Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Bài tiểu luận cuối kỳ môn nhập môn quan hệ công chúng kế hoạch học tập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.1 MB, 28 trang )

lOMoARcPSD|9242611

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HIẾN
-----□□🕮□□-----

HỌC PHẦN: Văn Hiến Việt Nam
BÀI THU HOẠCH
BẢO TÀNG LỊCH SỬ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

MGVHD: GS.TS. Nguyễn Thành Đạo
Nhóm: 9
Họ và tên SV: Võ Văn Chí Thơng
Ngành: Du lịch
MSSV: 231A070194

Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2023

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

Chương 1 :Lịch Sử Hình Thành Của Bảo Tàng
- Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh tọa lạc tại số 2 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm,
phường Bến Nghé, Quận 1, trong khn viên Thảo Cầm Viên Sài Gịn. Đây là nơi bảo tồn và
trưng bày hàng chục ngàn hiện vật quý được sưu tầm trong và ngoài nước Việt Nam.
- Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh trước đây là Bảo tàng Blanchard de la Brosse
(tên của viên thống đốc Nam Kỳ) thành lập năm 1929 là bảo tàng đầu tiên phía Nam Việt
Nam.


- Từ năm 1956, Bảo tàng mang tên “Viện Bảo tàng Quốc gia Việt Nam” tại Sài Gòn, nơi
trưng bày về mỹ thuật cổ một số nước Châu Á.
- Cho đến ngày 23/8/1979, bảo tàng chính thức đổi tên là Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ
Chí Minh.
- Hiện nay, Bảo tàng sở hữu hơn 40.000 hiện vật với nhiều sưu tập độc đáo, quý giá có nguồn
gốc từ nhiều quốc gia, dân tộc; chất liệu, loại hình vơ cùng đa dạng, phong phú. Các bộ sưu
tập giới thiệu về lịch sử, văn hóa Việt Nam từ thời nguyên thủy đến năm 1945 và giới thiệu về
những nét văn hóa độc đáo ở các tỉnh phía Nam và một số nước trong khu vực châu Á.
- Tòa nhà Bảo tàng được một kiến trúc sư người Pháp xây dựng vào năm 1929 theo phong
cách “Đông Dương cách tân”.
- Giám đốc Bảo tàng lịch sử Việt Nam đã từng nói rằng: “Chỉ cần 365 bước chân dạo quanh
Bảo tàng Lịch sử thì du khách đã có thể đi suốt chiều dài hàng ngàn năm lịch sử cũng như văn
hóa Việt Nam, tìm hiểu về nét đặc trưng văn hóa vùng đất phương Nam thơng qua hệ thống
các phòng trưng bày cố định, chuyên đề đặc biệt. Bộ sưu tập chọn lọc từ trên 43.000 tư liệu,
hiện vật của Bảo tàng, trong đó có 11 bảo vật quốc gia được giới thiệu tại các phòng trưng
bày đều là những món quà tri thức lịch sử- văn hóa vơ giá”.

Cịn đây là sơ đồ been trong Bảo Tàng Lịch Sử Thành Phố Hồ Chí Minh

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

Chương 2: Tiến Trình Lịch Sử Văn Hóa Việt Nam
2.1. Thời kì ngun thủy:
- Thời kì ngun thủy hay cịn gọi là thời kì đồ đá, là thời kỳ đầu tiên trong các giai
đoạn lịch sử Việt Nam. Đất nước Việt Nam như ngày nay được hình thành từ rất lâu
trước khi con người xuất hiện, tuổi địa chất từ thời tiền Cambri cho đến Mesozoi
(Trung sinh) muộn khoảng 570 - 65 triệu năm về trước. Những biến đổi khí hậu và

môi trường trong những thời kỳ dài, đặc biệt ở kỷ thứ 3 và đầu kỷ thứ 4 (Kỷ Nhân
sinh) cách ngày nay 1,6 - 0,7 triệu năm, đã là điều kiện thuận lợi cho con người có
thể sinh sống được.Thời kì này ở Việt Nam bắt đầu từ 500.000 năm đến 2879 năm
TCN. Thời kì này các nhà nghieen cứu chia làm hai giai đoạn là thời đồ đá cũ và thời
đồ đá mới.

2.1.1 Thời đại đá cũ:
- Các dấu vết của người nguyên thuỷ - người vượn sớm nhất ở Việt Nam, lần đầu

tiên được phát hiện vào năm 1960 tại núi Ðọ, Thanh Hoá. Do đặc trưng điển hình
của hệ thống di tích này, các nhà khảo cổ học cho rằng đã tồn tại một nền văn hố
sơ kì thời đại đồ đá cũ: Văn hố núi Ðọ. Văn hoá núi Ðọ bao gồm một hệ thống các
di tích sơ kì thời đại đồ đá cũ đưthợc phát hiện ở Thanh Hố: Núi Ðọ, núi Nng,
Quan Yên I, núi Nổ. Văn hoá núi đọ

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

- Thời đại đồ đá cũ được đặc trưng bằng việc sử dụng các công cụ bằng đá
được ghè đẽo, mặc dù người nguyên thủy vào thời gian đó cũng sử dụng
các công cụ bằng gỗ và xương.
- Các sản phẩm nguồn gốc hữu cơ cũng được sử dụng làm công cụ, bao
gồm da và các sợi thực vật; tuy nhiên các loại công cụ này đã không được
bảo quản ở mức độ đáng kể.
- Các thời kỳ này đánh dấu các tiến bộ trong cơng nghệ và văn hóa ở các
xã hội loài người nguyên thủy.
- Lúc này con người chưa có tư duy trong việc chế tác coong cụ đá hoàn
chỉnh.


