TIỂU LUẬN
QUẢN LÝ XÃ HỘI VỀ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO
TÊN ĐỀ TÀI
QUẢN LÝ XÃ HỘI VỀ TÔN GIÁO Ở LẠNG SƠN HIỆN NAY
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
NỘI DUNG.
4
Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ XÃ HỘI VỀ TÔN GIÁO HIỆN
NAY.
5
1.1.Khái niệm chung.
5
1.1.1 Khái niệm về tôn giáo.
5
1.2. Nội dung quản lý xã hội về hoạt động tơn giáo, tín ngưỡng
6
1.3. Mục tiêu và nguyên tắc quản lý xã hội về hoạt động tôn giáo:
9
Chương 2 : THỰC TRẠNG QUẢN LÝ XÃ HỘI VỀ TƠN GIÁO, TÍN
NGƯỠNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN HIỆN NAY.
13
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội của Lạng
Sơn
13
2.2. Một số đặc điểm tơn giáo trên địa bàn Lạng Sơn
15
2.3.Tính hai mặt của tôn giáo ở Lạng Sơn:
19
2.4.Thực tiễn nội dung quản lý xã hội về tôn giáo ở Lạng Sơn.
21
2.5. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong quản lý xã hội đối với hoạt động
tôn giáo ở Lạng Sơn
22
2.6.Nguyên nhân của tồn tại hạn chế về quản lý xã hội đối với hoạt động tôn
giáo ở Lạng Sơn
31
Chương 3 : GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC QUẢN LÝ XÃ HỘI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TƠN GIÁO Ở
LẠNG SƠN
32
3.1. Dự báo tình hình cơng tác quản lý xã hội đối với hoạt động tôn giáo ở Lạng
Sơn trong thời gian tới
33
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý xã hội đối với
hoạt động tôn giáo ở Lạng Sơn
34
KẾT LUẬN
37
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
39
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tơn giáo là hình thái ý thức xã hội, đồng thời cũng là một thực thể xã hội
ra đời từ hàng nghìn năm nay và sẽ tồn tại cùng với loài người trong một thời
gian khó đốn định. Trong q trình tồn tại và phát triển, tôn giáo ảnh hưởng
khá sâu sắc đến đời sống chính trị, văn hóa, xã hội, đến tâm lý, đạo đức, lối
sống, phong tục, tập quán của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia. Vào những năm
gần đây, tình hình tơn giáo trên thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Nằm trong
dòng chảy của lịch sử nhân loại, Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, bên cạnh
các tơn giáo lớn có tổ chức với số lượng tín đồ đơng đảo cịn có các sinh hoạt tín
ngưỡng dân gian truyền thống. Tôn giáo đã và đang trở thành nhu cầu tinh thần
của một bộ phận nhân dân, các hoạt động của tôn giáo được khôi phục và phát
triển mạnh mẽ, số người theo tôn giáo ngày càng tăng. Trước tình hình đó, Đảng
và Nhà nước ta đã xác định phải tăng cường công tác quản lý xã hội về hoạt
động tôn giáo để vừa đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng, tơn giáo của quần chúng, vừa
kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo để đi ngược lại lợi ích của nhân
dân, của dân tộc.
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi phía Bắc có vị trí chiến lược về địa chính
trị, kinh tế, an ninh quốc phòng. Là địa đầu biên cương của Tổ quốc, đây cũng là
một trong những địa bàn trọng điểm mà các thế lực thù địch tập trung hoạt động
chống phá. Số lượng tơn giáo ở Lạng Sơn có qui mơ khơng lớn, hiện nay chỉ có
ba tơn giáo chính: Phật giáo, Cơng giáo và Tin lành. Nhìn chung các tín đồ theo
đạo đại bộ phận là những người dân sống tốt đời đẹp đạo. Đường hướng chung
của các tôn giáo ở Lạng Sơn hiện nay đều tập trung củng cố đức tin, tuyên
truyền phát triển đạo. Song ở Lạng Sơn, điều cần quan tâm là sự phát triển của
đạo Tin lành. Tin lành được truyền vào Lạng Sơn từ năm 1938, chủ yếu tập
trung ở khu vực đồng bào dân tộc Dao sinh sống (huyện Bắc Sơn). Thời gian
qua sự phát triển của đạo Tin lành ở khu vực này đã gây những ảnh hưởng tiêu
cực về nhiều mặt, xáo trộn cuộc sống bình thường của người dân, gây chia rẽ
đồn kết nội bộ các dân tộc thiểu số, giữa người theo và không theo đạo Tin
3
lành. Đáng chú ý là những phần tử xấu vì lợi ích cá nhân hoặc bất mãn đã lợi
dụng đạo Tin lành để chia rẽ quần chúng với Đảng, Chính quyền hoặc cản trở
việc thực hiện nghĩa vụ công dân của tín đồ.
Trong những năm vừa qua, cơng tác quản lý xã hội đối với hoạt động tôn
giáo ở Lạng Sơn đã có nhiều tiến bộ và đạt được một số kết quả nhất định.
Nhưng bên cạnh đó cũng cịn một số tồn tại: Một bộ phận cán bộ đảng viên nhận
thức về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với tơn giáo cịn hạn
chế; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành còn thiếu tập trung và đồng bộ; việc
giải quyết các vấn đề liên quan đến tơn giáo cịn kéo dài, gây tâm lý phản cảm
cho quần chúng tín đồ và các chức sắc tơn giáo, tạo ra những sơ hở khơng đáng
có cho một số phần tử xấu lợi dụng. Đặc biệt việc thực hiện chức năng quản lý
xã hội đối với tôn giáo của chính quyền ở nhiều lúc, nhiều nơi, nhất là ở cơ sở
cịn q cứng nhắc; các đồn thể nhân dân vùng đồng bào có đạo nói chung hoạt
động cịn kém hiệu quả; công tác xây dựng lực lượng cốt cán, đào tạo bồi dưỡng
cán bộ làm công tác tôn giáo còn chưa được quan tâm đúng mức; việc thực hiện
Chỉ thị số 01 của Thủ Tướng Chính phủ “Về một số cơng tác đối với đạo Tin
lành” cịn gặp nhiều khó khăn, nhận thức đối với tơn giáo và hoạt động tơn giáo
của đảng ủy, chính quyền ở một số nơi cịn chưa thống nhất.
