Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Bài giảng nha khoa La mã

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.38 MB, 7 trang )

LA MÃ CỞ ĐẠI
Văn minh La Mã cở đại khởi đầu trong thế kỷ 8 TC với sự thành lập thành phố Rome
năm 753 TC đến thế kỷ 5 SC với sự sụp đổ của Đế chế Tây La Mã (Western Roman Empire)
năm 476. Trong thời kỳ cực thịnh, Đế chế La Mã trải rộng từ miền Nam nước Anh, qua Tây Âu,
đến vùng ven Địa Trung Hải (bao gồm Bắc Châu Phi) sang phía đông, đến vùng Lưỡng Hà với

khoảng 50 -90 triệu người (20% dân số toàn cầu) và diện tích 5 triệu km² (hình…)
Hình…: Lãnh thổ đế chế Roma khi mở rộng nhất (năm 117 SC).
Nguồn: />
Trên những vùng lãnh thở của nó, La Mã tiếp thu nhiều di sản vật thể và văn hóa. Các
nền văn hóa Hy lạp, Ai Cập, Phœnicia, Persia có ảnh hưởng đến sự tăng trưởng về hiểu biết y
học và kỹ thuật của vùng Đông Địa Trung Hải thông qua sự giao thương. Thành phố Alexandria
của Ai Cập, nơi có trường đại học và thư viện lớn, trở thành trung tâm học tập. Tồn bợ hiểu biết
y học của Hy Lạp đã được chuyển ngữ sang tiếng A Rập và được gìn giữ trong nhiều thế kỷ trước
khi được dịch ra tiếng Latin trong thời trung cổ sớm.
Hệ thống spa/đền y tế của Hy Lạp mở rộng ảnh hưởng ở La Mã. Thuyết thể dịch, cơ sở
của sức khỏe – bệnh tật được chấp nhận ở La Mã. Y khoa trong thời Đế chế La Mã trở nên ít triết
1


lý, mà nhiều thực hành thiết thực hơn nhằm đáp ứng việc chăm sóc sức khỏe cho số lượng lớn
binh sĩ và thỏa mãn yêu cầu của tầng lớp thị dân giàu có.
Qn đợi La Mã trải khắp Đế chế, hệ thống chăm sóc sức khỏe cho qn đợi được thiết
lập từ thế kỷ 1 TC. Các bác sĩ đi cùng với qn đợi, có nhiệm vụ huấn lụn mợt số binh lính các
công việc sơ cứu. Trong các đơn vị, bác sĩ làm việc toàn thời gian và được hưởng lương gấp đôi
do thực hiện nhiệm vụ ở nơi nguy hiểm. Các bác sĩ chuyên khoa bán thời gian gồm bác sĩ ngoại
khoa (medici chirurgi) và nội khoa (medici clinici) chăm sóc vết thương và điều trị bệnh, phẫu
thuật viên thú y (veterinary surgeons) chăm sóc cho ngựa. Bệnh viện quân y (valetudinaria) được
thành lập ở các điểm chiến lược của mặt trận. Bệnh viện cho người dân cũng được thành lập,
trước hết để điều trị cho nô lệ. Giải quyết các vấn đề sức khỏe cộng đồng là đóng góp lớn nhất
của La Mã trong y tế. Mợt biểu hiện quan trọng là việc xây dựng khối công trình thoát nước


Cloaca Maxima cho vùng đầm lầy ở trung tâm Roma vào thế kỷ 6 TC và xây dựng ống dẫn để
cung cấp nước cho thành phố. Đường ống đầu tiên được xây dựng năm 312 TC, đến năm 96 SC
đã có 10 ống dẫn. Mợt nửa trong số đó dẫn nước đến các bể tắm cơng cợng, còn lại, để cung cấp
cho khoảng 1,5 triệu cư dân.