2.1.2. Thời đại đá mới:
- Thời

đại đá mới (Neolithic) có đặc trưng bởi
sự chấp nhận nơng nghiệp (cũng được gọi là
Cuộc cách mạng thời đại đá mới), sự phát
triển của đồ gốm và nhiều nơi định cư phức tạp hơn

như Çatal Hük và Jericho.
- Những văn hóa thời đại đá mới đầu tiên bắt đầu vào khoảng năm 8.000
TCN ở Lưỡi liềm Màu mỡ.
- Nông nghiệp và văn hóa dẫn tới đã mở rộng tới Địa Trung Hải, lưu vực
sông Ấn, Trung Quốc, và Đông Nam Á.

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

- - Những cơng trình to lớn lần đầu tiên được xây dựng, gồm cả các tháp để
ở và những bức tường (ví dụ ở Jericho) và các địa điểm nghi lễ (ví dụ như
bức tường đá Stonehenge). Những điều này cho thấy đã có những nguồn
lực và sự cộng tác đầy đủ cho phép các nhóm người cùng thực hiện các dự
án đó. Sự mở rộng thêm về sự phát triển của tầng lớp trên và hệ thống cấp
bậc vẫn còn đang được bàn cãi.
- Bằng chứng sớm nhất về thương mại đã xuất hiện ở thời kỳ đồ đá mới với
việc những người mới định cư nhập khẩu những hàng hóa từ bên ngồi với
khoảng cách hàng trăm dặm.


2.2. Thời kì dựng nước giữ nước:
- Nơi khởi nguồn của những nền văn hóa đặc sắc…Thời kỳ hình thành nền

tảng của văn hóa Việt Nam.
- Sau khi kết thúc đợt biển tiến Holocene, cư dân cổ nước ta bước vào thời
kỳ mở rộng địa bàn sinh sống để phát triển kinh tế, văn hóa. Cùng với q
trình này là sự lao động và sáng tạo, từ những công cụ bằng đá thô sơ tiến
đến sự phát minh ra kỹ thuật luyện kim và nghề nông trồng lúa nước dùng
cày với sức kéo của trâu, bò; đời sống vật chất và tinh thần ngày càng
được nâng cao.
- Trên cơ sở đó kéo theo hàng loạt các chuyển biến về kinh tế, xã hội dẫn
đến việc hình thành các nền văn minh và nhà nước sơ khai.
- Khoảng cuối thời đại đồng thau – cuối thời đại đồ sắt (thế kỷ VIII TCN –
thế kỷ II), trên lãnh thổ nước ta đã lần lượt xuất hiện ba nền văn hoá với
các nhà nước sớm đó là: Quốc gia Văn Lang – Âu Lạc trên cơ sở Văn hố
Đơng Sơn ở miền Bắc, nước Lâm Ấp tiền thân của Vương quốc Champa
trên cơ sở nền Văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung và Vương quốc Phù Nam
trên cơ sở nền Văn hóa Đồng Nai – Óc Eo ở miền Nam. Sự ra đời của các

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

quốc gia này đã mở ra một thời đại mới – thời đại dựng nước và giữ nước
đầu tiên của dân tộc.
- Đồng thời, ba khu vực văn hóa này cũng có quan hệ mật thiết, lâu dài với
nhau tạo nên đặc trưng truyền thống văn hóa Việt Nam: thống nhất trong
đa dạng. Đây cũng là thời kì xây dựng nền văn minh nơng nghiệp, xây
dựng lối sống và tính cách truyền thống của một nước Việt Nam thống

nhất sau này.
- Từ sau thất bại của An Dương Vương trong cuộc khởi nghĩa chống Triệu
Đà (179 TCN), đất nước ta bị các triều đại phong kiến phương Bắc kế tiếp
nhau xâm lược và đô hộ. Suốt hơn một ngàn năm Bắc thuộc là một chặng
đường lịch sử đầy biến cố, đánh dấu sự kiên cường của dân tộc ta trước
các cuộc xâm lăng về lãnh thổ và cũng là giai đoạn chứng tỏ sức sống
mãnh liệt của nền văn hóa bản địa trước sự đồng hóa của ngoại bang.
- Hàng loạt những cuộc nổi dậy liên tiếp của nhân dân đã diễn ra trong
suốt thời kỳ Bắc thuộc để chống lại sự áp bức, bóc lột của phong kiến
phương Bắc giành lại nền độc lập và đấu tranh bảo tồn, tiếp thu có chọn
lọc văn hố du nhập từ bên ngồi để phát triển nền văn hố dân tộc.

