Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Một số vấn đề lịch sử triều Nguyễn thế kỷ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.62 KB, 78 trang )

Trường Đại Học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh
Khoa Lịch Sử

BÀI TẬP KẾT THÚC MÔN HỌC
Chuyên đề: “Một số vấn đề lịch sử triều Nguyễn thế kỷ XIX”
Đề tài
GVHD: TS -Trần Thị Thanh Thanh
SVTH: Đỗ Thị Hạt
Lớp: Sử 3a - Khóa 33
Năm học: 2009 - 2010

GVHD: TS - Nguyễn Thị Thanh Thanh SVTH: Đỗ Thị Hạt
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 01/2010
Trang 2
GVHD: TS - Nguyễn Thị Thanh Thanh SVTH: Đỗ Thị Hạt
MỤC LỤC
I) Mở đầu....................................................................................................................4
1.1. Lí do chọn đề tài.............................................................................................................4
2) Lịch sử nghiên cứu vấn đề................................................................................................5
3) Phương pháp nghiên cứu.................................................................................................11
II) Nội dung...............................................................................................................12
Phần I: Bối cảnh lịch sử triều Nguyễn (1802-1858)..................................................12
1) Bối cảnh quốc tế và khu vực nửa đầu thế kỉ XIX...........................................................14
2) Bối cảnh trong nước........................................................................................................16
a) Tình hình chính trị.......................................................................................................16
b) Tình hình kinh tế.........................................................................................................19
Nông nghiệp...................................................................................................................19
Công thương nghiệp.......................................................................................................21
Thương nghiệp...............................................................................................................22
c) Tình hình văn hóa tư tưởng.........................................................................................24
d) Tình hình xã hội...........................................................................................................24


e) Ngoại giao...................................................................................................................25
Phần II: Cuộc đời và sự nghiệp của Uy viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ...........28
1) Cuộc đời..........................................................................................................................29
)a Thời hàn vi..................................................................................................................29
b) Thời hiển đạt ...............................................................................................................36
b) Thời hưu trí..................................................................................................................40
2) Đường công danh - Sự nghiệp của Nguyễn Công Trứ....................................................42
b) Sự nghiệp quân sự.......................................................................................................43
b) Sự nghiệp khẩn hoang..................................................................................................51
b) Sự nghiệp thi văn.........................................................................................................59
III) Nhận định............................................................................................................62
Từ lòng nhân ái cao cả nên ông đã khởi xướng cách tân vượt trước thời đại.....................74
IV) Tài liệu tham khảo...............................................................................................76
Trang 3
GVHD: TS - Nguyễn Thị Thanh Thanh SVTH: Đỗ Thị Hạt
I) Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Để xây dựng một nước Việt Nam có chủ quyền, mỗi tấc đất của chúng ta đã
thấm máu nước mắt và mồ hôi của biết bao thế hệ tổ tiên, đã đem khí thiêng dân tộc
bao trùm lên giang sơn gấm vóc. Đó chính là giá trị tinh thần đã được lịch sử chưng
cất lên trong quá trình dựng nước và giữ nước. Dân tộc ấy đã sớm sản sinh ra bao
nhân vật lịch sử với tấm gương tuẫn tiết từ Hai Bà Trưng, Bà Triệu, đến tinh thần
quật khởi của Lí Bí đến Ngô Quyền, Lí Thường Kiệt,Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang
Trung… đã kết tụ thành hồn thiêng dân tộc. Dân tộc ấy cũng đã sản sinh ra bao
nhân tài cho đất nước - là nguyên khí của một quốc gia như: Nguyễn Hiền, Mạc
Đĩnh Chi, Phan Huy Chú, Lương Thế Vinh, Lê Quý Đôn…và đến thế kỉ XX là Hồ Chí
Minh vĩ đại. Những con người ấy đã viết lên những trang sử chói lọi cho dân tộc.
Song rất tiếc trong lịch sử đã có những người là “dấu chấm đen”. Đi sâu nghiên cứu
về một nhân vật lịch sử cả “chính diện” cũng như “phản diện” là việc nên làm để có
cái nhìn chính xác và đúng đắn nhất, qua đó người nghiên cứu có sự khen chê,

đánh giá đúng mức giữa công và tội, nhưng phải đặt nhân vật đó trong bối cảnh lịch
sử cụ thể để có cái nhìn một cách khách quan nhất.
Trong thực tế của cuộc sống, có nhiều nhân vật lịch sử vẫn còn là “khoảng
trống” đối với chúng ta. Bởi lẽ, không phải không có những công trình nghiên cứu về
nhân vật đó, cũng không phải nhân vật đó không có đặc điểm gì nổi bật, mà hình
như chúng ta đã “vô tình” không biết đến, và Nguyễn Công Trứ là một trong số mà
chúng ta đã “vô tình” như vậy. Lời mở đầu trong cuốn cuộc đời và sự nghiệp của Uy
Viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ, giải nguyên Lê Thước có nhận xét về ông như
sau: “Thường xét nước ta có một vĩ nhân, nói về công thời công rất lớn, nói về đức
thời đức rất dày, mà nói về ngôn thì ngôn luận văn chương rất có giá trị. Nước nhà
có một bậc vĩ nhân như vậy, quốc dân ta há không nên tôn sùng, nên kỉ niệm, nên
tượng đồng bia đá hay sao? Bậc vĩ nhân ấy là ai? Là cụ Nguyễn Công trứ vậy. Nay
chinh Nam, phạt Bắc, thế là công; tịch thổ thực dân, thế là đức; văn chương lỗi lạc,
ngôn luận hùng hồn thế là ngôn. Công như vậy, đức như vậy, ngôn như vậy, mà cái
danh thơm của Tướng công hình như trong quốc dân còn ít kẻ biết mà ca tụng, xưng
Trang 4
GVHD: TS - Nguyễn Thị Thanh Thanh SVTH: Đỗ Thị Hạt
dương là bởi vì hành trạng của Tướng công ít kẻ hiểu được rõ, văn chương của
Tướng công ít kẻ biết được tường”
1
. Thái Bình - năm xưa nơi đây ông đã có công
khai phá đất Tiền Hải (hiện nay huyện Tiền Hải thuộc tỉnh Thái Bình). Là người con
của quê hương, khi mới bước vào giảng đường Đại học có một đứa bạn trong lớp
đã hỏi tôi: Ai là người khai phá đất Tiền Hải? và câu trả lời của tôi là “mình không
biết”. Lúc đó tôi vừa thấy xấu hổ với bạn bè, vừa cảm thấy có lỗi với ông bà tổ tiên.
Nơi đây không phải quê hương chính của Nguyễn Công Trứ nhưng là nơi mà ông
đã sinh ra. Là một người con của quê hương và sau này là một giáo viên dạy lịch
sử, tôi rất muốn đi sâu tìm hiểu về ông – tôi nghĩ đó là một việc nên làm và cần làm.
Để thông qua đó, tôi được bổ sung và nâng cao kiến thức, mở rộng hiểu biết của
mình để có cái nhìn thấu đáo hơn về con người và sự nghiệp của ông, nó cũng là

hành trang phục vụ giảng dạy sau này. Đồng thời, thông qua việc tìm hiểu đề tài này
bước đầu tôi được tập dượt nghiên cứu khoa học, qua đó vừa rèn luyện cho mình
tính kiên trì, cẩn thận và tạo cho mình tính nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học.
2) Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nguyễn Công Trứ (1778-1858), một danh nhân văn hóa, từng được sử sách
dưới thời nhà Nguyễn tôn xưng là “con người trác lạc, có tài khí”, chẳng những có tài
thơ văn mà còn lập công lớn nơi chiến trận, lĩnh chức dinh điền, mở mang ruộng
đất, tụ họp lưu dân, trải đời làm quan trường bị bãi cách, rồi được cất nhắc lên ngay,
khi tuổi già về nghỉ, tức thì bỏ qua việc đời, chơi thú sơn thủy,…Là danh nhân lịch
sử, Nguyễn Công Trứ được công luận nhân dân quan tâm, suy nghĩ luận bàn.
Những sáng tác của Nguyễn Công Trứ chứa đựng nhiều vấn đề quan trọng, lí
thú và phức tạp, đã từng là nguồn gốc của những ý kiến, nhận định phong phú và
không thống nhất. Con người, cuộc đời và sự nghiệp, kể cả tư tưởng phức tạp, đa
dạng của ông là công việc đã và đang thu hút trí tuệ của nhiều nhà khoa học trên
lĩnh vực khoa học xã hội khác nhau, là đối tượng quan tâm của các nhà giáo giảng
dạy thơ văn Nguyễn Công Trứ đã từng là nguồn gốc của những nhận định đánh giá
khác nhau và mãi mãi vẫn mang tính thời sự trong công chúng hâm mộ ông. Do đó,
1
Lê Thước, sự nghiệp và thi văn của Uy viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ, Nhà in Văn Tân,
trang 3
Trang 5
GVHD: TS - Nguyễn Thị Thanh Thanh SVTH: Đỗ Thị Hạt
một công trình sưu tập, tuyển chọn các tư liệu, các công trình nghiên cứu khác nhau
về Nguyễn Công Trứ, là một yêu cầu khách quan và cấp thiết.
Đã có rất nhiều tác giả đang tiếp tục sưu tầm nghiên cứu về nhân vật lịch sử,
nhà văn hóa lớn này. Nghiên cứu về Nguyễn Công Trứ qua dòng chảy của lịch sử
ngay từ thế kỉ XIX đã có Đại Nam thực lục chính biên, Quốc triều sử toát yếu, Đại
Nam chính biên liệt truyện, Đại Nam nhất thống chí, Nghi xuân đại chí. Nguồn tư liệu
gốc có liên quan đến đề tài là Đại Nam thực lục chính biên là bộ sử lớn về triều đại
nhà Nguyễn, do quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn có đoạn chép về ông cũng rất

