng lại giảng dạy bằng Tiếng Việt); dẫn đến chất lượng đào tạo chưa đủ độ
tin cậy, chưa tương xứng với công sức, tiền bạc do người học chi trả.
Sự non kém trong công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm định chất lượng đã
không đủ mức độ ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, nên ngày càng gây bức xúc
xã hội, dư luận cho rằng “hình như Nhà nước thả nổi” việc liên kết đào tạo
(trong liên kết với nước ngoài và ngay cả liên kết trong nước với nhau), làm
gia tăng tình trạng “mua bằng, bán điểm”.
3. Thách thức về vấn đề hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo ở nước ta
hiện nay
Một, thách thức lớn nhất là làm sao vừa thực hiện những cam kết về giáo
dục, vừa bảo đảm giữ vững chủ quyền quốc gia, thực hiện những mục tiêu cơ
bản của ta về giáo dục, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Phải cảnh giác
với những tác động tiêu cực trong hoạt động dịch vụ giáo dục nhằm thu lợi
nhuận, trái với mục đích của giáo dục là phát triển con người, phát triển văn
hố, góp phần phát triển đất nước. Mặt khác, trong quá trình hội nhập quốc tế,
cần tránh tình trạng bị lệ thuộc.
Hai, cuộc cạnh tranh trong lĩnh vực giáo dục trên toàn thế giới sẽ rất gay
go, đặc biệt về mặt chất lượng giáo dục, nghiên cứu khoa học, triển khai công
nghệ và khả năng kết nối với công nghiệp và dịch vụ xã hội. Các trường nước
ngoài sẽ chiếm ưu thế về chất lượng, sinh viên ra trường có việc làm ngay,
lương cao, cơ hội làm việc quốc tế trong lúc khả năng cạnh tranh bình đẳng
của ta cịn yếu kém. Chất lượng giáo dục Việt Nam còn thấp, chưa đáp ứng
được nhu cầu về cung cấp nguồn nhân lực cho yêu cầu phát triển kinh tế, năng
lực cạnh tranh của các cơ sở giáo dục Việt Nam, nhất là các trường đại học và
các cơ sở giáo dục nghề nghiệp còn yếu, chưa đủ sức tham gia thị trường giáo
dục quốc tế, chưa đủ sức thu hút học sinh nước ngoài vào Việt Nam.
Ba, Xu hướng xuất khẩu giáo dục khơng lành mạnh từ các nước có nền
giáo dục phát triển là thách thức và rủi ro rất lớn đối với giáo dục nước ta trong
khi quản lý của ta về hoạt động giáo dục xuyên biên giới còn rất yếu kém,
thiếu các văn bản pháp quy, tổ chức quản lý phân tán, chồng chéo. Nhiều cơ
quan cùng tham gia quản lý các hoạt động đào tạo có yếu tố nước ngồi (Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động, Thương binh và
Xã hội), đội ngũ cán bộ quản lý thiếu và yếu.
Bốn, đào tạo xuyên biên giới, e-learning sẽ xuất hiện nhiều hơn đòi hỏi
ngành giáo dục phải có cơ chế quản lí thích hợp.
Năm, nếu khơng tạo ra được những cơ sở đào tạo có khả năng cạnh tranh
được với các cơ sở nước ngoài, các trường đại học trong nước sẽ đánh mất dần
niềm tin của dân chúng, mất đi sự ủng hộ về chính sách và nguồn vốn cấp cho
giáo dục đại học có thể vì thế mà sút giảm dần.
Sáu, xuất hiện hiện tượng rò rỉ chất xám theo các phong trào du học, tìm
việc làm ở nước ngồi tự phát và khơng kiểm sốt được; nhiều lao động bậc
cao có xu hướng đi ra nước ngoài.
Bảy, các trường đại học tư thục xuất hiện nhiều hơn, thách thức khả năng
quản lí và kiểm soát chất lượng của ngành giáo dục.
Tám, liên tục điều chỉnh quy trình, tiêu chuẩn chất lượng địi hỏi các cơ
sở giáo dục đại học phải năng động hơn và cần có quy trình đánh giá, tiêu
chuẩn chặt chẽ hơn, tin cậy hơn bằng cách kiểm toán độc lập, kiểm định độc
lập.
Chín, luật pháp, chế độ, chính sách thay đổi để phù hợp với quy định
WTO, thông lệ quốc tế, tạo điều kiện cho cơ sở giáo dục nước ngoài, cắt bỏ trợ
cấp với các cơ sở trong nước, gỡ bỏ rào cản thương mại dịch vụ.
Mười, các văn bản pháp luật trong lĩnh vực giáo dục-đào tạo chưa được
rà soát và sửa đổi cho phù hợp với bối cảnh khi đã vào WTO, mơ hình quản lý
giáo dục cịn mang nặng tính chất kế hoạch hố tập trung, chưa phù hợp với
giáo dục trong cơ chế thị trường, nặng về quản lý hành chính sự vụ, chưa quan
tâm đầy đủ chất lượng. Vấn đề liên kết đào tạo chưa được quan tâm quản lý
chặt chẽ, có thể dẫn đến nhiều phức tạp khi các đối tác yêu cầu thực hiện các
nguyên tắc của WTO.