1
MỤC LỤC
THUẬT NGỮ CƠ BẢN ................................................................................................................. 3
LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................................................................. 12
CHƯƠNG 1. KHÁI NIỆM VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG XÃ HỘI HỌC ............................ 13
1.1. Xã hội học là gì ?............................................................................................................... 13
1.2. Phạm vi của xã hội học...................................................................................................... 13
1.3. Ngữ cảnh giao tiếp xã hội hay quá trình............................................................................ 14
1.4. Phát triển triển vọng xã hội................................................................................................ 25
1.5. Liệu xã hội học có phải là một khoa học? .........................................................................26
1.6. Lợi ích của xã hội học ....................................................................................................... 27
1.7. Xã hội học tầm vi mô và vĩ mô, đối tượng nghiên cứu của chúng.................................... 28
1.8. Những vấn đề chính khi phát triển xã hội học................................................................... 28
1.9. Định nghĩa tổ chức xã hội, cộng đồng và xã hội ............................................................... 30
1.10. Cộng đồng và lý thuyết học thuyết hệ thống xã hội liên quan tới cộng đồng ................. 33
1.11. Các kiểu xã hội khác nhau............................................................................................... 53
1.11.1. Xã hội trước hiện đại ............................................................................................... 53
1.11.2. Xã hội truyền thống, xã hội hiện đại trong quá trình phát triển.............................. 58
1.11.3. Xã hội trong thế giới hiện đại .................................................................................. 59
CHƯƠNG 2. PHÁT TRIỂN KT, HIỆN ĐẠI HỐ, ĐƠ THỊ HỐ VÀ PHÂN TẦNG XH .......62
2.1. Các vấn đề của phát triển xã hội học ................................................................................ 62
2.2. Các loại hình chiến lược phát triển kinh tế - xã hội........................................................... 62
2.3. Quyền sử dụng nguồn và các cơ hội, bất bình đẳng và sự cơ động xã hội........................ 72
2.4. Sự thay đổi nghề và cấu trúc thu nhập do phát triển kinh tế xã hôi................................... 76
2.5 Thay đổi về phân công lao động trong gia đình, cộng đồng và xã hội............................... 83
2.6. Khơng có việc làm và thiếu việc làm ở nơng thôn ............................................................ 85
CHƯƠNG 3. XÃ HỘI VIỆT NAM TRONG CHUYỂN ĐỔI...................................................... 96
3.1. Đặc điểm chung của xã hội Việt nam................................................................................ 96
3.2 Cá nhân, gia đình/ bộ tộc , làng và nhà nước trong xã hội chuyển đổi............................104
3.3. Làng như một đơn vị pháp lý, hành chính và xã hội ....................................................... 106
3.4. Nông dân, làng và nhà nước trong xã hội nông thôn hợp tác.......................................... 107
3.5 Sự thay đổi về các hình thức sở hữu và sử dụng đất ........................................................ 108
3.6. Tác động lên các kiểu nghề nghiêp và phân chia lao động ở nông thôn Việt Nam ........ 113
CHƯƠNG 4. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, VĂN HOÁ VÀ KINH TẾ XÃ HỘỊ CỦA CÁC VÙNG
VEN BIỂN VIỆT NAM..............................................................................................................121
4.1. Thiếu đa dạng hoá kinh tế................................................................................................ 121
4.2. Cơ sở nguồn hạn hẹp ở nông thôn ...................................................................................132
4.3. Sự khác biệt giữa các vùng ven biển ............................................................................... 141
4.4. Hạ tầng cơ sở và cung cấp dịch vụ xã hội tại các vùng Ven biển ................................... 146
BÀI TẬP ..................................................................................................................................... 169
Bài 1. Phát triển nguồn nhân lực ............................................................................................ 169
Bài 2. Di dân và tác động của nó............................................................................................ 169
Bài 3. Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên, các nhóm quan tâm và các cơ quan phát triển
................................................................................................................................................ 170
2
THUẬT NGỮ CƠ BẢN
Chức trách . Quyền hợp pháp của một người hay một nhóm người. Yếu tố hợp pháp rất
quan trọng đối với khái niệm chức trách. Đây cũng là điểm chính để phân biệt chức trách
với khái niệm quyền lực nói chung. Quyền có thể thực thi bằng sức mạnh hay vũ lực.
Chức trách, trái lại, phụ thuộc vào sự chấp thuận của người dưới quyền về quyền của
những người ra lệnh hay chỉ thị cho họ từ phía trên.
Chế độ quan liêu. Bộ máy có tính tơn ti trật tự, chức trách có dạng kim tự tháp. Max
Weber đã phổ cập khái niệm này. Theo đó, chế độ quan liêu là hình thức tổ chức quy mơ
lớn về người hiệu quả nhất. Weber tranh cãi rằng, cùng với sự lớn mạnh về quy mô chế
độ này không tránh khỏi việc ngày càng quan liêu hơn.
Giai cấp. Đây là một trong những khái niệm hay dùng nhất trong xã hội học. Tuy nhiên
nên định nghĩa khái niệm này thế nào là đúng nhất lại chưa có sự nhất trí rõ ràng. Phần
lớn các nhà xã hội học đều sử dụng khái niệm này để chỉ sự khác nhau về kinh tế xã hội
giữa các nhóm người tao ra sự cách biệt về của cải vật chất và quyền lực.
Cấu trúc xã hội. Sự phân bố các tầng lớp trong xã hội. Tầng lớp được dựa chủ yếu lên sự
bất bình đẳng về kinh tế mà sự bất bình đẳng này không bao giờ ngẫu nhiên. Phần lớn
các xã hội đều có một số lượng tầng lớp nhất định. Chẳng hạn, trong xã hội hiện đại có
các tầng lớp chính là tầng lớp trên, tầng lớp giữa, tầng lớp lao động và tầng lớp dưới.
Hành động tập thể. Hành động tự phát của nhiều người tập trung lại ở một điểm hay một
khu vực. Một trong những dạng thức quan trọng nhất của hoạt động tập thể là cách cư xử
của đám đơng. Trong đám đơng, cá nhân có thể tìm cách đạt được mục tiêu mà họ khơng
làm được trong hồn cảnh bình thường.
Giao tiếp. Sự truyền đạt thơng tin từ một người hay nhóm người sang người khác hay
nhóm khác. Giao tiếp là cơ sở cần thiết của mọi tương tác xã hội. Trong tình huống mặt
đối mặt việc giao tiếp được thực hiện qua ngôn ngữ. Tuy nhiên người ta cũng có thể dùng
tay chân để hiểu điều người khác nói và làm. Cùng với sự phát triển của chữ viết và các
phương tiện như đài, vơ tuyến truyền hình hay hệ thống máy tính, việc giao tiếp đã trở
thành một bộ phận tách khỏi quan hệ xã hội trực diện.
Xung đột. Sự đối kháng giữa các cá nhân hoặc nhóm người trong xã hội. Xung đột có thể
xảy ra khi có sự bất đồng về lợi ích giữa hai cá nhân hay nhóm người trở lên. Xung đột
cũng có thể xảy ra khi mọi người hoặc tập thể tham dự vào cuộc đấu tranh tích cực với
nhau. Sự xung đột về lợi ích khơng phải lúc nào cũng dẫn đến cuộc đấu tranh mở, trong
khi xung đột tích cực đơi lúc xảy ra giữa các đảng phái với cách suy nghĩ lầm là lợi ích
của họ đối nghịch nhau.
Sự tuân thủ hành động làm theo những chuẩn mực đã được xác lập. Không phải lúc nào
người ta cũng tuân theo những quy tắc xã hội. Điều này là do người ta chấp nhận những
giá trị tồn tai dưới nó. Họ có thể cư xử theo những cách nào đó đơn giản vì động cơ cá
nhân hoặc sự thừa nhận.
Sự đồng lịng. Sự nhất trí về các giá trị xã hội cơ bản của các thành viên trong một nhóm,
trong cộng đồng hay trong xã hội. Một số nhà tư tưởng về xã hội học đặc biệt nhấn mạnh
tầm quan trọng của sự đồng lòng như cơ sở cho sự ổn định xã hội. Những người này tin
3
rằng mọi xã hội trải qua một thời kỳ đáng kể đều có một hệ thống đồng tâm nhất trí
chung của đa số dân chúng.
Tội ác. Hành động vi phạm phát luật bị nhà chức trách phát hiện. Cho dù chúng ta vẫn
thường cho rằng bọn tội phạm là một phân đoạn của dân chúng, có rất ít người khơng vi
phạm luật trong suốt cuộc đời của mình dưới hình thức này hay hình thức khác. Trong
khi một số cơ quan của nhà nước ra văn bản luật, một số cơ quan vi phạm luật khác lại
khơng biết tí gì về luật.
Mơ phỏng văn hố. Sự truyền lại các giá trị hay chuẩn mực văn hoá từ thế hệ này sanh
thế hệ khác. Nói tới mơ phỏng văn hố là người ta muốn chỉ cơ chế đảm bảo kinh nghiệm
văn hố được duy trì liên tục theo thời gian Dạy học trong xã hội hiện đại là nằm trong cơ
chế của tái tạo văn hoá.Tái tạo văn hoá xảy ra một cách sâu rộng hơn thơng qua chương
trình giấu mặt- các hành vi các cá nhân học một cách qua con đường chính thức tại
trường.
Văn hố. Các giá trị, các chuẩn mực và các đặc trưng về vật chất của một nhóm nhất
định. Giống như khái niệm về xã hội, khái niệm văn hoá được sử dụng rất rộng rãi trong
xã hội học cũng như trong các môn khoa học xã hội khác (đặc biệt là nhân chủng học).