tỷ mỷ, bởi vì mỗi hành trạng của ông đều có liên quan chặt chẽ với triều Nguyễn và
lịch sử dân tộc. Phần ghi chép về thời kì nhà Nguyễn khôi phục vương triều đoạn
mất nước (1802-1884) thuộc các tập từ tập II đến tập XXXVII, được chia làm 4 kỷ
theo 4 triều vua: đệ nhất kỷ (Gia Long), đệ nhị kỷ (Minh Mệnh), đệ tam kỷ (Thiệu Trị),
đệ tứ kỷ (Tự Đức). Riêng phần đệ nhị kỷ, từ tập XVIII đến tập XXII, cũng đã có 60
chỗ chép về ông.
Sang đến thế kỷ XX, năm 1928 có “Sự nghiệp và thi văn của Uy viễn Tướng
Công Nguyễn Công Trứ” của Lê Thước, nhà in Lê Văn Tân, 136 Rue du Conton,
HN. Nội dung tác phẩm gồm 2 phần. Phần thứ nhất là phần mở đầu nói về lịch sử cụ
Nguyễn Công Trứ từ thời hàn vi, thời hiển đạt đến thời hưu trí và công nghiệp của
cụ đó là công đánh giặc và công khẩn hoang. Phần thứ hai đề cập đến thơ văn của
cụ là tập hợp các bài thơ, bài phú, câu đối, ca trù, tuồng, tấu sớ nói về chính trị.
Phần thứ ba là phần phụ lục là các bài thơ, bài ca trù còn nghi ngờ có kẻ nói là của
cụ, có kẻ nói là của người khác; các bài Hán văn, bài Việt nói về chính trị Nguyễn
Công Trứ. Trong lời mở đầu của tác giả: “Người xưa có nói có nói rằng: ở đời có ba
điều bất hủ : Một là lập công, hai là lập đức, ba là lập ngôn. Lập công tất là công
nghiệp vẻ vang trong bốn cõi; lập đức tất là đức - trạch lưu truyền đến muôn đời, lập
ngôn là ngôn luận văn chương, có bổ ích cho nhân dân thế đạo. Trong ba điều ấy,
có được một vẫn đã khó, mà gồm được cả ba chưa dễ mấy ai. Thường xét nước ta
có một bậc vĩ nhân, nói về thời công rất lớn, nói về đức thời rất dày, mà nói về ngôn
thì ngôn luận văn chương rất có giá trị. Nước nhà có một bậc vĩ nhân như vậy, quốc
dân ta há không nên tôn sùng, nên kỷ niệm, nên tượng đồng bia đá hay sao? Bậc vĩ
nhân ấy là ai? Là cụ Uy viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ vậy. Nay chinh Nam,
phạt Bắc, thế là công; tịch thổ thực dân, thế là đức, văn chương lỗi lạc, ngôn luận
Trang 6
GVHD: TS - Nguyễn Thị Thanh Thanh SVTH: Đỗ Thị Hạt
hùng hồn thế là ngôn. Công như vậy, đức như vậy, ngôn như vậy, mà cái danh thơm
của Tướng công hình như trong quốc dân còn ít kẻ biết mà ca tụng, xưng dương là
bởi vì hành trạng của Tướng công ít kẻ biết được tường. Vì lẽ ấy chúng tôi đã ra
công khảo sát biên tập thành quyển sách này, trước chép rõ hành trạng của Tướng

công, sau lục đăng văn thơ của Tướng công, không giám nói rằng để biểu dương
cho Tướng công mà Tướng công cũng không cần phải ai biểu dương-chỉ mong rằng
giúp anh em, chị em trong nước khỏi lãng quên mất một bậc Tiền bối đáng hâm mộ,
đáng tôn sùng lắm vậy”
2
. Đến năm 1857, Vũ Đình Liên- Đỗ Đức Hiểu- Lê Trí Viễn…
có “Lược khảo lịch sử văn học Việt Nam” tập II. (Từ thế kỉ XVI đến giữa thế kỉ XIX).
Nxb Xây dựng Hà Nội,1957, 334 trang. Nghiên cứu về thơ văn Nguyễn Công Trứ
thuộc chương I (tr 234-240).
Đến năm 1958, một số tác giả nghiên cứu văn học đã cộng tác với hai cụ Lê
Thước và Hoàng Ngọc Phách biên soạn cuốn “Thơ văn Nguyễn Công Trứ” do nhà
xuất bản Văn hóa thời đó xuất bản. Thơ văn Nguyễn Công Trứ có thể giúp bạn đọc
một số điều bổ ích trong việc đánh giá một nhà thơ dân tộc mà cuộc đời và sự
nghiệp cũng không bằng phẳng như Nguyễn Công Trứ. Các tác giả đã lập một niên
biểu về nhà thơ để chúng ta có dịp đi sâu vào thời đại và thân thế nhà thơ, không
bằng lòng với những nét khái quát, sơ sài dễ làm cho nhận định của chúng ta trở
nên đơn giản. Để lập niên biểu về Nguyễn Công Trứ, các tác giả đã dựa trên rất
nhiều nguồn tư liệu như bản Gia phả họ Nguyễn ở Uy viễn khá đầy đủ, cụ Lê Thước
cho biết bản Gia phả hiện nay. Thư viện KHXH giữ chính là bản cụ thuê chép tặng
thư viện năm 1928; hồi cụ viết cuốn sự nghiệp và thi văn của Uy viễn Nguyễn Công
Trứ. Đặc biệt là gia đình còn giữ được nguyên vẹn tập giấy tờ, bằng sắc , trong đó
có những tư liệu quý. Như vậy là mỗi chi tiết về thân thế Nguyễn Công Trứ được ghi
lại đầy đủ, có bằng cứ hẳn hoi. “Xem qua niên biểu, chúng ta có cảm tưởng khô
khan, nhưng chính nó cung cấp cho ta nhiều điều cần biết một cách chắc chắn nhất,
hơn là những lời nghị luận tràng giang đại”
3
. Về thơ của Nguyễn Công Trứ, các tác
giả cũng chọn lọc và sắp xếp lại. Trước kia, các tác giả nghiên cứu đã tập hợp được
2
Lê Thước, sự nghiệp và thi văn của Uy viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ, nhà in Văn Tân, HN,

trang 3.
3
Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Trương Chính biên soạn và giới thiệu, Nxb Văn học, 1983, trang 4
Trang 7
GVHD: TS - Nguyễn Thị Thanh Thanh SVTH: Đỗ Thị Hạt
khá đầy dủ qua bản của gia đình, qua các bản chữ Nôm và các bản chữ Quốc ngữ,
trong đó có bản của cụ Lê Thước. Các tác giả đã sắp xếp các tác phẩm của ông
theo thể loại và thứ tự thời gian sáng tác như: thơ, phú,câu đối, ca trù. Có những bài
Nguyễn Công Trứ làm “đùa cho vui” các tác giả đã đưa vào phần Giai thoại. Phần
Giai thoại cũng xếp theo thứ tự thời gian. Giai thoại là những câu chuyện có thật,
cũng có thể là chuyện hư cấu, nhưng cũng phản ánh phần nào tâm sự, tính cách
của nhà thơ. Không phải nhân vật lịch sử nào cũng có giai thoại, phải là những
người có đặc điểm nổi bật và được mọi người ưa thích, mới có giai thoại mà truyền
như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát là những con người như thế. Cuối cùng, tác
phẩm “Thơ văn Nguyễn Công Trứ” là những lời bình phẩm của người đương thời.
Qua tác phẩm chúng ta có thể có được những nhận định tương đối đúng về thân
thế, tư tưởng và sự nghiệp nhà thơ.
Nghiên cứu về nhân vật lịch sử này còn có “Đôi điều về tồn chất Nguyễn Công
Trứ” của Mai Khắc Ứng. Trong lời kết tác giả có nhận định rằng: “Nguyễn Công Trứ
là con người của hôm trước và con người của hôm sau xuất hiện trong giai đoạn đặc
trưng nhất của lịch sử dân tộc. Ông là dấu nối giữa hai thời kỳ phân liệt tan rã (bởi
nội chiến) và hàn gắn phục hưng (bởi nhu cầu thống nhất) trở thành người tiên
phong dẹp loạn, tiên phong khai hoang lập ấp, tiên phong đề xuất tổ chức lại quân
đội và xây dựng pháo đài phòng thủ. Từ bối cảnh đó, một con người văn võ song
toàn như ông, mặc nhiên phải đứng về phía ngày mai của một quốc gia thịnh vượng,
hùng cường. Bởi thế, ở bất kì lĩnh vực nào, nếu ông có mặt, dù gián tiếp vẫn đọng lại
những dấu ấn mang tầm trí tuệ, mang tính thời đại điển hình”
4
. Năm 1990, Nguyễn
Cảnh Minh- Đào Tố Uyên có “Công cuộc khẩn hoang thành lập huyện Kim Sơn” (Kỉ

