PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Với lịch sử hơn 4000 năm văn hiến, Việt Nam đã có một kho tàng thơ ca phong
phú và đa dạng. Thơ ca như dòng sữa mẹ nuôi dưỡng tâm hồn con người Việt Nam từ
ngàn xưa đến nay. Người ta yêu thơ, biến thơ thành những câu nói ví von, thành ca dao,
dân ca hay thậm chí rút ra thành thành ngữ, hò, vè,...
Tuy nhiên, để biến một bài thơ thành một bài hát là điều không dễ, ngoài việc các
nhạc sĩ thay đổi về thanh điệu cho hài hòa để phổ chúng thành nhạc thì bản thân bài thơ
cũng phải độc đáo và có âm điệu dễ hát. Cho đến nay đã có nhiều bài thơ được phổ nhạc
nói về tình yêu như: Cô hàng xóm của Nguyễn Bính, Màu tím hoa Sim của Hữu Loan,
Hai sắc hoa Ti-gon của TTKh, Hương thầm của Phan Thị Thanh Nhàn,…
Cũng là một dạng thơ được biến thành bài hát, nhưng thơ Trần Đăng Khoa mang
một sắc thái hoàn toàn khác, những bài thơ của ông được đa số trẻ con yêu mến mà tiêu
biểu nhất là bài thơ đã được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ thành nhạc:
“Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Của hồ nước đầy
… … … … …
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng Sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ”
… … … …
(Hạt Gạo Làng Ta)
Vì sao thơ Trần Đăng Khoa lại được đa số các trẻ nhỏ yêu mến như vậy? Bởi
những tác phẩm thơ của ông rất gần gũi với tâm lí trẻ thơ, vần điệu ngắn gọn dễ nhớ,
giàu ý nghĩa và hình ảnh đầy sức sống.
Trần Đăng Khoa là người đã tạo cho mình một phong cách thơ không lầm lẫn
với bất kì nhà thơ nào, ông sáng tác còn rất sớm: khi mới lên tám tuổi! So với các trẻ
1
con khác, nếu sáng tác trong độ tuổi này thì sẽ không tránh khỏi sự vụng về, non nớt
trong suy nghĩ… nhưng đối với Trần Đăng Khoa, ông đã đạt được sự chín chắn
trong tư duy, độc đáo trong việc thể hiện suy nghĩ, sử dụng các biện pháp tu từ điêu
luyện và có sự trau chuốt trong cách chọn lọc từ ngữ.
Đến với thơ Trần Đăng Khoa, người đọc có cảm giác như được trở về với tuổi
thơ. Hình ảnh thơ mộc mạc, ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu nên đã để lại ấn tượng sâu sắc
trong lòng người đọc. Hầu hết các bài thơ đều là những bức tranh tái hiện lại cuộc sống
ở làng quê. Từ những âm thanh trong cuộc sống đến “những năm bom đạn” trong chiến
tranh, được thể hiện trong thơ một cách đầy đủ và rõ nét.
Người xưa quan niệm, thơ không nhất thiết cầu kì, thơ cần nhất sự dung dị,
Lưu Đại Khôi đã nói: “Văn chương quý ở chỗ giản dị. Phàm viết văn và cả làm thơ
nữa, những cây bút già dặn thì giản dị, vị thanh đạm thì giản dị, khí đầy đủ thì giản
dị, thần cao xa mà hàm chứa khôn cùng thì giản dị. Vì vậy, giản dị là cảnh giới tận
cùng của văn chương vậy”. Bởi vì giản dị thì không cầu kì, câu chữ lại có tính triết
lí, ý tứ sâu xa lại hàm chứa tư tưởng khôn cùng. Thơ của Trần Đăng Khoa hấp dẫn
như loại rượu vang nho nhẹ không gây sốc, không nồng nhưng uống rồi sẽ ngấm, sẽ
say lâu và khó bỏ.
Thơ của Trần Đăng Khoa được đưa vào chương trình Tiếng Việt trong Sách giáo
khoa do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành để giảng dạy cho học sinh Phổ thông trung
học từ rất sớm. Chúng được đánh giá rất cao và chiếm vị trí quan trọng trong mảng văn
học thiếu nhi.
Một lí do nữa khiến cho người viết chọn đề tài này là: tuy so sánh tu từ là biện
pháp nghệ thuật đơn giản nhưng có vai trò vô cùng quan trọng. Thiếu so sánh trong giao
tiếp hằng ngày thì lời nói của chúng ta trở nên khô khan, thiếu gợi hình, thiếu sinh động.
Còn trong văn chương, nếu thiếu so sánh tu từ thì sẽ không thể nào diễn tả hết được cảm
xúc của tác giả muốn gửi đến người đọc người nghe. Ví như câu ca dao “Công cha như
núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” nếu chỉ nói một cách đơn thuần
không có ví von, so sánh thì người phát ngôn chỉ có thể nói “Tình cảm của cha mẹ lớn
lao không gì có thể tả được” chứ không lột tả hết sự vất vả, gian lao, tình yêu thương vô
bờ bến của cha mẹ đối với con cái. Thông qua so sánh tu từ công cha được cụ thể bằng
hình ảnh “núi Thái Sơn”, còn sự dịu dàng, vị tha, bao dung của mẹ được so sánh như
“nước trong nguồn”. Nói tóm lại, so sánh tu từ đã góp phần giúp các nhà văn, nhà thơ
2
xây dựng những hình ảnh, hình tượng nghệ thuật độc đáo, sống động và đầy hình tượng
hơn cách diễn đạt thông thường rất nhiều.
2. Lịch sử vấn đề
Lịch sử vấn đề có vai trò hết sức quan trọng đối với những người làm công tác
nghiên cứu khoa học, bởi nó là nền tảng, là cơ sở để chúng ta có thể tiến hành công việc
nghiên cứu của mình. Hơn nữa, từ kết quả đã đạt được giúp ta nảy sinh ra ý tưởng mới,
hấp dẫn hơn những công trình trước đó. Khi đi vào nghiên cứu lịch sử vấn đề của đề tài:
“ So sánh tu từ trong thơ Trần Đăng Khoa” người viết tiến hành khảo sát trên hai
phương diện: lịch sử các công trình nghiên cứu, nhận định về Trần Đăng Khoa và các
công trình nghiên cứu có liên quan đến so sánh tu từ.
Phương diện thứ nhất là những công trình nghiên cứu và những nhận định về
Trần Đăng Khoa. Ông được mệnh danh là thần đồng thơ khi là một cậu bé 8 tuổi; có tập
thơ đầu tay năm 10 tuổi. Trần Đăng Khoa là một “hiện tượng lạ” không chỉ làm sững
sờ biết bao bạn đọc trong nước mà còn lan truyền sang nhiều nước trên thế giới. Người
có công tìm hiểu và đưa Trần Đăng Khoa đến với bạn đọc khắp thế giới là nhà thơ Xuân
Diệu: “Tôi đã sung sướng hướng dẫn đoàn vô tuyến truyền hình Pháp về quay phim
“Thế giới nhỏ của em Khoa” tại xã Quốc Tuấn – Hải Hưng; tôi còn là người đầu tiên
dịch thơ Khoa ra tiếng Pháp đưa cho nữ đồng chí Madeline Riffaud (Mađơlen Riphô).
