Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Hình ảnh nông thôn, người nông dân trong thơ trần đăng khoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.89 KB, 7 trang )

Kể từ khi biết đọc sách, nhất là thơ ca ,tôi cảm nhận được một điều chắc chắn:
Đất nước là đề tài, là cảm hứng muôn đời cho nghệ sỹ, dù họ ở bất cứ nơi đâu,
thời đại nào. Học lịch sử Việt Nam, tôi biết rằng Việt Nam là một trong những
trung tâm hình thành nền văn minh lúa nước. "Nền văn minh được đánh giá là lớn
hơn nhiều so với một nền văn hóa" - tơi rất tâm đắc với nhận định này. Nó làm tơi
nhớ tới một hình ảnh nổi bật xuyên suốt lịch sử Việt Nam, diễn trình văn hóa Việt
Nam. Đó chính là bức tranh nơng thơn và hình ảnh người nơng dân. Người nơng
dân Việt Nam là chủ nhân của nền văn minh lúa nước và nông nghiệp. Nông dân,
nông thôn như là một thành tố khơng thể thiếu cấu thành văn hóa Việt Nam. Đặc
biệt, có một nhà thơ đã để lại ấn tượng sâu sắc cho tôi khi viết về chủ đề này, đó
chính là nhà thơ Trần Đăng Khoa
Trần Đăng Khoa sinh vào tháng 4 năm 1958, quê ông ở huyện Nam Sách, tỉnh Hải
Dương. Ông là một nhà thơ, nhà báo, biên tập viên Tạp chí văn nghệ Quân đội
đồng thời cũng là hội viên của Hội nhà văn Việt Nam. Xuyên suốt sự nghiệp văn
chương, ông đã để lại trong lòng độc giả những áng thơ bất hủ về một thời vàng
son của thi ca. Nhiều thập kỉ trôi qua nhưng các tác phẩm của ông vẫn đứng vững
trước những đào thải nghiệt ngã của thời cuộc bởi phong cách riêng biệt và chất
thơ khơng bao giờ cũ. Ơng đã ghi lại dấu ấn trong lòng người đọc bao kí ức về tuổi
thơ với chất thơ nhẹ nhàng, hồn hiên mà đầy chân thật nhưng cũng không kém
phần sâu sắc với nhiều tầng ý nghĩa. Hình ảnh nơng thơn hiện hữu trong các tác
phẩm của ơng như một hình tượng giàu sức gợi, được cảm nhận bằng cả tấm lịng
của một người con đã gắn bó với mảnh đất mình sinh ra và lớn lên.
Thơ của Trần Đăng Khoa mang đến cho ta hình ảnh nơng thơn vừa gần gũi thân
quen lại vừa yên ả thanh bình. Trong bài Từ ngọn lúa sinh ra, ơng tâm sự: “Tơi chỉ
có thể viết được cái gì tơi đã thực sự thấy bằng mắt, chỉ rung cảm về cái gì thực sự
tơi đã trải trong tâm trí mình. Có thể tìm thấy trong thơ tơi những sự việc hồn
tồn có thực của bản thân tơi, gia đình tơi, làng q tơi... Tơi thực sự biết ơn cái
làng quê nhỏ bé của mình đã ni dưỡng tơi như vậy”. Chính mảnh đất làng thân
thương đã ni lớn ơng, và cũng chính tất cả sự sống tiềm tàng của cái làng quê
ấy đã đem lại cho thơ ông một nhựa sống tràn trề không bao giờ vơi cạn. Nơi khởi
phát nguồn thơ đầu tiên của Trần Đăng Khoa chính là khoảng sân nhỏ trước nhà.