Sửu 1829). Huyện ủy và UBND huyện Kim Sơn (Ninh Bình) xb có tất cả 170 trang.
Nghiên cứu về công cuộc chiêu dân khẩn hoang do Nguyễn Công Trứ tiến hành để
thành lập huyện Kim Sơn (Ninh Bình) và những thành quả của công cuộc này gồm 3
chương: Chương I – “Bối cảnh xã hội Việt Nam trong 3 thập kỉ đầu thế kỉ XIX và
những yêu cầu bức thiết của công cuộc chiêu dân khẩn hoang ở Kim Sơn (1829)” đã
đề cập đến sự khủng hoảng sâu sắc, trầm trọng của nền kinh tế nông nghiệp đương
thời; nạn lưu tán và phong trào nông dân khởi nghĩa rầm rộ. Chương II – “Công
4
Mai Khắc Ứng, Đôi điều về tồn chất của Nguyễn Công Trứ, NXB Thuận Hóa, 2004, trang 166.
Trang 8
GVHD: TS - Nguyễn Thị Thanh Thanh SVTH: Đỗ Thị Hạt
cuộc chiêu dân khẩn hoang lập ấp ở Kim Sơn (1829)” đề cập đến: huyện Kim Sơn
trước khi tiến hành khẩn hoang, chủ trương khẩn hoang của Nguyễn Công Trứ; quá
trình chiêu dân khẩn hoang. Chương III – “Những thành quả của công cuộc khẩn
hoang (1829)” đề cập đến huyện Kim Sơn ra đời; quy hoạch làng ấp; tình hình phân
phối ruộng đất sau khai hoang; diện mạo của một số tổng ấp ở Kim Sơn sau khai
hoang.
Còn rất nhiều tác phẩm nghiên cứu về ông như Lưu Trọng Lư - Một trăm năm
sau; Nguyễn Công Trứ, nhà thi sĩ của Nghệ Tĩnh; Tương Tửu - tâm lí và tư tưởng
Nguyễn Công Trứ…
Sang đến thế kỉ XXI, có Nguyễn Công Trứ: Sự lên ngôi của cái tôi cá thể của tác giả
Nguyễn Đình Trứ; Hoàng Ngọc Hiển – Dáng kiêu và cốt kiêu của Nguyễn Công Trứ;
Phong Lê – Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát hai thân phận tri thức nho sĩ vào mở
đầu triều Nguyễn.
Nguyễn Công Trứ - Về tác gia và tác phẩm của Trần Nho Thìn, Nxb Giáo dục,
2007 bao gồm 563 trang. Các tài liệu và các công trình nghiên cứu được tuyển chọn
trong cuốn sách này tiêu biểu và có mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử tìm hiểu vấn đề
Nguyễn Công Trứ. Nội dung cuốn sách gồm hai phần chính: Phần một giới thiệu một
số tư liệu lịch sử có liên quan đến Nguyễn Công Trứ, đặc biệt có dẫn một số trang
có bộ chính sử nhà Nguyễn viết về Nguyễn Công Trứ giúp bạn đọc nghiên cứu và

tra cứu tài liệu dễ dàng hơn. Phần hai là những công trình nghiên cứu tiêu biểu qua
các thời kì của các thế hệ nhà nghiên cứu khác nhau. Trật tự thời gian công bố các
bài viết, các cuốn sách về Nguyễn Công Trứ sẽ giúp bạn đọc theo dõi quá trình vận
động, diễn biến, thay đổi của tư tưởng, phương pháp và quan điểm nghiên cứu về
Nguyễn Công Trứ qua các thời kì lịch sử, chỉ ra đâu là những đóng góp riêng cá
nhân từng nhà nghiên cứu trong việc nghiên cứu, lí giải Nguyễn Công Trứ.
Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử (NXB Nghệ An), Uy viễn Tướng công
Nguyễn Công Trứ qua 81 giai thoại (NXB Lao động), Nguyễn Công Trứ 36 bài thơ
(NXB Lao động) - 3 tập sách về danh hào Nguyễn Công Trứ đã được Trung tâm Văn
hoá ngôn ngữ Đông Tây trình làng đúng vào dịp kỷ niệm 230 năm ngày sinh và 150
năm ngày mất của ông. Đây là bộ sách hay giúp bạn đọc có được những hiểu biết
hữu ích về cuộc đời, tác phẩm của vị danh nhân này.
Trang 9
GVHD: TS - Nguyễn Thị Thanh Thanh SVTH: Đỗ Thị Hạt
Cuốn thứ nhất: “Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử” là tập sách dày dặn và
công phu đã ra mắt vào tháng 12/2008 (chủ biên Đoàn Tử Huyến, NXB Nghệ An)
mang lại một chân dung toàn diện và trung thực nhất về con người ông, sàng lọc
những nhận định, đánh giá về cuộc đời và các phạm vi hoạt động của danh nhân
Nguyễn Công Trứ, để tìm ra những giá trị nhân cách và bài học xã hội cần thiết cho
sự tiếp tục phát triển của đất nước.
Nhóm biên soạn gồm nhà sử học Chương Thâu, nhà nghiên cứu Trần Nho
Thìn, dịch giả Đoàn Tử Huyến và Ths Nguyễn Hoàng Diệu Thủy, với sự giúp đỡ của
TS Nguyễn Thị Lâm (Viện nghiên cứu Hán Nôm), TS Nguyễn Đức Mậu (Viện nghiên
cứu văn học), cùng nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Tập sách, ngoài bài
tiểu luận mở đầu mang tính khái quát về Nguyễn Công Trứ với thời đại chúng ta”
của PGS –TS Trần Nho Thìn, là hai phần lớn: Phần thứ nhất: Tác phẩm Nguyễn
Công Trứ - tập hợp trên cơ sở khảo cứu kỹ lưỡng (đối chiếu, khảo dị với các nguồn
chữ Nôm và Quốc ngữ các văn bản gốc và các văn bản tồn nghi của Nguyễn Công
Trứ mà chúng ta biết được cho đến ngày nay gồm thơ Nôm, thơ chữ Hán, hát nói,
phú, câu đối, tuồng, văn sách, tấu sớ...Đọc một câu thơ nào đó, độc giả có thể biết

câu này ở các bản chữ Nôm chép thế nào, ở bản chữ Quốc ngữ của Lê Thước năm
1928, của Lê Thước-Trương Chính-Hoàng Ngọc Phách năm 1958 hay bản của Đỗ
Bằng Đoàn – Đỗ Trọng Huể năm 1962…chép thế nào? . Đây là một việc làm có ích
đối với người nghiên cứu về sau. Lần đầu tiên, bản dịch bài văn đỗ Giải nguyên của
Nguyễn Công Trứ và một dị thảo của bài phú nổi tiếng Hàn Nho phong vị phú cũng
được công bố . Phụ lục của phần này là các giai thoại thú vị lưu truyền trong dân
gian về văn thơ, câu đối... về cuộc sống đời thường của Nguyễn Công Trứ; những
bài thơ, câu đối của bạn bè, văn thân, nhân dân viết tặng ông.
Phần thứ hai: Về Nguyễn Công Trứ là tập hợp có chọn lọc những công trình
khảo cứu (trích) bài viết của các học giả, nhà văn, nhà báo viết về cuộc đời, thơ văn,
tư tưởng. Đây là những đóng góp trí tuệ của nhiều thế hệ những nhà nghiên cứu
Nguyễn Công Trứ từ trước đến nay ở trong và ngoài nước. Có thể coi đây là một tập
hợp đầy đủ nhất các công trình khảo cứu, luận bàn về Nguyễn Công Trứ qua dòng
chảy của lịch sử từ giữa thế kỷ XIX đến thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI.
Cuốn thứ hai: Uy viễn tướng công Nguyễn Công Trứ qua 81 giai thoại (NXB
Lao động) gồm 124 trang. Giai thoại về Nguyễn Công Trứ vốn có rất nhiều, được
Trang 10
GVHD: TS - Nguyễn Thị Thanh Thanh SVTH: Đỗ Thị Hạt
truyền tụng trong dân gian, ghi chép trong nhiều sách vở, lần này được tác giả
Huyền Li sưu tầm và biên soạn lại toàn bộ. Có thể nói, đặc điểm khác biệt của tập
sách này là với giọng văn tự nhiên, hóm hỉnh nhưng mạch lạc, trau chuốt vừa hợp
với cách kể bình dân, vừa hợp với tính cách "chơi", ngông của nhân vật. Soạn giả
đã dựng lên một chân dung Nguyễn Công Trứ từ góc nhìn "dân gian hoá" khá thuyết
phục, lôi cuốn, đồng thời thể hiện được tình cảm yêu mến, kính trọng của nhân dân
nhiều thế hệ dành cho "Cố Lớn" - Uy viễn tướng công Nguyễn Công Trứ.
Cuốn thứ ba: Nguyễn Công Trứ - 36 bài thơ (NXB Lao động), tập sách này nằm
trong Tủ sách 36 bài thơ của Trung tâm Văn hoá ngôn ngữ Đông Tây. 124 trang
sách tuyển chọn và giới thiệu 36 tác phẩm (thơ chữ Nôm, chữ Hán, hát nói, phú) đặc
sắc và tiêu biểu nhất của Nguyễn Công Trứ. Qua những bài thơ này, có thể thấy rõ
Nguyễn Công Trứ thực sự là một nhà thơ xuất chúng, vẽ nên một chân dung