Trước tình hình đó, Tỉnh ủy đã quan tâm và tăng cường chỉ đạo công tác
quản lý xã hội đối với hoạt động tôn giáo. Một mặt nhằm nâng cao nhận thức về
tín ngưỡng, tơn giáo, vai trị của nó trong đời sống tinh thần của nhân dân và
trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh nhà; mặt khác để thực hiện
đầy đủ, nghiêm túc đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
công tác tôn giáo và hoạt động tôn giáo, chống mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo để
phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, cản trở sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
Từ tình hình đặt ra nói trên, tơi mạnh dạn chọn đề tài “Quản lý xã hội về
tôn giáo ở Lạng Sơn hiện nay” để làm tiểu luân.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu.
4
Đánh giá thực trạng công tác quản lý xã hội đối với hoạt động tôn giáo ở
tỉnh Lạng Sơn, từ đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả quản lý xã hội đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ cụ thể như sau:
Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận về quản lý xã hội đối với hoạt động
tơn giáo.
Hai là, làm rõ tình hình thực trạng công tác quản lý xã hội đối với hoạt
động tôn giáo ở tỉnh Lạng Sơn.
Ba là, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản
lý xã hội đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn trong tình hình
mới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu quản lý xã hội về hoạt động tôn giáo bao gồm
việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi, quản lý tổ chức tôn giáo.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu thực tế quản lý xã hội
về hoạt động tôn giáo ở Lạng Sơn từ khi có Nghị quyết 24/NQ-TW của Bộ
Chính trị Về tăng cường cơng tác tơn giáo trong tình hình mới (ngày
16/10/1990) cho đến nay.
4.Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp lịch sử và logic là hai phương pháp chủ yếu được sử dụng:
Bằng việc coi trọng thực tế lịch sử nắm bắt những cái mới nảy sinh, từ những số
liệu, sự kiện cụ thể, phong phú, đa dạng, phân tích trên cơ sở vận dụng lý luận
và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin để rút ra những đánh giá, kết
luận cần thiết.
Trong q trình nghiên cứu, em cịn sử dụng những phương pháp khác
phối hợp như: chọn lọc tài liệu, phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp…
5.Kết cấu đề tài.
Bài làm của em gồm các vấn đề sau :
● Chương 1 : Cơ sở lý luận về quản lý xã hội về tôn giáo hiện nay.
5
● Chương 2 : Thực trạng quản lý xã hội về Tôn Giáo tại Tỉnh Lạng Sơn
hiện nay.
● Chương 3 : Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý xã hội về Tôn Giáo
tại Tỉnh Lạng Sơn hiện nay.
Trong quá trình thực hiện ,mặc dù đã cố gắng hồn thiện đề tài qua tham
khảo tài liệu, trao đổi và tiếp thu ý kiến đóng góp nhưng chắc chắn khơng tránh
khỏi những sai sót. Vì vậy em rất hoan nghênh và chân thành cảm ơn các ý kiến
đóng góp của Quý Thầy, Cô và bạn đọc.
6
NỘI DUNG.
Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ XÃ HỘI VỀ TÔN GIÁO
HIỆN NAY.
1.1.Khái niệm chung.
1.1.1 Khái niệm về tơn giáo.
Tơn giáo có thể được định nghĩa là một hệ thống các văn hố, tín ngưỡng,
đức tin bao gồm các hành vi và hành động được chỉ định cụ thể, các quan niệm
về thế giới, thể hiện thông qua các kinh sách, khải thị, các địa điểm linh thiêng,
lời tiên tri, quan niệm đạo đức, hoặc tổ chức, liên quan đến nhân loại với các yếu
tố siêu nhiên, siêu việt hoặc tâm linh. Tuy nhiên, hiện tại chưa có sự đồng thuận
học thuật về những gì chính xác cấu thành một tôn giáo.
Các tôn giáo khác nhau có thể chứa hoặc khơng chứa nhiều yếu tố khác
nhau, bao gồm các yếu tố thần thánh, những điều thiêng liêng, tín ngưỡng, một
thế lực hoặc nhiều thế lực siêu nhiên hoặc "một số thế lực siêu việt tạo ra các
chuẩn mực và sức mạnh cho phần còn lại của cuộc đời ".Các hoạt động tơn giáo
có thể bao gồm các nghi lễ, bài giảng, lễ kỷ niệm hay biểu hiện sự tơn kính (các
vị Thần, Thánh, Phật), tế tự, lễ hội, nhập hồn, lễ nhập đạo, dịch vụ tang lễ, dịch
vụ hôn nhân, thiền, cầu nguyện, âm nhạc, nghệ thuật, múa, dịch vụ cơng cộng,
hoặc các khía cạnh khác của văn hóa con người. Các tơn giáo có lịch sử và các
kinh sách thiêng liêng, có thể được bảo tồn trong các thánh thư, các biểu tượng
và thánh địa, nhằm mục đích chủ yếu là tạo ra ý nghĩa cho cuộc sống. Tơn giáo
có thể chứa những câu chuyện tượng trưng, đôi khi được những người tin theo
cho là đúng, có mục đích phụ là giải thích nguồn gốc của sự sống, vũ trụ và
những thứ khác. Theo truyền thống, đức tin, cùng với lý trí, đã được coi là một
nguồn gốc của các niềm tin tôn giáo.
