Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Lịch sử nha khoa Thế kỷ 16

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (18.95 MB, 22 trang )

THẾ KỶ 16
VƯỢT QUA RÀO CẢN THỜI CỔ ĐẠI
Thế kỷ 16 ghi đậm dấu ấn của những nhà khoa học vĩ đại. Những tiến bộ vượt bậc của
nhiều ngành khoa học và của khoa học nha khoa diễn ra trong thế kỷ này. Như đã thấy trong thế
kỷ 15, y khoa vẫn còn phụ thuộc nhiều vào thời cổ đại và chưa có khoa học về nha khoa. Mặc dù
có nhiều nhà giải phẫu đã thấy những điều không đúng về giải phẫu học và y học theo Galen,
nhưng còn rụt rè và không có ai dám công khai chống lại. Bước sang thế kỷ 16, điều này đã diễn
ra. Cuối thế kỷ 15, Giáo Hoàng Sixtus IV đã chính thức cho phép phẫu tích xác, việc này đánh
dấu sự khởi đầu mới: thời hiện đại bắt đầu cuộc cách mạng của nó trong thế giới khoa học y học.
Trong cuốn “Lịch sử nha khoa”, Hoffmann Axthelm gọi thế kỷ 16 và 17 là sự “thức tỉnh của
khoa học tự nhiên”. Trong thế kỷ 16, phẫu thuật và nha khoa đã tiến lại gần y khoa và lần đầu
tiên, năm 1548, một tác phẩm chuyên khảo về nha khoa được Walter Hermann Ryff xuất bản,
độc lập với y khoa và phẫu thuật. Cuốn sách này còn có giá trị vì được viết bằng tiếng Đức, một
sinh ngữ thay vì bằng tiếng Latin vốn được mặc định là ngôn ngữ dùng để dạy-học thời đó. Từ
sau cuốn sách này, nhiều chuyên khảo nha khoa xuất hiện và các tác giả đã xuất bản sách bằng
tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Ý… Trước đó, cuốn De Humani Corporis Fabrica của Vesalius
với những mô tả đặc điểm giải phẫu xương hàm và từng răng đã ra đời năm 1543. Nhưng
Bartolomeo Eustachi mới là nhà giải phẫu răng đầu tiên với cuốn Libellus de dentibus xuất bản
năm 1563.
Cuốn sách chuyên về nha khoa đầu tiên trong thế kỷ 16
Cuốn “Artzney Buchlein” (tựa tiếng Anh là “Little
Medicine Book: Sổ tay Y khoa)”, tác giả giấu tên) được
Michael Blum xuất bản ở Leipzig (1530) là một công trình
44 trang tổng kết những bệnh về răng và những phương
thuốc điều trị dựa trên các thực hành của Galen, Avicenna,
và da Vigo. Đây là cuốn sách đầu tiên hoàn toàn viết về
răng bằng tiếng Đức. Trong những lần xuất bản sau, cuốn
sách nổi tiếng và được phổ biến rộng rãi dưới tên “Zene
Artzney”, đến năm 1576, cuốn sách đã được tái bản đến gần
20 lần.
Trên trang bìa sách, lần đầu tiên tư thế đầu bệnh


nhân không còn như thời cổ là giữa hai đầu gối của người
thao tác, mà ngồi trên ghế có tựa tay, người thao tác đứng ở
phía sau, giữ cằm bằng tay trái, cầm kìm bằng tay phải, đây
là tư thế mà không có thợ mổ - hớt tóc nào sử dụng
(Hình…).

1


Hình:…: Trang bìa cuốn Artzney Buchlein,
lần xuất bản thứ nhất (1530), chú ý tư thế
bệnh nhân. Nguồn: P. Witt

Walter Hermann Ryff

Walte
r
Herm
a n n
Ryff
(1500 - 1575 ?) sinh ở Strasbourg, là bác sĩ và phẫu
thuật viên ở Mainz, Nurumberg. Ông viết nhiều sách
bằng tiếng Đức mà không phải bằng tiếng Latin với
cách truyền đạt dễ hiểu về nhiều lĩnh vực: dạy nấu
ăn, vệ sinh, dược, giải phẫu, phẫu thuật, sản khoa,
toán học, kiến trúc. Ơng được coi là người đầu tiên
cớ gắng lan tỏa kiến thức y khoa và vệ sinh trong
cộng đồng.
Trong các sách của Riff, hai cuốn quan trọng
đối với nha khoa là “Major Surgery” (Đại phẫu

thuật) và sổ tay (pamphlet) “Useful Instruction on
the Way to Keep Healthy, to Strengthen and
Reinvigorate the Eyes and the Sight. With Further
Instruction on the Way of Keeping the Mouth Fresh,
the Tooth Clean, and the Gum Firm” (Hướng dẫn hữu ích về cách giữ gìn sức khỏe, tăng cường
và tái phục hồi cho mắt và thị lực. Với hướng dẫn sâu hơn về cách giữ gìn cho miệng thơm tho,
răng sạch sẽ và nướu chắc”.
Trong cuốn “Đại Phẫu thuật”, Riff trình bày nhiều hình đẹp các dụng cụ phẫu thuật và
nha khoa, kế thừa từ thời Albucasim (hình…). Chương về điều trị răng không được hoàn thành
trước khi ông mất. Cuốn “Sổ tay” có ba phần, lần
Hình…: một trang về dụng cụ phẫu thuật
lượt là về mắt, răng và về bợ răng sữa. Ơng viết:
của WH Ryff; Nguồn: P. Witt
“Mắt và răng có mối liên hệ mật thiết, hỗ
tương lẫn nhau, vì vậy, chúng dễ dàng liên hệ với
nhau về bệnh lý hoặc khiếm khuyết”…theo Ryff,
các bệnh của răng là do nóng, lạnh, tích tụ chất
dịch và chấn thương.
Phần về phòng bệnh, Ryff nhắc lại gần
như toàn bộ mười lời khuyên của Giovanni ở
Arcoli. Về chẩn đoán và điều trị, Ryff cũng trích dẫn nhiều từ các tác giả cổ đại.