Chị Riphô về đăng trên báo Nhân đạo của Đảng cộng sản Pháp; sau đó tôi lại dịch ra
cả tập thơ Khoa Pháp văn, từ đó giới thiệu thơ Trần Đăng Khoa, dịch ra nhiều thứ
tiếng trên nhiều thế giới. Tôi lại giúp nhà thơ Cuba FéLix Pila Rodriguez dịch ra tiếng
Tây Ban Nha, và tôi đã bình hai bài thơ “Mưa” và “Em kể chuyện này” ở rất nhiều nơi
trên miền Bắc, ở Sài Gòn và các thành thị ở phía Nam (1975 – 1976)”.[tr.396]
Còn Ngô Văn Phú thì khẳng định tài năng của Trần Đăng Khoa: “Có lẽ còn lâu
mới lại có một thần đồng 8 tuổi lại thành một nhà thơ để lại được sự nghiệp trong nền
thơ Việt Nam như Trần Đăng Khoa”. Và bày tỏ sự thích thú đối với một “hiện tượng
lạ” chưa từng có trong lịch sử văn học nước nhà: “Thật sung sướng cho một nhà thơ
được mãi mãi hồn nhiên và đẹp với một hồn thơ từ 8, 9 tuổi”…[tr.397]
Với sự quan tâm của Đảng nhà nước trong việc lưu trữ và phát triển sự nghiệp
thơ ca nước nhà, cùng với sự phát triển của công nghệ kỹ thuật nên tạo điều kiện thuận
lợi cho bạn đọc dễ dàng tiếp cận với những tác phẩm thơ ca. Chính vì thế ta có những
cuốn sách in ấn rất đẹp và ghi chép cẩn thận tiểu sử, sự nghiệp sáng tác của nhà thơ
3
Trần Đăng Khoa: Hội nhà văn – “Nhà văn Việt Nam hiên đại”, Ngô Văn Phú, Phong
Vũ, Nguyễn Phan Hách – “Nhà văn Việt Nam thế kỉ XX (tập 4)”, Thái Doãn Hiểu,
Hoàng Liên – “Giai thoại nhà văn Việt Nam”, Trần Đăng Khoa – Chân Dung Và Đối
Thoại, Trần Mạnh Thường – “Từ điển tác gia Việt Nam Thế kỉ XX”. Ngoài ra còn có
một lượng thông tin vô cùng phong phú về cuộc đời, sự nghiệp và những cuộc phỏng
vấn liên quan đến Trần Đăng Khoa trên mạng internet.
Phương diện thứ hai là các công trình nghiên cứu có liên quan đến so sánh tu từ:
Quyển “Những thế giới nghệ thuật ca dao” của tác giả Phạm Thu Yến. Trong
quyển này có những vấn đề được xem như là nền móng cơ sở vững chắc cho những mối
quan hệ mật thiết với nghệ thuật so sánh tu từ trong thơ ca hiện đại. Khi Phạm Thu Yến
cho rằng: “So sánh tu từ trong ca dao trữ tình là đặc điểm nổi bật cả về số lượng cũng
như chất lượng nghệ thuật biểu hiện thế giới tâm hồn phong phú, tinh tế, chân thành
của người dân lao động, đồng thời đặc nền móng vững chắc cho nghệ thuật so sánh
trong thơ ca hiện đại Việt Nam”.[] Từ ý kiến đó, ta thấy được rằng nghệ thuật so sánh
trong thơ hiện đại có một số cấu trúc so sánh, hình thức so sánh cũng như mục đích của
việc so sánh là có nét tương đồng với so sánh tu từ trong ca dao.
Quyển “Từ kí hiệu học đến thi pháp học của Hoàng Trinh”. Trong quyển này tác
giả cho thấy được những đặc thù của ngôn ngữ thơ.
Quyển “Ngôn ngữ thơ Việt Nam” của tác giả Hữu Đạt, đây là công trình nghiên
cứu về ngôn ngữ thơ ở nhiều khía cạnh khác nhau như: đặc điểm ngôn ngữ thơ, loại
hình của ngôn ngữ thơ, việc tổ chức ngôn ngữ trong thơ, các phương thức cơ bản của
ngôn ngữ thơ…
Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu khác ở các trường đại học, cao đẳng…
dưới dạng luận văn cũng góp phần làm cho hệ thống nghiên cứu so sánh tu từ thêm
phong phú và đa dạng. Tuy mỗi công trình nghiên cứu đều có mặt tích cực và hạn chế
nhưng sự đóng góp của chúng là không nhỏ đối với việc khẳng định vị trí của so sánh tu
từ trong kho tàng văn học dân tộc.
Việc chọn đề tài này giúp người viết hiểu biết thêm về lối so sánh độc đáo và
sáng tạo của thần đồng thơ. Mặt khác, còn trang bị cho người viết một chìa khóa cần
thiết để thâm nhập, tiếp cận với những tác phẩm khác. Tuy nhiên trên tinh thần tiếp nối,
kế thừa và học hỏi những công trình đi trước, người viết muốn qua công trình này góp
thêm một phần nhỏ vốn hiểu biết của mình vào những cách nhìn lớn mang tính toàn
4
diện đối với đề tài: “So sánh tu từ trong thơ Trần Đăng Khoa”. Và cũng từ đề tài này sẽ
tìm hiểu, khám phá ra được những cái hay, cái đẹp mang giá trị của nghệ thuật so sánh
tu từ trong thơ Trần Đăng Khoa.
3. Mục đích nghiên cứu
Việc chọn đề tài “So sánh tu từ trong thơ Trần Đăng Khoa” sẽ giúp người viết
thấy được được tình cảm hết sức sâu đậm của tác giả đối với quê hương, đất nước. Hàm
chứa trong mỗi câu thơ, bài thơ là nỗi niềm tâm sự, lòng trắc ẩn của nhà thơ khi đất
nước đang trong thời kì mưa bom, bão đạn. Từ đó khẳng định: ngoài nội dung tư tưởng
được truyền tải thì các biện pháp tu từ cũng góp một phần không nhỏ vào thành công
chung của toàn bộ tác phẩm.
Nghiên cứu đề tài này giúp cho người viết hiểu một cách sâu sắc hơn về các biện
pháp tu từ mà đặc biệt là so sánh tu từ, tìm hiểu những quan niệm khác nhau của các nhà
nghiên cứu về so sánh. Trên cơ sở đó thấy được khả năng vận dụng so sánh tu từ đầy
sáng tạo và hết sức độc đáo của Trần Đăng Khoa.
Hơn thế nữa, khi thực hiện đề tài này người viết sẽ nâng cao được khả năng vận
dụng phương pháp nghiên cứu tác phẩm văn học ở góc độ so sánh tu từ, đó là cơ sở tiền
đề giúp người viết có thể thực hiện những công trình nghiên cứu sau này.