1.1.2. Khái niệm quản lý xã hội đối với tôn giáo:
“Quản lý xã hội đối với tôn giáo” là một dạng quản lý xã hội mang tính
chất nhà nước, nó tổ chức và điều chỉnh q trình hoạt động tơn giáo của các
pháp nhân tôn giáo và các thể nhân tôn giáo bằng quyền lực nhà nước. Trong
khái niệm này có hai điểm cần lưu ý: “pháp nhân tôn giáo” là những tổ chức
7
giáo hội từ cơ sở trở lên đã được nhà nước cho phép hoạt động, có tư cách pháp
nhân, được nhà nước bảo hộ; “thể nhân tôn giáo” là các tín đồ, chức sắc, nhà tu
hành của các tổ chức tôn giáo được nhà nước công nhận và cho phép hoạt động
bình thường (khơng thuộc diện đó thì khơng phải là pháp nhân tôn giáo).
Quản lý xã hội về hoạt động tôn giáo được thực hiện bằng các cơ quan
quản lý xã hội các cấp đối với toàn bộ quá trình hoạt động tơn giáo nhằm huy
động sức mạnh của cộng đồng có tín ngưỡng, tơn giáo để đạt mục tiêu của chủ
thể cầm quyền ở cấp đó đặt ra.
Nghiên cứu khái niệm trên cần chú ý ba đặc điểm sau:
+ Quản lý xã hội được thực hiện trên nhiều cấp độ, nhiều bộ phận khác
nhau (Chính phủ, Bộ, Ban Tơn giáo Chính phủ, Ban Tơn giáo tỉnh, Ban Tơn
giáo huyện, dọc và ngang).
+ Đại diện cho các cấp độ và các bộ phận cấu thành của quản lý xã hội đối
với tôn giáo là chủ thể cầm quyền cấp tương ứng (Chính phủ có Ban Tơn giáo
Chính phủ; tỉnh, thành có Ban Tơn giáo tỉnh, thành).
+ Chủ thể cầm quyền là nhân dân nhưng đại diện là Đảng, Nhà nước.
1.2. Nội dung quản lý xã hội về hoạt động tơn giáo, tín ngưỡng
Nội dung Quản lý xã hội về hoạt động tôn giáo được thể hiện trên những
hướng cơ bản sau đây:
1.2.1 Cơng nhận tổ chức tơn giáo, tín ngưỡng.
Thủ tướng Chính phủ xét cơng nhận đối với tổ chức tơn giáo có phạm vi
hoạt động ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; chủ tịch Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh xét công nhận tổ chức tôn giáo có phạm vi hoạt động chủ yếu ở một
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.Sau khi được cấp đăng kí, tổ chức được
phép tiến hành nghi lễ tôn giáo, truyền đạo, giảng đạo tại địa điểm sinh hoạt tôn
giáo đã đăng kí; tổ chức đại hội thơng qua hiến chương, điều lệ và các nội dung
có liên quan trước khi đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền cơng nhận; bầu
cử, suy cử những người lãnh đạo tổ chức, mở lớp bồi dưỡng giáo lí; sửa chữa,
cải tạo, nâng cấp cơng trình thuộc cơ sở tơn giáo; hoạt động từ thiện nhân
đạo.Sau thời gian 3 năm kể từ ngày được cấp đăng kí hoạt động tơn giáo, tổ
8
chức có hoạt động tơn giáo liên tục, khơng vi phạm các quy định pháp luật về
Quản lý hoạt động tôn giáo được quyền đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cơng nhân tổ chức tơn giáo.Tổ chức tơn giáo được thành lập, chia, tách,
sáp nhập, hợp nhất các tổ chức trực thuộc theo hiến chương, điều lệ của tổ chức
tôn giáo. Việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo cơ sở
phải được sự chấp thuận của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; các trường hợp khác phải
được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ.
Hội đồn tơn giáo là hình thức tập hợp tín đồ do tổ chức tơn giáo lập ra
nhằm phục vụ hoạt động tơn giáo. Các hội đồn tơn giáo được hoạt động sau khi
tổ chức tơn giáo đăng kí với cơ quan nhà nước có thẩm quyền (những hội đồn
do tổ chức tơn giáo lập ra nhằm phục vụ lễ nghi tơn giáo như: ca đồn, đội nhạc
lê... thì khơng phải đăng kí). Việc đăng kí hội đồn tơn giáo được thực hiện trên
cơ sở quy định về phân cấp như sau: Hội đồn tơn giáo có phạm vi hoạt đông
trong một huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đăng kí vói uỷ ban nhân dân
cấp huyện nơi hội đồn hoạt động; Hội đồn tơn giáo có phạm vi hoạt động ở
nhiều huyện,Việc tiếp nhận người nhập tu phải tuân thủ những quy định cụ thể
sau đây:Người phụ trách cơ sở tôn giáo khi nhận người vào tu có trách nhiệm
đăng kí với uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có cơ sở tơn giáo. Người muốn nhập tu
phải có lí lịch rõ ràng và bản khai lí lịch của họ phải được uỷ ban nhân dân cấp
xã nơi cư trú xác nhận.Người muốn nhập tu phải được người đứng đầu dòng tu
chấp thuận. Người muốn nhập tu ở độ tuổi vị thành niên phải được cha mẹ hay
người giám hộ cam kết đồng ý.Người nhập tu phải thực hiện việc đăng kí hộ
khẩu theo quy định của pháp luật về việc đăng kí và Quản lý hộ khẩu.Đặc biệt,
để bảo đảm an ninh, trật tự và bảo đảm sự bình đẳng giữa người theo đạo và
người khơng theo đạo, Nhà nước cấm không cho nhập tu những người trốn tránh
pháp luật và các nghĩa vụ công dân.