Nguyễn Công Trứ khá rõ nét với lý tưởng kẻ sĩ lớn lao, niềm tự tin vào bản thân, vẻ
ngông nghênh ngạo đời và cuối cùng, đọng lại một nụ cười ung dung, thanh thản.
Có thể nói, bộ sách về Nguyễn Công Trứ đã giúp người đọc hình dung một
chân dung thống nhất trong sự đa dạng của con người ông: Một nhà thơ, một văn
quan, một võ tướng, một nhà khẩn hoang, mà ở lĩnh vực nào cũng để lại thành tựu
to lớn; đồng thời lại là một "tay chơi" ngang tàng, ngạo nghễ.
3) Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp nghiên cứu, trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tôi
sử dụng hai phương pháp cơ bản trong nghiên cứu lịch sử là phương pháp lịch sử
và phương pháp logic. Ngoài ra phương pháp so sánh, phương pháp liên ngành có
liên quan đến đề tài như triết học, quân sự, văn học, xã hội… cũng đã được vận
dụng trong quá trình thực hiện đề tài.
Từ nguồn tư liệu có liên quan, tôi xác định đề tài theo quan niệm tư liệu quyết
định nội dung nghiên cứu. Chủ đề chính của bài tiểu luận tìm hiểu về cuộc đời và sự
nghiệp của Nguyễn Công Trứ. Đặt ông trong bối cảnh lịch sử để nhìn nhận, đánh giá
ở nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau.
Để thực hiện đề tài này, bên cạnh phương pháp lịch sử, tôi còn sử dụng
phương pháp logic, là phương pháp xem xét vấn đề theo quan điểm vận động, phát
triển theo quy luật nội tại của nó, trong mối liên hệ phổ biến với các vấn đề khác
Trang 11
GVHD: TS - Nguyễn Thị Thanh Thanh SVTH: Đỗ Thị Hạt
nhằm đi sâu để đưa ra những nhận xét, đánh giá của bản thân về vấn đề muốn
nghiên cứu.
Bài tiểu luận này chỉ là tập hợp các nguồn tư liệu khác nhau có liên quan đến
cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Công Trứ để đi sâu tìm hiểu về ông. Nhìn chung
cũng chưa có đóng góp gì mới cho nghiên cứu khoa học.Tuy nhiên, giữa mong
muốn tìm hiểu, nghiên cứu và năng lực thực tế của cá nhân còn có một khoảng cách
không nhỏ, đề tài nghiên cứu của tôi chắc chắn còn nhiều điều bất cập, thiếu xót cần
phải chỉnh sửa, kính mong thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến xây dựng để đề tài
này được hoàn thiện hơn.

Quá trình xây dựng bài tiểu luân được thực hiện:
Xác định đề tài, thiết kế đề cương sơ lược.
Sưu tầm, thu thập và sắp xếp tài liệu.
Đọc, chọn lọc,ghi chép và khai thác nguồn tư liệu
Trên cở sở những tài liệu đã sưu tầm,chọn lọc làm đề cương chi tiết.
Tiếp tục bố sung tài liệu.
Trình bày vấn đề và hoàn thành nghiên cứu.
II) Nội dung
Phần I: Bối cảnh lịch sử triều Nguyễn (1802-1858).
Tại hội thảo khoa học về danh nhân Nguyễn Công Trứ do trường ĐHKHXH 
NV (ĐHQGHN) và UBND tỉnh Hà Tĩnh phối hợp tổ chức vào ngày 19/12/2008 đã
khẳng định “230 năm là một quãng thời gian có thể quên đi một con người bình
thường, nhưng không thể quên được một con người “kinh luân khởi tâm thượng,
binh giáp tàng hung trung” như Nguyễn Công Trứ”
5
. Nếu như chúng ta không có cái
nhìn khách quan khi đánh giá về triều Nguyễn, phủ nhận hoàn toàn những đóng góp
của triều Nguyễn đối với dân tộc, với lịch sử cho rằng triều Nguyễn có bản chất
“chuyên chế, phản động” thì cũng có nghĩa là khi đánh giá những đại thần trung
thành và có công lao với triều đại ấy cũng sai lầm, mù quáng. Nguyễn Công Trứ là
5
file:///C:/Users/User/Videos/nguyen%20cong%20tru_files/981-danh-nhan-nguyn-cong-tr-cuc-i-va-
s-nghip-.htm
Trang 12
GVHD: TS - Nguyễn Thị Thanh Thanh SVTH: Đỗ Thị Hạt
một trường hợp như vậy. Ông lớn lên trong những năm cuối nhà Tây Sơn, tiếp đến
đầu nhà Nguyễn, gần 30 năm làm quan, lúc thăng lúc giáng nhưng Nguyễn Công
Trứ luôn là một trung thần triều Nguyễn, con dân của đất Việt, mang hết trí lực và
tâm huyết góp phần cùng với nhà Nguyễn kiến thiết một xã hội mới.
Để có những đánh giá thỏa đáng, công bằng hơn về bản chất, vai trò của triều

Nguyễn, ghi nhận những đóng góp nhất định của triều đại này đối với lịch sử.
Để tìm hiểu và đánh giá một nhân vật lịch sử nào đó chúng ta phải đặt nhân vật lịch
sử đó trong bối cảnh lịch sử cụ thể. Do đó trong quá trình tìm hiểu về đề tài này
chúng ta cũng nên biết được bối cảnh mà Nguyễn Công Trứ đang sống?
Triều Nguyễn là triều đại cuối cùng của lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Có thể
nói lịch sử 143 năm của vương triều cuối cùng đó là lịch sử của những trang bi hùng
lẫn lộn. Lịch sử triều Nguyễn có thể tạm thời chia làm hai giai đoạn chính. Giai đoạn
thứ nhất (1802-1884) triều Nguyễn tồn tại với tư cách là một vương triều độc lập,
giai đoạn thứ hai (1885-1884) triều Nguyễn tồn tại chủ yếu với tư cách là một vương
triều tay sai của thực dân Pháp. Trong giai đoạn thứ nhất (1802-1884), các vua nhà
Nguyễn từ Gia Long đến (1802-1819), Minh Mạng (1820-1840) đến Thiệu Trị (1841-
1847), Tự Đức (1848-1883) kế tiếp nhau xây dựng và củng cố nền thống trị, bảo vệ
chế độ phong kiến trong bối cảnh khủng hoảng suy vong. Tuy nhiên, trong hơn nửa
thế kỉ tồn tại dưới triều Nguyễn, xã hội Việt Nam hầu như không phát triển lên được
theo chiều hướng tiến bộ của thời đại, mâu thuẫn xã hội sâu sắc làm bùng lên hàng
loạt cuộc khởi nghĩa lớn của nông dân, của các dân tộc ít người và cuối cùng trở
thành đối tượng xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Nhiệm vụ đặt ra
cho nhà Nguyễn lúc này là phải bảo vệ quốc gia thống nhất, giữ an ninh chính trị vừa
phải lo phát triển kinh tế- văn hoá, củng cố và phát triển tiềm lực quốc gia dân tộc
nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, củng cố quyền lực của mình. “Dưới thời các vua
Nguyễn, đặc biệt là vào các giai đoạn đầu thế kỉ XIX, tình hình kinh tế, chính trị xã
hội nước ta diễn biến khá phức tạp, những cái xấu cái tốt, tiến bộ và bảo thủ, mạnh
và yếu…dường như đan xen vào nhau khiến cho sự nhận thức về triều đại này gặp
không ít những khó khăn. Nhiều cuộc tranh luận về một hiện thực lịch sử triều
Nguyễn cho đến nay vẫn chưa được giải quyết”
6
. Tuy nhiên, lúc này đứng trước
6
Lịch sử nhà Nguyễn - Một cách tiếp cận mới, NXB ĐHSP, 2005, trang 7
Trang 13

