TIỂU LUẬN
MÔN : QUẢN LÝ XÃ HỘI VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Đề tài :
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC VÀ
ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................3
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO..................................................................................3
1. Một số khái niệm...............................................................................................3
2. Nội dung thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo.......................................4
3. Vai trò của việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo.............................6
Chương 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC VÀ
ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN................................................7
1. Những thành tựu đạt được và hạn chế...............................................................7
2. Nguyên nhân của những thành tựu đạt được và hạn chế.................................15
Chương 3 GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN........................................19
1. Nâng cao nhận thức về thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo................19
2. Hoàn thiện pháp luật về giáo dục và đào tạo...................................................20
3. Đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về giáo dục và đào tạo ở Việt
Nam.....................................................................................................................21
4. Kiện toàn tổ chức và hoạt động về giáo dục và đào tạo..................................22
5. Đảm bảo điều kiện vật chất cho việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào
tạo........................................................................................................................24
KẾT LUẬN.........................................................................................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................27
LỜI MỞ ĐẦU
Quản lý xã hội bằng pháp luật là phương thức quản lý cơ bản của hầu
hết các nhà nước đương đại trên thế giới. Để quản lý xã hội một cách có hiệu
quả, địi hỏi mỗi Nhà nước phải xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đáp
ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội, đồng thời tổ chức thực hiện đưa
pháp luật đi vào đời sống thực tiễn, để những quy định của Nhà nước được
thực thi trong thực tế nhằm phát triển đất nước.
Cũng như đa phần các quốc gia trên thế giới, Việt Nam cũng coi giáo
dục và đào tạo là nền tảng phát triển của đất nước. Quan điểm “Giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu” được đưa ra lần đầu tiên trong Nghị quyết số
04-NQ/TW Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII)
về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, ngày 14/01/1993. Xuyên
suốt nhiều kỳ Đại hội Đảng cũng như nhiều Hội nghị Trung ương, quan điểm
giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu không thay đổi.
Đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho sự phát triển, do đó hệ
thống giáo dục quốc dân đã được xây dựng ngày càng hồn thiện, góp phần
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu cho
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lĩnh vực giáo dục, đào tạo đã có
nhiều bước tiến vượt bậc: quy mơ trường lớp tiếp tục tăng, mạng lưới trường
lớp phát triển rộng khắp đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu học tập của nhân dân,
trình độ dân trí được nâng cao, chất lượng và hiệu quả giáo dục chuyển biến
tích cực. Cơng tác thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo đạt được thành
tựu trên cả ba phương diện tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước về giáo
dục và đào tạo.
Tuy nhiên, bên cạnh đó việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo
ở nước ta còn tồn tại một số hạn chế nhất định, chưa đáp ứng kịp thời những
đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó, dẫn đến
1
tình trạng hiệu quả giáo dục chưa thực sự được phát huy; những biểu hiện
thiếu kỷ cương, tiêu cực trong giáo dục chưa được ngăn chặn kịp thời, công
tác quản lý còn lỏng lẻo, chưa thống nhất;…ảnh hưởng đến phát triển sự
nghiệp giáo dục và đào tạo của nước nhà.
Với những lý do đó, em lựa chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về giáo
dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu làm rõ những vấn đề trên,
đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy hơn nữa việc thực hiện
pháp luật về giáo dục và đào tạo trong thời gian tới.
2
NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1. Một số khái niệm
1.1. Khái niệm pháp luật về giáo dục và đào tạo
Giáo dục và đào tạo là hoạt động có mục đích, có chương trình nhằm
trang bị cho con người những tri thức, kinh nghiệm lịch sử - xã hội cần thiết
và những kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp nhất định để chuẩn bị tham gia đời
sống xã hội, tham gia lao động sản xuất.
Để đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, cùng với khoa
học và cơng nghệ, giáo dục và đào tạo có vai trị quyết định, là nhu cầu bức
thiết của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong tình hình đó, Nhà nước có
trách nhiệm tổ chức, quản lý nền giáo dục nước nhà, bảo đảm những điều
kiện cần thiết cho các hoạt động giáo dục, đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, phục vụ mục tiêu phát triển lâu dài của xã hội và
một phần phúc lợi của nhân dân. Muốn đạt được điều đó, Nhà nước phải quan
tâm hồn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật để đảm bảo cho sự nghiệp giáo
dục, đào tạo phát triển vững chắc, ngăn chặn và đẩy lùi những hiện tượng tiêu
cực, xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, lành mạnh.