Văn hoá là một trong những đặc tính rõ nhất để phân biệt xã hội lồi người.
Dân chủ. Hệ thống chính trị cho phép các công dân tham gia vào việc ra quyết định hoặc
bầu người đại diện tham gia vào các cơ quan của chính phủ.
Sự lệch lạc. Kiểu ứng xử không tuân thủ các chuẩn mực hay giá trị của đa số thành viên
của một nhóm hay xã hội. Thế nào thì bị coi là lệch lạc. Câu trả lời cũng đa dạng khơng
kém gì các giá trị và chuẩn mực phân biệt nền văn hoá này với nền văn hố khác. Nhiều
cách ứng xử được coi trọng trong hồn cảnh hay một nhóm người này lại khơng được
nhóm khác chấp thuận.
Phân biệt đối xử. Hành động không cho thành viên của một nhóm sử dụng nguồn hoặc
giải thưởng như thành viên nhóm khác. Phải phân biệt, đối xử với thành kiến, cho dù hai
hành động này có quan hề mật thiết với nhau. Có những cá nhân mang định kiến với
những người khác nhưng không kỳ thị họ; ngược lại người ta có thể phân biệt đối xử với
người khác ngay cả khi người ta khơng có định kiến gì với họ.
Phân cơng lao động. Sự phân chia hệ thống sản suất thành các công việc hay nghề nghiệp
mang tính chun mơn hố, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế. Xã hội nào cũng có ít
nhất một hình thức phân cơng lao động sơ khai nào đó, nhất là việc phân cơng lao động
giữa nam giới và nữ giới. Tuy nhiên sự phát triển của công nghiệp hố đã làm cho việc
phân cơng lao động trở nên phức tạp hơn bao giờ hết. Trong thế giới hiện đại sự phân
cơng lao động mang tính tồn cầu.
Nền kinh tế. Hệ thống sản xuất và trao đổi cung cấp nhu cầu vật chất cho mọi người trong
xã hội. Thể chế kinh tế có tầm quan trọng then chốt trong mọi trật tự xã hội. Những gì
diễn ra trong nền kinh tế thường ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Điểm khác nhau căn bản giữa xã hội hiện đại và xã hội truyền thống là phần lớn dân
chúng không tham gia vào sản xuất nông nghiệp nữa.
Giáo dục. Sự truyền đạt kiến thức từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua việc dạy trực
tiếp. Mặc dù q trình giáo dục có ở mọi xã hội chỉ trong xã hội hiện đại phần lớn giáo
4
dục có dạng đến trường - tức là dạy học trong môi trường giáo dục đặc biệt mà mỗi cá
nhân sự ở một vài năm trong cuộc đời mình.
Gặp gỡ. Cuộc gặp nhau của hai hay nhiều cá nhân trong tình huống mặt đối mặt. Cuộc
sống hàng ngày của chúng ta có thể xem như hàng hoạt các cuộc gặp khác nhau trải ra
trong suốt cả ngày. Trong xã hội hiện đại chúng ta thường gặp mặt với người lạ hơn là
với những người quen biết.
Tính dân tộc. Các giá trị và chuẩn mực để phân biệt thành viên của nhóm này với thành
viên của nhóm khác. Dân tộc là một nhóm mà mọi thành viên trong đó có chung nhận
thức về đặc thù văn hoá chung, phân biệt họ khỏi các nhóm xung quanh. Trong bất kỳ xã
hội nào sự khác biệt về dân tộc gắn liền với sự đa dạng về quyền lực hay của cải vật
chất.Ở đâu sự khác biệt về dân tộc cũng là sự khác biệt về chủng tộc, sự phân chia như
vậy đôi khi rất dễ nhận biết.
Gia đình. Nhóm người có quan hệ huyết thống, kết hơn hay nhận con ni hình thành
nên một đơn vị kinh tế, các thành viên lớn trong gia đình có trách nhiệm ni dưỡng trẻ
em. Mọi xã hội đều bao gồm một kiểu gia đình nào đó, mặc dù bản chất của các mối
quan hệ trong gia đình rất khác nhau. Trong khi trong xã hội hiện đại kiểu gia đình chính
là gia đình hạt nhân, thì người ta cũng vẫn tìm thấy các quan hệ gia đình khác.
Quan hệ chính thức. Quan hệ tồn tại trong các nhóm và tổ chức thiết lập bởi chuẩn mực
hoặc quy tắc của hệ thống chức trách chính thức.
Giới tính. Sự mong đợi của xã hội về hành vi được coi là thích hợp cho từng giới, giới
khơng ám chỉ các đặc trưng về vật lý để phân biệt nam và nữ, mà ám chỉ đặc điểm nữ
tính và nam tính đã được hình thành trong xã hội trong những năm gần đây việc nghiên
cứu quan hệ về giới đã trở thành một trong những lính vực quan trọng nhất trong xã hội
học mà trước đây chúng ít được chú ý đến.
Tồn cầu hố. Sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa con người, giữa các khu vực
và giữa các quốc gia trên thế giới.
Chính quyền. Q trình ban hành các chính sách và quyết định trong một bộ máy chính
trị. Chúng ta có thể nói chính quyến như một q trình hoặc chính quyền để gọi giới viên
chức chịu trách nhiệm áp đặt các quyết định chính trị. Trong khi tất cả các chính quyền
trước đây đều do quốc vương hoặc hoàng đế điều hành, trong xã hội hiện đại chính phủ
do các quan chức khơng thừa kế quyền lực điều hành. Họ được bầu ra hoặc được bổ
nhiệm trên cơ sở kinh nghiệm và trình độ.
Nhận dạng. Đặc điểm phân biệt trong tính cách của một người hay đặc tính một nhóm.
Cả cá nhân lẫn nhóm đều được nhận dạng bằng các dẫu mang tính xã hội. Một trong
những dấu quan trọng nhất để nhận dạng một người là tên của người đó. Tên là phần cá
nhân quan trọng nhất của một người. Đặt tên cũng rất quan trọng để nhận dạng nhóm.
Chẳng hạn, việc nhận dạng một quốc gia được chi phối bởi người đó là “ người Anh” “
người Pháp “ “ người Mỹ “ v.v …
Hệ tư tưởng. Tư tưởng hay tín ngưỡng chung phục vụ cho việc chứng minh lợi ích của
nhóm chiếm đa số. Người ta tìm thấy hệ tư tưởng trong mọi xã hội có sự bất cơng có hệ
thống và thâm căn cố đế giữa các nhóm. Khái niệm hệ tư tưởng luôn gắn liền với khái
5
niệm quyền lực, bởi vì hệ tư tưởng dùng để hợp pháp hố quyền lực mà nhóm này nắm
giữ.
Cơng nghiệp hố. Sự phát triển các hình thức cơng nghiệp hiện đại - nhà máy, máy móc
và q trình sản xuất quy mơ lớn. Cơng nghiệp hố là một trong những bộ q trình
chính ảnh hưởng tới thế giới xã hội trong hai thế kỷ qua. Các xã hội được công nghiệp
hố có những đặc trưng khác biệt hồn tồn với những xã hội của các nước kém phát
triển. Thí dụ, khi cơng nghiệp hố tiến triển chỉ có một bộ phận nhỏ dân chúng làm nơng
nghiệp. Đây chính là điểm tương phản chính với các nước tiền cơng nghiệp.
Cơng nghiệp hố chiến tranh ứng dụng các kiểu sản xuất cơng nghiệp vào ngành sản xuất
vũ khí, kết hợp với tổ chức các lực lượng chiến đấu thành các “cỗ máy qn đội”. Cơng
nghiệp hố chiến tranh là một khía cạnh nền tảng trong việc phát triển xã hội hiện đại
cũng như nền cơng nghiệp tiến triển vì mục đích hồ bình. Nó cũng gắn liền với sự xuất
hiện của chiến tranh toàn cục trong thế kỷ 20, đưa vào cuộc hàng chục ngàn hay hàng
triệu binh lính cộng với tổng động viên nền kinh tế phục vụ cho chiến tranh.
Xã hội cơng nghiệp. Xã hội trong đó phần lớn lực lượng lao động làm việc trong sản xuất
công nghiệp.
Mối quan hề khơng chính thức. Quan hệ trong nhóm hoặc tổ chức phát triển dựa trên liên
kết cá nhân; cách thực hiện cơng việc khác với trình tự chính thức.
Quan hệ thân thích. Mối quan hề gắn các các nhân qua huyết thống, kết hôn hay nhận
con nuôi. Theo định nghĩa quan hệ huyết thống liên quan đến kết hôn và gia đình nhưng
được mở rộng nhiều hơn thế nhiều. Trong khi trong phần lớn xã hội hiện đại một số
nghĩa vụ xã hội có liên quan đến quan hệ thân thích thì trong nhiều nền văn hố khác
quan hệ thân thích có vai trị đặc biệt quan trọng trong phần lớn các lĩnh vực của đời sống
xã hội.
Kết hôn. Mối quan hề tình dục được xã hội chấp thuận giữa hai cá thể. Kết hôn hầu như
lúc nào cũng liên quan đến hai người thuộc hai giới khác nhau. Tuy nhiên trong một số
nền văn hố kiểu kết hơn đồng tính cũng được chấp nhận. Thơng thường việc kết hơn tạo
cơ sở cho một gia đình sinh sản. Điều đó có nghĩa là cặp vợ chồng sẽ sinh thành và nuôi
dưỡng con cái. Nhiều xã hội cho phép chế độ đa thê, một người có thể có đồng thời nhiều
vợ hoặc chồng.