2.2.1. Nền văn minh sơng hồng:
- Sơng Hồng – dịng sơng Mẹ chở nặng phù sa qua triệu năm đã bồi đắp nên vùng châu thổ
sông Hồng trù phú. Đây không chỉ là cái nơi hình thành nền văn minh đầu tiên: văn minh
Đơng Sơn, mà cịn là nơi hội tụ, kết tinh và tỏa sáng văn minh Đại Việt – Việt Nam trong suốt
chiều dài lịch sử dân tộc.
- Dòng chảy tạo thành nền văn minh sông Hồng buổi ban đầu chính là dịng văn hóa sinh ra
và trưởng thành trên vùng đất màu mỡ của châu thổ sông Hồng, trực tiếp là văn hóa Đơng
Sơn, trên cơ sở cuộc cách mạng luyện kim với công nghệ đúc đồng đạt tới đỉnh cao thời đại,
cùng với sự ra đời hình thái nhà nước sơ khai Văn Lang – Âu Lạc.
- Văn minh sơng Hồng là nền văn minh bản địa, có một sức sống mạnh mẽ, phát triển ổn định
từ Đông Sơn tới Đại Việt, Việt Nam. Đồng thời, nó ln được đổi mới, tiếp thêm sức mạnh
tạo ra những hằng số tạo thành bản sắc văn hóa Việt Nam, làm giá đỡ và bệ phóng cho sự cất
cánh của dân tộc, khẳng định vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
- Chào mừng năm du lịch quốc gia đồng bằng sơng Hồng – Hải Phịng 2013, nhằm giúp du
khách có thêm hiểu biết khái quát về các thành tựu của nền văn minh sông Hồng trong hai
giai đoạn phát triển: Văn hóa Đơng Sơn và quốc gia Đại Việt, Bảo tàng Hải Phòng phối hợp
với Bảo tàng Lịch sử quốc gia, Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long – Hà Nội, Hội Cổ vật
Hải Phòng tổ chức trưng bày chuyên đề “Văn minh sông Hồng – Kết tinh và tỏa sáng”. Trưng

bày sẽ được khai mạc vào ngày 9/5/2013 tại Bảo tàng Hải Phịng, số 11 Đinh Tiên Hồng,
Quận Hồng Bàng, Thành phố Hải Phòng.

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

2.2.2. Văn hóa Sa Huỳnh:
- Văn hóa Sa Huỳnh là một nền văn hóa khảo cổ được xác định ở vào khoảng năm 1000 TCN

đến cuối thế kỷ thứ 2. Nền văn hóa Sa Huỳnh là một trong ba cái nôi cổ xưa về văn minh trên
lãnh thổ Việt Nam, cùng với Văn hóa Đơng Sơn và Văn hóa Đồng Nai tạo thành tam giác văn
hóa của Việt Nam thời kỳ đồ sắt.
St- Xuất hiện cách nay khoảng 3.000 năm và kết thúc vào thế kỷ thứ 1, văn hóa Sa Huỳnh có
lẽ đã tồn tại hơn 5.000 năm kéo dài từ hậu kỳ thời đại đồ đá mới đến đầu thời đại đồ sắt trên
địa bàn các tỉnh từ Quảng Bình đến các tỉnh Nam Trung bộ và Tây Nguyên.
- Dân cư cổ thuộc văn hóa Sa Huỳnh đã định cư chủ yếu dọc hai bên vùng đất thấp thuộc các
con sông dọc bờ biển miền Trung Việt Nam, trải dài từ Quảng Bình cho đến Phú Yên.

2.2.3. Văn hóa Đồng Nai:
- Văn hóa Đồng Nai chỉ các di tích khảo cổ ở Việt Nam phân bố trên vùng trung du và đồng
bằng miền Đông Nam Bộ, ven các sơng Đồng Nai, sơng Sài Gịn và sơng Vàm Cỏ, thể hiện
một q trình diễn biến văn hố từ sơ kì thời đại đồ đồng đến sơ kì thời đại sắt.

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611


- Có người gọi là Văn hóa Đồng Nai, cũng có ý kiến gọi là văn hố Phước Tân, văn hố Bến
Đị hay văn hố Cù Lao Rùa.
- Cho đến nay, đã phát hiện được hàng trăm di tích ở hầu khắp các tỉnh miền Đông Nam Bộ
- Thập niên 60 và 70 của thế kỷ XX, nghiên cứu khảo cổ học ở Đồng Nai bắt đầu mang tính
chất hệ thống và khoa học với công lao to lớn của những thành viên Hội địa Chất Đơng
Dương. Trong đó tiêu biểu là E. Saurin, H. Fontain và L. Malleret. Trong giai đoạn này, bắt
đầu có sự tham gia của các nhà nghiên cứu nước ta: Nghiêm Thẩm, Hoàng Thị Thân....
- Những phát hiện quan trọng trong giai đoạn này là các di tích đá cũ và cụm di tích đồng sắt
ở Hàng Gòn, Dầu Giây, Phước Tân, Bến Đò, Hội Sơn, Phú Hồ...Từ đây, bắt đầu hình thành
sơ khởi khái niệm về một vùng văn hoá đã phát triển qua các thời đại đồ đá cũ, đá mới, đồng
và sắt sớm ở Đồng Nai.
- Vào những năm 80 - 90 của thế kỷ XIX. Đây là giai đoạn với những phát hiện lẻ tẻ và chú ý
sưu tập hiện vật tiền sử cho các viện Bảo tàng ở Đông Dương và Pháp. Những địa danh mà
vùng đất Đồng Nai mà chủ yếu là dọc hai bờ sông Đồng Nai cùng các chi lưu của nó như (Lị
Gạch, Bình Đa, Bến Gỗ, Cái Vạn, An Sơn, Rạch Núi...) được nhắc đến trên bản đồ khảo cổ
học của thế giới. Đặc biệt sưu tập di vật thời tiền sử do V. Holbé gồm 1.200 di vật đá, 10 rìu
đồng được tìm thấy trên 20 địa điểm ở vùng Biên Hoà.