4. Phạm vi nghiên cứu
Do không tìm được nhiều tài liệu nghiên cứu về Trần Đăng Khoa và thời gian
nghiên cứu có hạn nên người viết không phân tích hết các tác phẩm của ông mà chỉ
dừng lại ở ba tập thơ:
1. Góc sân và khoảng trời (Nhà Xuất Bản Văn Học 2006)
2. Trần Đăng Khoa thơ tinh tuyển ( Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn, 2001)
3. Thơ Trần Đăng Khoa (Nhà Xuất Bản Thanh Niên,1999)
Thông qua những tác phẩm trong ba tập thơ để chúng ta thấy được tài năng sử
dụng ngôn ngữ một cách linh hoạt và sáng tạo. Bằng khả năng sử dụng so sánh tu từ hết
sức độc đáo của nhà thơ đã góp phần vào thành công chung của toàn bộ tác phẩm. Có
thể nói từ trước đến nay, chưa một “nhà thơ trẻ con” nào lại có nhiều bài thơ sâu sắc và
thành công đến thế. Trần Đăng Khoa xứng đáng với danh hiệu: “Thần đồng thơ ca” mà
nhiều người ban tặng.
5. Phương pháp nghiên cứu
5
Đề tài hướng đến việc tìm hiểu “So sánh tu từ trong thơ Trần Đăng Khoa”, phân
tích cả về nội dung và nghệ thuật để thấy được tài năng của tác giả. Để lí giải vấn đề,
người viết đã sử dụng những phương pháp sau:
Sưu tầm tất cả các tài liệu có liên quan đến đề tài “So sánh tu từ trong thơ Trần
Đăng Khoa”.
Tiến hành thống kê – hệ thống những câu thơ mang yếu tố so sánh trong ba tập
thơ của Trần Đăng Khoa.
Phân loại theo mô hình, hình ảnh, chất liệu so sánh.
Lựa chọn những bài thơ, câu thơ tiêu biểu có kết cấu so sánh độc đáo phân tích,
chứng minh.
So sánh đối chiếu với ca dao và một số nhà thơ khác để thấy được những hình
ảnh so sánh mới lạ, độc đáo và hấp dẫn của Trần Đăng Khoa. Để đề tài có cơ sở, phong
phú và thuyết phục thì việc dẫn thêm một số ý kiến của các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên
cứu là rất cần thiết để luận văn được trọn vẹn.
CHƯƠNG 1
6
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ SO SÁNH TU TỪ
1.1. Khái niệm về so sánh
Trong giao tiếp hàng ngày chúng ta vẫn hay sử dụng hình thức so sánh để câu nói
thêm phần thuyết phục như:
“Lan cao hơn mẹ”
“Mưa như trút nước
“ Em ngoan hơn anh”
... ... ... ... ... ...
Thậm chí, trong kho tàng thành ngữ Việt Nam từ lâu đã tồn tại nhiều thành ngữ
dưới dạng so sánh:
“Xấu như ma”
“Cao như tre miễu”
“Đen như cột nhà cháy”
... ... ... ... ... ...
Việc dùng thủ pháp so sánh trở giúp người tiếp nhận hiểu sâu sắc hơn về những
phương diện nào đó của sự vật, sự việc, từ đó có cái nhìn khái quát hơn về vấn đề được
đề cập đến. Người ta chia so sánh ra làm hai loại: so sánh tu từ và so sánh luận lí.
1.1.1. So sánh luận lí
So sánh luận lí là đối chiếu hai đối tượng có quan hệ tương đồng. Ở so sánh luận
lí thì cái được so sánh và cái so sánh là các đối tượng cùng loại, mục đích của sự so sánh
là sự xác lập sự tương đương giữa hai đối tượng.
Ví dụ:
“10+10=15+5”
“ Nó cao như bố nó”
“Tôi thương bậu như chồng bậu thương”
Khi ta nói “10+10= 15+5” là chính xác, hợp lô-gích không thể chối cãi được vì
trong biểu thức tương đương của toán học thì hai vế đều bằng 20.
“Nó cao như bố” là chuyện bình thường vì nó và cha nó xảy ra hiện tượng di
truyền, kiểu gen giống nhau thì chuyện cao giống nhau là điều dễ hiểu.
Còn đối với chuyện hai chàng trai cùng thương một cô gái với mức độ tình cảm
ngang nhau, suy cho cùng, cũng không phải là không hợp lí, là trái với quy luật tình yêu.
7
Dạng so sánh này đơn thuần mang phần tin thông báo chứ không tạo ra hình ảnh nghệ
thuật hay mang giá trị biểu cảm.
1.1.2. So sánh tu từ
Tác giả Cù Đình Tú trong quyển “Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt”
viết: “So sánh tu từ là cách công khai đối chiếu hai hay nhiều đối tượng cùng có một
dấu hiệu chung nào đấy (nét giống nhau) nhằm diễn tả một cách hình ảnh đặc điểm của
đối tượng”.[tr.123]
Chẳng hạn như:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.”
(Ca dao)
“Đôi ta làm bạn thong dong
Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng.”
(Ca dao)
“Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ.”
(Trần Đăng Khoa - Hạt Gạo Làng Ta)
“ Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa.”
(Xuân Quỳnh - Sóng)
“Công cha” khác phạm trù với núi “Thái Sơn” cũng như “nghĩa mẹ” không
đồng nhất với “nước trong nguồn” nhưng lại mang một giá trị đặc biệt. Công cha, nghĩa
mẹ trong sự so sánh này được ví như sự bao la của trời bể.
Hay:
“Tiền tài như phấn thổ
Nhân nghĩa tựa thiên kim”.
(Ca dao)
8
Cách so sánh này làm nổi bật lên tính cách của con người coi trọng nhân nghĩa,
không ham danh lợi. Bởi vì so với nhân nghĩa, tiền tài trở nên vô giá trị (như phấn thổ),
còn ngược lại nhân nghĩa lại đáng giá ngàn vàng (tựa thiên kim).
So sánh tu từ là một biện pháp tu từ ngữ nghĩa, trong đó người ta đối chiếu hai
đối tượng khác loại của thực tế khách quan không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà chỉ
có một nét giống nhau nào đó về hình thức bên ngoài hay tính chất bên trong, nhằm diễn
tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng. Do vậy so sánh tu từ mang tính
biểu cảm hơn so với cách nói bình thường không dùng biện pháp so sánh. Tuy nhiên
tính biểu cảm ít hay nhiều còn tùy thuộc vào việc lựa chọn hình ảnh so sánh, ngôn ngữ
so sánh hay cái chân tình mà người làm công việc so sánh sử dụng.
Xét về mặt hình thức thì so sánh bao giờ cũng có hai vế, mỗi vế có một hoặc
nhiều đối tượng. Xét về mặt nội dung thì giữa hai vế so sánh có nét tương đồng và đó
chính là cơ sở, là tiền đề cho sự so sánh hình thành. Tóm lại, một phép so sánh tu từ đặc
sắc là đối tượng đưa ra so sánh khác loại, chính do hai đối tượng so sánh khác loại nên
việc phát hiện ra nét giống nhau sẽ làm cho ý tứ trong câu trở nên độc đáo, ý nhị mà
không phải ai cũng có thể thấy được.