Các phương thuốc chủ ́u vẫn là thảo mợc, nhưng có sự tăng lên đáng kể phương tiện
phẫu thuật. Các dụng cụ mổ được thiết kế một cách tiên tiến và đa dụng. Trong thời Đế chế La
Mã, người hành nghề y khoa rất giàu có, và dần hình thành các chuyên khoa trong nửa cuối thế
kỷ 1.
Scribonius Largus
Scribonius Largus (1- 50) là bác sĩ trong hợi đờng Y khoa của Hồng đế La Mã Claudius.
Năm 47, ông đã ghi lại 271 toa thuốc, gọi là “công thức thuốc chữa bệnh” (compositiones
medicamentorum), trong đó có mợt phần dành cho nha khoa. Là một người ủng hộ việc nhiệt
tình điều trị bằng thuốc, ông khuyên “đối với răng, ngay cả khi bị sâu, cũng không nên nhổ ngay.
Phần răng bị phá hủy dùng dao mổ cắt đi, việc này không gây đau, phần răng còn lại vẫn tồn tại
và thực hiện chức năng. Nếu đau kéo dài, nên đặt thuốc vào răng vì phần này vẫn sẽ hữu dụng”.
Trong số nhiều thuốc và vật liệu để kiểm soát đau răng, Scribonius khuyên dùng hạt kỳ nham
(vốn có hiệu quả như ma túy) để diệt con sâu răng:
Hạt hạt kỳ nham rắc trên than hờng, há miệng, xơng khói, sau đó súc miệng bằng nước
ấm. Đơi khi có thể thấy trong nước súc miệng nhổ ra xuất hiện những vật nhỏ trông giống con
sâu.
Trong khi người La Mã rất thận trọng về sự xuất hiện của con sâu răng thì sau này, trong
thời trung cổ, người ta luôn nhấn mạnh và mở rộng quan niệm này, và đã mô tả con sâu răng như
một con vật có thật. Những sợi nhỏ màu trắng do hạt kỳ nham bị đốt nóng (hoặc nấu sơi) được
các lang băm nay đây mai đó ở châu Âu cho là con sâu cho đến thời hiện đại. Điều này cũng diễn
ra ở Phương Đông đến ngày nay.

Scribonius khuyến khích dùng bột đánh răng, bột này được chị và vợ của Claudius là
Octavia và Messalina dùng.


2


Thành phần bột đánh răng của Scribonius gồm: bột than sừng hươu, bột dẻo mastic và
muối ammonia.

Gaius Plinius Secundus
Gaius Plinius Secundus (23–79), thường gọi là Pliny)
(Hình…) là một trong những tác gia La Mã, nhà tự nhiên học
và triết học, đã tham gia hải quân trong thời kỳ đầu Đế chế La
Mã. Ơng đã viết bợ “Lịch sử tự nhiên” (Naturalis historia –
Natural History) gồm 37 tập (hiện chỉ còn tập 37), là bộ bách
khoa thư về khoa học ứng dụng kết hợp cả kiến thức sách vở
và trải nghiệm thực tế. Ông đã dùng từ “răng má” (dentes
genuini – gena = má) để chỉ các răng sau như Sicero đã dùng
mà không theo cách đặt của Aristotle gọi là răng cọc. Để chữa
răng sâu, nhồi nhựa cây thường xuân vào lỗ sâu.
Cuốn De materia Medica là sách thuốc nổi tiếng của
Dioscorides thời Hy Lạp cổ đại được sử dụng rộng rãi trong
thời La Mã cổ đại và trong suốt lịch sử y dược đến thời Trung
Đại.
Hai vị bác sĩ nổi tiếng nhất thời La Mã cổ đại là Celsus
và Galen.

Hình:….: Pliny. Nguồn:
/>ny_the_Elder

Celsus

3



Aulus Cornelius Celsus (25 TC – 50 SC), là bác sĩ và nhà bách khoa thư y học La Mã.
Ông học tập y khoa của Hyppocrates ở vùng đảo của Ai Cập? và sau đó, ở trường y Alexandria.
Ơng đã viết nhiều sách, trong đó có bợ tám tập De Re Medicina tổng hợp hầu hết hiểu biết về y
khoa Hy Lạp:
Tập 1: Lịch sử y khoa và tài liệu tham khảo (của 80 tác giả)
Tập 2: Bệnh học chung
Tập 3: Các bệnh chuyên biệt
Tập 4: Các phần của cơ thể
Tập 5 và 6: Dược lý học và ngũ quan
Tập 7: Phẫu thuật
Tập 8: Chỉnh hình
`
Tập 6 của bộ sách là về mắt, tai, mũi, họng và miệng. Celsus thừa nhận bốn dấu
hiệu của viêm là đỏ, sưng, nóng và đau. Bộ sách của Celsus sau này được dùng như một tổng hợp
cơ bản về kiến thức y khoa và nha khoa trong thời trung
cở. Ơng là người theo chủ nghĩa kinh nghiệm (empiric), Hình : Celsus. Ng̀n:
ơng cho là biết nguyên nhân gây bệnh không quan trọng />lắm, điều quan trọng là điều trị hoặc làm giảm bớt sự đau ancientmedicine
đớn của bệnh nhân. Theo ông, đánh giá trình độ nghề
nghiệp của một bác sĩ không phải bằng lý thuyết mà bằng thực hành (kinh nghiệm).
Celsus quan niệm đau răng là một trong những điều tệ hại nhất mà con người phải chịu
đựng. Ông đề nghị dùng thuốc đắp, tẩy rửa và xơng khói để làm dịu đau. Bệnh nha chu và sâu
răng thì điều trị tốt nhất là bằng đốt nhiệt bằng mũi sắt nóng hoặc bằng dầu sôi.
Kỹ thuật dầu sôi thực hiện bằng cách dùng một viên sét nhỏ cắm vào que, nhúng dầu sôi
rồi đưa lên răng. Nhổ răng được coi là việc nguy hiểm, chỉ nên là biện pháp sau cùng khi cần
thiết. Áp dụng kỹ thuật ngón tay sau khi đã làm răng lung lay được ưu tiên hơn dùng kìm. Celsus
khuyên (cũng như những người trước ông), là lèn chặt lỗ sâu bằng chì hoặc sợi lanh trước khi
dùng kìm để tránh làm gãy rời thân răng. Tất cả mảnh xương và chân răng cần được lấy đi để
giảm nhiễm trùng sau nhổ.