1.2.2 Quản lý hoạt động tơn giáo, tín ngưỡng.
Người có tín ngưỡng, tín đồ được tự do bày tỏ đức tin, thực hành các nghi
thức thờ cúng, cầu nguyên và tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội,
lễ nghi tơn giáo và học tập giáo lí tơn giáo mặ mình tin theo. Người tham gia
9
hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo phải tơn trọng quy định của cơ sở tín ngưỡng,
tơn giáo, của lễ hội và hương ước, quy ước của cộng đồng. Hoạt động tín
ngưỡng, tơn giáo phải bảo đảm an tồn, tiết kiệm, phù hợp vói truyền thống, bản
sắc dân tộc, giữ gìn, bảo vệ môi trường.
Hàng năm, trước ngày 15 tháng 10, người phụ trách tổ chức tôn giáo cơ
sở phải đăng kí với Uỷ ban nhân dân cấp xã chương trình hoạt động tôn giáo
diễn ra vào năm sau tại cơ sở. Hoạt động tơn giáo khơng được:Tác động xấu đến
đồn kết, đến truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc; Xâm phạm tính mạng,
sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác;Có hành vi vi phạm pháp
luật nghiêm trọng khác.Nhà nước cho phép các tổ chức tôn giáo được in, xuất
bản các loại sách kinh, các ấn phẩm tôn giáo; được sản xuất, kinh doanh, xuất
nhập khẩu văn hố phẩm tơn giáo, đồ dùng việc đạo. Việc in, xuất bản các loại
kinh, sách và các xuất bản phẩm tôn giáo, việc sản xuất, kinh doanh, xuất nhập
khẩu văn hố phẩm tơn giáo, đồ dùng trong việc đạo thực hiện theo quy định
pháp luật về in, xuất bản, sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hoá phẩm,
hàng hố.Tổ chức tơn giáo có nhu cầu in, xuất bản các loại kinh, sách, văn hố
phẩm có nội dung tơn giáo phải đăng kí đề tài xuất bản với Nhà xuất bản tôn
giáo và không được phép chuyển nhượng giấy phép xuất bản dưới bất kì hình
thức nào.
Người nước ngồi cư trú hợp pháp tại Việt Nam được tạo điều kiện sinh
hoạt tôn giáo tại cơ sở tôn giáo như tín đồ tơn giáo Việt Nam; được mang theo
xuất bản phẩm tôn giáo và các đồ dùng tôn giáo khác để phục vụ nhu cầu của
bản thân theo quy định của pháp luật Việt Nam; được mời chức sắc tôn giáo là
người Việt Nam để thực hiện các nghi lễ tơn giáo cho mình; phải tơn trọng quy
định của tổ chức tôn giáo Việt Nam và tuân thủ pháp luật Việt Nam.Tổ chức, cá
nhân nước ngoài, kể cả tổ chức, cá nhân tôn giáo vào Việt Nam để hoạt động ở
các lĩnh vực khơng phải là tơn giáo thì khơng được tổ chức, điều hành hoặc
tham gia tổ chức, điều hành các hoạt động tôn giáo, không được truyền bá tôn
giáo.
10
Các hoạt động viên trợ của các tổ chức tôn giáo nước ngồi hoặc có liên
quan đến tơn giáo nước ngồi đều tn theo chính sách, chế độ Quản lý viện trợ
hiên hành và thông qua các cơ quan được Chính phủ Việt Nam giao phụ trách
cơng tác Quản lý viện trợ.Các tổ chức, cá nhân tôn giáo trong nước muốn nhận
viện trợ thuần tuý tôn giáo phải được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ
1.3. Mục tiêu và nguyên tắc quản lý xã hội về hoạt động tôn giáo:
Mục tiêu tổng qt: góp phần tích cực vào xây dựng những giá trị văn hóa
và chuẩn mực xã hội tốt đẹp, tạo nên những quan hệ lành mạnh giữa con người
với con người (tôn giáo là thành tố của văn hóa). Thang giá trị mà tơn giáo để lại
rất lớn, quản lý xã hội là phát huy thêm những giá trị chuẩn mực tốt đẹp, nổi trội
- nhất là giá trị đạo đức.
Mục tiêu cụ thể gồm 6 bình diện sau đây:
- Bảo đảm nhu cầu tín ngưỡng thuần túy của quần chúng được giải quyết
một cách hợp lý.
- Bảo đảm cho mọi chủ trương, chính sách tơn giáo của Đảng, Nhà nước
được thực hiện một cách nghiêm minh.
- Phát huy nhân lực, khắc phục các tệ nạn xã hội và bảo đảm ổn định về
mặt xã hội, góp phần cho ổn định chính trị.
- Góp phần vào phát triển văn hóa, khoa học, nghệ thuật và phục vụ cho
cuộc sống tốt đẹp của con người.
- Góp phần tạo lập và hình thành lối sống mới, xây dựng giá trị mới phù
hợp bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại.
- Nhằm ngăn ngừa sự lạm dụng tín ngưỡng, tơn giáo đi ngược lợi ích dân
tộc và phát triển xã hội nói chung.
+ Năm nguyên tắc cơ bản trong quản lý xã hội đối với tôn giáo:
Nguyên tắc 1: Bảo đảm cho mọi cơng dân được bình đẳng trước pháp luật.
Nguyên tắc 2: Bảo đảm tự do tín ngưỡng của công dân.
Nguyên tắc 3: Thống nhất giữa sinh hoạt tơn giáo và bảo tồn các giá trị văn
hóa.
11
Nguyên tắc 4: Bảo đảm sự thống nhất và hài hịa lợi ích cá nhân, cộng
đồng, quốc gia, xã hội.