2


Hình Andrea Vesalius (trái) và
khung cảnh giải phẫu đường trên
trang bìa cuốn “de Humani
Corporis Fabrica”
N

g
u
ô
̀
n
:
/>biography/Andreas-Vesalius

André Vésale
André Vésale (1514 – 1564) (tên Latin: Andreas Vesalius sinh ra ở Bỉ, học y ở Paris
(1553-1556) và nghiên cứu về giải phẫu ở trường Đại học Louvain, (Bỉ) dưới sự hướng dẫn của
giáo sư Jacque Dubois và trở thành nhà giải phẫu đại tài (the great Andrea Vesalius). Ông trở
thành giáo sư phẫu thuật từ năm 23 tuổi tại Đại học Padua (Ý) và là bác sĩ trưởng của Hội đồng y
khoa Hoàng Đế Charles V.
Đại học Padua là trung tâm giáo dục y học của Châu Âu trong thời kỳ Phục Hưng, với
phương pháp dạy học tiên tiến so với các đại học khác. Từ 1250, Giovanni Battista de Montc đã
áp dụng phương pháp dạy lâm sàng bên giường bệnh (bedside teaching). Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ
17, Padua tiếp tục là trung tâm y học nhân văn (medical humanism), tái khám phá những giá trị
của y học cổ đại để đưa vào Phương Tây sau sự sụp đổ của Constantinople. Nhiều giáo sư nổi
tiếng đã dạy học và công bố những công trình quan trọng tại Padua.

Tại Padua, ông đã vượt qua những hạn chế của tôn giáo về phẫu tích xác. Năm 1543, ông
hoàn thành và xuất bản bộ sách “De Humani Corporis Fabrica” (Cấu trúc Cơ thể Người) gồm
bảy tập với các hình minh họa xuất sắc. Với cuốn “Fabrica”, khoa học giải phẫu được coi là đạt
đến mức hoàn chỉnh, là công trình khoa học có ảnh hưởng lớn nhất trong việc thúc đẩy tìm kiếm
3


các phương pháp phẫu thuật mới. Nó đã chỉ ra những sai lầm trong giải phẫu theo Galen và giúp
vượt qua uy quyền của Galen trong các vấn đề y học. Cuốn “Fabrica” là một cuộc cách mạng

trong y học và được so sánh với phát hiện của Copernicus về thiên văn học cùng năm đó. Bản
dịch sang tiếng Anh gần đây còn được xuất bản năm 2003
Về giải phẫu vùng hàm miệng, Vesalius đã xác định tận mắt những quan sát của Abd al
Latiff 300 năm trước: “hàm dưới là một cái xương vì tôi đã quan sát ở Paris, tại nghĩa địa
Innocents với số lượng lớn, tôi chưa lần nào trông thấy xương hàm dưới được chia thành hai”

Hình…: Hình minh họa
xương hàm dưới của
Vesalius. Nguồn:
Hoffmann-Axthelm

(hình)

Vesalius đã minh họa bộ răng đầy đủ mà trước ông chỉ có Leonardo da Vinci vẽ (nhưng
còn chưa được biết đến vào thời đó) (hình…). Ông phân biệt răng với xương qua hàng loạt đặc
điểm nhưng cũng vẫn còn lặp lại sai lầm của Aristotle là “khác với xương, răng mọc liên tục khi
mất răng đới diện”. Ơng cũng mơ tả tủy răng và hốc tủy (mà ông gọi là hốc răng – dentium
cavitas) có chức năng nuôi dưỡng răng và sử dụng thuật ngữ huyệt răng (tooth sockets) của Soran
cũng như mô tả sự tiêu xương ổ sau khi mất răng.
“Sự thay đổi diễn ra ở xương ổ sau khi răng đã nhổ, các thành của ổ răng tiến lại gần
nhau và huyệt răng dần dần bị mất”.

Ông cũng cho rằng quan niệm của Aristotle về số lượng răng của nam (32 cái) nhiều hơn
nữ (28 cái) là hoàn toàn sai. Mô tả của ông về bộ răng như sau:

4


Thông thường, có 32 răng vĩnh viễn, mỗi hàm có 16 răng, sắp xếp giống như một vòng cung hoàn
hảo của các vũ công. Nếu chia thành bốn phần, tên gọi của chúng là các răng cửa (insisors), có

dạng bản và sắc, như những lưỡi dao, để cắt thức ăn khi cắn lại. Tiếp đến là răng nanh (canines),
chỉ có một răng ở mỗi bên, rộng ở phần cổ nhưng sắc và nhọn, làm vỡ miếng thức ăn, được gọi
tên như vậy vì nó tương tự như các răng nhô lên của loài chó. Sau đó là năm răng cối…
Hình…: Trang về răng trong “Fabrica” của Vesalius. Nguồn: Hoffmann-Axthelm

Năm 1564, ông qua đời trên một hòn đảo ở Hy Lạp.