Có thể hiểu một cách khái quát: Pháp luật về giáo dục và đào tạo là hệ
thống các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội về giáo dục và đào tạo, bảo đảm phát
triển vững chắc sự nghiệp giáo dục và đào tạo, thực hiện mục tiêu nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, đáp ứng yêu cầu
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3
1.2. Khái niệm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo
Những quan điểm, chủ trương của Đảng về giáo dục và đào tạo được
thể chế hóa trong pháp luật về giáo dục và đào tạo và để đi vào cuộc sống,
được thực hiện trên thực tế phải làm tốt công tác thực hiện pháp luật.
Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là quá trình hoạt động có
mục đích làm cho các quy phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo đi vào cuộc
sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật
nhằm phát huy tính tích cực, chủ động trong thực hiện pháp luật, phòng ngừa
và xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật để phát triển vững chắc sự
nghiệp giáo dục và đào tạo, thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
2. Nội dung thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo
Pháp luật về giáo dục và đào tạo được thực hiện trong đời sống xã hội
thơng qua các hình thức tn thủ pháp luật, thi hành pháp luạt, sử dụng pháp
luật và áp dụng pháp luật. Các quy phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo
được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật (Hiến pháp 2013, Luật, Nghị
quyết, Chỉ thị, Thông tư, Quyết định,…) của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền trên tất cả các mặt của lĩnh vực giáo dục.
Nội dung thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo gồm 3 nội dung:
Thực hiện quy định pháp luật về các tổ chức giáo dục và đào tạo; thực hiện
các quy định của pháp luật về hoạt động giáo dục và đào tạo; thực hiện các
quy định của pháp luật về quản lý nhà nước đối với giáo dục và đào tạo.
Thứ nhất, thực hiện quy định pháp luật về các tổ chức giáo dục và đào
tạo.
4
Thực hiện quy định pháp luật về các tổ chức giáo dục và đào tạo là thực
hiện các quy định của pháp luật về tổ chức hệ thống giáo dục – đào tạo, phát
triển các cấp học, bậc học trong toàn quốc.
Hệ thống giáo dục quốc dân ở nước ta bao gồm giáo dục chính quy và
giáo dục thường xuyên. Theo khoản 2, Điều 6, Luật Giáo dục 2019 quy định
cấp học, trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm:
a) Giáo dục mầm non gồm giáo dục nhà trẻ và giáo dục mẫu giáo;
b) Giáo dục phổ thông gồm giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở
và giáo dục trung học phổ thông;
c) Giáo dục nghề nghiệp đào tạo trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp,
trình độ cao đẳng và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác;
d) Giáo dục đại học đào tạo trình độ đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ
tiến sĩ.
Thứ hai, thực hiện các quy định của pháp luật về hoạt động giáo dục và
đào tạo.
Thực hiện các quy định của pháp luật về hoạt động giáo dục và đào tạo
là quá trình vận động của các chủ thể pháp luật giáo dục và đào tạo trong việc
thực hiện các quy định, các yêu cầu của pháp luật về tổ chức giảng dạy, học
tập và các hoạt động giáo dục khác theo mục tiêu chương trình các cấp học,
các hệ đào tạo; quản lý người dạy, người học; tuyển sinh, cấp bằng tốt nghiệp;
quản lý các nguồn lực, trang thiết bị phục vụ cho giáo dục và đào tạo;…
Nội dung hoạt động giáo dục và đào tạo được quy định tại Điều 60,
Luật Giáo dục 2019 bao gồm những quy định chung về nhiệm vụ, quyền hạn
của nhà trường.
Thứ ba, thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước đối
với giáo dục và đào tạo.
5
Thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước đối với giáo
dục và đào tạo là quá trình hoạt động của các chủ thể trong việc thực hiện các
quy định của pháp luật, quy định tại Điều 104, Luật Giáo dục 2019.
Để thực hiện các nội dung đó, Luật Giáo dục 2019 xác định chủ thể
quản lý và những nhiệm vụ quyền hạn của chủ thể đó tại Điều 105:
“1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện
quản lý nhà nước về giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục đại học,
trung cấp sư phạm, cao đẳng sư phạm, giáo dục thường xuyên.
3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm trước Chính
phủ thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp, trừ trung cấp sư
phạm, cao đẳng sư phạm.
4. Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, có trách nhiệm phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục.
5. Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục
theo phân cấp của Chính phủ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình.”
3. Vai trò của việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo
Thứ nhất, thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo góp phần tích cực
đưa pháp luật vào đời sống thực tiễn, thúc đẩy sự nghiệp giáo dục và đào tạo
phát triển đúng quan điểm, chủ trương của Đảng, của Nhà nước.