Phương tiện thơng tin đại chúng. Các hình thức giao tiếp như báo chí, đài và vơ tuyến,
được thiết kế để đến được với khán thính giả.
Quốc gia. Kiểu nhà nước, đặc trưng của thế giới hiện đại, trong đó chính phủ có chủ
quyền trong một khu vực lãnh thổ nhất định. Đại bộ phận dân chúng là công dân biết
mình là một bộ phận của một quốc gia. Quốc gia gắn chặt với sự nổi lên của chủ nghĩa
dân tộc, mặc dù lời cam kết trung thành với chủ nghĩa dân tộc không phải lức nào cũng
tuân thủ những ranh giới hiện có giữa các quốc gia. quốc gia phát triển như một bộ phận
của hệ thống quốc gia, bắt nguồn từ Châu Âu, nay đã lan rộng ra tồn cầu.
Tự nhiên đặc tính vật lý hoặc của thế giới bên ngồi hoặc của cơ thể, khơng chịu ảnh
hưởng sự can thiệp của con người. Sự kiện hoặc tình huống được coi là tự nhiên nếu nó
tồn tại hoặc xảy ra không phụ thuộc vào sự điều khiển của con người. Nhiều hiện tượng
xảy ra trong môi trưởng nơi chúng ta đang sống khơng cịn là một bộ phận của tự nhiên
6
nữa, bởi vì con người đã can thiệp vào nhiều mặt của nó. Sự nóng lên của trái đất là một
thí dụ của q trình này : đó khơng phải là một tình trạng tự nhiên mà có ngun nhân từ
sự ô nhiễm do con người gây ra. Nhiều điều xảy ra với cơ thể chúng ta cũng khơng cịn là
tự nhiên nữa. Thí dụ, kết quả của nhiều cơng nghệ sinh sản mới, thụ thai nhân tạo hoặc
kỹ thuật gen, cơ thể chúng ta ngày càng ít bị chi phối bởi các q trình tự nhiên.
Tổ chức. Nhóm nhiều cá nhân tham gia vào loạt quan hệ chức trách nhất định. Trong xã
hội cơng nghiệp có nhiều hình thức tổ chức, ảnh hưởng tới đa số các lĩnh vực của cuộc
sống. Trong khi không phải tổ chức nào cũng quan liêu theo đúng nghĩa vẫn có mối liên
hệ chặt chẽ giữa sự phát triển của tổ chức và xu hướng quan liêu.
Chính trị. Phương tiện chính quyền sử dụng để tác động đến tự nhiên và các hoạt động
của chính phủ. Phạm vi của chính trị khơng chỉ bao gồm hoạt động của các thành viên
chính phủ mà cịn có cả hoạt động của nhiều nhóm và cá nhân khác. Có nhiều cách để
những người khơng nằm trong bộ máy nhà nước tác động đến nó.
Văn hố quần chúng. Giải trí dành cho số đơng khán thính giả như điện ảnh, biểu diễn,
âm nhạc, video và các chương trình truyền hình. Người ta thường đối chiếu văn hố quần
chúng với văn hố “đỉnh cao”. Nói đến điều này là người ta ám chỉ sở thích của thiểu số
được đào tạo. Nhạc cổ điển, opera và hội hoạ là những thí dụ của loại hình văn hố này.
Xã hội hậu cơng nghiệp. Những người tin rằng q trình thay đổi xã hội đưa chúng ta
vượt ra ngồi trật tự cơng nghiệp hoá thường ủng hộ khái niệm này. Xã hội hậu công
nghiệp thường dựa vào sản xuất thông tin hơn là sản xuất ra của cải vật chất. Theo những
người tán đồng khái niệm này, chúng ta đang trải qua một loạt các thay đổi xã hội sâu sắc
không khác nào những thay đổi đã khởi xướng kỷ nguyên công nghiệp diễn ra khoảng hai
trăm năm trước.
Quyền lực. Khả năng của cá nhân hay thành viên của một nhóm đạt được mục đích hoặc
tăng quyền lợi đang nắm. Quyền lực là một khía cạnh lan toả của tất cả mối quan hệ giữa
con người. Nhiều tranh chấp trong xã hội là các cuộc đấu tranh giành quyền lực, bởi vì
một các nhân hay nhóm càng nắm nhiều quyền thì học càng có khả năng bắt những người
khác thực thi các ý muốn của họ.
Thành kiến. Nhận thức trước về một cá nhân hay một nhóm. Những nhận thức này khó
thay đổi ngay cả khi đối mặt với thông tin mới. Định kiến có thể tích cực hoặc tiêu cực.
Tơn giáo. Loạt tín ngưỡng mà thành viên của một cộng đồng tôn thờ. Chúng bao gồm các
biểu tượng mang ý nghĩa kính sợ hay kỳ diệu, kèm theo là việc hành lễ mà các thành viên
của cộng động này tham gia. Tôn giáo không bao gồm niềm tin vào thực thể siêu tự nhiên
ở khắp mọi nơi. Cho dù khó có thể phân biệt tôn giáo và ma lực, người ta vẫn thường cho
rằng trò phù thuỷ ban đầu do cá nhân tiến hành hơn là trọng tâm của hành lễ.
Phương pháp nghiên cứu. Các phương pháp nghiên cứu khác nhau dùng để thu thập các
tài liệu thực nghiệm (có thực). Trong xã hội học có rất nhiều phương pháp nghiên cứu
khác nhau, nhưng làm việc tại hiện trường (hay quan sát những người tham gia) có lẽ là
phương pháp được sử dụng nhiều nhất. Trong một dự án nghiên cứu nên kết hợp hai hay
nhiều phương pháp để phục vụ cho nhiều mục đích.
Cuộc cách mạng. Q trình thay đổi chính trị bao gồm động viên phong trào xã hội của
quần chúng. Họ sẽ dùng vũ lực lật đổ thành cơng chế độ đang tồn tại và thiết lập chính
7
phủ mới. Cuộc cách mạng khác với cuộc đảo chính bởi đó là phong trào của quần chúng
và diễn ra sự thay đổi căn bản trong toàn bộ hệ thống chính trị. Đảo chính là cướp chính
quyền thơng qua bàn tay của các cá nhân. Những người này sau đó sẽ thay thế những
người đang nắm quyền, tuy nhiên họ lại khơng thay đổi tận gốc rễ chế độ chính trị. Cũng
cần phân biệt cuộc cách mạng với cuộc nổi dậy. Nổi dậy là thách thức đối với những
người cầm quyền, tuy nhiên một lần nữa vẫn lại đặt mục tiêu là thay thế con người hơn là
chuyển cấu trúc chính trị.
Lễ Kiểu cư xử được trọng thể hố mà các thành viên của một nhóm hay cộng đồng
thường xuyên tham gia. Tôn giáo là một trong những bối cảnh chính của việc hành lễ, tuy
nhiên phạm vi của hành vi hành lễ vượt ra ngoài lĩnh vực này. Phần lớn mỗi nhóm đều có
kiểu hành lễ riêng.
Khoa học. Khoa học liên quan đến việc sắp xếp theo nguyên tắc các thông số thu được
bằng thực nghiệm, kết hợp với xây dựng cách tiếp cận mang tính lý thuyết và lý thuyết
minh hoạ hoặc giải thích cho các số liệu này. Hoạt động khoa học kết hợp việc tạo ra
cách nghĩ mới cùng với kiểm tra kỹ lưỡng các giả thuyết và ý tưởng. Điểm chính để phân
biệt khoa học với các hệ tư tưởng (như hệ tư tưởng trong tôn giáo) là các giả định mà mọi
ý tưởng khoa học được mở ra để giới làm khoa học phê phán và sửa đổi.
Thế tục hố. Q trình làm giảm ảnh hưởng của tôn giáo. Cho dù xã hội hiện đại ngày
càng ít dựa trên tơn giáo, truy ngun việc thế tục hoá là một vấn đề phức tạp. Thế tục
hố chỉ mức liên quan với các tổ chức tơn giáo (tỷ lệ đi lễ nhà thờ chẳng hạn), ảnh hưởng
về xã hội và vật chất các tổ chức tôn giáo nắm và sử dụng cũng như mức tin của người
dân.
Tự nhận thức. Nhận thức của một người, con người không phải sinh ra đã tự nhận thức
được mà nhận thức sẽ có được nhờ xã hội hố sớm. Học tiếng có vai trị tối quan trọng
trong q trình một đứa trẻ học để có thể tự nhận thức.
Giới tính. Sự khác nhau về giải phẫu giữa đàn ông và đàn bà. Các nhà xã hội học thường
so sánh giới tính với giới. Giới tính chỉ đặc điểm tự nhiên của cơ thể; giới liên quan tới
các dạng hành vi xã hội. Sự phân biệt giới tính và giới khơn giống nhau. Người đồng cô
chẳng hạn là người về cơ thể là đàn ơng nhưng đơi khi lại coi mình là đàn bà.
Sự thay đổi xã hội. Sự thay đổi cơ bản về cấu trúc của một nhóm xã hội hay xã hội. Sự
thay đổi xã hội là hiện tượng ln có mặt trong đời sống xã hội. Hiện tượng này đặc biệt
mạnh mẽ trong kỷ nguyên hiện đại. Có thể truy nguyên nguồn gốc của xã hội hiện đại là
nỗ lực hiểu sự thay đổi phá vỡ thế giới truyền thống và thúc đẩy trật tự xã hội mới.