GVHD: TS - Nguyễn Thị Thanh Thanh SVTH: Đỗ Thị Hạt
những âm mưu bành trướng của phương Tây đã đặt ra cho nhà Nguyễn những
thách thức mang tính thời đại: vừa đáp ứng yêu cầu hồi sinh đất nước vừa phải đối
phó với âm mưu, ý đồ can thiệp của thực dân phương Tây, chủ yếu là thực dân
Pháp.
1) Bối cảnh quốc tế và khu vực nửa đầu thế kỉ XIX
Vào thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã giành thắng lợi trên phạm vi toàn thế giới và
trở thành hệ thống thế giới; giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị - có quyền lực
vô hạn về kinh tế. Do những tiến bộ vượt bậc về kinh tế, khoa hoc kỹ thuật giai cấp
tư sản ở các cường quốc phương Tây có thể tiến xa hơn trong hành trình tìm kiếm
và khám phá ra những vùng đất xa xôi mà trước đây họ không có khả năng điều
kiện đặt chân tới. Mặt khác do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, đòi hỏi thị
trường rộng lớn hơn, giai cấp tư sản đã lợi dụng những phát triển địa lý những tiến
bộ về khoa học kỹ thuật để chinh phục những vùng xa xôi, giàu có để đáp ứng cho
những nhu cầu của mình và việc đẩy mạnh xâm chiếm thuộc địa, mở rộng thị trường
là một tất yếu, nằm trong sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa đế quốc.
Một trong những nhân tố tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm kiếm và xâm lược
thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, là sự tiến bộ của ngành giao thông vận tải. Năm
1830 trên thế giới có không quá 332 km đường sắt nhưng đến năm 1870 đã có trên
200.000 km; năm 1807 chiếc tàu thuỷ bằng hơi nước đầu tiên trên thế giới xuất hiện,
cùng với đó đường hàng không cũng có những thành tựu đáng kể. Ngành viễn
thông phát triển tạo điều kiện thuận lợi tăng cường sự hiểu biết của các nước
phương tây về những vùng đất mới.
Trên cơ sở những điều kiện thuận lợi đó, các nước phương Tây đã tăng
cường mở rộng thuộc địa, tăng cường xâm nhập và nô dịch các quốc gia khác, biến
các quốc gia đó trở thành thuộc địa. Trong trào lưu mạnh mẽ của chủ nghĩa thực
dân từ Tây sang Đông, các nước châu Á lúc này đang chìm đắm trong quan hệ sản
xuất phong kiến lỗi thời, không muốn mở cửa bang giao với phương Tây. Tuy nhiên
chính sách “bế quan toả cảng “ từ chối thông thương và “cấm đạo” của đa số các
nước Châu Á không làm các nước Châu Âu từ bỏ tham vọng thâm nhập vào những

vùng đất đông dân, giàu có này. Trong cuộc chiến này không ít các quốc gia trong
khu vực kể cả các quốc gia lớn mạnh có nền văn minh văn hoá lớn như Ấn Độ,
Trang 14
GVHD: TS - Nguyễn Thị Thanh Thanh SVTH: Đỗ Thị Hạt
Trung Hoa… đã lần lượt gánh chịu thất bại, trở thành các nước thuộc địa của các
nước đế quốc trong chừng mực khác nhau. Trung Quốc, Nhật Bản, Xiêm, Việt
Nam….. đều từ chối thông thương với bên ngoài. Tại Trung Quốc chính sách này
được tăng cường từ giữa đời Thanh. Cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX nhà
Thanh chỉ mở một cửa biển Quảng Châu để thông thương với nước ngoài…..trong
khi đó sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đã tạo tiền đề để các nước phương
Tây mở rộng bành trướng thuộc địa và “Chủ nghĩa tư bản không thể tồn tại và phát
triển rộng nếu không thường xuyên mở rộng phạm vi thống trị của nó, không khai
thác những xứ sở mới và không lôi cuốn các xứ sở cũ không phải là tư bản chủ
nghĩa và cơn lốc kinh tế thế giới”.
Các nước tư bản phương Tây đã đưa ra nhiều lý do để biện mình cho việc
đi tìm và xâm chiếm thuộc địa của mình. Chính sách bành trướng thuộc địa là động
cơ chung lôi cuốn các quốc gia phương Tây xâm lược thuộc địa, bất chấp mọi luật
lệ, quyền lợi của các dân tộc phương Đông để xâm nhập vào vùng đất giàu có - nơi
có ý nghĩa đặc biệt với các nước này, nơi cung cấp lương thực ,nguyên liệu, nhiên
liệu nhân công, nơi tiêu thụ hàng hoá của chính quốc và đem lại nguồn lợi nhuận
kếch xù cho nhà tư bản. Chính sự giàu có của vùng đất này cùng với nhu cầu thuộc
địa gia tăng, các nước tư bản phương Tây đã tìm mọi cách mở cửa vào thị trường
châu Á, trong khi xã hội Châu Á vẫn tiếp tục giấc mộng “bế quan toả cảng” cố thủ
trong một đường lối ngoại, tự cô lập. Và các nước phương Tây đã lợi dụng sự lạc
hậu, yếu kém về kinh tế, chính trị xã hội của các quốc gia này, dùng sức mạnh quân
sự buộc các nước mở cửa, tiến tới xâm lược.
Khu vực Đông Nam Á, một khu vực địa lý, lịch sử quan trọng, từ thế kỷ XVI đến
đầu thế kỷ XIX cũng bắt đầu quá trình suy thoái. Đối diện với văn minh phương Tây
và với nguy cơ xâm nhập của tư bản nước ngoài, giai cấp phong kiến cầm quyền ở
các quốc gia này tỏ ra lúng túng, bế tắc. Và trong thế kỷ XIX, Đông Nam Á đã trở

thành thuộc địa của chủ nghĩa thực dân phương Tây ( trừ Thái Lan ).
Trong bối cảnh thế giới và khu vực như vậy, Việt Nam cũng chịu những tác
động từ những biến động do tư bản phương Tây gây ra, không nằm ngoài âm mưu
xâm lược và bành trướng, đến giữa thế kỷ XIX, khi đó có đủ các điều kiện thuận lợi
người Pháp đã tiến hành can thiệp vào nước ta, đặt ách thống trị. Đứng trước
những nguy cơ từ phương Tây đem đến như vậy, giai cấp phong kiến Việt Nam đã ý
Trang 15
GVHD: TS - Nguyễn Thị Thanh Thanh SVTH: Đỗ Thị Hạt
thức được vai trò của mình và đề ra nhiều biện pháp để ngăn chặn sự xâm nhập
của tư bản nước ngoài, trong đó có chính sách cấm đạo, chính sách “bế quan tỏa
cảng”.
2) Bối cảnh trong nước
a) Tình hình chính trị
 Tổ chức chính quyền:
“Ra đời trong bối cảnh lịch sử khá đặc biệt và sau đó phải đối mặt với một loạt
khó khăn thử thách lớn nhất là họa xâm lăng của chủ nghĩa tư bản phương Tây,
triều Nguyễn đã tồn tại sóng gió và chịu đựng không ít búa rìu dư luận”
7
. Thành lập
và thống trị trong thế kỉ XIX, nhà Nguyễn thừa hưởng được thành quả to lớn của
phong trào nông dân Tây Sơn trong sự nghiệp thống nhất đất nước, làm chủ một
lãnh thổ trải dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau bao gồm cả Đàng Trong và Đàng
Ngoài cũ.
Để xây dựng một Nhà nước quân chủ trung ương tập quyền quản lí có hiệu lực
để thống nhất các đơn vị hành chính, ngay từ đầu vương triều Nguyễn Gia Long
phải đương đầu với nhiều khó khăn lớn. Trước phải kể đến tình trạng đất nước bị
chia cắt nhiều năm với nhiều phe phái thù địch. Đó là tập đoàn Lê, Trịnh, Nguyễn
trong đó đáng kể nhất là tập đoàn phong kiến Lê với ảnh hưởng của họ còn in đậm
trong tâm tư, tình cảm nhiều người, đặc biệt trong các cựu thần nhà Lê, đông đảo
Nho sĩ và các gia vọng tộc có tầm cỡ ở Bắc Hà. Không phải vô cớ các chúa Nguyễn,

chúa Trịnh và Tây Sơn từng phải giương cao ngọn cờ “phù Lê”. Trong khi đó lãnh
thổ nước ta do nhiều năm bị chia cắt, chịu ảnh hưởng của nhiều thế lực, không có
được một sự phát triển đồng đều”… “Nguyễn Ánh và các cận thần thân tín của ông
tuy có thừa mưu lược chinh chiến để giành quyền lực, nhưng lại thiếu uy tín, kinh
nghiệm trong tổ chức quản lí đất nước. Tuy vậy việc xây dựng một nhà nước quân
chủ trung ương tập quyền vẫn là mục tiêu phấn đấu của Nguyễn Ánh sau khi diệt
7
Lịch sử nhà Nguyễn - Một cách tiếp cận mới, NXB ĐHSP, 2005,Trang 7
Trang 16
GVHD: TS - Nguyễn Thị Thanh Thanh SVTH: Đỗ Thị Hạt
nhà Tây Sơn, đồng thời cũng là trách nhiệm của ông trước một đất nước độc lập,
thống nhất có chủ quyền”
8
.
Sau khi lên ngôi vua Gia Long đã thiết lập lại bộ máy chính trị quân chủ. Gia
long, Minh Mạng giữ nguyên hệ thống cơ quan cũ của các triều đại trước. Triều đình
do vua đứng đầu, dưới nhà vua có 6 bộ (Bộ Lại, Bộ Hộ, Bộ Lễ, Bộ binh, Bộ hình, Bộ
công ), đứng đầu mỗi bộ là một vị quan thượng thư rồi đến các chức tả hữu tham tri,
tả hữu thị lang. Ngoài ra còn có các cơ quan chuyên môn như: Đô Sát Viện, Hàn
Lâm Viện.. đến đời vua Minh Mạng,có đặt thêm cơ mật viện để cùng vua bàn bạc
những việc quan trọng và Tôn Nhân Phủ để cai quản việc hoàng gia. Sợ quyền thần
lấn át hoàng đế từ thời gia long nhà nguyễn đã đặt lệ “tứ bất”: không đặt tể tướng,
không lấy trạng nguyên, không lập hoàng hậu và không phong tước vương.
 Về tổ chức hành chính
Sau khi thành lập triều Nguyễn, Gia Long đã chọn Phú Xuân, đặt dinh Quảng
Đức tách từ trấn Thuận Hóa làm kinh đô. Trên cơ sở các đơn vị hành chính đã có,
Gia Long sắp đặt lấy Phú Xuân làm trung tâm, đặt miền Trung từ Thanh Hóa đến
Bình Thuận dưới quyền trực tiếp quản lí của triều đình. Phía Bắc từ Sơn Nam hạ trở
ra bao gồm 11 trấn gọi là Bắc thành, phía Nam từ trấn biên trở vào gồm 5 dinh, trấn
gọi là Gia Định thành. Chính quyền trung ương cai quản cả nước. “Có thể nghĩ rằng