Thứ hai, thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo góp phần ngăn
ngừa và hạn chế các vi phạm pháp luật, giải quyết kịp thời những vi phạm
pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giáo dục và
đào tạo.
6
Thứ ba, thông qua việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo góp
phần phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng thói quen, ý thức của cơng dân
sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO
TẠO Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN
1. Những thành tựu đạt được và hạn chế
1.1. Về thực hiện quy định của pháp luật về các tổ chức giáo dục và
đào tạo ở Việt Nam
Trong 3/4 thế kỷ qua, nền giáo dục nước ta đã thực hiện nhiều cuộc cải
cách. Cải cách gần đây nhất vào năm 2013, được đánh giá có tính tồn diện,
triệt để bằng Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013, trên tinh thần “đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế”.
Sau 10 năm thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi
(2010 - 2020), số trường mầm non tăng hơn 2.600 trường. Mỗi xã phường
đều có ít nhất 1 trường mầm non công lập. Số trẻ đến trường tăng hơn 1,5
triệu em so với năm học 2010 - 2011. Tỷ lệ trẻ 5 tuổi hoàn thành chương trình
giáo dục mầm non đạt 99,9%. Về cấp tiểu học, 63/63 tỉnh thành đều đạt chất
lượng phổ cập mức độ 2, trong đó 4 địa phương đạt mức độ 3. Cả 63/63 tỉnh
thành đều đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở cấp độ 1, một số địa
phương đạt mức độ 2 và 3[2]( Tiêu chuẩn công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo
được quy định tại Điều 16 Nghị định 20/2014/NĐ-CP ngày 24/3/2014 về phổ
cập giáo dục, xóa mù chữ).
Năm học 2020 - 2021, cả nước có hơn 5 triệu trẻ mầm non, hơn 8,8
triệu học sinh tiểu học, hơn 5,9 triệu học sinh trung học cơ sở; hơn 2,7 triệu
học sinh trung học phổ phông; tổng số phòng học là 593.808 phòng (tăng
7
3.504 phịng so với năm học trước), trong đó phịng học kiên cố chiếm 70,5%.
Riêng bậc trung học phổ thông, cả nước có có 2.543 trường (tăng 144
trường), 59.686 lớp; trong số này có 45,33% số trường đạt chuẩn quốc gia và
40,22% số trường đạt chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục.
Số liệu thống kê cho thấy, tính đến quý II/2019, cả nước có 1.940 cơ sở
giáo dục nghề nghiệp(bằng 1,576 lần so với năm 2010), trong đó: có 397
trường cao đẳng; 512 trường Trung cấp và 1031 trung tâm giáo dục nghề
nghiệp (1263 công lập, 670 tư thục và 7 cơ sở có vốn đầu tư nước ngồi). Cả
nước hiện có 172 trường đại học cơng lập, 65 trường ngồi cơng lập, với gần
1,7 triệu sinh viên.
Các năm 2020 và 2021 đánh dấu bước chuyển đổi linh hoạt của hệ
thống giáo dục Việt Nam trong giai đoạn dịch bệnh. Với chủ trương “tạm
dừng đến trường, không ngừng việc học”, các cấp bậc học (trừ mầm non) đã
chuyển sang hình thức dạy học trực tuyến qua internet và truyền hình, đây là
lần đầu tiên việc dạy học trực tuyến được triển khai trên quy mơ cả nước. Việt
Nam có gần 80% học sinh, sinh viên học trực tuyến, cao hơn mức trung bình
67,15% của các nước OECD, xếp thứ 17/200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên
thế giới.
Nhìn chung việc thực hiện quy định của pháp luật về các tổ chức giáo
dục và đào tạo ở nước ta đã có nhiều cố gắng và đạt được nhiều thành tựu to
lớn. Đó là hệ thống giáo dục được xây dựng ngày càng hồn chỉnh, thống
nhất, đa dạng được hình thành với đầy đủ cấp bậc, trình độ đào tạo và phương
thức giáo dục; quy mô trường lớp rộng khắp, tạo điều kiện học tập cho nhân
dân, góp phần tích cực vào việc thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phục vụ đắc lực cho việc phát triển kinh tế - xã
hội của nước nhà.