2.3. Thời kỳ nghìn năm Bắc Thuộc:
- Bắc thuộc chỉ thời kỳ Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đại Trung Quốc, nghĩa
là thuộc địa của Trung Quốc:
Giai đoạn Bắc thuộc từ khi Nhà Hántiêu diệt nước Nam Việt năm 111 TCN đến khi thành lập
nhà Ngô bằng việc Ngô Quyền xưng vương năm 939, cũng như giai đoạn nội thuộc nhà Minh
từ khi nhà Hồ mất năm 1407 đến khi nhà Minh công nhận "An Nam" độc lập năm 1427.
- Trong thời gian này Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đình của phương Bắc
như:
1. Bắc thuộc lần thứ nhất (111 TCN - 40):nhà Hán
a. nhà Hán lập quốc vào năm 202 TCN, đến 111 TCN chiếm Lĩnh Nam (bấy giờ
là nước Nam Việt dưới thời nhà Triệu)


Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

2. Bắc thuộc lần thứ hai (43 - 541): nhà Đông Hán, Đông Ngô, Tào Ngụy, nhà Tấn, nhà
Tề, nhà Lương
3. Bắc thuộc lần thứ ba (602 - 939): nhà Tùy, nhà Đường, Nam Hán. Có giai đoạn Việt
Nam tự trị từ 905-939
4. Bắc thuộc lần thứ tư (1407-1427): nhà Minh tái chiếm lại Việt Nam.
- Trong suốt các thời kỳ Bắc thuộc, các triều đại Trung Quốc không ngừng thực hiện
đồng hóa người Việt nhằm biến Việt Nam thành một quận huyện của Trung Quốc.
Dưới thời kỳ này người Việt phải đóng sưu thuế cho triều đình phía bắc. Ngoài số thuế
của nhà nước, một số quan cai trị địa phương vì ở xa nên cũng bịn vét thêm của dân.
- Cũng có một số quan cai trị nghiêm minh, đúng đắn, nhưng số này ít hơn. Nền văn
minh Trung Quốc cũng du nhập vào Việt Nam thời kỳ này. Sĩ Nhiếp, thái thú nhà Hán
(187-226) được các nhà nho thời phong kiến coi là có cơng truyền bá chữ nho và đạo
Khổng vào Việt Nam một cách có hệ thống, được coi là người mở đầu nền nho học
của giới quan lại phong kiến ở Việt Nam. Nhiều người Trung Quốc đã di cư đến Việt
Nam, họ ở lại, dần dần kết hơn với người Việt và hịa nhập vào xã hội Việt Nam, và
con cháu trở thành người Việt Nam.
- Và đây là hình ành các cuộc khỡi nghĩa trong thời Bắc Thuộc:

2.4. Xác ướp Xóm Cải:
- Xác ướp Xóm Cải là một xác ướp cổ của Việt Nam, có niên đại hơn hai trăm năm từ triều
Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Xác ướp được phát hiện
trong một ngôi mộ hợp chất nằm ở địa điểm hiện nay là Xóm Cải, phường 8, quận 5, Thành
phố Hồ Chí Minh.[1][2]

Downloaded by tran quang ()



lOMoARcPSD|9242611

- Xác ướp Xóm Cải được xác định là bà Nguyễn Thị Hiệu, một nữ quý tộc Việt Nam dưới
triều đại nhà Nguyễn. Bà là hồng thân quốc thích với vua Gia Long. Bà mất khi khoảng 60
tuổi và được mai táng trong ngôi mộ hợp chất cầu kỳ.
- Xác ướp đã được khai quật năm 1994 và hiện nay đang được lưu giữ và bảo quản tại Bảo
tàng lịch sử Việt Nam.[2] Khi mới phát hiện, ngôi mộ cổ nằm xen trong khu 15 ngơi mộ bình
thường khác. Khn viên bề thế rộng hàng trăm mét vuông với kết cấu vững chắc như một
ngơi đình. Khu mộ được xây dựng như một nhà mồ có cổng ra vào bằng trụ đá và tường rào
bao quanh. Kích thước chiều dài vòng thành mộ tới 10 m, ngang 6 m, cao 1,2 m, dày 0,8 m.
Cổng tam quan có hình mặt trịn, trang trí búp sen trên đầu cột, cao 1,4 m được xây dựng có
mái vịm cong lót giả ngói ống trang trí hình rồng.
- Qch gị mộ vững chắc đến mức, muốn khảo nghiệm được quách, các nhà khảo cổ phải
thuê 15 thanh niên lực lưỡng dùng đục sắt đục ròng rã trong 40 ngày, hàng trăm chiếc đục cùn
vẹt mới chạm được đến phần đáy quách ở độ sâu gần 8 m cho thấy khi xây mộ, người xưa đã
dùng kỹ thuật nung vỏ sị biển thay vơi, dùng mật ong để thay mật đường mía và thêm than gỗ
tốt trong hợp chất vôi, cát, mật xây quách.
- Tiếp tục khai quật san gị mộ bằng bình địa, các nhà khảo cổ học phát hiện phía bên dưới
gồm hai huyệt mộ song táng, một huyệt mộ nam, một huyệt mộ nữ. Từ miệng huyệt xuống
đến đáy mộ được bao phủ nhiều lớp hợp chất. Huyệt mộ nam bên trên quách gỗ có một lớp
cát mỏng phủ. Quách và quan tài còn nguyên lớp sơn màu đen, bên trong quan tài cịn lại một
ít xương cốt và những hiện vật, như: 7 chiếc nhẫn vàng có mặt đá, quạt giấy, lược, ống và cây
ngoáy trầu bằng đồng, hộp bạc có dây xích hình cầu dẹt chạm dây lá, nút áo mạ vàng, bút
lông.
- Kiểm tra kỹ lưỡng thi hài, các chuyên gia khảo cổ và giải phẫu trầm trồ trước các khớp
xương trải hàng trăm năm vẫn vận động co duỗi rất linh hoạt, cơ thể bà chỉ bị teo lại chút ít,
các bộ phận vẫn nguyên vẹn chưa có dấu hiệu bị phân hủy. Từ đơi bàn tay, bàn chân nhỏ nhắn
và cơ thể mềm mại của bà, họ nhận định lúc sinh thời bà sống cảnh an nhàn, chứ không phải