5


Bartolomeo Eustachi
Bartolomeo Eustachi (1500 ? - 1574), tên tiếng Latin: Eustachius, là nhà giải phẫu và bác
sĩ người Ý. Cùng với Vesalius, ông được xem là người sáng lập khoa học giải phẫu người và là
nhà giải phẫu học răng đầu tiên. Năm 1563, ông công bố quyển “Libellus de dentibus”
(Pamphlet on the teeth: Cuốn sách nhỏ về răng) (hình…), đây là một trong những cuốn sách
khoa học đầu tiên chuyên về răng, đề cập đến giải phẫu, sinh lý, mô phôi răng và bộ răng. Trong
quyển sách này, ông mô tả giải phẫu đại thể các răng, số chân răng, những biến thể về chiều dài
và hình dạng, sự hiện diện của dây chằng nha chu; giải phẫu vi thể và mô phôi: tủy răng, sự vào
ra của mạch máu và dây thần kinh ở chóp răng; sự phát triển của răng từ các nụ răng... Ông cũng
đưa ra ý tưởng mới về điều trị viêm nha chu: nạo mô hạt để kích tạo tái bám dính mô nướu.
Trong sách giải phẫu, ông vẽ nhiều trang hình, được lưu trong thư viện Vatican, nhưng không
được in cho đến khi được phát hiện vào năm 1714 (hình…). Một trong những phát hiện nổi tiếng
của Bartolomeo Eustachi là ống vòi nhĩ (tuba auditiva) mang tên ông.

Hình:… Eustachi và trang bìa cuốn “Libellus de dentibus”. Nguồn:

6


Khác với Vesalius là người luôn giữ nguyên tắc dạy học truyền thống, Eustachius khuyến

khích việc sửa chữa những sai lầm và sai lầm của chính ông thông qua các khám phá. Ông đã chỉ
ra những khác biệt giữa xương và răng về nguồn gốc, sự trưởng thành và sự nhận cảm. Ông viết
“liên quan đến những tác giả gần đây (ám chỉ Vesalius và Fallopia), một vòng nguyệt quế là
không xứng đáng, họ cần hiểu rằng, quan sát có ý thức về tự nhiên sáng tạo như Galen cũng chưa
có hiểu biết gì về cái hốc này (hốc tủy) và nó không phải đơn giản chỉ là chi tiết thêm vào”.
Eustachius đã viết về các mạch máu và thần kinh đi qua lỗ chóp răng để vào tủy; về việc giữ răng
trong xương hàm không phải chỉ nhờ nướu mà qua các dây chằng đủ mạnh; ông cũng phân biệt
ngà và men.
Eustachius cũng sử dụng phương pháp giải phẫu so sánh của Aristotle trong nghiên cứu
hệ thống nhai (chủ yếu là trên khỉ và cá). Nghiên cứu sự phát triển của răng là phần rất có giá trị
của Eustachius, ông đã mở rộng ý niệm của Falloppia bằng cách nghiên cứu trên thai bị sẩy của
nhiều động vật và người ở nhiều giai đoạn. Eustachius đã phát hiện túi răng (dental
sac-folliculus), nụ răng (tooth bud-candida squama) cũng như sự cô tập men răng đầu tiên với
các nhân ngà (coalescing of the first enamel with the dentinal nucleus) và sửa chữa sai lầm của
Vesalius về “răng vĩnh viễn phát triển từ chân của răng sữa”.

Hình…: Minh họa trong sách Libellus de dentibus của Eustachius. Nguồn: Hoffmann-Axthelm

7


Ambroise Paré
Ambroise Paré (1510 - 1590) (hình…), người Pháp, là một trong những nhà phẫu thuật
nổi tiếng bậc nhất thời kỳ Phục Hưng ở thế kỷ 16 , ông cũng được coi là nhà phẫu thuật chiến
trường hàng đầu và Người Cha của phẫu thuật hiện đại.
Paré được học việc khi còn trẻ với Vialat, một chuyên viên phẫu thuật (master
barber-surgeon) địa phương ở Brittany từ 1529-1532. Năm 1533, ông lên Paris, có cơ hội được
đào tạo về phẫu thuật nhờ làm việc như một nhân viên thường trú ở bệnh viện Hôtel-Dieu (bệnh
viện công duy nhất của Paris khi đó). Ông được học giải phẫu và sớm trở thành thợ mổ. Năm
1537, ông đăng ký làm phẫu thuật viên trong quân đội.


Hình…: Ambroise Paré và bìa sách Các
Công trình của Ambroise Paré. Nguồn:
/>Ambroise-Pare

Trong thời gian phục vụ quân đội, tại chiến
trận tham gia đầu tiên ở Pas de Suse năm 1537, Paré đã có nghiên cứu nổi tiếng về điều trị vết
thương do đạn bắn, ông thấy điều trị tốt nhất là bằng lòng đỏ trứng, nước hoa hồng và dầu thông,
đồng thời phản đối cách đốt bằng sắt nóng và dầu sôi khi đó.
Năm 1542, trong chiến trận ở Perpignan, Paré càng nổi tiếng nhờ phát triển kỹ thuật xác
định vị trí và lấy đạn từ trong vết thương khi ngài De Brissac bị trúng đạn ở vai. Sau khi một số
nhà phẫu thuật tìm kiếm vị trí của viên đạn không được, Paré đã tìm được viên đạn bằng cách xác
định đường đi và lấy ra thành công. Kỹ thuật này được mô tả 1545 trong cuốn sách đầu tiên của
ông: “La Methode de Traicter les Playes Faictes par Harquebutes et Autres Bastons de Feu”
8