Ngun tắc 5: Những hoạt động tơn giáo vì lợi ích hợp pháp của tín đồ phải
được bảo đảm; những hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, những
hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo nhằm chống lại nhà nước, ngăn cản tín đồ
làm nghĩa vụ cơng dân, phá hoại sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân và hoạt động
mê tín dị đoan đều bị xử lý theo pháp luật.
- Cơ chế thực hiện, điều kiện đảm bảo hiệu quả quản lý xã hội về hoạt động
tôn giáo phải căn cứ vào Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo đã được Uỷ ban thường
vụ Quốc Hội thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2004 và Nghị định số 22 của
Chính phủ về “Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn
giáo” ngày 1 tháng 3 năm 2005.
1.4. Những căn cứ của quan điểm và chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà
nước ta.
Thứ nhất, lấy học thuyết mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng, Đảng và Nhà nước ta xem tơn giáo là một trong những hình thái ý thức xã
hội của con người, phản ánh cách nhìn của con người về hiện thực khách quan.
Theo đó, trong q trình lãnh đạo dân tộc tiến hành công cuộc cách mạng, Đảng
và Nhà nước ta coi trọng các hình thái ý thức xã hội trong đó có tơn giáo, mọi
quan điểm chủ trương lãnh đạo và quản lý tôn giáo từ hướng là hoạt động: nhằm
thỏa mãn nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đồng thời với tư cách là
một hình thái ý thức xã hội, tơn giáo là một hiện tượng có tính lịch sử cho nên
quan điểm và chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước ta phải thay đổi cho
phù hợp với tôn giáo ở từng thời kỳ lịch sử.
Thứ hai, đoàn kết là một truyền thống quý báu của dân tộc, là một bài
học lớn mà lịch sử dân tộc nói chung và lịch sử cách mạng dưới sự lãnh đạo của
Đảng nói riêng đã đúc kết nên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định:
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành cơng, thành cơng, đại thành cơng".
Cơ sở chính sách đại đồn kết đó dựa trên học thuyết và vai trò quyết
định của quần chúng nhân dân trong lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, thấm
12
nhuần sâu sắc đạo lý lấy nhân dân làm gốc, phát huy truyền thống đồn kết dân
tộc trong q trình dựng nước và giữ nước của ơng cha ta. Chính sách đại đồn
kết đó cũng dựa trên cơ sở kết hợp đúng đắn độc lập dân tộc với lý tưởng xã hội
chủ nghĩa nhằm thực hiện mục tiêu: độc lập - tự do - ấm no - hạnh phúc. Mục
tiêu này phản ánh sâu sắc khát vọng của toàn dân ta thuộc bất kỳ thành phần dân
tộc hay tôn giáo nào.
Quan điểm, và chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước ta tất yếu phải
xuất phát từ cơ sở này nhằm đồn kết đồng bào các tơn giáo trong mặt trận dân
tộc thống nhất.
Thứ ba, Việt Nam là một quốc gia có nhiều tơn giáo. Tuy nhiên, do điều
kiện tự nhiên, vị trí địa lý, điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam; do đặc điểm
riêng về tâm lý, tình cảm,... của người dân Việt Nam, tơn giáo ở Việt Nam có
những nét riêng của nó (xem chương 1). Do đó, để quản lý được tơn giáo, đồn
kết đồng bào các tơn giáo, làm cho họ hịa nhập với cộng đồng dân tộc, chính
sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước ta phải căn cứ vào đặc điểm tình hình tơn
giáo ở từng thơì kỳ nhất định.
Chỉ thị 379/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 23/07/1993,... thể hiện
quan điểm và nguyên tắc của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề tôn giáo như
sau:
Quan điểm thứ nhất: Tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng của cơng dân.
Mọi cơng dân có thể theo hoặc khơng theo một tơn giáo nào, có thể tơn giáo này
hoặc tơn giáo khác. Các tơn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Khơng cho
phép tơn giáo này cưỡng bức, lơi kéo tín đồ của tơn giáo kia. Những nơi thờ tự
của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm
tự do tín ngưỡng, tơn giáo hoặc lợi dụng tơn giáo để làm trái pháp luật và chính
sách Nhà nước. Nhà nước không can thiệp vào công việc nội bộ của tơn giáo,
nhưng địi hỏi tơn giáo phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật
quy định, nếu vi phạm pháp luật thì phải xử lý nghiêm minh.
Quan điểm thứ hai: Coi công tác vận động quần chúng là cốt lõi của
công tác tôn giáo. Nội dung của công tác này là:
13
- Đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng cho đồng bào như đào tạo chức sắc, in ấn
kinh sách, cúng lễ,... đúng quy định pháp luật.
- Quan tâm đến chính sách kinh tế - xã hội, chăm lo đời sống của giáo
dân, chức sắc, đặc biệt là đối với vùng sâu, vùng xa, hẻo lánh.
- Xây dựng đội ngũ cốt cán những người yêu nước, tiến bộ trong giáo
dân, phát triển Đảng, Đồn trong các chức sắc, tín đồ. Đảng viên là tín đồ tơn
giáo có thể tham gia mọi sinh hoạt tôn giáo, làm lễ kết hôn, rửa tội,... ở nhà thờ.
Quan điểm thứ ba: Tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, đạo đức tôn giáo có nhiều điểm phù hợp với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Đảng và Nhà nước đề cao và khuyến khích những hoạt động của các tín
đồ có tác dụng tích cực ích nước lợi nhà, tốt đời đẹp đạo. Đồng thời bảo vệ,
trùng tu cơ sở thờ tự như chùa chiền, nhà thờ, thánh thất, tượng Phật, tượng
Chúa,... bởi đó là những sản phẩm văn hóa dân tộc cần được giữ gìn.
Quan điểm thứ tư: Tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị phải làm
tốt các công tác tôn giáo dưới sự lãnh đạo của Đảng và phải tăng cường quản lý
công tác tôn giáo của Nhà nước. Quan điểm này nhằm tạo nên sự thống nhất và
đồng bộ trong hoạt động quản lý tôn giáo.