Nhóm xã hội. Tập hợp các cá nhân tương tác với nhau một cách hệ thống. Nhóm có thể
dao động từ hiệp hội nhỏ cho đến những tổ chức có quy mơ lớn. Cho dù quy mơ của nó
thế nào thì mỗi nhóm đều có đặc trưng xác định. Đó là mọi thành viên trong nhóm đều
mang nhận thức về nhận dạng chung. Đa phần cuộc sống của chúng ta đều diễn ra trong
các nhóm; trong xã hội hiện đại đa số mọi người đều thuộc nhóm này hay nhóm khác.
Sự giao lưu trong xã hội. Bất kỳ mọi cuộc gặp gỡ giữa các cá nhân. Cuộc sống của chúng
ta bao gồm sự tương tác ở dạng này hay dạng khác. Sự tương tác này chỉ các tình huống
gặp nhau chính thức và khơng chính thức. Một minh hoạ cho sự giao lưu xã hội một cách
8
chính thức là lớp học; thí dụ của giao lưu khơng chính thức là hai người gặp nhau trên
phố hay trong buổi tiệc.
Xã hội hố. Q trình xã hội thơng qua đó trẻ em phát triển nhận thức về chuẩn mực và
giá trị xã hội và có được cảm nhận của riêng mình. Xã hội hố là một q trình đặc biệt
quan trọng ở tuổi niên thiếu, tuy nhiên quá trình này sẽ vẫn tiếp tục trong suốt cuộc đời.
Khơng có một cá nhân nào lại miễn dịch khơng bị ảnh hưởng hay thay đổi cách cư xử bởi
phản ứng của những người xung quanh trong tất cả các giai đoạn của đời sống.
Sự cơ động xã hội. Sự dịch chuyển của cá nhân hay nhóm giữa các vị trí xã hội khác
nhau. Chuyển động dứng là chuyển động lên trên hay xuống dưới một trật tự trong hệ
thống phân tầng. Chuyển động ngang là sự di chuyển vật lý của cá nhân hay nhóm từ
vùng này tới vùng khác. Khi phân tích chuyển động đứng các nhà xã hội học phân biệt
khoảng cách cá nhân chuyển động theo hướng nghề nghiệp của mình và khoảng cách
người đó đạt được sơ với cương vị của cha mình.
Phong trào xã hội. Nhóm đơng những người tìm cách hồn thành hoặc cản trở quá trình
thay đổi xã hội. Phong trào xã hội thường tồn tại dưới dạng xung đột giữa các tổ chức có
mục tiêu và triển vọng đối kháng nhau. Tuy nhiên phong trào thách thức quyền lực khi có
thể phát triển thành tổ chức.
Địa vị xã hội. Nhận dạng xã hội của một cá nhân trong một nhóm hay xã hội nhất định.
Địa vị xã hội có thể rất chung về bản chất (như những người liên quan tới vai trị giới
tính) hoặc có thể mang tính đặc thù (như chức vụ).
Vai trò xã hội. Hành vi của một cá nhân có địa vị xã hội nhất định. Ý tưởng vai trị xã hội
có nguồn gốc từ nhà hát, chỉ các vai diễn của các diễn viên trên sân khấu. ở xã hội nào cá
nhân cũng đóng một loạt ác vai trị xã hội khác nhau tuỳ theo tình huống hoạt động của
họ.
Phân tầng xã hội. Sự tồn tại sự bất bình đẳng giữa các nhóm trong xã hội về quyền của
họ đối với nguồn và các giải thưởng tượng trưng. Mọi xã hội đều có sự phân tầng. Tuy
nhiên chỉ có sự phát triển của hệ thống dựa trên nhà nước mới mở rộng sự khác biệt về sự
tăng lên của của cải và quyền lực. Kiểu phân tầng dễ phân biệt nhất trong xã hội hiện đại
là phân chia giai cấp.
Cấu trúc xã hội. Kiểu giao lưu giữa các cá nhân hay nhóm. Cuộc sống xã hội khơng xảy
ra theo kiểu ngẫu nhiên. Đa số hoạt động của chúng ta đều được cấu trúc: chúng được tổ
chức một cách thường xuyên và lặp đi lặp lại. Sự so sánh có thể khập khiễng nhưng sẽ
hữu ích khi nghĩ về cấu trúc xã hội của một xã hội như xà nhà chống đỡ cho toà nhà và
nối chúng với nhau.
Xã hội. Xã hội là một trong những khái niệm quan trọng nhất trong xã hội học. Xã hội là
một nhóm người sống trên một rãnh thổ riêng , là đối tượng của một hệ thống chính trị
chung, nhận thức được sự khác biệt với những nhóm khác quanh họ. Một vài xã hội như
xã hội của những người săn bắn và hái lượm rất nhỏ không vượt quá vài chục người.
Những nhóm khác rất lớn gồm hàng triệu như xã hội Trung quốc có hơn một tỷ người.
Xã hội học. Nghiên cứu nhóm và xã hội lồi người, đặc biệt nhấn mạnh phân tích thế giới
cơng nghiệp hố. Xã hội học là một một mơn trong nhóm khoa học xã hội gồm nhân
chủng học, kinh tế, chính trị học và địa nhân học. Khơng có sự phân chia rõ ràng giữa các
9
môn khoa học xã hội khác nhau. Tất cả đều có chung mối quan tâm, khái niệm và
phương pháp.
Nhà nước. Bộ máy chính trị (Chính phủ cùng các viên chức) cầm quyền theo trật tự xã
hội nhất định. Họ được luật pháp và khả năng sử dụng cảnh sát, quân đội làm hậu thuẫn.
Không phải xã hội nào cũng đều có nhà nước. Nền văn hố săn bắn và hái lượm hay các
xã hội trồng trọt nhỏ đều khơng có nhà nước. Sự xuất hiện của nhà nước đánh dấu một
bước ngoặt trong lịch sử lồi người bởi vì sự tập trung lực lượng chính trị trong việc hình
thành nhà nước đưa ra động lực mới trong quá trình thay đổi xã hội.
Địa vị. Danh tiếng hay uy tín các thành viên khác trong xã hội trao cho một nhóm. Nhóm
có uy tín thường có lối sống - cách cư xử khác biệt, được các thành viên trong nhóm noi
theo. Danh tiếng có thể tích cực hoặc tiêu cực. Nhóm “Pariah ‘ bị phần lớn dân chúng
khinh thường, bị đối xử như một kẻ bị ruồng bỏ.
Phương pháp lý thuyết. Viễn cảnh về cuộc sống xã hội có tín ngưỡng lý thuyết riêng. Một
số tín ngưỡng lý thuyết chính trong xã hội học là chủ nghĩa chức năng, chủ nghĩa cấu
trúc, tương quan tượng trưng và chủ nghĩa Mác. Các tín ngưỡng lý thuyết cung cấp triển
vọng tổng thể trong đó các nhà xã hội học làm việc và tác động đến các lĩnh vực nghiên
cứu khác cũng như cách nhận diện và giải quyết vấn đề.
Lý thuyết. Nỗ lực nhận diện các đặc tính cung giải thích cho các hiện tượng thường xuyên
quan sát thấy. Việc xây dựng lý thuyết hình thành nên một phần tử quan trọng của xã hội
học. Trong khi lý thuyết thường gắn với các tín ngưỡng lý thuyết rộng hơn, chúng cũng
bị tác động bởi kết quả nghiên cứu mà chúng tạo ra.
Tiềm thức. Động cơ và ý tưởng mà trí óc của một người không biết. Cơ chế tâm lý quan
trọng quan trọng trong tiềm thức là sự ức chế - phần của tâm thần bị ngăn khỏi nhận thức
trực tiếp của các nhân. Theo lý thuyết Freud các ý muốn và xung vơ thức được hình
thành ở tuổi thơ tiếp tục đóng vai trị khi lớn lên.
Thất nghiệp. Tình trạng một cá nhân muốn có việc làm được trả lương nhưng khơng làm
được điều đó. Thất nghiệp là một khái niệm phức tạp so với khi thoạt nhìn. Một người
khơng có việc làm chưa hẳn đã là người thất nghiệp với nghĩa khơng có gì để làm. Người
nội trợ khơng nhận lương nhưng họ thường phải làm việc rất vất vả.
Chủ nghĩa thành thị. Thuật ngữ của Louis Wirth để định rõ các đặc trong cuộc sống xã
hội ở thành thị chẳng hạn sự lạnh lùng.
Giá trị ý tưởng của cá nhân hay nhóm về những ước muốn, chính đáng, đúng hoặc xấu.
Phân biệt giá trị là chìa khố biến dạng của nền văn hố lồi người. Những điều mà các
nhân đánh giá chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn hoá đang sống.
Bạo lực. Việc sử dụng hoặc đe doạ vũ lực lên cơ thể của cá nhân hay nhóm này đối với
nhóm khác. Chiến tranh là đỉnh điểm của bạo lực. Tuy nhiên, bạo lực là chuyện thường
xuyên xảy ra trong nhiều hồn cảnh khơng chính thức. Thí dụ, nhiều cuộc hôn nhân được
đặc trưng bởi lịch sự bạo hành của chồng (vợ) đối với người kia.
Việc làm. Hoạt động loài người sản xuất từ thiên nhiên và đảm bảo cho cuộc sống của họ.
Không nên nghĩ việc làm chỉ là công việc được trả lương. Trong các nền văn hố truyền
thống , khi chỉ có hề thống tiền tệ sơ khai và chỉ có rất ít người làm việc được trả công
10
bằng tiền. Trong xã hội hiện đại, vẫn còn nhiều kiểu việc làm không được trả lương trực
tiếp (như việc nhà).