(The Method of Treating Wounds Made by Harquebuses and Other Gun - Phương pháp điều trị
các vết thương do đạn và các loại đạn lửa khác). Cuốn sách này bị chế nhạo vì được viết bằng
tiếng Pháp chứ không phải là tiếng Latin. Những cải tiến quan trọng khác của Paré cũng không
sớm được sự công nhận của giới y khoa: trong chiến trận ở Đức, Paré bắt đầu cầm máu trong thủ
thuật cắt cụt chi bằng dây buộc thay vì đốt bằng sắt nóng (phương pháp đã được Galen nêu ra đầu
tiên).

Sau những năm làm phẫu thuật viên cho quân đội, ông trở về Paris để học giải phẫu với
Giáo sư Jaques Dubois (khoa Y Đại học France - Collège de France). Paré hoàn tất chương trình
giải phẫu và vượt qua kỳ thi cấp bằng của Khoa Y để nhận bằng chuyên gia phẫu thuật (master
barber-surgeon).
Trong công việc của mình, Paré vẫn làm việc dưới sự kiểm soát của bác sĩ khoa Y đại
học Paris. Theo truyền thống, bác sĩ thực hiện chẩn đoán, lập chương trình điều trị, ra toa thuốc,

còn những qui trình thao tác và phẫu thuật được coi là dưới địa vị của họ. Các phẫu thuật viên áo
thụng vẫn chỉ có vị trí thấp hơn về cấp bậc trong chăm sóc bệnh nhân, có trách nhiệm xử lý vết
thương và áp xe với thạch cao, thuốc mỡ... , những cas phẫu thuật dành cho những người thực
hành cấp độ ba (phẫu thuật viên áo ngắn hoặc thợ mổ). Các bệnh nhân có vấn đề về răng có thể
cầu cứu thợ mổ và nha viên hay những lang băm lưu động không được đào tạo.

Paré là điển hình về trí tuệ trong thời kỳ này do lòng dũng cảm, sự khéo léo và áp dụng
vào thực tiễn các phương pháp mới. Không như những phẫu thuật viên khác, ông chỉ dùng đến
phẫu thuật khi thấy thật sự cần thiết. Ơng là mợt trong những phẫu thuật viên đầu tiên chối bỏ
biện pháp thiến (castrate) người bệnh khi phải mổ thoát vị bẹn và quảng bá cách dùng băng giữ
(truss) cho người bệnh.
Paré đã thành công trong việc bảo tồn bằng cách sử dụng các phương pháp nhân đạo
trong xử lý vết thương ở chiến trường, nhờ vậy, không những ông nhận được sự yêu kính của
người lính ở mặt trận mà còn được sự quý trọng của triều đình Versailles. Từ 1552, ông trở nên
nổi tiếng khi phục vụ cho 4 đời vua nước Pháp và là phẫu thuật viên của nhà vua (ông đã phục vụ
cho bốn vua: Henry II, Francis II, Charles IX, và Henry III) cũng như Hoàng thái hậu Catherin de
Medicis. Sở hữu một “gia tài” về kinh nghiệm đối với bệnh tật, ông thường được mời lên triều
đình để tư vấn cho các bác sĩ Hoàng gia. Ông được Catherine de Medicis quí trọng đến mức bà
ra lệnh cho ông viết chuyên luận về điều trị bệnh truyền nhiễm (đậu mùa và sởi) đang hoành
hành ở Pháp.
Đầu óc sáng tạo của Paré đã giúp ông góp phần đáng kể vào khoa phục hình mới hình
thành, như phác họa chân và tay giả trên cơ sở thể hiện chức năng. Ông cũng sáng tạo ra phần
chân giả phía trên đầu gối để có thể quỳ được. Có thể loại phục hình phức tạp nhất là “Le petit
Lorrain”, một bàn tay giả (hình…) được vận hành với lò xo và móc cài đã được xử dụng trong
trận đánh của một chỉ huy qn đợi Pháp. Ơng cũng là người làm mắt giả bằng vàng hoặc bạc.
Năm 1554, Paré trở thành thành viên của trường St Côme (College of St Côme), trường
đại học đầu tiên của Pháp chuyên đào tạo phẫu thuật viên. Nhờ được thu nhận vào trường, ông có
chức danh phẫu thuật viên áo thụng (surgeon of the long robe).
Paré bị khoa Y cáo buộc là gian lận khi vào trường đại học phẫu thuật St Come vì ông
chỉ biết rất ít tiếng Latin và không tham gia kỳ thi tuyển vào trường, nhưng vì là người được vua

Henri II sủng ái và là một nhà phẫu thuật nổi tiếng trong quân đội, ông được nhận vào trường St
Come và có ưu thế trong cuộc chiến đấu giành sự công bằng với khoa Y. Năm 1564, Paré với vị
9


trí là một phẫu thuật viên hàng đẩu của nhà vua, đã công bố những công trình về phẫu thuật: 10
quyển sách về phẫu thuật và một sách hình về những dụng cụ cần thiết cho phẫu thuật (cuốn sách
này được dịch sang tiếng Anh năm 1969).