1.1.3. Sự khác nhau giữa so sánh tu từ và so sánh luận lí
So sánh là công cụ giúp ta nhận thức sâu sắc hơn về phương diện nào đó của sự
vật, hiện tượng. Cả so sánh tu từ và so sánh luận lí đều mang trong nó chức năng nhận
thức. Để phân biệt so sánh tu từ và so sánh luận lí, ta dựa trên những tiêu chí cùng loại
hay khác loại của đối tượng nêu trong phép so sánh.
So sánh luận lí dựa trên cơ sở tương đồng của các đối tượng đồng loại, nhằm chỉ
ra sự hơn, kém, giống nhau, khác nhau đơn thuần giữa các đối tượng nhằm nhấn mạnh
điều muốn nói mà không đòi hỏi cao về cách thể hiện, cách dùng từ.
Ví dụ:
“Xấu như ma”
“Đẹp như tiên”
So sánh tu từ dựa trên cơ sở tương đồng giữa các đối tượng khác loại nhằm giúp
sự vật hiện, tượng trở nên sinh động, biểu cảm, sâu sắc hơn. Điều này tạo ra giá trị nghệ
thuật cao trong sử dụng ngôn từ.
Ví dụ:
9
“ Bỗng nhiên một con cá
Nhảy bên thuyền như trêu”
(Trần Đăng Khoa - Bên Bờ Sông Kinh Thầy)
“ Mưa
Mưa
Ù ù như xay lúa”
(Trần Đăng Khoa - Mưa)
Nên có câu kết đoạn.
1.1.4. Những quan niệm về so sánh tu từ của các tác giả ngôn ngữ
So sánh tu từ được các nhà nghiên cứu ngôn ngữ quan tâm nhiều bởi đây là biện
pháp nghệ thuật có thể giúp người ta bày tỏ được trang thái tâm lí, tâm tư tình cảm, cảm
xúc một cách ý nhị, tinh tế. Sau đây là một vài quan niệm của một nhà ngôn ngữ học:
Tác giả Nguyễn Phan Cảnh trong quyển Ngôn ngữ thơ viết rằng: “So sánh là cách
tổ chức dễ thấy nhất, cho phép tín hiệu kêu gọi và tín hiệu được kêu gọi cùng xuất hiện
trên thông báo, và thông qua một tín hiệu chỉ dẫn, người đọc được báo về mối liên tưởng
đó”. [tr.93]
Tác giả Đào Thản viết trong quyển Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật:
“So sánh là lối nói đối chiếu hai sự vật hoặc hai hiện tượng có một hay nhiều dấu hiệu
giống nhau về hình thức bên ngoài hay tính chất bên trong. Lối đối chiếu như vậy được
dùng với mục đích giải thích, miêu tả, đánh giá và biểu lộ tình cảm về đối tượng được
nói đến”.[tr.93]
Tác giả Đinh Trọng Lạc trong quyển “99 phương tiện và phương pháp tu từ
tiếng Việt” viết: “So sánh (so sánh hình ảnh, so sánh tu từ) là một biện pháp tu từ ngữ
nghĩa, trong đó người ta đối chiếu hai đối tượng khác loại trên thực tế khách quan
đồng nhất với nhau hoàn toàn mà chỉ có một nét tương đồng nà đó nhằm diễn tả bằng
hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng”.[tr.154]
Tác giả Nguyễn Văn Nở trong quyển “Giáo trình phong cách học tiếng Việt”
đưa ra định nghĩa: “So sánh tu từ (comparison) là đối chiếu hai hay nhiều đối tượng
(hoặc sự vật) có một nét tương đồng nào đó về hình thức bên ngoài hay tính chất bên
trong để gợi ra hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của người
đọc, người nghe”.[tr.123]
10
Tác giả Nguyễn Thái Hòa trong quyển “Phong cách học tiếng Việt” viết cùng
với Đinh Trọng Lạc cho rằng: “So sánh là phương thức diễn đạt tu từ khi đem sự vật
này đối chiếu với sự vật khác miễn là giữa hai sự vật có một nét tương đồng nào đó, để
gợi ra hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của người đọc, người
nghe”.[tr.189]
Tác giả Hữu Đạt trong quyển “Phong cách tiếng việt hiện đại” quan niệm rằng:
“So sánh tu từ là dùng thuộc tính hay tình trạng của sự vật, hiện tượng này giải thích
cho thuộc tính hay tình trạng của sự vật khác”.[tr.336]
Tác giả Cù Đình Tú trong quyển Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt
viết: “So sánh tu từ là cách công khai đối chiếu hai hay nhiều đối tượng cùng có một
dấu hiệu chung nào đấy (nét giống nhau) nhằm diễn tả một cách hình ảnh đặc điểm của
đối tượng”.[tr.274]
Quan niệm của Lê Anh Hiển, trong quyển “Phong cách học tiếng Việt” viết:
“So sánh (hình ảnh) là sự đối chiếu hai đối tượng có một dấu hiệu chung nào đấy nhằm
biểu hiện một cách hình tượng đặc điểm của một trong hai đối tượng đó”.[tr.100]
Có thể thấy các tác giả ngôn ngữ trên đều có cách định nghĩa riêng về biện pháp
so sánh tu từ. Tuy cách diễn đạt không hoàn toàn giống nhau nhưng đều hướng đến một
điểm chung: So sánh là sự đối chiếu giữa hai đối tượng khác nhau và hai đối tượng đem
ra đối chiếu phải có nét tương đồng nào đó. Trong số các định nghĩa trên, hai định nghĩa
có tính khái quát cao là định nghĩa của tác giả Cù Đình Tú và Nguyễn Văn Nở. Bởi vì
trong thực tế cuộc sống, trong sáng tác của các nhà thơ, nhà văn không thể chỉ đối chiếu
một đối tượng này với một đối tượng khác mà có khi còn có sự đối chiếu giữa các đối
tượng với nhau.
Ví dụ:
“ Em đi mần một ngày có hai cắc
Về thấy anh ngồi trong sòng tứ sắc,
Kể chắc anh thua rồi.
Trời đất ơi, con thơ năm bảy đứa,
Gạo em kiếm từng nồi anh thấy chưa?
Em nói rồi nước mắt như mưa…”
(Ca dao)
Nên có câu kết đoạn.
11
2.2. Phân loại
2.2.1. Những dạng thức so sánh tu từ
So sánh tu từ xuất hiện rất nhiều trong cuộc sống và trong thơ văn với nhiều dạng
thức khác nhau. Đôi khi chúng ta có thể nhận ra các đối tượng so sánh một cách dễ dàng
nhờ các dấu hiệu nhận biết riêng. Các đối tượng này có lúc là những sự vật, sự việc có
khi là những tính chất hay tâm trạng của con người… Nó đa dạng và phong phú như
chính sự phong phú và đa dạng của ngôn ngữ. Cho nên, các hiện tượng xuất hiện trong
so sánh cũng diễn ra không theo một dạng thức nhất định nào. Chúng ta có thể phân chia
thành các dạng thức nhất định sau:
2.2.1.1. Quan niệm của tác giả Nguyễn Văn Nở
Dạng A (như, hình như, giả như, tựa như, tựa thể…) B
Ví dụ:
“ Thiếp như một cụm hoa hường,
Thấy xinh rờ đến mắc đường chông gai”.