Cái sân nhỏ của ngôi nhà quê, nhưng là cả một vũ trụ chứa đầy thú vị đối với cậu
bé ấy. Quanh sân, có nhiều nhân vật đã đi vào các bài thơ đặc sắc của ơng, bình dị
mà đượm sắc màu cổ tích thần tiên. Đó là ngọn mồng tơi - nhảy múa; là muôn


nghìn cây mía – múa gươm; cây bưởi đu đưa - bế lũ con - đầu trọc lốc; xa hơn
chút nữa là cây dừa - sải tay – bơi, đến bụi tre tần ngần - gỡ tóc. Khoảng sân này
cũng là nơi diễn ra nhiều điều kì lạ khác: đó là những cơn mưa rào Sấm ghé xuống
sân – khanh khách - cười; mưa chéo mặt sân - sủi bọt; cóc nhảy chồm chồm;
cả Ơng trời mặc áo giáp đen – ra trận…hay đám ma bác giun với: Họ hàng nhà
kiến kéo ra – Kiến con đi trước, kiến già theo sau – Cầm hương kiến đất bạc đầu –
Khóc than kiến cánh khoác màu áo tang – Kiến lửa đốt đuốc đỏ làng – Kiến kim
chống gậy, kiến càng nặng vai – Đám ma đưa đến là dài – Qua những vườn chuối,
vườn khoai, vườn cà... Chỉ với một góc sân quen thuộc, ơng đã tạo ra được cả một
thế giới huyền diệu chỉ trẻ thơ mới thấy, biết, thích thú. Từ cái thế giới nho nhỏ
ấy, hồn thơ của Khoa cất cánh, rộng mở, hướng tới không gian làng quê rộng lớn
hơn, chứa bao điều hấp dẫn. Đó là hương quê, từ mùi thơm ngát của hoa bưởi
rụng đêm qua: Hoa rơi trắng mảnh sân con – Ôi hoa đã rụng vẫn còn ngát hương,
của hương nhãn đặc lại – Thơm ngoài sân trong nhà đến mùi vị rất riêng của đất
quê: Mùi bùn đang ngấu – Mùi phân đang hoai – Vơi chưa tan hẳn – Cịn hăng
rãnh cày. Hương vị của làng quê dẫu có thể khơng quen với ai đó nơi thị thành,
nhưng với ơng, nó đã thành máu thịt. Chính tự ơng cũng cảm thấy: Đất trời cách
một gang mây – Và tôi cùng với luống cày tỏa hương. Giữa đất và người có một
sự giao cảm đặc biệt: Đi trong ngào ngạt – Niềm vui gieo trồng – Thịt da ta cũng –
Tỏa hơi ruộng đồng. Cái hương đồng gió nội thân thương ấy như làm say cả chúng
ta:
“Trời đất hôm nay
Như chim mới hót
Như rượu mới cất
Như mật mới đơng”

Đó là những khung cảnh tự nhiên bình dị mà thân thương người ta chỉ có thể nhìn
thấy ở đất làng: từ dưới mặt đất Hàng cây cau lặng đứng – Hàng cây chuối đứng
im; … trời trở gió heo may - Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau; Dưới bóng đa, con
trâu – Thong thả nhai hương lúa – Đủng đỉnh đàn bị về - Lơng hồng như đốm
lửa đến bầu không gian trên cao Bầu trời xanh biếc mênh mông - Cánh cị chớp
trắng trên sơng Kinh Thầy.