Các sách của ông về phẫu thuật tổng quát viết bằng tiếng Pháp dành cho phẫu thuật viên
và thợ mổ hơn là bằng tiếng Latin cho các trường đại học đã bộc lộ một cuộc sống phi thường về
năng lượng và ý thức phục vụ. Câu nói nổi tiếng “Je le pansai, Dieu le guérit” (I dressed him,
God healed him – Tôi chữa trị cho anh, Trời làm anh lành bệnh) thể hiện đức tính khiêm nhường,
lòng nhân ái trong con người bác sĩ của Paré. Cuốn “Les Oeuvres d’Ambroise Paré” (Các Công trình
của Ambroise Paré) xuất bản lần đầu năm 1575, được tái bản nhiều lần cả bằng tiếng Đức, Hà Lan và
Anh.
Paré đã làm dấy lên sự tranh cãi với khoa Y. Sau khi cuốn sách được công bố, Khoa Y
của Đại học Paris yêu cầu ngưng phát hành vì chưa được sự đồng ý. Khoa Y than phiền rằng Paré
không đủ tư cách để viết những đề tài về y học vì không biết tiếng Latin và đã can thiệp sâu vào y
khoa, rằng các sách của Paré viết bằng tiếng Pháp là phá vỡ nề nếp Latin và là một sự kềm hãm
kiến thức y khoa. Họ đã đề nghị Paré làm trợ giảng tiếng latinh để tô điểm cho các bậc tiền bối
như đã Latin hoá những cuốn sách của Hippocrates và Galen. (Việc sử dụng tiếng Latin để “tô
điểm” cho các văn bản là công việc được chấp nhận và phổ biến trong thời Trung Đại). Sự chống
đối Paré thậm chí còn được đề nghị đưa ra quốc hội nhưng quá trễ vì những công trình của Paré
đã được lưu hành rộng rãi.
Tuy có những phần sao chép từ Chauliac, gần 300 năm sau, Malgaigne khẳng định cuốn
sách của Paré đã đánh dấu một kỷ nguyên mới về phẫu thuật: “Đó là một tác phẩm về phẫu thuật
thực sự đầu tiên được xuất hiện kể từ thời Guy de Chauliac, khi mà ảnh hưởng của y khoa A Rập
còn chiếm ưu thế”. Malgaigne ca tụng nỗ lực của Paré đã đưa phẫu thuật và y khoa gần lại với
nhau bằng cách nhấn mạnh nhu cầu đào tạo y khoa cho tất cả những nhà phẫu thuật. Francia

Packard, bác sĩ trường Y Harward đã viết: “Paré đã làm được điều vĩ đại như Vesalius đã làm
cho giải phẫu”. Về nha khoa, theo Guerini, Paré đã xử lý những vấn đề nha khoa và điều trị rất
thông suốt do xuất thân từ một thợ mổ và sau đó là phẫu thuật viên áo ngắn, những điều kiện
khiến Paré thu nhận được nhiều kinh nghiệm để hành nghề nha khoa. Trong thời kỳ hành nghề
ban đầu, Paré có thể đã thực hiện một số thủ thuật và phẫu thuật răng, sau này, khi đã trở thành
phẫu thuật viên áo ngắn rồi áo thụng, ông giao việc đó cho các nha viên.

Giải phẫu răng và những bệnh về răng có mặt trong một số chương của “Các Công trình
của Ambroise Paré”. Paré mô tả cảm giác của răng không phải là từ bên ngoài mà là qua một
màng ở bên trong (ngụ ý tuỷ răng) với thần kinh và sự cung cấp máu của nó, cho rằng những cơn
đau răng là do tuỷ có rất nhiều thần kinh. Ơng mơ tả lỡ chóp răng, lưu ý các nhà phẫu thuật trong
xử lý để tránh thần kinh cằm khi phẫu thuật vùng này. (Tuy vậy, phần viết về giải phẫu răng tốt
nhất thuộc về Vesalius và Eustachius). Paré lưu ý răng được lưu giữ trong ổ răng bởi dây chằng
và những răng bị nhổ bật do tai nạn có thể được cắm lại ngay và cố định bằng dây vàng buộc vào
những răng bên cạnh. Những răng bị lung lay do bệnh lý hay tuổi tác cũng có thể buộc vào những
răng kế cận và điều chỉnh khớp cắn. Guerini và Garrisoncòn cho rằng Paré là người đầu tiên mô
tả cas cấy chuyển răng. Ơng mơ tả chi tiết về trật khớp thái dương hàm nhưng không còn đưa tiên
lượng về cái chết sau 10 ngày của Hippocrates.
Nói chung, Paré chỉ có ít khuyến cáo trong điều trị các bệnh răng miệng. Ông thường
tham khảo phương cách của Hippocrates và Celsus như nước súc miệng, kem/bột đánh răng và
thuốc phiện…Về điều trị sâu răng, ông dùng cách xông khói, chất lỏng ăn da và đốt acid theo
10


phương pháp dùng ống thông của Haly Abas. Lời khuyên về nhở răng giớng với của Celsus. Ơng
còn khun phải cẩn thận khi nhổ răng vì có thể gây trật khớp, gãy hàm và chấn động đến não và
mắt Các răng chen chúc được làm giảm bằng dũa. Ưu điểm nổi bật là ông đã xem việc điều trị
các vấn đề nha khoa như một phần tích hợp của trách nhiệm phẫu thuật tổng quát và như vừa nêu
trên, ông đã đưa nha khoa nói riêng và phẫu thuật nói chung lại gần với y khoa.
Paré khuyến cáo phẫu thuật cắt bỏ hoặc đốt các trường hợp quá triển nướu; ông cũng mô