nước quân chủ trung ương tập quyền Nguyễn đã tìm cách giải quyết mâu thuẫn giữa
yêu cầu quản lí toàn bộ đất nước thống nhất và sự bất cập của triều đình trung ương
bằng cách chấp nhận một bước quá độ, tạm thời phân quyền. Nhà vua phải san sẻ
quyền lực cho các võ quan tổng trấn đại thần được quan niệm như một thứ “quân
chính” ở hai đầu Nam, Bắc đất nước. Đây là biện pháp khôn khéo, linh hoạt của Gia
Long trong buổi đầu nhằm thực hiện việc quản lí đất nước, đồng thời đảm bảo sự
tồn tại an toàn của vương triều”
9
. Năm 1831-1832, Minh Mạng đã tiến hành một cuộc
cải cách hành chính địa phương, xóa bỏ các tổng trấn, đổi các dinh trấn thành tỉnh.
Bấy giờ cả nước có 30 tỉnh và một phủ Thừa Thiên. Năm 1831, đổi các trấn phía
8
Theo PGS TS viện sử học Nguyễn Danh Phiệt, Một số vấn đề triều Nguyễn và xã hội Việt Nam
thế kỉ XIX, trang 14.
9
Theo PGS-PTS Viện sử học Nguyễn Danh Phiệt - Một số vấn đề triều Nguyễn và xã hội Việt
Nam thế kỉ XIX, trang 14.
Trang 17
GVHD: TS - Nguyễn Thị Thanh Thanh SVTH: Đỗ Thị Hạt
Bắc thành 18 tỉnh. Năm 1832, đổi các dinh, trấn phía Nam thành 12 tỉnh. Đứng đầu
tỉnh là các chức Tổng đốc (phụ trách 2-3 tỉnh) và tuần phủ phụ trách một tỉnh, dưới
quyền Tổng đốc). Giúp việc có hai ti là bố chính sứ ti và án sát sứ ti. Dưới tỉnh là
phủ, huyện, châu và tổng, xã. Chính quyền tổng xã được tổ chức chặt chẽ nhằm
đảm bảo quyền lực nhà nước và giải quyết các khó khăn một cách kịp thời. Đối với
vùng thượng du chủ yếu là 6 ngoại trấn của bắc thành, Minh Mạng chủ trương nhất
thể hóa về mặt hành chính miền xuôi.
“Với việc sắp đặt, cải tổ này nhà nước quân chủ trung ương tập quyền Nguyễn đạt
tới mức hoàn chỉnh với một thể chế đầy đủ, chặt chẽ nhất – một nhà nước mạnh so
với các nhà nước quân chủ trước đó”
10

.
Thực tế xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XIX là một xã hội nông nghiệp chưa có điều
kiện kinh tế xã hội để xa rời đạo Khổng nhằm tìm đến một học thuyết khác mới hơn.
Ban đầu, quan lại được tuyển chọn từ những người trước đây theo Nguyễn Ánh
như còn sử dụng một số quan lại cao cấp là những người ngoại quốc như Senho
(Chaigneau), vanie (Vanier), Baridi (Barisy). “Đây không phải là chính sách cởi mở
trong việc dùng người mà chỉ là sự đền đáp công lao cho những người Pháp đã theo
Nguyễn Ánh trong thời kì chiến tranh Tây Sơn. Trong khi đó đối với nhà Tây Sơn, họ
Nguyễn đã thực thi chính sách trả thù khốc liệt”
11
. Những sự kiện đó chỉ làm cho đất
nước thêm rối ren.
 Về quân sự
Nhà Nguyễn chủ trương xây dựng một quân đội thường trực mạnh. Vào cuối thời
Gia Long cả nước có tới trên 20 vạn quân, chia ra ít nhất là 4 binh chủng (bộ binh,
thủy binh, pháo binh và tượng binh). Binh lính phục vụ trong quân đội được hưởng
các chế độ ưu đãi. Nét mới trong nghệ thuật quân sự thời Nguyễn là bắt đầu có ảnh
hưởng của tư tưởng quân sự phương Tây. Quân đội tuy đông nhưng kém về luyện
tập, vũ khí thiếu và lạc hậu. Vì tầm mắt hạn hẹp, đến thời Tự Đức, các vua Nguyễn
còn bỏ nhiều tiền sang châu Âu mua súng mà không hề biết rằng những thứ vũ khí
mua được đều sản xuất trước năm 1848, thời gian trước khi châu Âu làm cuộc cách
mạng về vũ khí.
10
Theo PGS TS viện sử học Nguyễn Danh Phiệt, Một số vấn đề triều Nguyễn và xã hội Việt Nam
thế kỉ XIX, trang 15
11
Nguyễn Quang Ngọc (cb), Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, 2007, trang 191
Trang 18
GVHD: TS - Nguyễn Thị Thanh Thanh SVTH: Đỗ Thị Hạt
 Về luật pháp:

Nhà Nguyễn rất coi trọng luật pháp. Năm 1815, bộ Hoàng triều luật lệ (hay còn
gọi là luật Gia Long) gồm 398 điều chính thức chia thành 7 chương và 30 điều “Tạp
tụng” được ban hành. Đây là bộ luật được soạn thảo với tinh thần đề cao uy quyền
của hoàng đế, triều đình. Mặc dù nói là tham khảo cả luật Hồng Đức và luật nhà
Thanh nhưng sao chép luật nhà Thanh là chính nên những quy định về xử phạt rất
hà khắc, nhất là những tội gây phương hại đến chính quyền như “phản nghịch”,
tuyên truyền “yêu ngôn, yêu thư”. Hình phạt đầy làm nô tỳ được đặt lại. Tuy nhiên, tệ
tham nhũng của quan lại cũng được xem là nội dung quan trọng của luật. Các triều
vua sau, đặc biệt là Minh Mạng , những hạn chế của luật Gia Long được sửa chữa ít
nhiều, tuy vậy nó vẫn là bộ luật chính thống được thực hiện hầu như suốt thời
Nguyễn.
b) Tình hình kinh tế
 Nông nghiệp
Với chủ trương “dĩ nông vi bản” tức là lấy nghề nông làm gốc, nhà Nguyễn hết
sức coi trọng ruống đất và sản xuất nông nghiệp. Mặc dù đã có cố gắng nhiều nhằm
giải quyết vấn đề ruộng đất, nhà Nguyễn vẫn không thể thoát ra khỏi lối mòn của các
triều đại phong kiến trước đó trong chính sách bảo vệ công điền, duy trì chế độ công
điền.
Ở nửa đầu thế kỉ XIX, tình hình ruộng đất- tư liệu sản xuất chính của nông
nghiệp là nền tảng kinh tế chủ yếu của xã hội đặt ra hàng loạt những khó khăn do đó
năm 1803, Gia Long cho tiến hành đo đạc ruộng đất lớn, lập “địa bạ” các xã. Năm
1804, Gia Long ban hành phép quân điền, theo đó tất cả mọi người đều được chia
ruộng đất công ở xã trừ các quý tộc vương tôn được cấp 18 phần, quan lại nhất
phẩm được cấp 15 phần, cứ tuần tự hạ mức cho đến dân nghèo được 3 phần.
Không những thế, theo lệ, ruộng đất được chia trước cho các quan chức có phẩm
hàm, sau đến lính mới đến xã dân. Vào cuối đời Minh Mạng, chế độ quân điền cũng
được đưa vào Nam kì nhưng không được bao nhiêu.
Chính sách quân điền không có tác dụng đáng kể vì làng nào làm theo tục lệ
làng ấy, dân nghèo vẫn không có ruộng đất. Nhà Nguyễn tỏ ra bất lực trong việc giải
Trang 19