14
Chương 2 : THỰC TRẠNG QUẢN LÝ XÃ HỘI VỀ TƠN GIÁO, TÍN
NGƯỠNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN HIỆN NAY.
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội của
Lạng Sơn
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Lạng Sơn là một tỉnh nằm ở cửa ngõ phía Đông Bắc của Việt Nam. Lạng
Sơn giáp ranh với các tỉnh Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Bắc Giang và
Quảng Ninh. Lạng Sơn có đường biên giới dài 253 Km tiếp giáp với tỉnh Quảng
Tây, Trung Quốc. Đây là điểm đầu của con đường huyết mạch (QL 1A) nối Việt
Nam với Trung Quốc và từ đó đến với các nước châu Âu, đồng thời cũng là con
đường quan trọng nối Trung Quốc với các nước ASEAN.
Với vị trí địa lý thuận lợi về kinh tế và vô cùng quan trọng về quốc phòngan ninh, Lạng Sơn trở thành đầu mối chiến lược trong giao lưu kinh tế, văn hóaxã hội và hợp tác kinh tế quốc tế của đất nước.
Lạng sơn nằm ở vị trí theo chiều Bắc-Nam từ 21 0 27’ vĩ độ bắc, chiều TâyĐông 1060 56’-1070 14’ kinh độ đơng.
Địa hình Lạng Sơn tương đối phức tạp do nằm ở trong khu vực có nhiều
biến đổi qua các đợt biến động về địa lý, địa chất. Mật độ sông suối ở Lạng Sơn
khá dày với tổng chiều dài hơn 400km chia ra hai hệ thống chính là hệ thống
sơng Kỳ Cùng ở phía Bắc và hệ thống sơng Thương ở phía Nam của tỉnh. Độ
nghiêng chung của địa hình Lạng Sơn nghiêng về phía Đơng Bắc, do vậy khác
với hệ thống sơng ngịi của Việt Nam thường chảy từ hướng Tây Bắc xuống
Đơng Nam thì sơng Kỳ Cùng phát nguyên từ Trung Quốc chảy qua Lạng Sơn và
chảy ngược về Trung Quốc. Theo hướng chính của địa hình Lạng Sơn thì hầu
hết nước mưa trên địa bàn tỉnh đều dồn về lòng máng Kỳ Cùng rồi chảy sang
Trung Quốc.
Lạng Sơn có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình từ 17 0C-220C.
Mùa đơng ở đây tương đối dài và khá lạnh, nhiều năm nhiệt độ xuống thấp nước
đóng băng (năm 1918, 1955), mới đây trên đỉnh Mẫu Sơn nước đã đóng băng,
có chỗ băng dày tới 25cm.
15
Cùng với thảm thực vật phát triển đa dạng, giới động vật ở Lạng Sơn cũng
rất phong phú về cả số lượng và chủng loại như gấu ngựa, hưu xạ, sóc bụng đỏ,
hổ, báo lửa, báo gấm, sơn dương, khỉ mốc, tê tê, tắc kè, cơng, phượng hồng,
sáo mỏ vàng, bìm bịp, cá anh vũ, cá lộ lớn, cá măng giả, ếch gai, ếch hương...
2.1.2. Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội
Đặc điểm kinh tế:
Lạng Sơn đã được tạo hóa ban tặng nhiều lợi thế về vị trí địa lý, điều kiện
tự nhiên. Tuy là tỉnh miền núi, nhưng Lạng Sơn chỉ cách thủ đô Hà Nội 154km,
nằm cạnh khu tam giác kinh tế Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh. Hệ thống giao
thông thuận lợi cho việc phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch, bởi Lạng Sơn
vừa là đầu mối tuyến Quốc lộ 1A xuyên Việt, vừa là nơi bắt nguồn của đường
4B ra Trà Cổ, Vịnh Hạ Long, đường 4A lên Cao Bằng, đường 1B sang Thái
Nguyên, đường 3B sang Bắc Cạn. Đồng thời, Lạng Sơn cịn có tuyến đường sắt
liên vận quốc tế Việt Nam-Trung Quốc vươn tới các nước Đơng Âu. Lạng Sơn
có hai cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị và Tân Thanh, hai cửa khẩu quốc gia Chi Ma,
Bình Nghi và bảy cặp chợ đường biên, thuận tiện cho việc đi lại, giao lưu buôn
bán, xuất nhập khẩu hàng hóa và phát triển du lịch, dịch vụ.
Bên cạnh đó, điều kiện khí hậu tương đối thuận lợi, quỹ đất lớn để phát
triển nông-lâm nghiệp theo hướng đa dạng hóa cây trồng, vật ni chuyển đổi
cơ cấu nơng nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa như: Hồng Bảo Lâm, đào
Mẫu Sơn, quýt Bắc Sơn, na dai Chi Lăng, cây công nghiệp hồi, vùng nguyên
liệu thuốc lá Bắc sơn,…là nền tảng cho sự phát triển của ngành nông nghiệp
Lạng Sơn.
Nguồn tài nguyên khoáng sản tương đối phong phú và đa dạng là điều kiện
tốt để phát triển các ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp
khai thác và chế biến khống sản. Trong đó, đáng chú ý là mỏ than nâu Na
Dương phục vụ cho việc xây dựng phát triển nhà máy nhiệt điện Na Dương.
Đặc điểm văn hóa:
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi nhưng có nhiều thuận lợi về địa lý, là cửa
ngõ giao lưu kinh tế và văn hóa với nước láng giềng Trung Quốc. Chính vì có
16
đường giao thông thuận tiện và là đầu mối giao lưu, quan trọng hơn cả lại là
phên dậu chắn phía Bắc của Tổ quốc nên đã tạo ra một văn hóa, một phong cách
của con người xứ Lạng.