(Ca dao)
“ Qua như con én trên cành
Muốn kề trái hạnh cũng đành bay xa”.
(Ca dao)
Hình thức so sánh “A như B” xuất hiện khá phổ biến, từ so sánh “ như” mang
tính chất giả định vì khi nói “A như B” nghĩa là nói A tương tự B chứ không hẳn là A
giống hoàn toàn B.
Ví dụ :
“Hai đứa mình như thể cây cau,
Anh bẹ, em bẹ nương nhau ở đời”.
(Ca dao)
“ Bậu giàu mà có ai khen,
Giả như châu chấu thấy đèn nhảy vô”.
(Ca dao)
Dạng A là B
“ Em là con cá hóa long,
Chín tầng mây phủ nằm trong da trời.
Anh là quân tử lỡ thời,
12
Nằm trong da trời úp cả hóa long”.
(Ca dao)
.
Dạng thức so sánh “A là B” cũng thường hay xuất hiện trong so sánh tu từ
nhưng với tần số thấp hơn so với dạng thức “A như B”. Nhưng đối với dạng thức “A là
B” thì có tính chất khẳng định cao hơn dạng “A như B”, giữa A và B có xu hướng đồng
nhất hóa. Phán đoán như thế không có nghĩa là A và B có sự tương đương gần như tuyệt
đối như so sánh lôgích. Khi nói “A là B” thì so sánh vẫn nằm trong phạm vi so sánh tu
từ.
Ví dụ:
“Cha già là vị cha chung (1)
Là sao bắc đẩu, là vầng thái dương”. (2)
Xét ví dụ trên, ta kết luận rằng: (1) là phán đoán lô-gích, (2) là so sánh tu từ.
Dạng A bao nhiêu, B bấy nhiêu
“Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang,
Bao nhiêu tất đất, tất vàng bấy nhiêu”.
(Ca dao)
“ Qua đình ngã nón trông đình,
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”.
(Ca dao)
“ Mình đi mình lại nhớ mình,
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”.
(Tố Hữu - Việt Bắc)
Khi so sánh “A bao nhiêu, B bấy nhiêu” thường người ta muốn nói tới mối quan
hệ giữa cái trừu tượng và cái cụ thể:
Cái trừu tượng: “thương mình”
Cái cụ thể: “ngói”
Chính vì thế cho nên so sánh tu từ còn được gọi là so sánh hình ảnh. Bởi vì có
những cái trừu tượng không thể cân, đo, đong, điếm được lại đem so sánh với những
hình ảnh cụ thể.
13
Dạng A, B
Ví dụ:
“ Củi tre dễ nấu, chồng xấu dễ xài.
Ham chi bóng sắc, nó đọa đày tấm thân”.
(Ca dao)
“ Lời nói gió bay”.
(Tục ngữ)
“ Anh, sông Hồng sông Mã
Gầm reo trong đạn lửa”.
(Chế Lan Viên)
Đối với dạng thức so sánh này thì bao giờ cũng có từng cặp đối ứng với nhau và
được ngăn cách bởi dấu phẩy [,], độ ngắt nhịp hay ngữ điệu của câu. Cần phân biệt dạng
thức này với hình thức đối dựa trên cơ sở cân xứng, hài hòa về số lượng âm tiết, ngữ
điệu, thanh điệu, ngữ pháp… Còn so sánh tu từ dựa trên cơ sở so sánh những nét tương
đồng.
2.2.1.2. Quan niệm của tác giả Hữu Đạt
Ông đưa ra mô hình khái quát của phép so sánh là AxB với:
A: là cái chưa biết được đem ra so sánh.
B: là cái đã biết đem ra so sánh.
x : là phương tiện so sánh.
Dựa trên mặt cấu trúc và ngữ nghĩa, tác giả Hữu Đạt chia ra làm 5 loại hình thức so
sánh:
- Loại 1: So sánh có từ so sánh
Mô hình: AxB
Biến thể: AxB1xB2
A, B1 B2
A, B1x A2, B2
Ví dụ:
“Sống chết một lần thôi
Con sẽ chết như những người đã chết
Và những người đang chết”.
14
(Trần Quang Long)
“Ta yêu những gì tha thiết
Như tre, dừa làng xóm quê hương
Như những con người biết mấy yêu thương”.
(Lê Anh Xuân)
- Loại 2: So sánh không có từ so sánh.
Mô hình: A – B
Biến thể: A - B1B2; A1A2 - B; A1A2 - B1B2
Ví dụ:
“Bác ngồi đó lớn mênh mông,
Trời cao biển rộng, ruộng đồng nước non”.
(Tố Hữu – Sáng Tháng Năm)
- Loại 3: So sánh ngang bằng.
Ví dụ:
“Qua cầu ngã nón trông cầu,
Cầu bao nhiêu nhịp thương mình bấy nhiêu”.
(Ca dao)
- Loại 4: So sánh bậc cao nhất, bậc tuyệt đối.
Ví dụ:
“Đội thanh niên xung phong đi lấp hố bom
Áo em hình như trắng nhất”.
(Phạm Tiến Duật)
- Loại 5: So sánh bậc hơn kém.
Ví dụ:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”.
(Nguyễn Du - Truyện Kiều)
2.2.1.3. Quan niệm của tác giả Cù Đình Tú
Tác giả căn cứ vào hình thức và từ so sánh, đã chia ra thành các dạng thức.
- A như (chừng như, tựa như…) B
15
Ví dụ:
“ Em đến với anh như tia nắng ấm
Giữa những ngày mây phủ bốn phương trời
Cơn gió lạnh mỗi giờ mỗi thấm
Nắng lên đi đẹp quá nắng ơi”!
(Tế Hanh – Em Đến Với Anh)
- A là B
Ví dụ:
“Chúng chị là hòn đá tảng trên trời
Chúng em chuột nhắt cứ đòi lung lai”.
(Ca dao)
- A bao nhiêu, B bấy nhiêu
Ví dụ:
“Ngó lên nuộc lạt mái nhà,
Bao nhiêu nuộc lạt thương ông bà bấy nhiêu”.
(Ca dao)
2.2.1.4. Quan niệm của tác giả Bùi Tất Tươm
Theo ông thì so sánh tu từ có những kiểu so sánh sau:
- Kiểu so sánh AxB và các biến thể của nó (x: như, tựa như, giống, hơn).
Ví dụ:
“Thân em như hạt mưa sa,
Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày”.
(Ca dao)
- Kiểu A là B
Ví dụ :
“Cả một đời lo toan
Lưng bà giờ như gẫy”
(Trần Đăng Khoa - Bà Và Cháu)
- Kiểu so sánh A bao nhiêu B bấy nhiêu.