Tuy nhiên, việc thực hiện quy định của pháp luật về các tổ chức giáo
dục, đào tạo vẫn còn những hạn chế nhất định. quy hoạch mạng lưới cơ sở
giáo dục mầm non, phổ thông ở một số địa phương chưa phù hợp, cịn tình
8
trạng thiếu trường, lớp ở một số khu đô thị, khu công nghiệp; thiếu đất cho
xây dựng trường học, đặc biệt là ở các thành phố lớn; quy hoạch mạng lưới
các cơ sở giáo dục đại học và sư phạm cịn chậm. Ngành học phổ thơng phát
triển đều khắp nhưng quy mơ có sự chênh lệch giữa các vùng miền; ở miền
núi, hải đảo cơ sở vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu, chưa đáp ứng nhu cầu
chuẩn hóa, hiện đại hóa. Hệ thống các trường trung học chuyên nghiệp và dạy
nghề có phát triển nhưng chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu về nguồn nhân lực
cho sự phát triển đất nước trong thời gian tới.
1.2. Về thực hiện quy định của pháp luật đối với hoạt động giáo
dục và đào tạo ở Việt Nam
Thực hiện quy định của pháp luật đối với hoạt động giáo dục và đào tạo
là những nội dung mà các đơn vị trường học, cơ sở đào tạo trong hệ thống
giáo dục quốc dân phải thực hiện một cách nghiêm túc, đầy đủ những nội
dung cơ bản sau: Công tác tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo
dục khác theo mục tiêu, chương trình giáo dục là hoạt động cơ bản trong nhà
trường và các cơ sở đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân luôn được tập
trung chỉ đạo thực hiện. Vì vậy, những quy định về chương trình, kế hoạch
giảng dạy, học tập của Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng các hoạt động khác trong
nhà trường luôn được các địa phương tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc,
hiệu quả.
Ngành mầm non đã tổ chức thực hiện chu đáo chương trình ni
dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ nhà trẻ và mẫu giáo. Hầu hết chất lượng của
các cơ sở giáo dục mầm non trên cả nước giữ vững và có tiến bộ thơng qua
việc thực hiện có hiệu quả các chuyên đề và đôie mới nội dung, phương pháp
giáo dục trẻ. Cơng tác chăm sóc, ni dưỡng, bảo vệ sức khỏe cho trẻ được
duy trì tốt với nội dung trọng tâm là chất lượng bữa ăn, tăng cường vệ sinh,
tiêm chủng mở rộng, khám và theo dõi sức khỏe định kỳ. Theo kết quả của
cuộc Tổng điều tra Dinh dưỡng toàn quốc (2018- 2020) đã được Bộ Y tế công
9
bố, tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn quốc là
19,6%.
Ngành học phổ thông thực hiện quy định của pháp luật về hoạt dộng
giáo dục và đào tạo một cách nghiêm túc như chương trình giáo dục, kế hoạch
dạy học của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Các hoạt động trên lớp được
tiến hành thông qua việc dạy và học các môn bắt buộc và tự chọn do Bộ quy
định. Bên cạnh đó, thực hiện hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp do nhà
trường tổ chức gồm hoạt động ngoại khóa về khoa học, văn nghệ nghệ thuật,
thể dục thể thao nhằm phát triển năng lực toàn diện của học sinh và bồi dưỡng
năng khiếu cho học sinh; các hoạt động vui chơi, tham quan du lịch, giao lưu
văn hóa; các hoạt động môi trường; các hoạt động lao động cơng ích; các hoạt
động xã hội;… phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh.
Vấn đề giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ đã được các cấp quản lý có
nhiều cố gắng thực hiện. Cơng tác giáo dục chính trị, giáo dục đạo đức, pháp
luật, thể chất, quốc phòng cho học sinh được nhà trường, gia đình và xã hội
đặc biệt quan tâm và tổ chức với nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Ngành
giáo dục đã chủ trương phối hợp chặt chẽ với các ban ngành, đoàn thể khác
như Tư pháp, Cơng an,… triển khai các chương trình lồng ghép về giáo dục
dân số, giáo dục giới tính, giáo dục an tồn giao thơng, phịng chống ma túy,
AIDS và các tệ nạn xã hội khác,…góp phần giáo dục đạo đức, lối sống, xây
dựng đời sống văn hóa, hình thành nhân cách cho học sinh, đáp ứng yêu cầu
giáo dục tồn diện cho học sinh.
Cơng tác giáo dục hướng nghiệp được quan tâm hơn trước, Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã xây dựng chương trình hoạt động giáo dục hướng nghiệp
cho 3 năm trung học phổ thông và đưa vào giảng dạy ngay từ lớp 10 kể từ
năm 2006.