Dấu ấn văn hóa Lạng Sơn khơng chỉ thể hiện qua các di chỉ khảo cổ học,
trong các di tích lịch sử nổi tiếng hay trong mỗi danh lam thắng cảnh, mà văn
hóa nơi đây còn được thể hiện qua những nét văn hóa lễ hội đặc sắc như hội
Lồng Tồng, lễ hội Đầu Pháo-Kỳ Cùng, lễ hội Trị Ngơ,…Nền văn hóa phi vật
thể của Lạng Sơn cịn có kho tàng dân ca, dân vũ đồ sộ và vô cùng phong phú.
Ngày nay dưới ánh sáng nghị quyết Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, những định
hướng phát triển văn hóa đi vào thực tế đời sống văn hóa, tỉnh tổ chức triển khai
và quản lý mọi hoạt động văn hóa trên địa bàn. Do đó nhiều cơng trình văn hóa
được đầu tư xây dựng như: Bảo tàng, thư viện, cung thiếu nhi, công viên văn
hóa,…những nơi này đã và đang trở thành tụ điểm phục vụ nhu cầu vui chơi giải
trí của người dân.
Đặc điểm xã hội:
Giống như các tỉnh miền núi phía Bắc, Lạng Sơn là tỉnh có các dân tộc ít
người chiếm số đông. Đây là nơi chung sống của nhiều dân tộc anh em, như:
Dân tộc Tày, Nùng, Kinh, Dao, Hoa, Sán Chay, Mông,…
2.2. Một số đặc điểm tôn giáo trên địa bàn Lạng Sơn
ở Lạng Sơn có ba tơn giáo chính đó là Phật giáo, Cơng giáo và Tin lành.
Ngồi những đặc điểm chung, tơn giáo ở Lạng Sơn có những đặc thù riêng.
2.2.1.Đăc điểm phật giaó ở Lạng Sơn
Đạo Phật được truyền vào Lạng Sơn từ rất sớm, q trình du nhập vào đây
Phật giáo đã thích nghi được với các tín ngưiỡng ở địa phương như tín ngưỡng
thờ Thần, thờ Thành Hoàng, thờ Mẫu… Trải qua các cuộc chiến tranh xâm lược
của các triều đại phong kiến phương Bắc, sau này là thực dân Pháp, đạo Phật
vẫn phát triển và là một loại hình sinh hoạt tơn giáo khá phổ biến. Theo sách
“Đại Nam Nhất Thống Chí’’ thì thời Nguyễn ở Lạng Sơn đã có 26 ngơi chùa thờ
Phật . Hiện nay hầu hết các chùa trên địa bàn các huyện đã hư hỏng nặng, thậm
chí chỉ cịn là phế tích, chỉ cịn các chùa trên địa bàn thành phố Lạng Sơn tồn tại
17
và hoạt động thường xuyên, điều đó đã chứng tỏ Phật giáo đã có thời kỳ phát
triển hưng thịnh ở Lạng Sơn.
Trước năm 1990, phật tử ở Lạng Sơn ít và chỉ đến chùa sinh hoạt tôn giáo
vào các ngày rằm, lễ Phật Đản… Song những năm gần đây cùng với sự đổi mới
đất nước, sinh hoạt tôn giáo cũng diễn ra thường ngày. Các chùa ở Lạng Sơn tập
trung chủ yếu trên địa bàn thành phố Lạng Sơn, ở đây có chùa Thành cơ sở thờ
tự của Phật giáo Lạng Sơn là danh lam thắng cảnh nổi tiếng, đã được xếp hạng
di tích lịch sử, văn hóa Quốc gia từ năm 1993. Do vậy du khách trong và ngoài
nước đến thăm quan, du lịch tại Lạng Sơn cũng đến thăm và vãn cảnh chùa ngày
càng nhiều hơn.
Qua khảo sát hiện nay Lạng Sơn có khoảng 7.000 tín đồ, số phật tử (đã qui
y) là 1.300 người. Về chức sắc, trước kia có Hịa thượng Thích Xn Lơi trụ trì
tại chùa Thành (thành phố Lạng Sơn) đã viên tịch năm 1993. Năm 2003 tại chùa
Thành, phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn, Ban quản lý chùa Thành đã tổ
chức lễ nhập tự cho Đại Đức Thích Quảng Truyền, nguyên trụ trì tại chùa Phong
Quang (huyện Tiên Lãng, Hải Phịng) làm trụ trì tại chùa Thành. Việc có sư trụ
trì tại chùa Thành là mong ước của đông đảo phật tử ở Lạng Sơn, do vậy tín đồ
rất vui mừng, phấn khởi và tin tưởng vào đường lối chính sách tơn giáo của
Đảng và Nhà nước.