16
Ví dụ:
“Qua đình ngã nón trông đình,
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”.
(Ca dao)
2.2.2. So sánh nổi và so sánh chìm
So sánh là một biện pháp tu từ tiếng Việt được cấu tạo theo mối quan hệ dựa trên
cơ sở liên tưởng tương đồng; cho nên, chúng ta dựa trên nét tương đồng này mà phân so
sánh tu từ ra làm hai loại: so sánh chìm và so sánh nổi.
2.2.2.1. So sánh chìm
Là kiểu so sánh mà nét tương đồng không được bộc lộ, thể hiện ra bằng những từ
ngữ cụ thể. So sánh chìm làm cho những nét tương đồng lẩn khuất bên trong hai vế của
phép so sánh cho nên người đọc tự tìm ra nét tương đồng ấy. Muốn hiểu được thì người
đọc phải tư duy, phải liên tưởng, mà đặc biệt là hiểu được đối tượng, để xác định mức
độ giống nhau một cách chính xác.
Ví dụ:
“Còn duyên như tượng tô vàng,
Hết duyên như tổ ong tàn ngày mưa”.
(Ca dao)
“Anh như chỉ gấm thêu cờ,
Em như rau má lờ mờ giếng khơi”.
(Ca dao)
“Tình anh như nước dâng cao,
Tình em như dãy lụa đào tẩm hương”.
(Ca dao)
“Công hoài thai như biển,
Nghĩa dưỡng dục tựa sông”.
(Ca dao)
Nói “công hoài thai như biển” khiến ta liên tưởng đến công ơn sinh thành dưỡng
dục bao la, rộng lớn, khoan dung hết mực của cha mẹ. Chính điều này làm cho sự liên
tưởng trong so sánh chìm trở nên phong phú hơn. Nói như tác giả Cù Đình Tú: “Nó
kích thích sự làm việc của trí tuệ và tình cảm nhiều hơn so sánh nổi”.[tr.276]
2.2.2.2. So sánh nổi
17
Là kiểu so sánh mà nét tương đồng được bộc lộ, được nêu ra ở phép so sánh bằng
những từ ngữ cụ thể. Trong loại so sánh này thì nét tương đồng của hai vế được bộc lộ
một cách rõ ràng. Hay nói cách khác, so sánh nổi tác động một cách trực tiếp vào các
giác quan của con người.
Ví dụ:
“Thẳng như ruột ngựa”
“Ốm như cây tre miễu”
“Trắng như tiên không phải duyên, anh chẳng tiếc,
Đen như cục than hầm duyên hợp anh ưng”.
“Một vũng nước trong, con cá vùng cũng đục,
Đỏ như cục son tàu, gần mực cũng đen”.
“Ngỡi nhân nay giận mai hờn,
Lòng em thẳng cứ như đờn lên dây”.
1.3. GIÁ TRỊ CHỨC NĂNG CỦA SO SÁNH TU TỪ
1.3.1. Giá trị của so sánh tu từ
Tiếng Việt có nhiều biện pháp tu từ khác nhau, ở mỗi biện pháp đều có một giá trị
riêng. So sánh tu từ là một cách tu từ cho nên nó cũng mang những giá trị chung như các
biện pháp tu từ khác. Trên thực tế, dù tiếng Việt khá phong phú và đa dạng so với một số
ngôn ngữ khác trên thế giới nhưng nó cũng có giới hạn nhất định. Trong khi đó, đời sống
của con người ngày càng phát triển, nhu cầu diễn đạt, bộc lộ tâm tư tình cảm càng cao nên
nảy sinh ra các dạng thức tu từ làm giàu thêm vốn ngôn ngữ, khiến cách diễn đạt thêm phần
thuyết phục. Cùng với các biện pháp tu từ khác, so sánh tu từ trở nên vô cùng cần thiết cho
sự diễn đạt, đối với cùng một đối tượng, ta có nhiều từ ngữ để biểu thị hơn và làm cho sự
diễn tả trở nên sâu sắc, đa dạng, phong phú, mang nhiều nét nghĩa.
Ví dụ:
“Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình”...(1)
(Lòng Mẹ)
“Mẹ là nải chuối, buồng cau”... (2)
(Bông Hồng Cài Áo)
Khi sử dụng biện pháp so sánh ta có rất nhiều cách để nói về hình ảnh người mẹ.
Trong lời bài hát (1), thì cách so sánh “ lòng mẹ” như biển “Thái Bình” là một
cách so sánh độc đáo. Biển chiếm khoảng 70% diện tích bề mặt trái đất, trong tất cả các
18
biển thì biển Thái Bình là biển lớn nhất. Từ đó, người nghe có thể thấy được rằng tình
mẹ hết sức rộng lớn, dường như không gì có thể so sánh được trên trái đất này. Cách so
sánh ấy làm người nghe có thể suy ra một điều rằng mẹ vừa là cội nguồn, là tình yêu
thương vừa là sự bao la, dung dị lúc nào cũng như biển cả rộng lớn mở rộng vòng tay
đón những đứa con vào lòng.
Lời bài hát (2) là lời người Nam Bộ hết sức mộc mạc, chân tình. Họ không thích
phô trương tình cảm bằng những đối tượng so sánh cao sang, cầu kì, xa rời thực tế. Hình
ảnh người mẹ trong bài hát Bông hồng cài áo được ví với “nải chuối”, “buồng cau” -
những thứ hết sức giản dị và gần gũi với cuộc sống. Chính cách so sánh này đã làm cho
bài hát dễ đi vào lòng người, êm ái và ngọt ngào bởi những hình ảnh thân thuộc của quê
hương.
1.3.2. Chức năng của so sánh tu từ
So sánh tu từ có hai chức năng chính đó là: chức năng nhận thức và chức năng
biểu cảm.
1.3.2.1. Chức năng nhận thức
Vì so sánh là dựa trên những nét nghĩa tương đồng giữa các đối tượng cho nên
so sánh tu từ là sự phát hiện, đối chiếu những nét tương đồng ấy. Muốn được như thế
thì người sử dụng phải có sự nhạy bén trong các giác quan, sự tế nhị trong tâm hồn.
Từ đó, phát hiện ra những điều mà người khác chưa để ý đến. Vì vậy, chức năng
nhận thức giúp cho chúng ta hiểu một cách đầy đủ, cặn kẽ những hàm ý ẩn chứa bên
trong câu chữ.
Ví dụ:
“ Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như nước suối mới sa giữa trời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa”.