Khơng chỉ thế, thơ Trần Đăng Khoa cịn mang đến những âm thanh sống của làng
quê vô cùng thú vị. Sống ở thôn quê, tham gia vào tất cả những sinh hoạt văn hóa
của làng, ơng tự nhiên hấp thụ vào mình tất cả những âm thanh bình dị, trong
trẻo và vô cùng phong phú của một vùng nông thôn. Khoa phác họa lại trong rất
nhiều bài thơ những thanh âm đó.
Từ tiếng của các con vật trong nhà: tiếng mấy chú gà liếp nhiếp, mụ gà cục tác
như điên, tiếng con chó vện hay hỏi đâu đâu, tiếng con vịt bầu hay nói ầm ĩ… đến
tiếng của các con vật ngồi đồng: Ếch nhái m m mở hội, Ếch con học nhạc,
Dế Mèn ngâm thơ; tiếng các con vật trên cao: Xôn xao tiếng sẻ, tiếng ve báo mùa,
Những chú chim chiu chít – Bay lên kêu chíp chíp, Tiếng chim chích chịe đang
hót… thật sơi nổi, rộn ràng. Và đây là một thứ âm vang đặc trưng của khơng gian
sinh hoạt văn hóa làng: Tiếng trống làng – Tùng! Tùng! Tùng… Âm vang – Đầy làng
– Tiếng gà – Khát khát – Tiếng chó – Khau khau – Tiếng gọi nhau – Ơi ới – Tiếng
những nồi cơm – Chín vội – Liềm hái – Va nhau… Tiếng ồn ào – Cánh đồng – Chân
trời – Vàng rực.
Làng quê không chỉ sinh động hẳn lên bởi những nhạc điệu rộn ràng, sơi nổi ấy mà
cịn tha thiết bởi tiếng võng đưa kẽo kẹt. Cái âm thanh Kẽo cà kẽo kẹt q đỗi
bình thường ấy lại chứa trong nó bao điều ý nghĩa: Kẽo cà kẽo kẹt – Mênh mang
trưa hè – Chim co chân ngủ - Lim dim cành tre… Cây na thiu thiu – Mắt na hé mở Chim ngoài cửa sổ - Mổ tiếng võng kêu… Xưa mẹ ru em – Cũng tiếng võng này –
Cánh có trắng muốt – Bay – bay – bay – bay. Khơng gian làng cịn lắng đọng trong
tiếng hát ru ầu ơ dịu dàng, ấm áp yêu thương của bà: Vẫn là đêm như đêm trong
ca dao – Tiếng của đất rì rầm sinh nở - Lời bà ru ngọt ngào sữa lúa – Cháu nằm

nghiêng như hạt giống sắp nảy mầm; tiếng mẹ hát Ngọt bùi đắng cay; tiếng đàn
bầu Tiếng ân tình mấy ngàn năm trước – Tiếng ân tình hơm nay khiến Ánh trăng
bỗng thành bát ngát – Tiếng chim đêm cao vời…
“Có ai đi xa mà không nhớ, không thương những tiếng quê hương ấy.”
Trần Đăng Khoa còn gây ấn tượng đặc biệt với ta bởi cách cảm âm thanh kỳ lạ và
đầy tinh tế. Trong những tiếng quê bình dị, anh nghe được, tái hiện lại được cả
những tiếng lắng sâu vào trong không gian mà chúng ta khơng dễ gì nghe thấy. Đó
là tiếng thóc thở hí hóp, Tiếng cây lách cách đâm chồi, tiếng gió trở mình trăn trở,
tiếng sương đọng mật, tiếng rì rầm rặng duối – Há miệng địi uống sương,Tiếng
trăng thở động tàu dừa, tiếng thơ thầy đọc đỏ nắng, xanh cây quanh nhà. Nửa


đêm, phải tinh lắm mới có thể nghe được tiếngLưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng
cây , tiếng trời trở gió heo may hịa lẫn với nhau để làm nên cái khơng khí chớm
thu rất đặc trưng. Ta nghe trong thơ có cái chớm lạnh của gió mùa. Thấy ở đây
một chút lo xa nhạy cảm của con trẻ, thấy cần thêm tấm áo ấm, thoáng chút xao
xác, hơi buồn và vắng vẻ. Đúng là Khoa có một năng lực tinh tế khi nắm bắt, lắng
nghe thanh âm cuộc sống. Hay chính sự giao cảm rất sâu giữa thi sĩ với đồng đất
quê hương đã khiến anh trở nên tài tình trong việc cảm nhận cái “hồn”, cái “thần”
của quê hương xứ sở, có thể nghe và tả đầy rung cảm cả cái âm thanh cái lá đa
rụng trong đêm thanh vắng Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng, thậm chí
cả Một tiếng gì khơng rõ – Xơn xao cả đất trời.
Chính những thanh âm vang động của đời thường, những thanh âm trong trẻo,
tha thiết của tình người nơi làng quê Bắc bộ trong thơ ông đã truyền cho người
đọc một tình yêu sâu sắc với quê hương, một xúc cảm mạnh mẽ với phong vị Việt
Nam. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Pháp Gerard Gullume khi đọc thơ Khoa
đã cảm động thốt lên:: “Việt Nam, hồn tôi!”.
Xưa, khi mảnh đất làng chưa phải là thi liệu quen thuộc của văn chương, chúng ta
đã xúc động với mấy vần thơ của cụ Tam Nguyên Yên Đổ ưu ái cho hồn xứ sở: Ao
thu lạnh lẽo nước trong veo – Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo – Sóng biếc theo