tả điều trị trật khớp thái dương hàm và lấy cao răng bằng các dụng cụ chuyên biệt. Ông chứng
kiến nhiều biến chứng do nhổ răng và khuyên chỉ nên thực hiện như biện pháp sau cùng. Tuy
vậy, Paré thường giao việc này cho thợ mổ: “Những răng cần phải nhổ nên giao cho những nha
viên hay thợ mổ lớn tuổi, giàu kinh nghiệm, vì phải cảnh giác nhổ lầm răng gây ra đau đớn, cũng
không nên nhổ răng quá mạnh tay hay bất ngờ do sợ gãy xương hàm, một biến chứng thường
thấy”.

đưa raLoại
những
thứcbên
để làm
đánh
răng,tựa
nước
miệng,
và những chất làm
Hình…: Kìm mỏParé
bồ nông:
tựa công
vào răng
cạnhbột
(trái)
và loại
vàosúc
xương
ổ (phải)
Nguồn: Hofmann-Axthelm

trắng răng. Không có bằng chứng về việc trám răng sâu, ông khuyên đặt thuốc và thuốc phiện vào
lỗ sâu để làm giảm đau răng. Những dụng cụ ông sử dụng trong nha khoa là pelicans (hình…),

nạy, lances. Ông giới thiệu dùng cái giũa để lấy phần răng sâu ở mặt bên, ông cổ vũ những
phương thuốc và cả cắt nướu để điều trị đau và sốt ở trẻ em do mọc răng. Ông vẫn còn chấp nhận
những ý tưởng sai lầm lớn trong quá khứ như sự mọc răng liên tục để bù trừ cho sự mòn răng
(ngày nay chúng ta biết rằng đó là do bồi đắp xê măng), sự hiện diện của những “con sâu” răng
trong lỗ sâu, và áp dụng xông khói, trích máu tĩnh mạch và giác hơi để làm giảm cơn đau răng.

Năm 1561, Paré là nhà phẫu thuật đầu tiên mô tả việc chế tạo và sử dụng hàm bịt
(obturator) mà ông gọi là “couvercle” để thay thế cho mô khẩu cái bị mất do biến chứng của bệnh
giang mai giai đoạn ba và cũng gặp do vết thương hỏa khí. Hàm bịt của Paré gồm phần bịt làm

11


bằng vàng hoặc bạc và phần giữ ở phía mũi. Có hai biến thể phần giữ: dùng miếng xốp hoặc bắt
vít (hình…)
“Nhấn mạnh về kỹ thuật của ông là phải hạn chế tối đa nguy hại đối với mô của bệnh
nhân đã dẫn đến sự phát triển của thuật mổ xẻ dịu nhẹ (gentle art of surgery) trong nhiều thế kỷ
kể từ khi các bài viết của ông xuất hiện. Mặc dù các bài viết và kỹ thuật của ông xuất hiện trong
thời kỳ phẫu thuật còn là một lĩnh vực tách biệt với y khoa chính danh, ngày nay, các bác sĩ và
phẫu thuật viên coi Paré như người sáng lập ngành phẫu thuật hiện đại”.
Với sự đề cao tầm quan trọng của y học trong chẩn đoán và thực hành phẫu thuật, ông đã
đưa phẫu thuật lên tầm y học và đưa Paris lên vị trí hàng đầu về phẫu thuật trong những thế kỷ
tiếp sau. Garrison kết luận: Paré cùng với Paracelsus và Vesalius đã “gánh vác quá khứ của
những người khác, từng chữ một rọi sáng con đường, không chỉ cho sự tiến bộ của y khoa nói
chung, mà còn cho sự tự do tư tưởng mãnh liệt trong tất cả các chuyên ngành của nó”.

12


Hình…: Paré: Kìm mỏ vịt và kìm; dũa răng. Nguồn:Hoffmann-Axthelm


Hình…: Paré: Răng giả (được buộc bằng chỉ vàng hoặc
chỉ bạc vào các răng bên cạnh. Nguồn:
Hoffmann-Axthelm

Hình…: Paré: Hàm bịt, loại dùng miếng gạc để giữ (trái) và loại dùng nút bấm (có kìm kèm theo), đều
được làm từ vàng hoặc bạc. Nguồn: Hoffmann-Axthelm
13


Jaques Guillemeau

Hình…. Bìa cuốn Oeuvres de Chirurgies (trái)
và J. Guillemeau (phải)
Nguồn: />_Guillemeau

Jaques Guillemeau (1549 – 1613) là phẫu thuật viên người Pháp, đã có đóng góp lớn vào
sự tiến bộ của phẫu thuật, sản khoa và nhi khoa.
Ông là người tiếp tục sự nghiệp của Paré ở bệnh viện Hotel-Dieu, Paris. Guillemeau đã viết và
xuất bản nhiều sách, trong đó có những cuốn nổi tiếng như “Le Traité des maladies de l'œil”
(Chuyên luận về các bệnh của mắt) năm 1585, được xem là một công trình tốt nhất trong thời kỳ
phục hưng về nhãn khoa.
Trong chuyên luận về phẫu thuật “Oeuvres de Chirurgies” (Tổng tập Phẫu thuật) (1598),
phần về nha khoa, nhiều hình trong cuốn sách minh họa các loại kìm nhổ răng. Guillemeau đã đề
nghị dùng xương hoặc răng nanh hải mã để thay cho ngà voi vì răng làm bằng ngà voi nhanh bị
đởi màu trong nước bọt. Ơng cũng mô tả việc chế tạo những răng nhân tạo từ bột nhão resin và
bột san hô để thay thế. Ông sử dụng một loại bột nhão có chứa resin, bột san hô và ngọc trai dùng
để trám răng sau khi được làm sạch, có thể coi đây là bước tiến đầu tiên của xi măng trám răng
hiện đại.