GVHD: TS - Nguyễn Thị Thanh Thanh SVTH: Đỗ Thị Hạt
quyết vấn đề ruộng đất. Một trong những phương thức quen thuộc nhằm mở rộng
ruộng đất của nhà Nguyễn là lập đồn điền khẩn hoang và khuyến khích nhân dân
khai hoang, phục hóa. Vấn đề càng trở nên cấp bách hơn là diện tích ruộng đất bỏ
hoang tăng thất thường. Ngay từ những năm 1802, 1803, Gia Long đã nhiều lần hạ
lệnh cho quan lại khuyến khích nhân dân, quân sĩ phục hóa, thế nhưng theo báo cáo
của quan lại Bắc Thành, ngay từ khi mới thiết lập được chính quyền, nhà Nguyễn đã
phải đối phó với tình trạng dân bỏ làng đi lưu tán, nhất là ở miền Bắc. “Năm 1806, số
làng bị đi phiêu tán ở Bắc Hà lên tới con số 370. Gia Long đã ban hành những chính
sách khuyến khích nông dân trở về làng cũ làm ăn, nhưng tình trạng dân bỏ làng
vẫn không được giải quyết. Năm 1862, riêng trong 13 huyện thuộc trấn Hải Dương
đã có 108 làng bị siêu tán. Chính sách ruộng đất của nhà Nguyễn không xuất phát từ
yêu cầu phát triển của sản xuất nông nghiệp mà chủ yếu nhằm làm bệ đỡ kinh tế
cho một Nhà nước tập quyền chuyên chế lấy nông nghiệp làm nền tảng.
Trong các biện pháp trọng nông, có hiệu quả nhất là chính sách Doanh điền.
“Năm 1828, theo đề xuất của Tham tán quân vụ Bắc Thành là Nguyễn Công Trứ một
hình thức khai hoang mới được ra đời: hình thức doanh điền. Đây là một hình thức
kết hợp giữa nhà nước và nhân dân trong khai hoang, theo đó dưới sự chỉ đạo của
một quan chức nhà nước và có sự góp vốn ban đầu của nhà nước, nhân dân cùng
nhau khai hoang. Ruộng đất sau khi khai hoang sẽ được phân phối cho những
người có công tùy theo thời điểm cho phép. Được sự đồng ý của Minh Mạng, Doanh
điền sứ Nguyễn Công Trứ đã tổ chức nhiều cuộc khai hoang lập làng lớn, trong đó
lớn nhất là việc thành lập hai huyện mới: Tiền Hải (Thái Bình) với 18 970 mẫu và
2350 đinh; Kim Sơn (Ninh Bình) với 14 620 mẫu và 1 260 đinh. Đồng thời ở đây xuất
hiện hai hình thức tư điền thế nghiệp và tư điền quân ấp. Hình thức doanh điền
được mở rộng ra các tỉnh phía Nam, diện tích ruộng đất tăng lên đáng kể.”
12
Ngoài
ra, triều Nguyễn còn khuyến khích nhân dân tự động tổ chức khai hoang theo nhiều
phương thức khác nhau, kết hợp với việc tích cực phục hóa. Có lẽ nhờ đó mà tổng

diện tích ruộng đất thực trưng ngày càng tăng lên: Năm 1847 đã là 4 273 013 mẫu
13
.Trước tình hình đó theo đề xuất của Nguyễn Công Trứ, Minh Mạng đã cho tổ chức
khai hoang dưới dạng doanh điền. Những người lưu tán và không có ruộng đất cày
12
Trương Hữu Quýnh (cb), Đại cương lịch sử Việt Nam tập 1, NXB Giáo dục, 2007, trang 448
13
theo con số chính thống ghi trong Đại Nam thực lục, Tập XXVI.
Trang 20
GVHD: TS - Nguyễn Thị Thanh Thanh SVTH: Đỗ Thị Hạt
cấy tập hợp lại dưới sự chỉ đạo của một quan chức Nhà nước và được nhà nước
cấp vốn ban đầu tiến hành khai hoang lập làng trên những vùng đất bồi ở ven biển.
Chỉ tính riêng vùng hạ lưu sông Hồng, với vai trò tổ chức của Doanh điền sứ Nguyễn
Công Trứ, 33 590 mẫu ruộng đã được khai khẩn, lập ra hai huyện mới Tiền Hải
(Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình). Nhờ thực thi chính sách này mà trong thời gian
27 năm trị vì của Minh Mạng (1820-1840) và Thiệu Trị (1841-1847), diện tích đất
canh tác đã tăng thêm 1174961 mẫu. Sau này, chính sách doanh điền được áp dụng
với chính sách đồn điền ở Gia Định. Số ruộng đất khai khẩn được không nhỏ,
nhưng “chính sách doanh điền khai hoang không thể giải quyết được những mâu
thuẫn đang đặt ra cho nông nghiệp Việt Nam thời bấy giờ”
14
. Nhìn chung, tình hình
sản xuất nông nghiệp dưới thời Nguyễn cũng có bước tiến triển do chính sách trọng
nông với nhiều biện pháp tích cực và thúc đẩy kinh tế phục hồi phát triển: khuyến
khích khai hoang, bỏ tiền ra đào kênh (nổi tiếng nhất là kênh Thoại Hà và kênh Vĩnh
Tế), miễn thuế cho dân khi mất mùa…Công tác trị thủy và thủy lợi là những việc làm
xuyên suốt thời Nguyễn, nhưng nhìn chung không có kết quả khả quan.
 Công thương nghiệp
Bên cạnh việc thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, hoạt động công
thương nghiệp cũng được chú ý, dù quan điểm “ trọng nông ức thương” vẫn còn

nặng nề.
Thủ công nghiệp: Cũng như các triều đại trước, bộ phận thủ công nghiệp thời
Nguyễn giữ một vị trí rất quan trọng được tiếp tục phát triển. đặc biệt là các nghề
gốm, sứ, kéo sợi, dệt vải lụa, nấu đường, khai mỏ. Có hai bộ phận thủ công nghiệp
là tư nhân và nhà nước – quan xưởng đều nằm trong vòng cương tỏa của biển tiểu
phong kiến.
Nhà nước rất quan tâm đến thủ công nghiệp. Minh chứng là việc Minh Mạng
tha thuế thân cho thợ mộc, thợ cửa thợ đóng thuyền ở Bắc Thành và Nghệ An;
thưởng cho các thợ khéo và cấp vốn cho một số ngành (ngành nấu đường ở Quảng
Ngãi, Quảng Nam …) Ở kinh đô nhà Nguyễn lập xưởng chế tạo lớn( tượng cục) ,
trưng tập các thợ giỏi trong cả nước,sản phẩm làm ra đạt chất lượg cao.
14
Nguyễn Quang Ngọc cb, tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, 2007, trang 194
Trang 21
GVHD: TS - Nguyễn Thị Thanh Thanh SVTH: Đỗ Thị Hạt
Nhìn chung, thủ công nghiệp nửa đầu thế kỷ XIX có sự phát triển mạnh song do
chính sách của nhà nước đã hạn chế sự phát triển này, những chính sách luật lệ
phong kiến làm cho những yếu tố kinh tế mới phát tiển khó khăn, chậm chạp.
 Thương nghiệp
Từ cuối thế kỷ XVIII, thương nghiệp suy dần nhưng sang thế kỷ XIX đất nước
thống nhất, yên bình là điệu kiện thuận lợi cho việc buôn bán trao đổi.
 Nội thương
Nhà Nguyễn đã thống nhất đơn vị đo lường tiền tệ, là cơ sở để hoạt động nội
thương phát triển. Việc sửa chữa hệ thống giao thông thủy bộ, khai đào hệ thống
sông ngòi, đắp đường…không chỉ phục vụ đắc lực cho nhu cầu hành chính và quân
sự mà còn thúc đẩy giao lưu kinh tế giữa các vùng, miền. Nhiều thị trấn, đô thị, phố
chợ xất hiện buôn bán sầm uất. Biểu hiện của sự phát triển này là sự giao lưu hàng
hóa trên một đất nước thống nhất, sự mở rộng và phát triển của thị trường địa
phương, sự ổn định tương đối của giá cả, tiền tệ. Tuy nhiên, chính sách độc quyền
một số mặt hàng, thể lệ thuế khóa phức tạp đã ảnh hướng không ít đến hoạt động

nội thương. “Ví như thóc gạo từ Nam Định chở vào Nghệ An phải chịu 9 lần thuế
khóa khác nhau….Ngoài ra, mỗi năm thuyền bè của tư nhân phải chở hàng cho nhà
nước 6 tháng cũng gây khó khăn rất nhiều cho các hoạt động nội thương.”
 Ngoại thương
Việc trao đổi buôn bán với thương nhân nước ngoài suy giảm. “Nhà nước chủ
trương “đóng cửa”, không buôn bán với các nước phương Tây. Tàu thuyền Anh, Mĩ
mấy lần đến xin thông thương đều khước từ. Từ thời Minh Mạng, việc buôn bán với
Pháp cũng chấm dứt. Khách thương chủ yếu là người Hoa, Xiêm, Mã Lai”. Tuy nhiên
thực tế các vua Gia Long, Minh Mạng không phải là những ông vua hoàn toàn cổ hủ,
bảo thủ và cố chấp, kiên quyết với chủ trương “đóng kín cửa”. Trái lại, đây là những
vị vua rất quan tâm đến việc tiếp thu kỹ thuật phương Tây là cũng muốn mở rộng
giao thương để đem lại sự phồn vinh cho đất nước, hơn ai hết Nguyễn Ánh đã tiếp
xúc với phương Tây, đặc biệt là người Pháp, nên rất am hiểu về sức mạnh kinh tế,
khoa học kỹ thuật… của phương Tây. Ông đã cho xây dựng thủ quân, đóng thuyền
chiến với những kỹ thuật khéo léo khiến phương Tây phải kinh ngạc. Nhà sử học
Nhật Bản YoShiharu Tsuboi đã có những nhận định về thái độ ban đầu của Gia
Trang 22
GVHD: TS - Nguyễn Thị Thanh Thanh SVTH: Đỗ Thị Hạt
Long đối với phương Tây như sau : “Nếu đem so với Trung Quốc, Triều Tiên và
Nhật bản cùng thời kỳ, nước Việt Nam của gia Long đã có nhiều kinh nghiệm cộng
tác với Tây dương nhất là người Pháp và đã áp dụng nhiều kỹ thuật của Tây
dương….” Hoặc “ bản thân Gia Long ( khi chưa lên ngôi hoàng đế) đã từng cho lập
ra những côg kinh xưởng và quân cảng làm cho người nước ngoài phải ngưỡng
mộ….”
15
Điều này cho thấy không phải ngay từ đầu Gia Long đã đoạn tuyệt với phương
Tây, cụ thể là Pháp. Trong khi đó hoạt động buôn bán với các nước trong khu vực
rất phát triển nhất là với Trung Hoa, nhà Nguyễn đã tạo điều kiện thuận lợi cho
thương nhân người Hoa buôn bán ở Việt Nam, đối với các nước khác nhà Nguyễn
cũng chủ động cử quan lại theo tàu buôn đi đến các nước ( Jakarta, Singapore,