Riêng việc tổ chức thực hiện đổi mới chương trình sách giáo khoa,
Quốc hội ban hành Nghị quyết 88/2014/QH13 về đổi mới chương trình, sách
giáo khoa giáo dục phổ thơng. Báo cáo kết quả sau một năm thực hiện đổi
10
mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thơng, trong bối cảnh đại dịch
COVID-19 bùng phát, ngành giáo dục vừa tích cực thực hiện các giải pháp
phịng, chống dịch vừa triển khai Chương trình giáo dục phổ thơng 2018 cấp
tiểu học đối với lớp 1. Trước khi vào lớp 1, lứa trẻ sinh năm 2014 chủ yếu ở
nhà nên các em hầu như không được trực tiếp học chương trình mầm non cho
trẻ 5 tuổi ở trên lớp; việc hướng dẫn các hoạt động làm quen học tập và chuẩn
bị tâm lý, tinh thần cho các em trước khi vào lớp 1 rất khó khăn và hầu như
khơng thực hiện được. Trong việc tổ chức biên soạn, thẩm định sách giáo
khoa, chủ trương xã hội hóa biên soạn sách giáo khoa đã bước đầu có kết quả
tích cực. Năm nhà xuất bản với đội ngũ các nhà khoa học, giáo viên, cán bộ
quản lý đã tham gia biên soạn và trình thẩm định 5 bộ sách giáo khoa lớp 1; 3
bộ sách giáo khoa lớp 2; 3 bộ sách giáo khoa lớp 6 đầy đủ các môn học, hoạt
động giáo dục theo Chương trình giáo dục phổ thơng 2018 bảo đảm chất
lượng.
Giáo dục thường xuyên, công tác bổ túc văn hóa được tăng cường quản
lý và chỉ đạo về mọi mặt. Năm học 2020-2021 quy mô và mạng lưới cơ sở
giáo dục thường xuyên tại các địa phương về cơ bản được duy trì ổn định. Cả
nước hiện có 18.239 cơ sở giáo dục thường xuyên, tăng 782 cơ sở so với năm
học trước. Trong đó, số lượng trung tâm ngoại ngữ - tin học, trung tâm giáo
dục kỹ năng sống tăng cao 99,53% xã/phường/thị trấn có trung tâm học tập
cộng đồng.
Việc thực hiện các quy định của pháp luật đối với hoạt động giáo dục
và đào tạo trong giáo dục chuyên nghiệp ở nước ta đã có nhiều thành tựu đáng
kể. Các trường đã điều chỉnh chương trình từng bộ mơn cho phù hợp với
những chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo theo hướng giảm giờ
lý thuyết, tăng giờ thực hành, đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy
cho phù hợp với thực tiễn và tình hình của từng địa phương, chú trọng tới
việc rèn luyện năng lực thực hành cho học sinh. Ngoài loại hình đào tạo chính
quy, các trường, trung tâm cịn liên kết với các trường đại học, cao đẳng,
trung tâm giáo dục nghề nghiệp tạo thêm nhiều ngành nghề mới, góp phần
11
đào tạo đội ngũ nguồn nhân lực phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
Nhận thấy rằng lực lượng nhà giáo, cán bộ, nhân viên là lực lượng
nịng cốt, chủ lực mang tính quyết định trong thực hiện nhiệm vụ và nâng cao
chất lượng đào tạo trong nhà trường, do đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đã quan tâm xây dựng và quản lý đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục
có chất lượng, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Theo số liệu của Bộ Giáo
dục và Ðào tạo năm học 2018 - 2019, cả nước có hơn 1,16 triệu giáo viên
mầm non, phổ thơng; hơn 72 nghìn giảng viên đại học. Về cơ bản đội ngũ nhà
giáo đạt chuẩn và trên chuẩn trình độ đào tạo (tỷ lệ chuẩn và trên chuẩn đối
với mầm non 96,6%; tiểu học 99,7%; THCS 99%’ THPT 99,6%, đại học
82,7%). Về thực trạng chất lượng của accs nhà giáo tại các cơ sở giáo dục
nghệ nghiệp, số liệu thống kê cho thấy, tính đến năm 2018, khoảng 19% nhà
giáo dạy trình độ cao đẳng, 30% nhà giáo dạy trung cấp và 73% nhà giáo dạy
sơ cấp đạt chuẩn về kỹ năng nghề, số nhà giáo này giảng dạy được tích hợp.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn dành sự quan tâm lớn cho sự
nghiệp giáo dục và đào tạo, đặc biệt là các chính sách đầu tư, đảm bảo tỷ lệ
chi cho giáo dục từ 20% trở lên trong tổng ngân sách nhà nước. Cùng với sự
tăng trưởng không ngừng của kinh tế xã hội, đầu tư cho giáo dục từ nguồn
ngân sách nhà nước năm sau luôn cao hơn năm trước. Trong vòng 5 năm của
giai đoạn 2016-2020, ngân sách nhà nước chi thường xuyên cho giáo dục đã
tăng trên 32,2%. Trong năm 2016, ngân sách nhà nước được phân bổ chi cho
giáo dục đào tạo và dạy nghề là 195,6 nghìn tỷ đồng (trong đó 34,6 nghìn tỷ
lấy từ nguồn ngân sách Trung ương và 161 nghìn tỷ từ nguồn ngân sách địa
phương). Đến năm 2020, con số dự toán chi cho giáo dục đào tạo và dạy nghề
là 258,7 nghìn tỷ đồng (trong đó 30,2 nghìn tỷ lấy từ nguồn ngân sách Trung
ương và 228,5 nghìn tỷ từ nguồn ngân sách địa phương).