14


Francisco Martínez
Francisco Martinez de Castrillo (1520-1585) là bác sĩ nha khoa và là tác giả tiên phong về
sách nha khoa tiếng Tây Ban Nha. Ông sinh ra ở Castrillo de Onielo.

Hình:….Hình trang bìa cuốn “Coloquio” và chân dung Martinez.
Nguồn: J. Castro-Nunez

Martín
ez de
Castrillo là nha sĩ của vua Tây Ban Nha Felipe II “do có kỹ năng và kinh nghiệm chăm sóc miệng
và răng”. Năm 1557, ông xuất bản cuốn “Coloquio Breve y Compendioso Sobre la Materia de la
Dentadura y Maravillosa Obra de la Boca” (Brief and Compendious Colloquy on the Structure of
the Denture and the Wonderful Construction of the Mouth) ở Valladolid. Đây là cuốn sách
chuyên về nha khoa bằng tiếng Tây Ban Nha đầu tiên, dày 152 trang. Cuốn sách cho thấy những
ý tưởng đáng ngưỡng mộ về nha khoa trên bán đảo Iberia trong thế kỷ 16. Nó cũng là cuốn sách
thứ hai chuyên về nha khoa sau cuốn “Artzney Buchlein”. Sách được viết dưới hình thức một
cuộc đối thoại giữa Ramiro (được hiểu là một người) với Valerio (được hiểu là một cái răng), về
thực tại và huyền thoại, qua đó, Martinez trình bày bệnh lý miệng, nha khoa phẫu thuật và phục
hồi, nha chu…Nhiều tình huống lâm sàng và kinh nghiệm được nêu ra, kèm theo là minh họa về
các dụng cụ phẫu thuật miệng và nhổ răng.
15


Urbain Hémard
Urbain Hémard (1548? – 1592), bác sĩ người Pháp
của triều đình Armagnac, là tác giả của cuốn sách 90 trang
viết chuyên về răng bằng tiếng Pháp đầu tiên, xuất bản

năm 1582 ở Lyon: “Recherche sur la vraye anathomie des
dents, nature & propriété d'icelles” (khảo sát thực sự về
giải phẫu răng, tính chất và đặc điểm của chúng)
(Hình…). Trong sách có phần lặp lại từ Libellus de
Dentibus của Eustachius, tuy vậy, trong phần trình bày
kinh nghiệm cá nhân, tác giả cũng mô tả cảnh tượng chăm
sóc răng khá bạo lực thời đó.
Hémard cho là phẫu thuật viên cần biết nhổ răng
bên cạnh các công việc khác: mổ đục thủy tinh thể, lấy
sỏi… và họ cần được đào tạo chứ không để cho lang băm
thực hiện vì dễ gây nguy hiểm. Câu nói cửa miệng “nói
dối như thợ nhổ răng” (“lying like a tooth-drawer”arracheurs de dents) là dành cho những lang băm, vì họ
luôn
hứa
chuyện tốt Hình:…: Trang bìa cuốn sách của
đẹp cho tất Urbain Hémard; Nguồn:
c ả
mọi việc.
/>med/medica/cote?38859

16


Peter Lowe
Peter Lowe (1550? - 1610), người Scotland, là người sáng lập Trường Y khoa và Phẫu
thuật Hoàng Gia Glasgow (Royal College of Physicians and Surgeons of Glasgow) năm 1599. Vì
không có trường y ở Scotland, ông sang Paris (Pháp), học y ở trường St Côme và St Damien. Tại
đây, phẫu thuật được giảng dạy chính thức và ông được công nhận là phẫu thuật viên áo thụng .

Hình….: Peter Lowe và trang bìa

Nguồn: />
Lowe xuất bản cuốn “the Whole Course of Chirurgerie”(Tổng luận về Phẫu thuật) năm
1597 (hình…). Đây là cuốn sách đầu tiên về phẫu thuật tổng quát bằng tiếng Anh. Mặc dù răng
chỉ được bàn luận ít trong quyển sách của ông, Lowe phản đối ý tưởng cho rằng răng sâu là do
con sâu và cáo buộc những thợ mổ nhổ quá nhiều răng mà có thể cứu được bằng cách điều trị
phù hợp. Lowe thực hiện đốt những răng đau và mô tả cách sử dụng những răng nhân tạo điêu
khắc từ xương và được buộc bằng chỉ vàng. Nhiều dụng cụ dùng trong phẫu thuật nha khoa:
scapels, giũa, kềm, và pelicans được minh hoạ trong sách của ông.