lao động vất vả. Lại căn cứ vào những giấy tờ, đồ vật tùy táng của bà và lần ngược lịch sử
triều Nguyễn, nhiều ý kiến đồng tình cho rằng bà có xuất thân hồng thân quốc thích với vị
vua khai triều Gia Long.

2.5. Thời Ngơ - Đinh - Tiền Lê:

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

- Đây là thời kỳ mở đầu của chế độ phong kiến Việt Nam. Hệ thống chính quyền được củng
cố, tuy còn đơn giản nhưng thể hiện rõ một bước tiến trong cơng cuộc xây dựng chính quyền
độc lập tự chủ từ trung ương tới địa phương. Các lĩnh vực quân sự, kinh tế, văn hóa… cũng
được củng cố, ổn định đặt nền móng cho một thời kỳ phát triển lâu dài của các triều đại phong
kiến Việt Nam sau này. Những thành công trong xây dựng đất nước, trong cơng cuộc dẹp thù
trong, thắng giặc ngồi của Ngơ Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn đã phản ánh sự khởi đầu tạo
nền tảng vững chắc cho sự phát triển rực rỡ của nền văn minh Đại Việt.
- Mặc dù trải qua hơn 30 năm độc lập với hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm,
nhưng những tàn dư của chế độ đơ hộ cịn vẫn cịn nhiều, tình hình xã hội cịn phức
tạp. Sự thành lập nhá Ngơ, đứng đầu là Ngô Quyền chưa đủ điều kiện để giữ vững
sự ổn định lâu dài.
- Vì vậy đến năm 944, Ngơ Quyền mất, em vợ là Dương Tam Kha cướp ngôi, dẫn tới
những mâu thuẫn nảy sinh trong dòng họ thống trị này. Tình hình đó đã tạo điều kiện
cho các thổ hào địa phương nổi dậy, đất nước rơi vào cảnh loạn 12 sứ qn.
- Đinh Tồn cịn nhỏ (5-6) tuổi được đưa lên lối ngôi, Thập đạo tướng quân Lê Hồn
được cử làm phụ chính. Các tướng cũ của Đinh Tiên Hồng đưa qn về định giết
chết Lê Hồn, vì nghi ngờ ơng có ý cướp ngơi, nhưng đã bị đánh bạVào năm Canh
Thìn (980), nghe tin Đinh Tiên Hồng mất, Đinh Tồn mới lên ngơi, cịn nhỏ tuổi, nội
tình rối loạn, nhà Tống bên Trung Quốc thừa cơ muốn sang cướp nước ta.

- Thời kỳ này nước ta là một nước thuần nông nghiệp. Những năm dưới thời
họ Khúc, họ Ngô, do tác động của các cuộc chiến tranh hoặc tranh chấp nội
bộ, nhà nước không cỏ điều kiện xây dựng một nên kinh tế độc lập. Thời
Đinh, Tiền lê đã đặt lệ phân cấp đất cho người có công.
- Công cuộc phát triển kinh tế của các triều đại đầu tiên mới là bước đầu,
nhưng đã đạt được một số thành quả nhất định. Chính việc phát triển kinh tế
từ nông nghiệp đến công thương nghiệp khá đều đặn và đa dạng cùng với sự
ổn định xã hội đã tạo điều kiện nâng cao đời sống của nhân dân, củng cố nhà
nước trung ương tập quyền và bảo đảm sức chiến đầu chống ngoại xâm.
- Chiến thắng to lớn trên sông Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền đă chấm
dứt hơn 1000 năm đất nước ta bị các triều đại phong kiến phương Bắc đô hộ.
Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, bãi bỏ chế độ Tiết độ sứ, xây dựng triều
đình mới, lấy Cổ Loa (Đơng Anh - Hà Nội) làm kinh đô, dựng cung điện. Bộ
máy nhà nước quân chủ đầu tiên có chức quan văn, võ, có qui định nghi lễ,
phẩm phục, đặt cơ sở cho các nhà nước quân chủ sau đó.
- Mặc dù tổ chức nhà nước cịn đơn giản, nhưng nó đă thể hiện chính quyền
của một đất nước độc lập tự chủ để xây dựng kinh tế xã hội. Nhà sử học Ngô
Sĩ Liên đă viết Tiền Ngô (vương) nổi lên không chỉ có cơng chiến thắng mà
thơi, việc đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục, có thể thấy được qui
mô của bậc đế vương.