Bên cạnh nhiều thành tựu, việc thực hiện các quy định của pháp luật
đối với hoạt động giáo dục và đào tạo cồn tồn tại một số hạn chế có thể kể
12
đến như: giáo dục mầm non, tiêu học ở những vùng đặc biệt khó khăn, vùng
dân tộc thiểu số, vùng núi, hải đảo có được nâng cao song vẫn chưa nhiều;
tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ vẫn chưa được giải quyết triệt để ở một
số địa phương; chất lượng đội ngũ giáo viên chưa đồng đều, còn một bộ phận
giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, cá biệt có những giáo viên vi
phạm đạo đức nhà giáo, gây bức xúc xã hội; một số nơi hạ tầng cơng nghệ
thơng tin, thiết bị kết nối cịn thiếu, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn,chưa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số.
1.3. Về thực hiện nội dung quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo
ở Việt Nam
Thực hiện Hiến pháp 2013, Luật Giáo dục 2019; một số văn bản quy
phạm pháp luật khác do Quốc hội ban hành như: Nghị quyết số 29-NQ/TW
ngày 4/11/2013 "Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng
u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" đã được Hội nghị Trung Ương 8
(khóa XI) thơng qua, Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của
Quốc hội về Đổi mới chương trình, sách giáo khoa trung học phổ thơng.
Về chế độ ưu đãi đối với ngành giáo dục, có Nghị định số
204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ lương đối với
cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang; Thủ trướng Chính phủ ra
quyết định số 244/2005/QĐ-TTg về chế độ phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo
đang trực tiếp giảng dạy trong các cơ sở giáo dục cơng lập.
Ngồi ra cịn rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật do Chính Phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành như: Nghị định số
127/2018/NĐ-CP ngày 21/09/2018 của Chính phủ quy định trách nhiệm quản
lý nhà nước về giáo dục; Nghị định số 20/2014/NĐ-CP ngày 24/03/2019 của
Chính phủ về phổ cập giáo dục, xóa mù chữ; Quyết định số 711/2012/QĐTTg ngày 13/06/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Chiến
lược phát triển giáo dục năm 2011-2020”; Quyết định số 1373/QĐ-TTg ngày
13
30/7/2021 cuat Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội
học tập giai đoạn 2021-2030”; Nghị định số 105/2020/NĐ-CP ngày
08/09/2020 của Chính phủ về chính sách phát triển giáo dục mầm non;…
Để linh hoạt, chủ động việc dạy và học trong mùa dịch Covid-19, các
công văn về tinh giản chương trình trong giai đoạn dịch Covid-19 để thực
hiện hồn tất chương trình Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành cơng văn
giảm chương trình học kỳ II năm 2019-2020, tiếp đó năm 2020-2021 ban
hành cơng văn số 3280/BGDĐT-GDTrH ngày 27/8/2020 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo về hướng dẫn thực hiện điều chỉnh nội dung dạy học Trung học cơ
sở, Trung học phổ thông.
Công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo
dục được chú trọng. Theo số liệu của Bộ Giáo dục và Ðào tạo năm học 2018 2019, cả nước có hơn 1,16 triệu giáo viên mầm non, phổ thơng, hơn 72 nghìn
giảng viên đại học. Về cơ bản đội ngũ nhà giáo đạt chuẩn và trên chuẩn trình
độ đào tạo (tỷ lệ chuẩn và trên chuẩn đối với mầm non 96,6%, tiểu học
99,7%, THCS 99%, THPT 99,6%, đại học 82,7%). Công tác bồi dưỡng
nghiệp vụ chuyên môn được tổ chức thường xuyên, nhất là về nội dung và
phương pháp giảng dạy các lớp thay sách, thực hiện đổi mới chương trình
sách giáo khoa, sách giáo khoa giáo dục phổ thông theo Nghị quyết 88/2014/
QH 13 về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông.