Philippines… ) để tiếp xúc giao thương.
Đối với việc buôn bán với các nước phương Tây, từ chỗ mở rộng thông thương
đến chỗ chủ trương “bế quan toả cảng” khước từ giao thương dã cho thấy chính
sách đối ngoại của triều Nguyễn, dù đã tiếp xúc với văn minh phương Tây sớm hơn
các nước phương Đông khác nhưng nhà Nguyễn vẫn chọn cho mình con đường
bảo thủ, đóng cửa vì nhận ra những mưu đồ của thực dân đằng sau việc lập các
thương điểm, mở rộng buôn bán. Điều này làm cho nhà Nguyễn cảnh giác và lo sợ
trước những âm mưu bành trướng của chủ nghĩa thực dân.
Đây cũng là lý do rất quan trọng ảnh hưởng đến chính sách cấm đạo của các
vua đầu triều Nguyễn.
Đến nửa đầu thế kỷ XIX, vấn đề canh tân đã trở thành vấn đề sống còn của
dân tộc, tuy nhiên các vua nhà Nguyễn đã không đủ quyết tâm, điều kiện để lựa
chọn giái pháp khó khăn đó dù đã ý thức được. Mặt khác, đây là lựa chọn khó khăn
nhưng lại không có khẳng định, đảm bảo nào cho sự thành công của những kế
hoạch canh tân đó nên nhà Nguyễn quyết định lựa chọn con đường thủ cựu, hoà
hiếu với Pháp. Canh tân đất nước nhà Nguyễn đã không làm trong khi đó lại thực
hiện chính sách “ức thương”, hạn chế thương nghiệp phát triển làm nguy hại đến
tiềm lực quốc gia và tạo cớ cho thực dân Pháp tiến hành can thiệp vũ trang vào
15
Dẫn theo Nguyễn Kim Tường Vy - Nguyên nhân Việt Nam mất nước vào tay thực dân Pháp
1802-1884, luận án Thạc sĩ trường ĐHSP TP.HCM, 2006, trang 33.
Trang 23
GVHD: TS - Nguyễn Thị Thanh Thanh SVTH: Đỗ Thị Hạt
nước ta. Như vậy việc cấm đạo không phải là nguyên nhân duy nhất đễ Pháp lấy cớ
xâm lược mà còn có nhiều nguyên nhân khác, trong đó có chính sách “ ức thương”
của triều đình.
Sự phát triển hạn chế của công thương nghiệp ở nửa đầu thế kỷ XIX đã không
tạo nên được những điều kiện cần thiết cho sự chuyển biến xã hội, đưa đất nước
thoát khỏi nguy cơ xâm lược của tư bản phương Tây mà chỉ tạo thêm cớ cho chúng
can thiệp vũ trang mà thôi.

c) Tình hình văn hóa tư tưởng
Do nhiều lí do chủ quan và khách quan trong sinh hoạt văn hóa, thời Nguyễn có
nhiều thành tựu độc đáo, phát huy truyền thống văn hiến Việt Nam. “Nhưng trong
lĩnh vực tư tưởng, chủ yếu là Tống Nho vẫn được đề cao, thậm chí được coi là hệ tư
tưởng chính thống, vua quan nhà Nguyễn nói chung đều coi nó là hệ quy chiếu duy
nhất, “xưa hơn nay”, “nội Hạ ngoại Di”…Do sự xâm nhập ngày càng mạnh của Thiên
Chúa giáo từ thế kỉ thế XVI, truyền thống “Tam giáo đồng quy” bị đe dọa nghiêm
trọng. Trong thời Nguyễn, đặc biệt khi cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp
đã nổ ra, có 3 vấn đề tư tưởng chi phối từ cung đình xuống dân chúng. Đó là vấn đề:
Chính đạo hay tà đạo (Nho giáo hay thiên Chúa giáo?), Chiến hay hòa (đánh pháp
hay đầu hàng?), Duy tân hay Thủ cựu (ủng hộ cải cách hay không?). Tiếc rằng,
nhiều sĩ phu yêu nước quay lưng lại với xu hướng cải cách và ủng hộ việc “cấm đạo”
của triều đình, được thi hành ngày càng gay gắt từ thời Minh Mạng, một chính sách
tuy có hạt nhân hợp lí và có ý nghĩa bảo vệ an ninh quốc gia, nhưng lợi bất cập hại
trong thực tiễn”
16
.
d) Tình hình xã hội
Trước đây khi một vương triều mới thành lập còn phát huy được tác dụng trong
một thời gian và nhờ đó củng cố được cơ sở xã hội, tạo nên một giai đoạn ổn định,
cường thịnh của vương triều. Thời kì đó đã qua. Chính quyền Tây sơn bị thất bại,
nhưng cuộc chiến tranh nông dân thế kỉ XVIII dẫn đến toàn bộ diễn biến lịch sử
đương thời và cả sau đó. Những cơn bão táp của cách mạng nông dân đã làm cho
nhân dân ta sớm nhận thức được tính chất không khoan nhượng giữa trật tự phong
16
Nguyễn Quang Ngọc (cb), tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, 2007, trang 206.
Trang 24
GVHD: TS - Nguyễn Thị Thanh Thanh SVTH: Đỗ Thị Hạt
kiến với lợi ích cơ bản của dân tộc và giai cấp phong kiến không còn khả năng điều
khiển vận mệnh của đất nước. “Triều Nguyễn ngay từ khi mới thành lập đã tỏ rõ sự

đối lập hoàn toàn với lợi ích của dân tộc và nhân dân. Quyền lợi giai cấp ích kỉ và
những chính sách đối nội cực kì phản động làm cho chính quyền đó không tranh thủ
được một cơ sở xã hội vững mạnh”
17
. Phong trào nông dân nổi lên gần như trong
suốt đời Gia Long (1802-1819). Với truyền thống đấu tranh kiên cường và kinh
nghiệm phong phú của cuộc sống, nhân dân đã sớm nhận rõ bộ mặt nhà Nguyễn và
có thái độ rõ rệt ngay từ đầu. Gia Long là người sáng lập ra triều Nguyễn, được các
sử thần nhà Nguyễn ca ngợi như một “vĩ nhân”, dưới con mắt của người nông dân
Việt Nam là tên phản nước, hại dân. Chính các cuộc khởi nghĩa nông dân từ thời
Gia Long đến Tự Đức làm thước đo lòng dân đối với triều Nguyễn trong bối cảnh
nước nhà đang bị các nước thực dân phương Tây đe dọa xâm lược. Vương triều
Nguyễn tồn tại chỉ hơn một nửa thế kỉ nhưng đã chứng kiến hơn 400 cuộc khởi
nghĩa (đời Gia Long là 33 cuộc; đời Minh Mạng 234 cuộc; đời Thiệu Trị 58 cuộc; đời
Tự Đức tính đến 1862 là 40 cuộc). Hàng loạt các cuộc nổi dậy chống triều đình nổ ra
khắp nơi làm xáo trộn xã hội như tiêu biểu khởi nghĩa Phan Bá Vành, khởi nghĩa
Nông Văn Vân, Cao Bá Quát lãnh đạo.
Vì sao có quá nhiều cuộc nổi dậy vũ trang chống lại triều đình như vậy? Chính sử
sách nhà Nguyễn đã ghi nhận phần nào tình trạng cơ hàn thống khổ của nhân dân.
Do sưu cao thuế nặng, ruộng đất bị địa chủ quan lại kiêm tính nặng nề, đa số nông
dân vào cảnh bần cùng không lối thoát, phải liên tục nổi dậy để tìm đường sống.
Lịch sử cũng ghi nhận không chỉ nông dân mà một số nho sĩ trí thức, thậm chí cả
người trong hoàng tộc cũng nổi dậy chống triều đình (như loạn Hồng Tập, Hồng
Bảo, giặc Chày Vôi, giặc Châu Chấu…).
e) Ngoại giao
Nhà Nguyễn chủ trương thần phục nhà Thanh. Trong khi đó, các vua Nguyễn lại
sử dụng lực lượng quân sự bắt Cao Miên thần phục. Năm 1813, nhà Nguyễn thiết
lập chế độ bảo hộ ở Cao Miên. Năm 1835, Minh Mạng lập ra trấn Tây thành , định
sáp nhập đất Cao Miên vào hẳn lãnh thổ Việt Nam. Nhưng sau khi Minh Mạng qua
17

Một số vấn đề về triều Nguyễn và xã hội Việt Nam thế kỉ XIX, trang 382
Trang 25

×