11
LỜI NÓI ĐẦU
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các cơng trình nghiên cứu,
khảo sát điều tra xã hội học, nhiều tập giáo trình bài giảng đi sâu vào lĩnh vực khoa học
mới mẻ này. Những phân tích chuyên sâu vào nhiều lĩnh vực của xã hội, xã hội học nông
thôn, xã hội học vùng ven biển, đặc biệt là những quan hệ cộng đồng, xã hội, gia đình, họ
tộc là rất quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội. Trong xã hội hiện đại, bên
cạnh những cái mới đang nảy sinh và phát triển, những giá trị truyền thống về xã hội học
nơng thơn và vìng ven biển vẫn được duy trì và củng cố. Xã hội học nghiên cứu các
phong tục tập quán, tín ngưỡng, cơ cấu xã hội, quan hệ xã hội…trên cưo sở đó hoạch
định những chính sách xã hội phù hợp nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
người dân luôn là mục tiêu của các nhà nghiên cứu Xã hội học nói riêng, Đảng và Nhà
nước ta nói chung.
Trong khn khổ dự án hợp tác”Nâng cao năng lực đào tạo ngành kỹ thuật bờ biển”
được phía chính phủ Hà Lan tài trợ tác giả đã có dịp được sang làm việc, học tập tại
Trường Đại học Công nghệ Delft, Viện Nghiên cứu xã hội Hague, và trực tiếp dưới sự
giúp đỡ của TS. Nguyễn Ngọc Lưu đã hoàn thành cuốn bài giảng Xã hội học. Cuốn bài
giảng này lần đầu tiên được viết bằng tiếng Anh và được nhiều Giáo sư, Tiến sỹ của Đại
học Công nghệ Delft, Viện Nghiên cứu xã hội Hague góp ý và chỉnh sửa, sau đó được
dịch sang tiếng Việt và hiện nay đã trở thành tài liệu giảng dạy chính thức cho Khoa Kỹ
thuật bờ biển.
Nhân đây cho phép tác giả được bày tỏ sự biết ơn sâu sắc TS. Nguyễn Ngọc Lưu đã
tận tình giúp đỡ tác giả trong việc tìm kiếm tài liệu và trao đổi về học thuật đặc biệt các
kiến thức về xã hội học. Mặc dù đã đi xa nhưng TS. Nguyễn Ngọc Lưu ln là người thầy
tận tình, chu đáo chỉ bảo cho bao lớp thê hệ sinh viên, nghiên cứu sinh học tập tại Viện
Nghiên cứu xã hội Hague.
Tác giả cũng chân thành cám ơn TSKH. Nguyễn Trung Dũng đã đọc bản thảo tiếng
Việt và góp ý nhiều ý quý báu để tác giả chỉnh sửa cuốn bài giảng này.
Trong lúc biên soạn lại tập thể tác giả có sử dụng một số tư liệu của một số tác giả
được ghi trong tài liệu tham khảo, tác giả xin chân thành cám ơn.
Mặc dù đã được biên soạn công phu, nhưng vẫn khơng tránh khỏi những sai sót,
mong bạn đọc góp ý kiến nhận xét để nội dung bài giảng lần sau sẽ được phong phú và
hoàn chỉnh hơn.
Hà nội, ngày 15 tháng 12 năm 2005
TÁC GIẢ
12
CHƯƠNG 1. KHÁI NIỆM VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG XÃ HỘI HỌC
1.1. Xã hội học là gì ?
Ngày nay ở đầu thế kỷ 21 chúng ta đang sống trong một thế giới nhiều nỗi lo nhưng cũng
mang nhiều hứa hẹn cho tương lai. Đó là thế giới tràn ngập sự thay đổi, đánh dấu bằng
các xung đột sâu sắc, sự căng thẳng và phân chia xã hội cũng như sự tấn cơng dữ dội
mang tính huỷ diệt của cơng nghệ lên môi trường sinh thái. Tuy nhiên chúng ta có khả
năng điều khiển vận mệnh của mình và phát triển cuộc sống theo hướng tích cực, những
điều mà các thế hệ trước không tưởng tượng nổi.
Thế giới đã diễn ra thế nào? Tại sao điều kiện sống của chúng ta lại khác xa với ông cha
ta ngày trước? Tương lai sẽ phát triển theo hướng nào? Những câu hỏi này là mối quan
tâm đầu tiên của xã hội học, một lĩnh vực nghiên cứu đống vai trò nền tảng trong nền văn
hố trí thức hiện đại.
Xã hội học nghiên cứu về cuộc sống xã hội của con người, nhóm người và xã hội. Đây là
sự nghiệp rực rỡ và hấp dẫn, bời vì đối tượng của nó hà hành vi của chính chúng ta với tư
cách là sinh vật trong xã hội. Xã hội học có phạm vi nghiên cứu khá rộng, từ việc phân
tích các cuộc gặp gỡ giữa các cá nhân ngoài đường phố đến việc nghiên cứu các q trình
xã hội trên tồn cầu. Một thí dụ ngắn gọn sẽ cung cấp sự tinh tế đầu tiên về bản chất và
mục tiêu của xã hội học.
1.2. Phạm vi của xã hội học
Giddens lấy tình yêu làm ví dụ để nhấn mạnh phạm vi của xã hội học. Ông viết:
“Bạn đã bao giờ yêu chưa? Chắc hẳn bạn đã từng. Ngay từ tuổi thanh niên đa số đều biết
một người đang yêu sẽ thế nào. Tình yêu và sự lãng mạn mang lại cho nhiều người trong
số chúng ta cảm giác mãnh liệt chưa từng có. Vì sao người ta lại yêu? Thoạt nhìn câu trả
lời là hiển nhiên. Tình yêu biểu lộ sự gắn kết về cơ thể và riêng tư giữa hai con người có
cảm tình với nhau. Ngày nay chúng ta có thể nghi ngờ về ý tưởng một tình yêu vĩnh cửu.
Tuy nhiên chúng ta vẫn thường cho rằng yêu là một thứ tình cảm bắt nguồn từ cảm xúc
của con người. Với hai người yêu nhau lẽ tự nhiên là họ muốn ở bên nhau và có quan hề
tình dục, có thể ở dạng kết hơn”.
Tình huống có vẻ khơng cần phải giải thích gì thêm, trên thực tế lại khơng bình thường.
Không phải tất cả mọi người trên khắp thế giới đều đã được trải qua cảm xúc yêu. Nơi nó
hiện diện hiếm khi lại có quan hệ với hơn nhân. Mãi đến gần đây ý tưởng về một tình
yêu lãng mạn mới phổ biến. Trong nhiều nền văn hoá khác nó chưa bao giờ tồn tại.
Chỉ trong thời hiện đại tình u và tình dục mới được xem là có quan hệ mật thiết. John
Boswell, một nhà lịch sử về Châu Âu thời trung cổ đã có nhận xét về sự bất thường của
những ý tưởng về một tình yêu lãng mạn.
Thời Trung cổ ở châu Âu trên thực tế khơng ai kết hơn vì tình u. Có một câu nói thời
đó: ” yêu vợ bằng cảm xúc là ngoại tình”. Thời đó và hàng thế kỷ từ đó về sau người đàn
ông và người đàn bà kết hôn chủ yếu để giữ tài sản của gia đình hay dạy con trơng coi
trang trại của gia đình. Một khi đã kết hơn hai người có thể trở thành những người bạn
đồng hành gần gũi. Sau khi lấy nhau điều này thường xảy ra . Đơi khi người ta cũng có
mối quan hệ tình dục ngồi hơn nhân, nhưng những người này cảm nhận những cảm xúc
13
mà ngày nay chúng ta gắn với tình yêu. Tình yêu lãng mạn may mắn lắm mới được coi là
yếu ớt và tệ hại nhất là bị coi là bệnh hoạn.
Ngày nay chúng ta có thái độ gần như hồn toàn ngược lại. Boswell đề cập hoàn toàn
đúng về một nỗi ám ảnh thực sự về một “nền văn hoá cơng nghiệp hiện đại” với tình u
lãng mạn.
Những người chìm trong “ bể tình yêu “ thường cho rằng rất ít nền văn hố trước thời
hiện đại hay khơng khơng nghiệp hố nhất trí với ý kiến này- một ý kiến khơng cịn gây
tranh cãi ở Phương Tây rằng “ mục đích của một người đàn ơng là u một người đàn bà
và mục đích của một người đàn bà là u một người đàn ơng “. Phần lớn lồi người ở
khắp mọi nơi mọi lúc đều thấy điều này là một cách đo tồi tệ về giá trị của con người !
Do vậy tình u lãng mạn khơng thể chỉ hiểu như một phần tự nhiên của cuộc sống con
người; mà nó được hình thành do những ảnh hưởng xã hội và lịch sử rộng lớn. Chính
những ảnh hưởng này là điều mà các nhà xã hội học nghiên cứu. ( Giddens ).
Theo lời của Giddens thí dụ giúp chúng ta hiểu được phạm vi của xã hội học:
“Phần lớn chúng ta nhìn thế giới về những đặc điểm quen thuộc với đời sống. Xã hội học
minh hoạ cho sự cần thiết phải có cách nhìn rộng lớn hơn lý giải vì sao chúng ta lại thế
này, vì sao chúng ta lại hành động như vậy. Xã hội học cho chúng ta thấy điều mà chúng
ta coi là tự nhiên, khơng tránh khỏi, tốt hay đúng cũng có thể không hẳn là như vậy và
những điều cuộc sống mang lại cho chúng ta chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các lực lượng
xã hội và lịch sử. Điều cơ bản đối với quan điểm xã hội học là hiểu được cách phản ánh
tinh tế nhưng cũng rất phức tạp sự trải nghiệm xã hội của chúng ta.