Trong thực hiện nội dung quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo, công
tác thanh tra, kiểm tra được quan tâm về mặt tổ chức biên chế đến cấp kinh
phí, xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra, kiểm tra. Bộ Giáo dục và Đào
tạo ban hành hướng dẫn thanh tra, kiểm tra thi tốt nghiệp Trung học phổ
thông năm 2021; Bộ đã tổ chức 10 đoàn kiểm tra cơng tác chuẩn bị thi tại 20
tỉnh/thành phố, 63 đồn kiểm tra công tác coi thi tại 63 tỉnh/thành phố và 63
đồn kiểm tra cơng tác chấm thi tại 63 tỉnh/thành phố, 5 đồn kiểm tra cơng
tác phúc khảo tại 10 tỉnh, thành phố; đợt 2 thành lập 13 đoàn kiểm tra công
tác coi thi tại 13 tỉnh/thành phố và 13 đồn kiểm tra cơng tác chấm thi tại 13
14
tỉnh/thành phố. Tiếp tục triển khai thực hiện và đánh giá kết quả thực hiện Chỉ
thị số 5972/CT-BGDĐT ngày 20/12/2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo về việc tăng cường thanh tra giáo dục, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục, đào tạo; Chỉ thị số 1048/CT-BGDĐT ngày 28/4/2020 của
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc tăng cường thanh tra giáo dục đáp
ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông và tự chủ giáo dục đại học. Việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo cũng được thực hiện đúng pháp luật. Công tác thi đua,
khen thưởng được thực hiện thường xuyên, định kỳ.
Việc thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo bên cạnh
những điểm sáng, còn tồn tại một số hạn chế như: công tác quản lý các hoạt
động cịn trì trệ, nặng kinh nghiệm chủ nghĩa, chưa thực sự đổi mới, sáng tạo,
hiệu quả quản lý thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển giáo dục – đào
tạo trong tình hình mới; một số văn bản chưa ban hành kịp thời; việc kiểm tra,
thanh tra còn bất cập, thiếu kiên quyết trong xử lý và khắc phục các biểu hiện
tiêu cực; công tác bồi dưỡng cán bộ, nhà giáo được quan tâm song hiệu quả
và chất lượng chưa cao.
2. Nguyên nhân của những thành tựu đạt được và hạn chế
2.1. Nguyên nhân của những thành tựu đạt được
Việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở nước ta trong thời
gian qua đã đạt được những thành tựu nhất định, xuất phát từ những nguyên
nhân sau:
Thứ nhất, nhờ vào sự lãnh đạo kịp thời, đúng đắn của Đảng, Quốc hội,
Chính phủ; sự quan tâm của các Bộ, ban, ngành phối hợp với cấp ủy đảng và
chính quyền địa phương đề ra nhiều chủ trương, biện pháp cụ thể, thiết thực
đối với việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo. Quốc hội đã thông
qua Luật Giáo dục và quyết định nhiều chủ trương lớn về giáo dục, đào tạo;
Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các chính sách và trực tiếp
15
chỉ đạo ngành giáo dục, đào tạo triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng,
Nhà nước.
Nhận thức đúng đắn quan điểm giáo dục và quốc sách hàng đầu và vị
trí, vai trị, ý nghĩa của việc thực hiện pháp luật về giáo dục, đào tạo, từ đó,
kịp thời lãnh đạo các cấp chính quyền, đồn thể quần chúng, tổ chức chính trị
- xã hội và nhân dân tổ chức thực hiện tốt những quy định của pháp luật về
giáo dục và đào tạo.
Thứ hai, sự nỗ lực, quyết tâm của các cơ quan quản lý, đội ngũ nhà
giáo và tồn thể nhân dân; đồng thời có sự phối hợp và giúp đỡ có hiệu quả
của các sở, ban, ngành, mặt trận, tổ chức đoàn thể.
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục các cấp nhiệt tình, tận tụy,
có tinh thần trách nhiệm, cố gắng trong cơng tác giảng dạy và quản lý. Đội
ngũ này không chỉ truyền đạt kiến thức chun mơn mà cịn thực hiện nhiệm
vụ giáo dục đạo đức, lý tưởng cho học sinh; giải thích đường lối, chủ trương
của Đảng và Nhà nước trong xã hội và nhân dân; đặc biệt là đội ngũ giáo viên
vùng cao, vùng sâu, vùng xa đã vượt qua khó khăn, thử thách, góp cơng vào
sự nghiệp trồng người. Nhân dân ra sức phát huy truyền thống hiếu học, tích
cực phối hợp với nhà trường trong giáo dục thế hệ trẻ.