làn hơi gợn tí – Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo – Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt –
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo; Năm gian nhà cỏ thấp le te – Ngõ tối đêm sâu
đóm lập lịe… Khơng gian nơng thơn Bắc bộ đã hiện lên thật gần gũi, thân thương,
nhưng dẫu sao vẫn còn mang nét tĩnh và trầm mặc quá. So sánh có thể là khập
khiễng, nhưng đúng là chỉ đến khi đọc thơ của Trần Đăng Khoa chúng ta mới cảm
nhận được hết, một cách rõ nét, một cách sinh động và gợi cảm cái hình ảnh,
thanh âm rất đặc trưng của làng quê Bắc bộ, làng quê Việt Nam. Ông đã sống trọn
vẹn cái khơng khí của làng q, đã ngắm nhìn hình ảnh q hương bằng hình ảnh
bơng lúa mẩy vàng cả trời sao, đã lắng nghe tiếng quê hương bằng tiếng lúa rì rào,
đã thở hơi thở quê hương bằng hương thơm của lúa đồng ngọt sữa, nên trái tim
ông cứ tự nhiên ca hát “những lời từ ngọn lúa sinh ra.”
Nhắc đến hình ảnh người nơng dân, tác giả đã từng viết: “Nông dân khổ đến mức
không cịn biết là mình khổ nữa". Nơng dân thời nào cũng khổ. Hình như họ sinh
ra để khổ. Có được sướng cũng khơng sướng được. Có phủ lên vai họ tấm áo bào
lộng lẫy của một ơng vua thì họ cũng khơng thể thành được ơng vua. Họ có sức


chịu đựng gian khổ đến vô tận. Nhưng lại mất hồn tồn thói quen để làm một
người sung sướng. Thế mới khổ!” Ta có thể nhìn thấy rõ cái “khổ” ấy qua những
câu thơ thấm đẫm sự vất vả của người nơng dân được ơng viết ra. Đó là : “Áo mẹ
mưa bạc màu – Đầu mẹ nắng cháy tóc”. Là “bố em đi cày về - Đội sấm – Đội chớp
– Đội cả trời mưa”. Không phải ngẫu nhiên mà ông viết thế. Bởi lẽ ông thực sự
rung động trước tư thế “đội sấm”, “đội chớp”, “đội mưa” rất ung dung, bình tĩnh,
tự tin của cha mình. Mọi hình ảnh của bài thơ Mưa quy tụ lại một điểm đẹp nhất,
sáng nhất là bức chân dung người nông dân đầy dũng cảm, tự tin và chiến thắng.
Đọc thơ ông, ta cũng được hịa mình vào cái khơng khí vui tươi của ngày mùa.
Những người làm nghề nông được gặt hái thành quả lao động của mình:” Chị chủ
nhiệm rũ rơm – Anh dân quân đập lúa – Thóc nở bung trời sao – Nhuộm vàng cả
trời cao”. Khó có thể tìm thấy ở đâu có niềm vui tập thể bình dị, trong trẻo như
niềm vui trên đồng ruộng. Cũng khó có thể tìm thấy ở đâu hình ảnh Thóc nở bung