1.3. Ngữ cảnh giao tiếp xã hội hay quá trình
Hai người đi ngang qua nhau trên đương phố. Khi còn cách xa một khoảng họ liếc nhìn
nhau, người này nhìn thống qua diện mạo của người kia. Khi tới gần và đi ngang qua,
hai ngươi nhìn sang hướng khác, tránh ánh mắt của người kia. Điều này diễn ra hàng
triệu lần trong một ngày ở khắp mọi nơi trên thế giới cả thành thị lẫn nơng thơn.
Khi những người đi qua liếc nhìn nhau để rồi lại nhìn sang hướng khác, họ đang biểu thị
cái mà Erving Coffrnan (1967, 1971) gọi là sự không tập trung và chúng ta cần có trong
nhiều tình huống. Sự thiếu chú ý dân sự không giống như là bỏ qua một người khác. Mỗi
cá nhân đều biểu lộ sự nhận biết của mình khi ai đó có mặt, nhưng lại tránh có những cử
chỉ có thể bị coi là quá xâm phạm. Sự thiếu cú ý này là một cái gì đó ít nhiều vơ thức
nhưng nó lại có một tầm quan trọng nền tảng trong cuộc sống hàng ngày.
Cách tốt nhất để lý giải tại sao lại như vậy là nghĩ ra những thí dụ mà khi một người nhìn
chằm chằm vào người khác, để khn mặt của họ biểu đạt tình cảm riêng một cách cơng
khai, điều này chỉ xảy đến với người yêu, thành viên trong gia đình hay bạn bè thân thiết.
Người là hay làm quen tình cờ, cho dù là quen ngồi đường , ở nơi làm việc hay buổi
tiệc, trên thực tế khơng bao giờ nhìn ngắm người khác theo cách này. Nếu làm như vậy
có thể bị nghi là có dấu hiệu thù địch có chủ định. Chỉ khi nào hai nhóm đối địch mạnh
mẽ với nhau, thì người lạ mới có thể cho phép mình làm những việc như vậy. Do vậy, ở
nước Mỹ trước đây người da trắng được biết đến là có cài nhìn căm ghét với người da
đen đi ngang qua.
14
Ngay cả những người bạn khi nói chuyện thân mật cũng nên cẩn thận khi nhìn người đối
thoại. Mỗi cá nhân đều biểu lộ sự chăm chú tham gia vào cuộc nói chuyện bằng cách
thường xun nhìn người đối diện, nhưng đừng nhìn xốy vào họ. Nhìn q chăm chú có
thể bị xem như dấu hiệu của sự ngờ vực hay ít ra là khơng hiểu người khác nói gì. tuy
nhiên nếu khơng nhìn vào mắt người khác tí nào thì cũng có thể bị coi là lảng tránh, gian
giảo nếu khơng thì cũng là kỳ cục.
Nghiên cứu cuộc sống hàng ngày
Vì sao chúng ta lại quan tâm đến những khía cạnh tưởng như vặt vãnh như vậy của các
hành vi xã hội? Vượt qua một ngời trên phố và nói vài lời với một người bạn dường như
là việc nhỏ, chẳng có gì làm thú vị, những điều mà mỗi ngày chúng ta làm vô số lần mà
chẳng cần suy nghĩ. Trên thực tế việc nghiên cứu các dạng giao lưu xã hội tưởng chừng
khơng có ý nghĩa gì lại đặc biệt quan trọng trong xã hội học, còn xa mới không thú vị là
một trong những cuốn hút trong mọi lĩnh vực nghiên cứu của xã hội học. Có hai nguyên
nhân.
Thứ nhất, những điều diễn ra hàng ngày cùng với sự giao tiếp gần như không đổi với
người khác sẽ cho chúng ta cấu trúc và dạng thức về điều chúng ta sẽ làm. Chúng ta có
thể học được nhiều điều về bản thân mình với tư cách là một cá thể trong xã hội và
nghiên cứu cuộc sống xã hội sẽ cho chúng ta kiến thức về nó. Cuộc sống của chúng ta
được tổ chức quanh việc lặp đi lặp lại các kiểu ứng xử tương tự từ ngày này sang ngày
khác, tuần này sang tuần khác, tháng này sang tháng khác và năm này sang năm khác.
hãy nghĩ lại những điều bạn làm hôm qua và hôm kia. Nếu cả hai ngày này đều là ngày
làm việc, thì có rất nhiều khả năng hầu như ngày nào bạn cũng dậy vào giờ đó (một cơng
việc thường nhật quan trọng). Có thể bạn đến trường khá sớm vào buổi sáng. Cũng có thể
bạn hẹn ai đó cúng đi ăn trưa. Buổi chiều lại trở vào lớp hay học thêm. Sau đó bạn lại đi
những bước chân về nhà; buổi tối cũng có thể bạn đi chơi cũng những người bạn.
Lẽ dĩ nhiên, công việc thường nhật chúng ta tiến hành ngày ngày không giống nhau và
các hoạt động vào ngày nghỉ cuối tuần thường khác xa vời ngày thường. và nếu chúng ta
thay đổi căn bản cuộc sống chúng ta giống như thôi học để đi làm, sự thay đổi trong cuộc
sống thường nhật thường là cần thiết. Tuy nhiên sau đó chúng ta lại thiết lập loạt thói
quen mới và khá thường xuyên.
Thứ hai, việc nghiên cứu giao tiếp xã hội hàng ngày chiếu tia sáng vào hệ thống xã hội
rộng lớn hơn. Mọi hệ thống xã hội quy mô lớn trên thực tế đều phụ thuộc vào các dạng
thức giao thiếp xã hội hàng ngày của chúng ta. Minh hoạ điều này rất dễ. Cùng nhìn lại
trường hợp hai người khơng quen biết đi ngang qua nhau ngồi đường. Sự kiện như vậy
có rất ít mối quan hệ trực tiếp với các dạng thức tổ chức xã hội quy mô lớn và thường
xuyên. Nhưng nếu chúng ta tính đến nhiều sự giao tiếp như vậy, thì nó khơng cịn như thế
nữa. Trong xã hội hiện đại, nhiều người sống ở thành thị thường xuyên giao tiếp với
những người mà bản thân họ không biết. Sự không chú ý dân sự là một trong số các cơ
chế cho cuộc sống thị thành cùng với những đám đơng hối hả và thống qua, những cuộc
tiếp xúc lạnh lùng đặc trưng của nó.
Trong chương này, trước hết chúng ta sẽ nghiên cứu cách sử sự không dùng ngôn ngữ
(biểu lộ trên nét mặt hoặc cử chỉ tay chân) mà chúng ta sử dụng khi giao tiếp. Sau đó
15
chúng ta sẽ chuyển sang phân tích lời nói hàng ngày - cách chúng ta sử dụng ngôn ngữ để
truyền đạt cho người khác những ý nghĩ muốn biểu đạt. Cuối cùng chúng ta sẽ tập trung
vào cách thức mà cuộc sống của chúng ta cấu trúc những hoạt động thường nhật, đặc biệt
chú ý đến cách chúng ta phối hợp hành động theo thời gian và không gian.
Giao tiếp phi ngôn ngữ
Giao tiếp xã hội đồi hỏi nhiều dạng giao tiếp không dùng ngôn ngữ khác nhau - sự trao
đổi thông tin và ý nghĩa thông qua biểu lộ sắc mặt, cử chỉ hay chuyển động của cơ thể.
Đôi khi giao tiếp phi ngơn ngữ cịn được gọi là “ngôn ngữ của cơ thể”. Tuy nhiên điều
này dễ gây lầm lẫn bởi vì chúng ta sử dụng một cách đặc trưng các cử chỉ này để loại bỏ
hay mở rộng những điều được nói thành lời.
Khn mặt, cử chỉ và cảm xúc
Một khía cạnh quan trọng của giao tiếp phi ngôn ngữ là biểu thị cảm xúc qua sắc mặt.
Paul Ekman và các đồng nghiệp đặc phát triển một hệ thống có tên là Hệ mã hành động
trên nét mặt ( FACS ) để miêu tả chuyển động của các cơ mặt là nguyên nhân gây ra sự
biểu lộ đặc biệt (Ekman & Friesen 1978). Bằng cách này họ cố đưa sự chính xác vào lĩnh
vực mà có tiếng là biểu đạt không nhất quán hoặc đầy mâu thuẫn- bởi vì ít có sự thống
nhất về cách nhận dạng và phân loại cảm xúc. Charles Darwin, người sáng lập ra học
thuyết tiến hố, tun bố rằng lồi người có kiểu biểu lộ cảm xúc cơ bản giống nhau. Cho
dù một số người khơng nhất trí với lời tun bố này, những nghiên cứu của Ekman đến từ
mọi nền văn hoá khác biệt nhau dường như lại khẳng định lời tuyên bố của Darwin là
đúng. Ekman và Friesen đã tiến hành nghiên cứu một cộng đồng sống biệt lập ở New
Guinea. Trước đây các thành viên của cộng đồng này hầu như khơng tiếp xúc với người
ngồi. Khi cho họ xem các bức tranh vẽ cách biểu lộ 6 cảm trúc trên khuôn mặt (hạnh
phúc, buồn, tức giận, căm ghét, sợ hãi, kinh ngạc), những người dân này đều nhận ra các
cảm xúc này.