17


Girolamo Fabrizio
Girolamo Fabrizio d’Aquapendente (1537-1619) tên
Latin: Hieronymus Fabricius (Hình ), sinh ra ở Aquapendente
(Ý), là giáo sư giải phẫu học và y học ở Padua, từ năm 1565.
Ông được coi là Người Cha của Phơi thai học. Ơng viết nhiều
sách, trong đó, tác phẩm “Opera Chirurgica” (thực hành phẫu
thuật) năm 1570, được xuất bản lần đầu ở Venice, sau đó là ở
Franfurt (1592) cùng với những bản dịch tiếng Ý, Đức, Pháp.
Ông đã chọn lọc trích dẫn từ Celsus, Alexandrian Paulos of

Hình…Girolamo Fabrizio. Nguồn:
/>
Aigina.
Trong Opera Chirurgica, ông nêu bảy thủ thuật ở miệng:
 Thủ thuật đối với co khít hàm (lockjaw-constrictio dentium): cần phân biệt ba nguyên
nhân: tâm lý, thần kinh (cerebral) và viêm. Vì lực đóng hàm rất lớn, việc nuôi bệnh
nhân cần đưa thức ăn qua khoảng mất răng sẵn có hoặc tạo ra khoảng này hoặc cho ăn
qua ống theo đường mũi.

 Lấy cao răng và làm sạch miệng
 Loại bỏ răng hư hoại: dùng các dung dịch tẩy mạnh: sulfuric hoặc dầu vitriol nhỏ giọt
vào lỗ sâu bằng một dụng cụ hình nón, sau đó đốt bằng dụng cụ nóng đỏ, sau cùng,
trám dự phòng bằng vàng lá.
 Điều trị nướu triển dưỡng (hypertrophied gingiva) bằng cách đốt (cũng còn được sử
dụng ngày nay).
 Nhổ những răng trồi ra ngoài (protruding to the outside)
18


 Dũa những cạnh sắc, những điểm gây kích thích
 Các biện pháp tùy biến để nhổ răng. Dụng cụ nhổ răng (pelicans) thời Chauliac vốn
chưa có tên, đã được mang tên các loài chim
Năm 1594, ông đã làm cuộc cách mạng về giảng dạy giải phẫu học bằng việc mở giải
phẫu đường thường xuyên đầu tiên, thực hiện phẫu tích trước cơng chúng. Ơng có nhiều phát
hiện nởi tiếng: các van của tĩnh mạch, những nghiên cứu về phôi thai của hệ thống tiêu hoá…
Sau này, William Harvey, người phát hiện ra sự tuần hoàn máu, là học trò của Girolamo ở Padua.

William Fabry
William Fabry (tên Latin: Fabricius
Hildanus) (1560-1634) là nhà phẫu thuật người
Đức (hình…), giống như Paré, ông trưởng thành
từ tầng lớp thợ mổ và được coi là Người Cha của
phẫu thuật Đức. Trong cuốn “Observationum et
curationum chirurgicarum XXV” (1598) hay là
Báo cáo về 600 cas, có nhiều báo cáo liên quan
đến phẫu tḥt miệng. Ơng mơ tả mối liên hệ
giữa những răng nhiễm trùng với viêm thần kinh
tam thoa. Ơng cho rằng từ những lỡ dò có thể dò
tìm được chân răng và răng nhiễm trùng. Là một

nhà phẫu thuật tổng quát, Hildanus trở nên nổi
tiếng về sự đóng góp cho các kỹ thuật cắt bỏ và
lấy sỏi và về việc đào tạo nâng cao cho thợ mở và
phẫu tḥt viên. Ơng nhấn mạnh u cầu về kiến
thức giải phẫu và đả kích sự phù phiếm của
những nhà phẫu thuật trẻ: “trong khi những nhà
phẫu thuật trẻ cần nâng cao kiến thức về giải
phẫu, họ lại lo chơi nhạc, uống rượu và chơi gái,
trang hoàng phòng ốc và lãng phí thời gian”.

19


Hình…: Fabricus Hildanus
Nguồn: E. Jones (1960)

Trong bài viết “Nguồn gốc và sự phát triển của y văn nha khoa”, Bernard Wolf
Weinberger đã trình bày chi tiết về những sách chuyên về nha khoa đầu tiên xuất hiện từ đầu thế
kỷ 16. Như đã trình bày trên, trong suốt thế kỷ 16, nhiều tác giả đã xuất bản sách chuyên về nha
khoa bằng nhiều thứ tiếng (không phải bằng tiếng Latin). Đây là bằng chứng sớm về sự chuyên
môn hoá và tách thực hành nha khoa khỏi thực hành phẫu thuật tổng quát và y khoa.





Tiếng Đức: Walter Hermann Ryff (1548) và Johannes Digitus of Hopfferstadt (1586),
Tiếng Tây Ban Nha: Francisco Martinez (1557),
Tiếng Ý: Bartholomaeus Eustachius (1563),
Tiếng Pháp: ngoài sách của Embroise Paré (1575), còn có Urbain Hemard (1581),

Benjamin Martin (1679)
Những cuốn sách trên thường do bác sĩ (là những người không trực tiếp thực hiện thủ
thuật nha khoa) viết, nói chung không có nhiều tiến bộ về lý thuyết cũng như thực hành. Lý
thuyết về “con sâu” vẫn được lặp lại khá phổ biến.
Như vậy, một mặt, phẫu thuật và nha khoa xích lại gần y khoa, như một phần của nghệ
thuật chữa bệnh chứ không phải là một nghề thủ công. Phẫu thuật sớm khẳng định vị trí trong y
khoa nhưng mặt khác, nha khoa vẫn phụ thuộc nhiều vào việc hành nghề không qua đào tạo
chính qui của thợ mổ.

20



×