Thứ ba, việc chấp hành và vận dụng các quy định của pháp luật về giáo
dục và đào tạo của cơ quan quản lý được đảm bảo, phù hợp với tình hình thực
tiễn của đất nước.
Các cơ quan quản lý đã chấp hành nghiêm túc những quy định của
pháp luật về giáo dục và đào tạo, vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo phù
hợp với tình hình của đất nước nhằm phát huy hiệu quả cao nhất. Từ sự chấp
hành như vậy nên việc tổ chức và thực hiện pháp luật ở nước ta trong lĩnh vực
giáo dục, đào tạo đạt được nhiều thành tựu to lớn như trên.
Thứ tư, truyển thống hiếu học của dân tộc Việt Nam được phát huy
mạnh mẽ; tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam tiếp tục phát triển; đời sống
nhân dân được cải thiện cả về vật chất lẫn tinh thần.
16
Trong thời gian qua, truyền thống hiếu học của dân tộc ta được phát
huy mạnh mẽ, thể hiện trong từng gia đình, từng cộng đồng dân cư. Tồn xã
hội khơng chỉ góp cơng, góp của mà cịn góp cả trí tuệ cho việc xây dựng và
phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo; trực tiếp tham gia và giám sát các hoạt
động giáo dục, đào tạo.
Trên cơ sở tình hình kinh tế - xã hội không ngừng phát triển, đời sống
người dân được nâng cao nên sự đóng góp, hỗ trợ của nhân dân đối với việc
phát triển giáo dục, đào tạo ở nước nhà biểu hiện sinh động hơn, hiệu quả
hơn, góp phần tích cực vào việc thực hiện, làm cho giáo dục và đào tạo phát
triển bền vững hơn.
2.2. Nguyên nhân của hạn chế
Bên cạnh những thuận lợi thì việc thực hiện pháp luật về giáo dục và
đào tạo ở nước ta còn tồn tại một số hạn chế. Những hạn chế này bắt nguồn từ
những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, tư duy về giáo dục và đào tạo còn chậm đổi mới, chưa theo
kịp yêu cầu phát triển đất nước cũng như đòi hỏi của sự chuyển đổi cơ chế
quản lý kinh tế xã hội và giao lưu, hội nhập kinh tế quốc tế.
Các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương chưa quán triệt sâu sắc
quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục, đào tạo
trong tình hình mới, chưa cụ thể hóa đầy đủ, kịp thời và đầy đủ trong việc
hoạch định một số chính sách để thực hiện tốt nhất các quy định của pháp luật
về giáo dục và đào tạo. Cùng với đó, chưa có nhận thức một cách đầy đủ để
có giải pháp đối với những vấn đề mới nảy sinh trong mối quan hệ giữa kế
hoạch phát triển giáo dục, đào tạo với nhu cầu của thị trường lao động; giữa
quy mô trường, lớp giữa các vùng miền với việc nâng cao chất lượng, hiệu
quả giáo dục và đào tạo; giữa việc đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của
nhân dân và khả năng của nền kinh tế; giữa đầu tư của Nhà nước và đóng góp
của nhân dân; giữa tình trạng phân hóa giàu nghèo và yêu cầu bảo đảm công
bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo.
17
Thứ hai, cơ chế quản lý về giáo dục, đào tạo chưa tương thích với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nhu cầu phát triển nhân lực
của đất nước. Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo cịn nặng tính quan
liêu, chưa thốt khỏi tình trạng ơm đồm, sự vụ. Cơng tác xây dựng và thực
hiện quy hoạch, kế hoạch còn nhiều bất cập, chưa ngặn chặn kịp thời tình
trạng lợi dụng chính sách xã hội hóa về giáo dục nhằm thu lợi bất chính.
Thứ ba, trình độ kiến thức, năng lực nghiệp vụ của một bộ phận giáo
viên và cán bộ quản lý còn nhiều mặt hạn chế.
Một số cơ quan quản lý giáo dục ở các cấp chưa làm tốt chức năng
tham mưu, dẫn tới thiếu chủ trương, biện pháp cụ thể, thiết thực. Sự phối hợp
giữa các cơ quan có khi chưa chặt chẽ; việc chấp hành các quy định về chế độ
công tác, lề lối làm việc chưa thật sự nghiêm túc, có nơi cịn hiện tượng
bng lỏng quản lý về cơ sở vật chất, tài chính. Việc xử lý kỷ luật đối với
những vi phạm còn chậm, chưa triệt để.
18