Theo Ekman, kết quả nghiên cứu của ông và các nghiên cứu tương tự ủng hộ cho luận
điểm biểu lộ cảm xúc qua nét mặt và ý nghiã của nó là bẩm sinh đối với lồi người. Ông
cũng thừa nhận là bằng chứng của ông chưa thể chứng minh cho điều này, cũng có thể là
điều này liên quan đến kinh nghiệm văn hoá chung; tuy nhiên các dạng nghiên cứu khác
đã ủng hộ cho kết luận của ơng.
Khơng có một cử chỉ hay tư thế nào dặc trưng cho tất cả, thậm chí đa số các nền văn hoá.
Ở một số xã hội, người ta gật đầu khi nói khơng, điều này hồn tồn trái ngược với người
Anh Mỹ. Các cử chỉ mà người châu Âu và châu Mỹ rất hay dùng như chỉ tay dường như
khơng có trong số các dân tộc khác (Bull 1983). Tương tự, ngón tay trỏ đặt vào giữa má
và xoay ở một số vùng của ý là cử chỉ khen ngợi, nhưng ở nơi khác thì khơng biết có ý
nghĩa gì.
Giống như sắc mặt, cử chỉ hà tư thế được sử dụng để lọc lời phát biểu cũng như chuyển
tải nội dung khi khơng nói gì. Cả ba điều này có thể sử dụng để trêu đùa, biểu lộ sự mỉa
mai hay nghi ngờ. Cách biểu lộ phi ngôn ngữ mà chúng ta truyền đạt một cách tình cờ
thường chỉ ra rằng điều chúng ta nói khơng hồn tồn giống như điều chúng ta muốn nói.
Đỏ mặt có lẽ là thí dụ hiển nhiên nhất, cịn có rất nhiều dấu hiệu tinh tế mà người khác có
thể nhìn thấy. Biểu lộ thực thường mất đi sau khoảng 4-5 giây. Một nụ cười kéo dài lâu
16
hơn có thể bị coi là giả dối. Cách biểu lộ ngạc nhiên q lâu có thể là sự khơi hài có chủ
định chưa biết trên thực tế người ta khơng hề bị bất ngờ, ngay cả khi người đó có lý lẽ để
bị bất ngờ.
‘Khn mặt ‘ và văn hóa
Từ “mặt” cũng có thể là sự quý trọng một người. Trong cuộc sống xã hội hàng ngày
chúng ta thường chú ý rất nhiều để “cứu bộ mặt”. Nhiều điều trong cái chúng ta gọi là
phép lịch sự trong các buổi tụ tập đông người bao gồm việc bỏ qua các khía cạnh của
phép cư xử có thể làm mất mặt. Chúng ta khơng nói đến các giai thoại trong quá khứ hay
đặc trưng của cá nhân. Chúng có thể làm họ bối rối nếu nhắc tới. Chúng ta nhịn khơng
đùa về cái đầu hói nếu chúng ta nhận ra ai đó đội tóc giả trừ khi chúng ta là bạn thân. Tế
nhị là một thiết bị bảo vệ mà mỗi người sử dụng khi nghĩ đến việc một ngày nào đó điểm
yếu cuả họ sẽ bị phơi bày trước mọi người. Cuộc sống của chúng ta không chỉ diễn ra.
Khi khơng nhận ra nó phần lớn thời gian chúng ta kiểm soát liên tục và kỹ lưỡng sắc mặt,
cử chỉ và tư thế khi giao lưu với người khác.
Một số người là chuyên gia trong việc kiềm chế biểu lộ trên khuôn mặt và cư xử tế nhị
với người khác. Một nhà ngoại giao giỏi nhất thiết phải có vẻ thoải mái khi tiếp xúc với
người khác, cho dù họ bất đồng quan điểm hay kinh tởm. Mức độ điều khiển thành cơng
việc này có thể ảnh hưởng đến số phận của cả quốc gia. Khơn khéo có thể làm giảm căng
thẳng giữa các nước và tránh được chiến tranh.
Quy tắc và nói chuyện
Mặc dù chúng ta sử dụng các cử chỉ không dùng lời khi cư xử và khi suy luận hành vi
của người khác, nhiều giao tiếp diễn ra thông qua sự trao đổi thông thường bằng lời nói
qua các cuộc đối thoại khơng chính thức. Các nhà xã hội học luôn luôn chấp nhận là ngôn
ngữ là nền tảng của cuộc sống xã hội. Tuy nhiên gần đây, người ta phát triển một phương
pháp mới, gắn với cách người ta sử dụng ngôn ngữ trong các tình huống hàng ngày. Việc
nghiên cứu các mẩu đối thoại chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi cơng trình của Erving
Goffman. Nhưng gây ảnh hưởng quan trọng nhất trong kiểu nghiên cứu này là Harold
Garfinkens, người sáng lập ra phương pháp nhân chủng học.
Phương pháp nhân chủng học là nghiên cứu các phương pháp nhân chủng - văn hoá dân
gian, phương pháp mọi người sử dụng để luận nghĩa điều người khác làm và nhất là điều
người khác nói. Tất cả chúng ta đều áp dụng phương pháp này, thường không phải chú ý
đến chúng. Thường chúng ta chỉ có thể luận nghiã của những điều nói trong cuộc đối
thoại nếu chúng ta biết tình huống xã hội.Tình huống này khơng xuất hiện trong các từ.
Hãy xem đoạn hội thoại sau:
A: Tơi có một cậu con trai 14 tuổi
B: Được.
A: Tơi cũng cịn có một con chó.
B: Ơ, tơi rất lấy làm tiếc.
Theo bạn điều gì đang xảy ra ở đây? Hai người nói chuyện là thế nào với nhau. Biết rằng
đây là đoạn đối thoại giữa một người có khả năng sẽ thuê nhà và chủ nhà thì đoạn hội
thoại trên có thể hiểu được. Nhiều chủ nhà chấp nhận trẻ nhỏ nhưng không cho phép
người thuê nuôi súc vật. Tuy nhiên, nếu chúng ta khơng biết được tình huống xã hội, câu
17
trả lời của B dường như chẳng có mối liên hệ gì với câu B kể. Một phần của ý nghĩa nằm
trong từ ngữ và một phần trong cách tình huống xã hơi cấu trúc những điều người đối
thoại nói.
Dạng nói chuyện tầm phào nhất là sự hiểu biết tinh tế và kiến thức do những người có
liên quan đưa vào. Trên thực tế cuộc nói chuyện nhỏ của chúng ta phức tạp để nỗi khơng
thiết lập trình được ngay cả những máy tính tinh vi nhất để trị chuyện với con người. Từ
ngữ sử dụng trong các cuộc nói chuyện thơng thường khơng phải lúc nào cũng có ý nghĩa
chính xác và chúng ta cố định những điều muốn nói thơng qua giả định . Nếu Nguyễn
Văn A hỏi Lý Văn B “Hơm qua cậu làm gì ?”, thì bản thân từ ngữ không đưa ra câu trả
lời hiển nhiên nào. Ngày là một khoảng thời gian dài và sẽ là hợp lý khi Văn B trả lời
“Tôi thức dậy vào 7h16. Lúc 7h18 tôi ra khỏi giường, vào nhà tắm và bắt đầu đánh răng.
Lúc 7h19 tôi vặn vòi hoa sen…” Chúng ta hiểu kiểu trả lời khi biết Văn A, các hoạt động
mà Nguyễn Văn A hỏi Lý Văn B thường tiến hành cùng nhau và việc Lý Văn B thường
làm vào những ngày đặc biệt trong tuần.
Thí nghiệm của Garfinkel
Garfinkel đã tiến hành một số thí nghiệm cùng với các sinh viên tình nguyện. Kết quả đã
nhấn mạnh sự mong chờ nền mà chúng ta tổ chức các cuộc đối thoại thông thường.
Người ta yêu cầu các sinh viên đưa một người bạn hoặc người thân vào cuộc nói chuyện
và địi hỏi có những nhận xét thơng thường hay bình luận chung chung để đưa ra được ý
nghĩa chính xác. Nếu ai đó nói “Chúc một ngày tốt lành”, người sinh viên phải trả lời
“Chính xác là tốt lành theo nghĩa nào”, “Bạn định ám chỉ buổi nào trong ngày ?”, v.v…
Vì sao người ta lại buồn phiền khi những quy ước có vẻ là nhỏ lại không được tuân thủ?
Câu trả lời là sự ổn định và ý nghĩa cuộc sống hàng ngày của chúng ta phụ thuộc vào việc
chia sẻ những giả định văn hố khơng nói ra về những điều đã nói và nguyên nhân. Nếu
chúng ta không chấp nhận điều này, sẽ khơng thể có những sự giao tiếp có ý nghĩa. Bất
kỳ câu hỏi hay sự đóng góp nào vào cuộc nói chuyện sẽ được tiếp nối bằng “một chu
trình tìm kiếm dày đặc” dạng như người ta yêu cầu đối với các đối tượng trong nghiên
cứu của Garfinkel và sự giao lưu sẽ đổ vỡ. Cái điều thoạt nhìn tưởng là thơng lệ nói
chuyện khơng quan trọng hố ra lại là nền tảng cho từng cấu trúc của xã hội. Vi phạm
điều này thật là nghiêm trọng.
Ghi nhớ rằng trong cuộc sống người ta có dịp giả vờ ngây thơ khơng biết điều gì đó.
Người ta có thể làm điều này để làm ai bị mất mặt, chế giễu họ, gây sự lúng túng hay gây
sự chú ý về nghĩa bóng của những điều vừa nói.