(Nguyễn Du - Truyện Kiều)
Bốn câu thơ như là bốn bức tranh, vừa thể hiện cái tài, vừa thể hiện cái tình. Cách
so sánh mới mẻ, độc đáo, không lẫn vào đâu được. Nguyễn Du đã sử dụng thành thạo
vốn ngôn ngữ của cha ông và thể hiện rất thành công trong tác phẩm. Chính điều này đã
giúp tác phẩm trở thành tinh hoa và niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
1.3.2.2. Chức năng biểu cảm
19
Qua các hình ảnh so sánh tu từ, người nói thể hiện ít nhiều tình cảm: yêu, ghét,
buồn, vui, khen, chê, khinh, trọng… đối với đối tượng và qua đó tác động đến người
nghe. Chính vì thế so sánh tu từ còn có chức năng biểu cảm. Muốn thấy rõ được chức
năng biểu cảm thì chúng ta phải khai thác những nét nghĩa hàm ẩn, chứ không chỉ là sự
liên tưởng đến những nét chung nhất. Ta thử xét một vài ví dụ để minh chứng:
“Thơ, thơ đong từng ngao nhưng tác bể,
Là cân nhỏ xíu lại cân đời” (1)
(Chế Lan Viên)
“Anh như con một nhà giàu,
Em như tờ giấy bên Tàu mới sang”. (2)
(Ca dao)
Ở câu (2) thông qua những hình ảnh được so sánh, so sánh tu từ đã góp phần tạo
nên sự đối lập của hai nhân vật “anh” và “em”. Qua đó, bài ca dao bộc lộ quan niệm
trọng nam khinh nữ vốn rất đè nặng trong xã hội phong kiến. Nhờ vậy chúng ta có thể
hiểu rõ hơn về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa, một xã hội mà quan hệ giữa
nam và nữ có sự bất bình đẳng.
Chung quy lại, chức năng biểu cảm là chức năng quan trọng nhất. Hiển nhiên,
một phép so sánh nào cũng chứa đựng một lượng thông tin, từ lượng thông tin ta có
thể ta có thể nhận ra một ý nghĩa nào đó. So sánh tu từ có chức năng vừa là công cụ
nhận thức, vừa là phương tiện giúp chúng ta bày tỏ tình cảm, thái độ trước những
vấn đề của xã hội. Mặt khác, nó còn giúp cho chúng ta tư duy, như lời nhận xét của
tác giả Lê Đình Tuấn: “Trong tiếng Việt, sánh tu từ được sử dụng nhiều nhất so với
các phương thức tu từ từ vựng khác: ẩn dụ, nhân hóa, thậm xưng, chơi chữ, phúng
dụ… Khi giải thích ta thường dùng so sánh để làm rõ hơn điều mình muốn thông
báo. Nhà văn lại càng dùng so sánh, bởi vì đối với họ, so sánh không chỉ giúp người
đọc nhận thức sự vật hiện tượng, tình thái, tính chất một cách chính xác mà còn
muốn thông qua so sánh làm tăng tính gợi cảm, gợi hình và biểu cảm cho câu văn.
Nếu đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ văn chương là tính thẩm mĩ thì nhà văn sử dụng
so sánh như một biên pháp tu từ quan trọng để làm nên giá trị thẩm mĩ của văn
chương”.[tr.12]
20
CHƯƠNG 2
NGHỆ THUẬT SO SÁNH TU TỪ TRONG THƠ
TRẦN ĐĂNG KHOA
2.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Trần Đăng Khoa
2.1.1. Cuộc đời
21
Trần Đăng Khoa sinh ngày 24 tháng 4 năm 1958, quê làng Trực Trì, xã Quốc
Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương là một nhà thơ, nhà báo, biên tập viên Tạp chí
Văn Nghệ Quân Đội, hội viên hội nhà văn Việt Nam.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa có một anh trai là nhà thơ, nhà báo Trần Nhuận Minh
– tác giả của các tập thơ: nhà thơ và hoa cỏ, bản xô nát hoang dã, 45 khúc đàn bầu
của kẻ vô danh… nguyên là chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh. Một
chị gái là Trần Thị Bình hiện sống ở quê cùng với hai cụ thân sinh của nhà thơ. Ông
còn có một người em gái tên là Trần Thị Thúy Giang, hiện đang làm giáo viên tại
Cầm Phả – Quảng Ninh.
Trần Đăng Khoa nhập ngũ ngày 26 tháng 2 năm 1975 khi đang học lớp 10/10 tại
trường phổ thông cấp 3 Nam Sách, quân số tại Tiểu đoàn 691 – Trung đoàn 2 – Quân
tăng cường Hải Hưng, sau khi giải phóng miền Nam việc bổ sung cho chiến trường
không cần thiết nữa, ông được bổ sung vào quân chủng Hải quân. Sau đó ông theo học
trường viết văn Nguyễn Du và được cử sang học tại viện văn học thế giới mang tên
M.Gorki thuộc viện Hàn lâm khoa học xã hội Nga. Khi trở về nước ông làm biên tập
viên văn nghệ Quân đội. Từ tháng 6 năm 2004, khi đã mang quân hàm thượng tá Quân
đội nhân dân Việt Nam, ông chuyển sang phụ trách Ban văn nghệ đài tiếng nói Việt
Nam. Hiện nay ông giữ chức giám đốc của hệ phát thanh có hình VOVTV của đài.
2.1.2. Sự nghiệp sáng tác.
Nhiều thế hệ độc giả sau này đều nằm lòng những bài thơ như “Hạt gạo làng ta”,
“mẹ ốm”, “cây dừa”,… Giọng thơ trong sáng tự nhiên, sự quan sát tinh tế hồn nhiên và
cảm xúc dạt dào về gia đình, quê hương, đất nước trong hồn thơ của ông đã tạo được sự
yêu thích của độc giả.
Từ nhỏ ông được nhiều người cho là “thần đồng thơ”. Lên 8 tuổi, ông đã có thơ
được đăng báo. Năm 1968, khi mới lên 10 tuổi, tập thơ đầu tiên của ông là “Góc sân
và khoảng trời” được xuất bản bởi nhà xuất bản Kim Đồng – tập thơ gắn liền với tên
tuổi của ông cũng là tập thơ “Góc sân và khoảng trời”. Ngay từ khi ra đời tập thơ đã
tạo được một tiếng vang lớn trong làng thơ ca Việt Nam. Có lẽ tác phẩm được nhiều
người biết đến nhất của ông là bài thơ “Hạt gạo làng ta” sáng tác năm 1968, được
Xuân Diệu hiệu đính, sau được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc năm (1971). Nhưng
theo đánh giá của “Thuquan.com” trên Internet thì nếu Trần Viết Bính không là người
phổ nhạc bài thơ “Hạt gạo làng ta” thì vẫn có những nhạc sĩ khác phổ nhạc thành công
22
bài thơ này. Bởi vì bài thơ “Hạt gạo làng ta” của Trần Đăng Khoa mang đầy nhạc
tính.
Trần Đăng Khoa không có nhiều tác phẩm và danh hiệu “thần đồng thơ” của Trần
Đăng Khoa thời thơ ấu không hề liên quan hay nối tiếp đến quãng đời về sau khi nhà
thơ vào lính. Ông theo học ở Nga, khi về nước làm Biên tập viên, làm báo. Thi hứng
một thời, hiển nhiên không còn động lực cho xúc cảm khi tác giả cao tuổi. Những tác
phẩm nổi bật của Trần Đăng Khoa:
“Góc sân và khoảng trời”, tập thơ 1968, tái bản khoảng 30 lần, được dịch và xuất
bản tại nhiều nước trên thế giới.