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

2.6. Thời nhà Lý:
-

-


-

-

Việc hình thành nhà Lý gắn liền với sự kiện Lý Công Uẩn thay ngôi Lê Long Đĩnh.
Các bộ sử cổ của Việt Nam như Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định
Việt sử thông giám cương mục thống nhất chép rằng tháng 10 năm 1009, vua nhà Tiền
Lê là Long Đĩnh mất, các con còn nhỏ, quan Điện tiền Chỉ huy sứ là Lý Công Uẩn
được sự ủng hộ của Chi nội là Đào Cam Mộc cùng thiền sư Vạn Hạnh đã lên ngơi
hồng đế; các quan trong triều đều nhất trí suy tôn.
Việc Lý Công Uẩn trưởng thành, thăng tiến trong bộ máy nhà Tiền Lê và lên ngơi vua
có vai trò gây dựng rất lớn của thiền sư Vạn Hạnh. Các nhà nghiên cứu thống nhất ghi
nhận vai trò của sư Vạn Hạnh và Đào Cam Mộc trong việc đưa Lý Cơng Uẩn lên ngơi
nhanh chóng, êm thấm và kịp thời, khiến cục diện chính trị nước Đại Cồ Việt được
duy trì ổn định trong quá trình chuyển giao quyền lực, khơng gây xáo trộn từ trong
cung đình lẫn bên ngồi. Việc lên ngơi nhanh chóng và êm thuận của Lý Công Uẩn
được xem là điều kiện thuận lợi và nền tảng để ông yên tâm bắt tay xây dựng đất nước
thống nhất, mở đầu một vương triều thịnh vượng lâu dài, mở ra thời kỳ phục hưng
toàn diện của đất nước.
Gần 1 năm sau khi lên ngôi vua, tháng 7 âm lịch năm 1010, Lý Thái Tổ tiến hành dời
đơ từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Đại La (Hà Nội). Ơng đã ban hành Chiếu dời đơ vào
mùa xn năm 1010.
Lý Thái Tổ dời đô cũng cần dùng tới đội thuyền. Đoàn thuyền xuất phát từ bến Ghềnh
Tháp (nay là khu vực giữa phủ Vườn Thiên và nhà bia Lý Thái Tổ ở khu di tích Cố đơ
Hoa Lư). Rồi thuyền vào sông Sào Khê, qua cầu Đông, cầu Dền ở Hoa Lư để ra bến
đò Trường Yên vào sơng Hồng Long. Đi tiếp đến Gián Khẩu thì rẽ vào sông Đáy. Từ
sông Đáy lại rẽ vào sông Châu Giang. Đến Phủ Lý đồn thuyền ngược sơng Hồng, rồi
vào sông Tô Lịch trước cửa thành Đại La.
Như vậy hành trình dời đơ đi qua sáu con sơng khác nhau, trong đó các hành trình trên

sơng Sào Khê, sơng Hồng Long, sơng Châu Giang là đi xi dịng, trên sơng Đáy,

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

-

-

sơng Hồng, sơng Tơ Lịch là đi ngược dịng. Sở dĩ nhà Lý đi bằng đường sông chứ
không đi bằng đường biển cũng là bảo đảm an tồn vì thuyền phải tải nặng khơng chịu
nổi sóng dữ ở biển.
Quyết định dời đô ra Thăng Long của Lý Thái Tổ được xem là sự kiện trọng đại, đánh
dấu bước phát triển vượt bậc của vương triều Lý. Trong vòng 8 thế kỷ tiếp theo, hầu
hết các triều đại phong kiến kế tục nhà Lý như nhà Trần, nhà Mạc, nhà Hậu Lê đều
tiếp tục dùng Thăng Long làm kinh đô và có thời gian tồn tại tương đối lâu dài.
Sau đây là Lịch Đại Thời Lý:

2.7. Thời nhà Trần:
- Nhà Trần là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400.

Đây là triều đại được lưu danh với những chiến công hiển hách trong lịch sử Việt
Nam. Triều đại này khởi đầu khi Trần Cảnh lên ngôi vào năm 1226 sau khi được vợ là
Lý Chiêu Hồng truyền ngơi. Những năm đầu tiên, Trần Cảnh cịn nhỏ tuổi, tồn bộ
quyền hành của nhà Trần đều do một tông thất vai chú của Trần Cảnh là Trần Thủ Độ
nắm quyền, chính Trần Thủ Độ đã âm thầm ép Lý Chiêu Hồng nhường ngơi cho
cháu mình.
- Trong giai đoạn nắm giữ quyền lực, nhà Trần vẫn đóng đơ ở Thăng Long – kinh đơ