Câu đối đáp của thiếu niên thường trái ngược với những người tham gia thí nghiệm của
Garfinkel. Thay cho việc cứ tra hỏi mà lẽ ra không nên làm, bọn trẻ từ chối cung cấp câu
trả lời tương ứng bằng cách nói “Khơng phải việc của anh“.
Các hình thức nói chuyện
Đây là một việc làm nghiêm túc khi nghe một cuộn băng ghi lại hay đọc lại lời thoại của
một cuộc hội thoại. Các cuộc nói chuyện thường đứt quãng, do dự và sai ngữ pháp hơn là
phần lớn chúng ta nhận ra. Khi chúng ta tham gia vào cuộc nói chuyện hàng ngày, chúng
ta thường nghĩ là điều chúng ta nói ra đã được đánh bóng, bởi vì chúng ta đã vơ thức đệm
18
vào các từ; tuy nhiên các cuộc nói chuyện hồn toàn khác với các cuộc hội thoại trong
tiểu thuyết. Ở đó các nhân vật nói với nhau bằng những câu đúng ngữ pháp.
Cùng với cơng trình của Coffnian về sự thiếu tập trung dân sự có thiết giả định rằng sự
phân tích các cuộc hội thoại thơng thường bị gạt ra ngồi mối quan tâm chính của xã hội
học; thêm vào đó nhiều nhà xã hội học phê phán các nghiên cứu về phương pháp dân tộc
học chỉ vì những lý do này. Tuy nhiên một số lý lẽ đã được sử dụng để chỉ ra tầm quan
trọng của các cơng trình của Coffnian đói với xã hội học và với phương pháp dân tộc học.
Nghiên cứu cuộc nói chuyện hàng ngày cũng chỉ ra việc làm chủ ngôn ngữ mà người
bình thường nói ra phức tạp thế nào. Khó khăn lớn trong việc lập chương trình máy tính
làm những điều mà con người có khả năng làm mà khơng cần một nỗ lực nào là một
minh chứng cho sự phức tạp này. Thêm vào đó, nói chuyện là một yếu tố cần thiết trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các cuốn băng về vụ Watergate của Tổng thống Nixon
và các cố vấn của ơng chẳng có gì hơn là một đoạn hội thoại, nhưng chúng đã cung cấp
cái nhìn thống qua về việc thực thi quyền lực chính trị ở mức cao nhất (Molotch &
Boden 1985 ).
Tiếng kêu đáp lại
Một số kiểu phát biểu khơng nói ra nhưng bao gồm các câu cảm thán lầm bầm trong
miệng. Coffnian đặt cho nó cái tên tiếng kêu đáp lại (Goffman 1981). Hãy xem xét việc
ai đó nói “OOPS!” sau khi đánh vỡ hoặc đánh rơi cái gì. “Oops” dường như chỉ là một
phản ứng không thú vị đối với một sự rủi ro, hơn là nháy mắt khi có ai đó dứ dứa tay vào
khn mặt bạn. Tuy nhiên đây khơng phải là một phản ứng vơ tình. Thực tế là người ta
thường khơng thốt lên khi chỉ có một mình. “Oops” thương hướng tới những người có
mặt. hành động đó cho người chứng kiến thấy là sai sót chỉ là nhỏ và nhất thời chứ không
phải là điều gì gây nghi ngờ về khả năng kiểm sốt hành động của bản thân.
Từ “Oops” bản thân đã được định nghĩa về văn hoá. Khi người Nga đánh rơi vật gì đó
chẳng hạn, họ khơng nói “Oops” mà thay vào đó thốt lên một tự giống như “Ayee“ trong
tiếng Anh.điều này có lẽ là được tính tốn trước và cường điệu lên. tại sao lại phải phân
tích lời phát biểu nhỏ nhoi một cách chi tiết như vậy? Chắc chắn chúng ta sẽ không chú ý
nhiều đến điều chúng ta nói như thí dụ trên. Tất nhiên chúng ta khơng. Điều quan trọng là
chúng ta cơng nhận việc kiểm sốt liên tục, phức tạp dáng vẻ và hành động của chúng ta.
Trong các tình huống giao tiếp, người ta khơng bao giờ mong đợi chúng ta chỉ có mặt
trên sàn diễn. Những người khác mong đợi chúng ta, cũng như chúng ta mong đợi học
biểu lộ cái mà Goffman gọi là “sự cảnh giác có kiểm sốt “. Một bộ phận cơ bản của con
người là biểu lộ liên tục trước người khác khả năng của mình trong các cơng việc thường
nhật của cuộc sống.
Lỡ lời
“Oops” là phản ứng với một rủi ro nhỏ. Chúng ta cũng có những sai sót khi nói và phát
âm trong suốt cuộc nói chuyện, giảng bài hay các tình huống khác. Trong các nghiên cứu
về “ thâm thần học trong cuộc sống hàng ngày “, Sigmund Freud, nhà sáng lập ra phân
tích tâm thần đã phân tích hàng loạt thí dụ lỡ lời (Freu 1975). Theo ơng lỗi khi nói, kể cả
phát âm sai hay đặt từ khơng đúng vị trí hay nói lắp trên thực tế khơng phải là tình cờ.
Chúng được thúc đẩy một cách vô thức bởi các cảm giác bị kiềm chế bởi lý trí hoặc cảm
19
xúc chúng ta muốn kìm nén một cách có ý thức nhưng bất thành. Những cảm xúc này
thường, nhưng không phải lúc nào liên quan đến quan hệ tình dục. Do vậy, một người có
thể định nói “ organizm “ ( cơ thể ) nhưng thay vào đó lại nói “ orgasm “ ( sự cực khối).
Trong thí dụ Freud đưa ra , khi người ta hỏi một phụ nữ “Con trai bà thuộc trung đoàn
nào ?”. Bà ta trả lời “kẻ giết người thứ 42” ( đúng ra là từ Morder bằng tiếng đức chứ
không phải là từ bà ta định nói Morser hay Nortars ).
Một trong những cách tốt nhất để minh hoạ điểm này là nhìn vào vật phủ lên trong lời nói
của các phát thanh viên truyền thanh và truyền hình. Cách đọc của các phát thanh viên
khơng giống như lối nói chuyện thơng thường, bởi vì nó khơng phải là tuỳ hứng mà là
được ghi lại. Người ta cũng mong là nó sẽ gần như hồn hảo hơn cuộc nói chuyện thơng
thường, được phát ra mạch lạc và lưu lốt hơn. Do vậy sai sót hay đỏ mặt của những
người mới vào nghề phát thanh viên thường hiển nhiên hơn nhiều so với tình huống bình
thường. Tuy nhiên việc phát thanh viên lỡ miệng và nhiều câu lỡ rất buồn cười mang bản
chất quá tự nhiên. Freud kêu gọi nên chú ý đến điểm này.
Chúng ta thường cười những sai sót về lời nói khi phát thanh viên (hay giảng viên) hơn
là khi chúng xảy ra trong tình huống bình thường. Sự hài hước khơng những chỉ tập trung
vào điều đã nói sai mà cịn ở sự bối rối của người nói khi phát ngơn khơng được hồn
hảo. Chúng ta nhìn thấy phía sau của tính chun nghiệp lạnh lùng tới …
Khn mặt, cơ thể và lời nói khi giao tiếp
Hãy tổng kết lại những gì chúng ta vừa học. Giao tiếp hàng ngày phụ thộc vào mối quan
hệ giữa những gì chúng ta chuyển tải qua nét mặt và cử chỉ và những gì chúng ta biểu lộ
bằng lời. Chúng ta dùng sắc mặt và cử chỉ của những người khác để cung cấp thêm chi
tiết cho những gì họ nói bằng lời và kiểm tra xem họ thành thực đến mức nào. Đa phần
không nhận ra mỗi người trong số chúng ta đều kiểm soát chặt chẽ và liên tục sắc mặt, cử
chỉ và chuyển động của cơ thể trong suốt quá trình giao tiếp.
Thỉnh thoảng việc nói nhầm như trong thí dụ “ murderers “ của Freud làm lộ điều mà
chúng ta muốn che giấu, có ý thức hoặc vơ thức. Nhiều lời lỡ nói ra đã phơ bày cảm xúc
đích thực của chúng ta như trong thí dụ trộn bánh gatơ, người phát thanh viên có thể nghĩ
là “kinh tởm”.
Nét mặt, điều khiển cơ thể và lời nói sau đó sẽ được sử dụng để chuyển tải ý nghĩa nhất
định và che giấu những điều khác. Chúng ta cũng tổ chức hoạt động của mình trong các
tình huống của cuộc sống xã hội để đạt được những đích giống nhau, như chúng ta sẽ
thấy sau đây.
Cuộc gặp gỡ
Các cuộc gặp gỡ luôn cần những “ lỗ hổng” cho biết sự không chú ý dân sự bị bỏ qua.
Khi những người chưa quen biết gặp nhau và bắt đầu nói - như trong bữa tiệc chẳng hạn thời điểm ngừng sự mất tập trung dân sự luôn luôn là nguy cơ, bởi vì sự hiểu lầm dễ dàng
xảy ra. Do đó, nhìn mắt nhau có thể là lưỡng nghĩa và thăm dị. Một người sau đó có thể
hành động như thể người đó khơng trực tiếp chuyển động nếu lời mào đầu không được
chấp nhận. Trong giao tiếp từng người dùng cả nét mặt và cử chỉ lẫn lời. Goffmannn
phân biệt cách biểu lộ mà các cá nhân “đưa ra” hay “phát ra”. Cách thứ nhất là từ ngữ và
sắc mặt người ta dùng để tạo ấn tượng nhất định với người khác. Cách thứ hai là chìa
20