trời sao đẹp và đáng yêu đến vậy. Và ta cũng như được hịa mình vào sự khó khăn
khi sản xuất ra hạt gạo để phục vụ cho kháng chiến:chỉ có ở làng quê Bắc bộ
“Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hơi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy”
Đó là bão giơng khi tháng bảy về, là mưa tuôn khi tháng ba đến và trời nắng như
cháy da bỏng thịt của những trưa tháng sáu.Những biến động đó của thời tiết là
những thách thức rất lớn đối với cây lúa vốn là loại thân mềm lại rỗng ở phía bên
trong. Thế nhưng những thử thách ấy dù có lớn đến như thế nào thì cũng khơng
thể làm khó được con người.Khơng đổ mồ hơi rơi nước mắt, mà người mẹ trong
bài thơ cũng như rất nhiều những người nông dân khác đều phải trải qua rất


nhiều những khó nhọc chỉ mong có thể lấy cơng sức ấy đổi lấy những hạt lúa căng
tròn và chén cơm mát ngọt. Điều đó khiến cho ta có thể cảm nhận được những
phẩm chất lao động đáng quý của người nông dân Việt Nam.Dù cho bão táp, mưa
dầm, nắng rọi khiến cho “nước như ai nấu”, họ vẫn không quản khó nhọc, vẫn cần
cù, siêng năng làm lụng chỉ để mong có một mùa thu hoạch thuận lợi, để cuộc
sống được đủ đầy hơn, ấm no hơn…
Gian khó mà người nông dân đối mặt trong sản xuất nông nghiệp không chỉ đơn
thuần là sự khắc nghiệt của thiên nhiên mà có những thứ cịn khủng khiếp, nguy
hiểm hơn nữa, đó chính là bom đạn trong chiến tranh:
“Những năm bom Mĩ
Trút lên mái nhà

Những năm khẩu súng
Theo người đi xa
Những năm băng đạn
Vàng như lúa đồng”
Những câu thơ trên đã tái hiện ra khung cảnh đất nước trong những năm cuộc
kháng chiến chống Mĩ diễn ra vô cùng khốc liệt. Để tàn phá đất nước ta, chúng
không ngại đổ xuống đất ta vô vàn những trận mưa bom, bão đạn với sức hủy diệt
ghê gớm.Trước hồn cảnh đó, bao lớp thanh niên đã đi theo tiếng gọi của tình
yêu tổ quốc để xung phong vào trận mạc làm nhiệm vụ chống lại qn thù, bảo vệ
nền hịa bình cho đất nước. Đó là nhiệm vụ rất đỗi lớn lao.Lúc này, những người ở
lại đảm nhiệm một vai trò cũng lớn lao không kém, là một hậu phương vững chắc
bằng cách tăng gia sản xuất để có thể làm ra lúa gạo cung ứng cho bộ đội ta. Qua
đây, ta thấy q trình làm ra hạt gạo đã khơng hề dễ dàng vì sự xuất hiện của
những hiện tượng thời tiết khắc nghiệt như đã nói, nhưng những người nơng dân
đã vượt qua rất xuất sắc.Ấy vậy mà bao nhiêu thành quả lao động sắp được gặt
hái thì lại đứng trước nguy cơ bị hủy hoại không thương tiếc của bom đạn kẻ thù.
Hình ảnh băng đạn của giặc “vàng như lúa đồng” đã cho thấy sức tàn phá vô cùng
của chiến tranh. Hồn cảnh ấy tuy có nghiệt ngã, khốc liệt nhưng lại là dịp
để làm nổi bật lên ở người nơng dân ý chí, lịng quyết tâm, sự can trường và tinh
thần sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn, thử thách. Dù có khi sự nguy hiểm đe


dọa đến sinh mạng con người nhưng họ vẫn không hề lùi bước để có được “bát
cơm mùa gặt” – “thơm hào giao thông”.



×