triều cũ, tiếp tục mở rộng và phát triển sự hưng thịnh có từ đời nhà Lý. Về chính sách
chính trị, các Hồng đế nhà Trần cũng xây dựng bộ máy chính quyền hoàn thiện hơn
so với nhà Lý, họ tạo nên một hệ thống đặc biệt, trong đó các Hồng đế sẽ sớm
nhường ngôi cho Thái tử mà lui về làm Thái thượng hoàng, tuy nhiên vẫn cùng vị
Hoàng đế mới điều hành chính sự. Việc này được đánh giá là tích cực, khi ngơi Hồng
đế sớm có chủ, tránh được việc tranh giành ngơi vua như nhà Lý trước đó.
- Dưới triều nhà Trần, lực lượng quân đội đặc biệt được chú trọng phát triển đủ sức
đánh dẹp các cuộc nội loạn và đương đầu với quân đội các nước xung quanh. Lực
lượng quân đội nhà Trần thiện chiến nhất là thủy binh, rồi kỵ binh, bộ binh, tượng
binh... Chính sách chia thực ấp cho các thân tộc trong họ, mỗi thế lực trong dịng tộc
đều có qn đội tinh nhuệ là nền tảng lớn khiến quân đội nhà Trần đánh bại được cuộc
xâm phạm của quân đội Nhà Nguyên, Đế quốc Mông Cổ qua 3 lần vào năm 1258,
1285 và 1287.
- Đây là mơ hình kiến trúc thời Trần:

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

2.8. Văn hóa Champa:
-

-

-

-

Trong lịch sử ghi lại, người Chăm Pa sử dụng ngơn ngữ malayo-polynesian. Ngồi ra

cịn có 2 tộc người cùng chủng tộc với người ChamPa là Djarai, Rado. Ngoài ra, theo
như truyền thuyết, trong lịch sử vương quốc Chăm Pa các mối xung đột thường được
giải quyết để duy trì sự thống nhất của đất nước thơng qua hôn nhân. Bên cạnh người
Chăm, chủ nhân vương quốc Chăm Pa xưa cũng có cả các tộc người thiểu số gốc và
Mon-Khmer và ở phía Bắc Chăm Pa cũng có cả người Việt.
Người Champa: có gốc người da đen, mắt sâu, tóc quăn, mũi hếch. Y phục: dùng
mảnh vải quấn quanh người từ phải sang trái, mùa đông mặc áo dài. Những người quý
tộc hoặc vua thường đi giày da. Bối tóc, phụ nữ bối thành h́ ình cái bầu; xâu lỗ tai, đeo
hoa tai bằng kim loại.
Từ Đèo Ngang vào đến Phan Thiết, có thể bắt gặp những ngơi tháp Chăm nhiều tầng,
phía trên mở rộng và thon vút như hình bơng hoa. Mặt tường ngồi của tháp được
chạm khắc hình hoa lá, chim mng, vũ nữ cùng với đường nét tinh xảo. Tháp Chăm
là cơng trình kiến trúc tôn giáo của vương quốc Chăm Pa cổ xưa, mang đặc trưng của
kiến trúc Ấn Độ giáo. Cho đến hôm nay, màu gạch vẫn đỏ tươi như mới. Hoa văn
được chạm khắc, gọt đẽo ngay trên gạch, một điều ít thấy có trong kỹ thuật xây dựng
và kiến trúc. Đặc biệt hơn hết là ở giữa các viên gạch khơng có mạch, lấy dao tích vào
cũng khơng lạch được vào mạch xây, tiêu biểu cho những cơng trình này như: Tháp
Po Nagar (Khánh Hồ), Tháp Po Sha Inư (Bình Thuận).
Theo như sử sách, Indravarman là vị vua Chăm đầu tiên theo Phật giáo Đại thừa và
xem đây là tôn giáo chính thức. Ở trung tâm của Indrapura, đã xây dựng một tu viện
Phật giáo (vihara) để thờ bồ tát Lokesvara (Quán Thế Âm). Di tích này đă bị hủy hoại
trong chiến tranh Việt Nam, chỉ còn lại một số hình ảnh và bản vẽ từ trước chiến
tranh.Người Chăm trước đó theo đạo Đức Tin.Thờ thần Shiva,..

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

2.9. Văn hóa Ĩc - Eo:

-

-

-

Văn hóa Ĩc Eo là một nền văn hóa cổ hình thành và phát triển ở Nam Bộ Việt Nam từ
thế kỷ 1 đến thế kỷ 7 sau Công Nguyên. Đây là một nền văn hóa lớn trong lịch sử Việt
Nam, gắn liền với đất nước, con người ở vùng châu thổ hạ lưu sông Mê Kơng và có
quan hệ mật thiết với lịch sử Đơng Nam Á cổ đại.
Văn hóa Ĩc Eo là một văn hóa bản địa gắn liền với sự tồn tại của Phù Nam (扶南,
Funan) – một vương quốc hùng mạnh tại Đông Nam Á trong những thế kỷ 4-6 trước
Công nguyên. Phạm vi phân bố của nền văn hóa này trải rộng khơng chỉ ở Nam Bộ
Việt Nam, mà cịn ảnh hưởng sang Campuchia, Thái Lan, Myanmar và một phần
Malaysia hiện nay. Tại Nam Bộ, nhiều di tích văn hóa Óc Eo đã được khai quật ở các
tỉnh thành như An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Bạc Liêu, Vĩnh Long,
Tiền Giang, Long An, Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai... Khu vực Ĩc
Eo – Ba Thê được xem là trung tâm của nền văn hóa này.
Phật giáo du nhập cùng thời với Hindu giáo và có thời kỳ làm biến chuyển Hindu
giáo. Một số tượng trong thần điện Hindu giáo được chuyển hóa sang tượng trong thần
điện Phật giáo như các tượng thần Vishnu chuyển hóa Di lặc hay Bồ tát 4 tay
(Avalokiteshvara), Di lặc 4 tay (Bodhisattva Maitreya)...