Về cơ sở thờ tự: Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 4 chùa (chùa Thành, chùa
Tiên, chùa Tam Thanh, chùa Tam Giáo), 40 đền và 78 miếu, trong đó có 9 điểm
đã được nhà nước cơng nhận là di tích lịch sử văn hóa . Nhìn chung đền, chùa ở
Lạng Sơn ngồi thờ Phật cịn thờ các vị anh hùng dân tộc. Hoạt động của các
chùa chủ yếu là gắn với tín ngưỡng dân gian, có chung một mục đích là cầu
nguyện xin ban phúc lành, cầu an, cầu tài, cầu lộc, cầu may, làm điều thiện,
tránh điều ác…
Về cơ bản, Phật giáo ở Lạng Sơn từ trước đến nay đã phát huy được truyền
thống yêu nước, gắn bó với dân tộc, tin tưởng vào chủ trương đường lối của
Đảng và Nhà nước. Trong Phật giáo xuất hiện nhiều phong trào: Phật tử giúp
nhau xóa đói giảm nghèo; giúp đỡ người già cơ đơn, tàn tật; xây nhà tình nghĩa;
18
làm công tác từ thiện, nhân đạo; thực hiện hành đạo theo phương châm“ Đạo
pháp, dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
Thời gian gần đây, nhiều cơ sở thờ tự được chính quyền cho phép tu sửa
ngày càng khang trang, do vậy khách thập phương đến lễ chùa ngày càng nhiều,
tạo cho cơ sở thờ tự ngày càng đông đảo người viếng thăm, sầm uất, ồn ào, thậm
trí cịn gây lộn xộn. Bên cạnh những phật tử có niềm tin tơn giáo chân chính
cũng cịn khơng ít những người lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để trục lợi cho bản
thân, biến nơi thờ tự thành nơi “buôn thần, bán thánh” hoạt động mê tín dị
đoan…
2.2.2. Về đặc điểm của Cơng giáo Lạng Sơn:
Đạo Công giáo theo người Pháp được truyền vào Lạng Sơn từ những năm
đầu thế kỷ XX. Đầu tiên là Thị xã Lạng Sơn, sau đó truyền sang các huyện như
Tràng Định, Lộc Bình, Văn Lãng… ngày 31/12/1931, Bộ Truyền giáo của Giáo
triều Vatican đã ra Sắc dụ cho tỉnh Lyon, Cộng hịa Pháp coi sóc đạo vùng Lạng
Sơn- Cao Bằng. Khi Hàng giáo phẩm Việt Nam được thành lập năm ngày
24/11/1960, Giáo phận Lạng Sơn- Cao Bằng trở thành giáo phận Chính tịa
thuộc Giáo tỉnh Hà Nội. Ngồi giáo dân bản địa, Lạng Sơn cịn có giáo dân ở
các tỉnh miền xuôi lên xây dựng kinh tế mới vào đầu những năm 60 của thế kỷ
XX.
Cơ sở thờ tự của đạo Công giáo trước đây ở Lạng Sơn khơng nhiều, có
một số nhà thờ phục vụ riêng cho qn đội viễn chinh Pháp. Từ ngày hịa bình
lập lại đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều đổi mới trong chủ trương,
chính sách đối với tơn giáo. ở Lạng Sơn sự quan tâm, tạo điều kiện của chính
quyền địa phương các cấp đã giúp cho hoạt động của các tơn giáo ổn định.
Nhìn chung chức sắc Công giáo ở Lạng Sơn không nhiều, giáo dân không
đông so với các tỉnh, thành ở đồng bằng Bắc bộ, đại bộ phận quần chúng theo
đạo là những người lao động, tích cực tham gia các phong trào trong lao động
sản xuất, phát triển kinh tế, xã hội, chấp hành tốt chủ trương chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước.
19
2.2.3.Về đặc điểm của đạo Tin lành Lạng Sơn:
Đạo Tin lành được truyền vào Lạng Sơn từ năm 1938. Lúc đầu Tin Lành
được truyền vào các địa phương như: Bằng Mạc (huyện Chi Lăng), thị trấn Na
Sầm (huyện Văn Lãng), Chợ Bãi (huyện Văn Quan), hai xã Trấn Yên, Tân Tri
thuộc huyện Bắc Sơn và thị xã Lạng Sơn. Hiện nay Tin lành chủ yếu hoạt động
trong đồng bào Dao ở huyện Bắc Sơn.
Qua quá trình hoạt động, đến năm 1958 chi Hội thánh Tin lành Bắc Sơn
được công nhận tư cách pháp nhân và là chi hội (nay là Hội thánh) thuộc Hội
thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc).
Hiện nay tổng số hộ theo Tin lành ở Lạng Sơn là 304 hộ, với 1.459 tín đồ
ở ở 13 thơn thuộc 9 xã vùng đồng bào dân tộc Dao thuộc huyện Bắc Sơn. Hội
thánh Tin lành Bắc Sơn là một trong những Hội thánh có đơng tín đồ nhất của
Tổng hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) .Nhìn chung trong thời gian qua,
các tín đồ theo đạo Tin lành cũng như các tín đồ các tơn giáo khác ở tỉnh Lạng
Sơn đều thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước, tích cực lao động sản xuất, góp phần xây dựng và phát triển kinh tế,
xã hội của tỉnh. Nét nổi bật của đồng bào theo Tin lành là thực hiện tốt chính
sách kế hoạch hóa gia đình, trong thơn bản khơng ai mắc các tệ nạn xã hội…
Tuy nhiên hiện nay để củng cố, tăng cường ảnh hưởng của đạo Tin lành
đối với các tín đồ, Hội thánh Tin lành Bắc Sơn đã tổ chức sinh hoạt tôn giáo từ
02 buổi tăng lên 04 buổi trong một tuần, ảnh hưởng không nhỏ đến thời gian lao
động sản xuất và học tập của các tín đồ. Trong Ban chấp sự có sự phân công để
tuyên truyền phát triển đạo không chỉ ở phạm vi các xã có đồng bào Dao thuộc
phạm vi huyện Bắc Sơn, mà còn tăng cường phát triển đạo ở các địa bàn khác
trong và ngoài tỉnh. Ngoài ra Hội thánh đã tăng cường thiết lập, mở rộng quan
hệ với các tổ chức Tin lành trong và ngoài nước nhằm tranh thủ sự ủng hộ, tài
trợ về vật chất và tinh thần cho Hội thánh.
Nhìn chung, cũng như các tơn giáo khác ở Lạng Sơn, Tin lành đang tích
cực truyền đạo, phát triển lực lượng tín đồ. So với các tôn giáo khác trong tỉnh,
hoạt động truyền giáo của Tin lành có phần mạnh hơn, tuy hoạt động tơn giáo đó
20