“Nếu răng gây đau và cố gắng điều trị làm giảm đau khơng có hiệu quả thì cần nhở. Cần
phải tách nướu quanh răng và việc này tiếp tục cho đến khi răng lung lay. Nhổ răng rất nguy
hiểm nếu răng còn chắc, có khi gây trật khớp thái dương hàm. Đối với răng trên, còn nguy hiểm
hơn vì đe dọa đối với vùng thái dương và mắt. Như vậy, nên nhở răng bằng tay khi có thể, nếu
khơng được mới dùng kìm. Nếu răng bị sâu, trước hết, lỗ sâu cần được làm đầy bằng sợi lanh
hoặc miếng chì vừa vặn để răng không bị gãy thành từng mảnh dưới lực kìm. Kìm được đặt theo
hướng thẳng đứng để phòng chân răng cong…Nhưng thủ thuật như vậy cũng vẫn khơng có nghĩa
là hồn tồn an tồn, nhất là đối với những răng thân ngắn lại thường có chân răng dài, kìm
thường không cặp chặt răng hoặc không thể làm đúng, có thể làm gãy vỡ xương dưới nướu. Nếu
thấy máu chảy nhiều, có thể là do gãy xương hàm, cần thăm dò nơi gãy, dùng kìm nhỏ để nhổ
răng …
Điều trị răng sâu bằng cách trộn cánh hoa hồng giã nhỏ với 4 phần mật bò và 4 phần
nhựa thơm chà lên răng; cách điều trị này được áp dụng cho đến thế kỷ 18. Điều trị răng lung lay

4


bằng cách súc miệng nước sắc 10 con ếch trong khoảng ¾ lít dấm + 100 g sulfate đờng + 150 g
nhựa thơm cho đến khi còn lại 1/3.
Một điểm mới là Celsus đã mô tả đầy đủ về chỉnh hình theo phương pháp nguyên thủy
nhất là dùng ngón tay cho trường hợp răng mọc lệch lạc: “ở trẻ em, nếu răng vĩnh viễn mọc khi
răng sữa chưa rụng, cần nhổ răng sữa; răng vĩnh viễn thường bị mọc lệch trong, cần dùng ngón
tay đẩy ra trước cho đến khi răng mọc đạt chiều cao. Khi nhổ răng sữa, nếu chân răng còn lại thì
cần được lấy ra ngay bằng kìm chân răng (stump forceps)”

Theo Hoffmann-Axthelm, những lưu ý về nhổ răng của Celsus đã được Paré sử dụng gần
như nguyên văn trong thế kỷ 16, cơ bản giống với sách giáo khoa hiện nay và còn tiếp tục được
áp dụng trong thời kỳ hiện đại. Celsus cũng đã cảnh báo về nguy hiểm chết người vì gãy xương
hàm khi nhổ răng.
Celsus mô tả điều trị trật khớp thái dương hàm (ngày nay vẫn áp dụng) bằng cách hai

ngón cái quấn băng vải, các ngón khác ở ngồi miệng, giữ chắc đầu bệnh nhân, đẩy cằm lên trên,
hàm dưới sẽ vào khớp và bệnh nhân ngậm miệng được. Sau điều trị, bệnh nhân ăn lỏng và hạn
chế nói.