“Từ góc sân nhà em”, 1968.
“Khúc hát người anh hùng”, trường ca – 1974.
“Bên cửa sổ máy bay”, tập thơ – 1986.
“Chân dung và đối thoại”, tiểu luận phê bình, hà nội nhà xuất bản thanh niên,
1998, tái bản nhiều lần. Tác giả cho biết ban đầu đã dự kiến phát hành tập II của
tác phẩm này, nhưng hiện đã nộp bản thảo vào phần I để tái bản.
Bài “Thơ tình người lính biển” đã được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc.
“Đảo chìm”,2000, tập truyện kí, đến đầu năm 2009 đã tái bản 25 lần.
Ông 3 lần nhận được giải thưởng thơ của báo thiếu niên tiền phong (các năm 1968,
1969, 1971), giải nhất báo văn nghệ (1982) và giải thưởng nhà nước (2000).
2.2. Nghệ thuật so sánh tu từ trong thơ Trần Đăng Khoa
2.2.1. Hình thức so sánh trong thơ Trần Đăng Khoa
Trong tất cả các biện pháp tu từ thì ở mỗi biện pháp có một cấu trúc riêng để cho
người đọc có thể nhận ra đây là biện pháp tu từ nào. Vậy cấu trúc là gì? Cấu trúc là toàn
bộ những mối quan hệ bên trong giữa các thành phần tạo nên một chỉnh thể. Cho nên
cấu trúc phải được sắp xếp, bố trí theo một hệ thống nhất định. Nhà thơ Trần Đăng
Khoa đã chọn cho mình những cấu trúc nhất định về so sánh tu từ để thể hiện trong tác
phẩm của mình đó là: A như B, A là B, A hơn, kém B.
2.2.1.1. Hình thức so sánh A như B
Cấu trúc so sánh này được nhà thơ sử dụng nhiều nhất trong những tác phẩm của
mình. Có lẽ đây là cấu trúc dễ sử dụng đối với một “nhà thơ trẻ con”, với cấu trúc này
ông dễ dàng và tự nhiên hơn khi diễn tả, bộc lộ những tâm tư tình cảm của mình.
23
Theo thống kê của người viết thì có 229/292 câu sử dụng biện pháp tu từ so sánh,
chiếm tỉ lệ 78,4% tổng số các câu có chứa biện pháp tu từ trong thơ Trần Đăng Khoa mà
người viết khảo sát. Đây là cấu trúc dễ nhận dạng nhất trong tất cả các cấu trúc của so
sánh tu từ bởi vì vế so sánh và vế được so sánh lộ rõ trên bề mặt ngôn từ. Tuy nhiên,
không vì thế mà giá trị biểu đạt, sắc thái biểu cảm của câu thơ giảm sút, ngược lại chính
cái chân chất, thật thà, hồn nhiên,… trên bề nổi ấy lại chở thêm một khối lượng lớn
những “cảm quan sáng tác” khác như: sự quan sát tinh tế, cảm nhận cuộc sống,… qua
đó thể hiện sự thâm nhập vào thiên nhiên, vào cuộc sống một cách rất tự nhiên của thần
đồng thơ Trần Đăng Khoa.
Ví dụ:
“Một bác chài lặng lẽ
Buông câu trong bóng chiều
Bỗng nhiên con cá nhỏ
Nhảy bên thuyền như trêu”
(Bên Bờ Sông Kinh Thầy)
Hay:
“Tối về ông trăng đến
Cùng các đội bình công
Ấm nước chè tỏa nóng
Thơm như hương lúa đồng”
(Thôn Xóm Vào Mùa)
Biện pháp so sánh tu từ “A như B” được các nhà thơ sử dụng rất nhiều, đã có
nhiều người quan tâm nghiên cứu trong Luận văn tốt nghiệp ở trường ta như:
“So sánh tu từ trong hai tập thơ “Từ ấy” và “Việt Bắc” của Tố Hữu” (Nguyễn
Văn Chạy – Ngữ văn Khóa 6), trong luận văn này tác giả đã thống kê được cấu trúc so
sánh “A như B” chiếm tỉ lệ 92/107 câu thơ.
“So sánh tu từ trong thơ Chế Lan Viên” (Nguyễn Phúc Hậu – Ngữ Văn Khóa 6),
trong luận văn này tác giả khảo sát cấu trúc so sánh “A như B” của Chế Lan Viên trong
giai đoạn trước và sau cách mạng tháng Tám chiếm tỉ lệ 214/275 câu thơ.
(Nên tìm thêm một luận văn về đề tài so sánh nữa ở trường ta)
………….
24
Các nhà nghiên cứu kết luận: cấu trúc so sánh “A như B” mang một tính chất
giả định chứ không phải là giống nhau hoàn toàn về bản chất, vì khi nói “A như B” thì
A chỉ có những nét tương đồng hay tính chất tương tự nhau mà thôi. Lối so sánh này
gợi lên một mạch liên tưởng với những hành động cụ thể, mang nhiều cung bậc cảm
xúc khác nhau.
Ví dụ:
“ Trăng ơi… Từ đâu đến?
Hay từ cánh rừng xa
Trăng hồng như quả chín
Lửng lơ treo trước nhà”.
(Trăng Ơi…Từ Đâu Đến?)
Trần Đăng Khoa đã liên tưởng mặt trăng “màu hồng như quả chín”, trăng là
một vật thể của vũ trụ không thể nào với tới được, còn quả chín là một vật thể rất gần
gũi. Trần Đăng Khoa rất tài tình khi đưa một vật tưởng chừng không thể nào với tới để
đem “treo lên trước nhà”. Đây là một cảm nhận rất giản đơn, hồn nhiên của một đứa
trẻ. Qua đó cho thấy sự sáng tạo, độc đáo làm nên phong cách thơ rất riêng của Trần
Đăng Khoa.
2.2.1.2. Hình thức so sánh A là B
“A là B” là dạng so sánh tu từ có tính khẳng định cao hơn dạng “A như B” vì với
từ “là” ta có cảm tưởng giữa A và B lúc này có xu hướng đồng nhất. Nói như thế,
không có nghĩa là A và B giống hệt nhau một cách tuyệt đối mà giữa A và B chính là sự
khẳng định cao, sâu sắc về sự việc đem ra đối chiếu.
Biện pháp so sánh tu từ “A là B ” được Trần Đăng Khoa sử dụng tương đối nhiều
trong các tác phẩm, cụ thể là 59/292 câu, chiếm tỉ lệ 20,1% tổng số các câu có chứa biện
pháp so sánh. Ở mỗi lần sử dụng thì biện pháp này đóng vai trò, ý nghĩa khác nhau.
Ví dụ:
“Chúng em lòng những là buồn
Vẫn cười hát, để thầy còn đi xa
Em nhìn mấy bông hoa ngoài cửa
Hỏi rằng hoa có nhớ thầy không”?
25