Celsus chủ trương dùng dũa mịn để lấy vôi răng. Để chữa đau răng hoặc đau do vết loét
trong miệng: dùng một hỗn hợp dưới dạng bợt dẻo có chứa thuốc phiện hoặc dùng giấy cói tẩm
arsenic và chất ăn da đặt lên răng và vùng bị đau bị đau để chữa. Nhức đầu dùng nhựa cây berry.
Áp xe được rạch và dẫn lưu. Gãy xương hàm điều trị bằng cách nẹp răng và buộc cố định hàm.
Sau này, bác sĩ người Hy Lạp thế kỷ 7 Paulus Aegineta và là tác giả của bách khoa thư y học Hy
Lạp và La Mã đã mô tả gần giống như Celsus về nhổ răng. Đối với viêm xương tủy hàm do răng,
ông khuyên cần mở, nhở răng, đường dò thốt mủ trong xương cần phải nạo và phải lấy hết
xương chết.
Trong tập 8, Celsus đã mô tả về bộ răng: “tiếp theo răng nanh (canine – dens caninus) là 5
răng cối (răng hàm) có từ 2 đến 4 chân”; ông chưa biết đến tủy răng.
Galen

5


Claudius Galenus (129 – 217 SC), hay thường
Hình : Galen. Nguồn:
gọi là Galen, là bác sĩ, phẫu thuật viên, thầy giáo và />nhà triết học nổi tiếng nhất của Hy Lạp – La Mã. ncientmedicine
Trong y học, danh tiếng của ông đứng thứ hai sau
Hippocrates. Galen có ảnh hưởng đối với sự phát triển
của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau: giải phẫu, sinh
lý, bệnh học, dược lý học, thần kinh học, cũng như triết
học và logic học. Ông từng viết một tiểu luận với tựa đề
“Một Bác sĩ giỏi cũng là một nhà Triết học” ("That the
Best Physician is Also a Philosopher"). Cũng như
Celsus, ông học y khoa Hy lạp ở Pergamum, Corinth và

Alexandria. Galen hành nghề ở Rome và phục vụ quân
đội La Mã thời Marcus Aurelius. Trong thời gian ở
Pergamum, Galen viết nhiều tác phẩm, để lại kiến thức y
học về cơ thể con người, vượt ra ngồi thời đại của ơng,
tiếp tục chi phối chương trình đào tạo và thực hành cho
tới thế kỷ 16 và là cơ sở cho thực hành y khoa trong thời kỳ Phục Hưng. Ơng cũng duy trì mợt
phần ảnh hưởng đối với y học Cơ Đốc giáo, A Rập và Do Thái trong thời đại Trung Đại. Ơng đã
mở rợng thuyết thể dịch của Hippocrates; đưa ra quan niệm về tuần hồn máu mà sau này sau này
được Harvey mơ tả vào năm 1628.
Galen nghiên cứu giải phẫu trước hết trên khỉ và lợn, nên có mợt số sai lầm: xương hàm
dưới có hai nửa phân cách nhau (Hippocrates cũng có nhận xét tương tự);
ơng mơ tả thần kinh hàm dưới, chui vào xương ở các lỗ gần răng cối lớn
và thoát ra ở hai bên vùng cằm, thần kinh được phân bố vào răng nhưng
có những răng khơng có.
Galen mô tả răng như một phần của xương, và là một trong những
người đầu tiên định danh các răng theo chức năng như sau:
Có 10 răng cọc hay là răng cối vì chúng ta dùng nó để làm nhỏ
và nghiền thức ăn, như một cái cối nghiền trái cây (ông không phân biệt
răng cối nhỏ và răng cối lớn) ; 2 răng nanh vì giống răng tương ứng của
con chó và 4 răng một chân vì chúng dùng để cắt thức ăn như một con
dao. Các răng được chêm vào ổ răng (gómphosis) trên xương hàm.

6


Về nha khoa, ông theo đuổi những điểm chính của phương thuốc từ những người đi trước
ở Hy Lạp và La Mã. Ông là người đầu tiên nhận thức đau răng là do viêm tủy (pulpitis) và cũng
có thể từ viêm phần chân răng (quanh chóp?). Galen chủ trương hạn chế nhở răng và cũng có thể
là người đầu tiên đề nghị dùng mũi khoan để làm dịu đau:
Hình…:Mũi khoan răng thời La Mã cổ

đại. Nguồn: Hoffmann-Axthelm

Khi răng đau mà không thể làm giảm được bằng các phương cách và thuốc (đã nêu) và nếu đau
dữ dội, tôi dùng thuốc sau khi đã khoan răng bằng một mũi khoan mịn (hình ). Loại mũi khoan
này đã được thợ thủ công Ai Cập dùng. Galen cũng đề nghị mài bớt răng khi nó trời bằng dũa.

Mặc dù có rất nhiều tài liệu trong sách y khoa Hy Lạp và La Mã, về bệnh lý và điều trị (cả
bằng phẫu thuật lẫn bằng thuốc) răng và nướu, khơng thấy có bằng chứng nào về phục hồi (trám
răng và phục hình) được thực hiện.

Tóm tắt

7



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×