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

2.10. Điêu khắc đá Campuchia:
Trải qua nhiều thăng trầm lịch sử, nghệ thuật điêu khắc đá truyền thống đối mặt với nguy cơ

bị mai một. Để khôi phục và bảo tồn nghệ thuật truyền thống này, từ những năm 1990,
Chính phủ Campuchia đã phát triển mơ hình làng nghề điêu khắc đá như tại huyện Son Tuk,
tỉnh Kampong Thom.
Nằm cách Thủ đô Phnom Penh 160km về hướng Tây Bắc, làng điêu khắc đá Som Nak hiện là
địa danh nổi 琀椀ếng nhất tại Campuchia với với nghề điêu khắc tượng Phật. Khi mới được
thành lập năm 1995, nơi đây, ban đầu chỉ có chưa đến 5 nghệ nhân. Trải qua hơn 20 năm
hình thành và phát triển, làng Som Nak hiện đã có gần 100 nghệ nhân giỏi cùng hơn 300 thợ
thủ cơng lành nghề.
Để làm tốt lên thần thái của một pho tượng Phật, đặc biệt là những pho tượng lớn, nặng
đến hàng chục tấn, những người thợ nơi đây phải làm việc miệt mài hàng tháng trời. Quá
trình tạo, tạc cũng phải cẩn thận từng chút, phải liên tục trau chuốt, điều chỉnh từng đường
nét dù là nhỏ nhất.
Không kể cơng đoạn cắt, xẻ đá, tạo hình ban đầu, trung bình một bức tượng Phật cao
khoảng 3m cần 4 nghệ nhân lao động miệt mài hơn 3 tháng mới có thể hồn thành.
Mỗi bức tượng một dáng vẻ, gửi gắm một ý nghĩa. Tượng Phật đang ngồi nói về q trình
Đức Phật tu hành. Tượng Phật có rắn Bẩy đầu bao quanh nói về thời điểm Phật ngộ đạo.
Phật đang đứng nói về thời gian hành pháp phổ độ chúng sinh. Tượng Phật nằm miêu tả thời
điển Phật tọa hóa, niết bàn.

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

Điều khắc tượng Phật không chỉ đơn thuần là một cơng việc mà cịn thể hiện sự thành kính
của các nghệ nhân tại đất nước Chùa Tháp đối với Đức Phật. Mỗi bức tượng Phật được hoàn
thiện bởi tâm huyết và sự tơn kính của các nghệ nhân.

2.11. Thời Lê sơ - Mạc - Lê Trung Hưng ( 1428 – 1788 ):
-


Đây là thời kỳ dài phát triển, trải qua các triều đại: Lê Sơ (1428 - 1527), Mạc (1527 1592), Lê Trung Hưng (1533 - 1788). Trong giai đoạn đầu triều Lê Sơ, những chủ
trương, chính sách được ban hành kịp thời, hợp lòng dân đã đưa đất nước phát triển
lên một tầm cao mới. Những biến đổi quan trọng về cải cách hành chính, tổ chức qn
đội, hồn thiện luật pháp, khuyến khích phát triển giáo dục khoa cử nho học, sáng tác
văn học nghệ thuật, khôi phục sản xuất, phát triển kinh tế… đặc biệt là kinh tế thương
mại, ngoại thương tạo tiền đề cho các cảng thị sầm uất được hình thành phát triển như:
Thăng Long - Kẻ Chợ, Phố Hiến, Hội An… đã đưa Đại Việt trở thành một trong
những quốc gia hùng mạnh của khu vực Đông Nam Á.

-

Sau khi Hồ Quý Ly lật đổ triều Trần và thất bại trong cuộc kháng chiến chống quân
Minh (1407), nước Đại Việt rơi vào ách thống trị của phong kiến phương Bắc.
Tuy nhiên, sức mạnh Đại Việt đã được chứng minh bằng sự bùng nổ liên tiếp các
cuộc khởi nghiã chống quân xâm lược, trong đó khởi nghiã Lam Sơn (1418 -1427)
do Lê Lợi lãnh đạo đã trở thành lá cờ đầu, đánh bại quân Minh, giành lại chủ quyền
dân tộc.
Năm 1428, Lê Lợi lập ra triều Lê, bắt đầu việc xây dựng lại đất nước. Dưới thời Lê,
công cuộc khẩn hoang lập ấp được đẩy mạnh; nhiều chính sách kinh tế - xã hội
được ban hành; giáo dục, văn học, nghệ thuật được nâng cao… Văn minh Đại Việt
bước vào giai đoạn phát triển mới.

-

-

Downloaded by tran quang ()



lOMoARcPSD|9242611

-

-

Từ năm 1527, khi Mạc Đăng Dung đoạt ngôi triều Lê, chế độ quân chủ Đại Việt lâm
vào cuộc khủng hoảng tồn diện: Họ Nguyễn rồi họ Trịnh khơi phục triều Lê và gây
nên nội chiến Lê – Mạc (1527-1592), Trịnh - Nguyễn (1627-1672) chia cắt đất
nước. Khắp nơi, nông dân đã nổi dậy chống chế độ quân chủ áp bức.
Thời gian này, nhân dân Đại Việt hồn thành cơng cuộc khẩn hoang ở phương Nam
và có những cuộc tiếp xúc đầu tiên với phương Tây. Chữ Quốc ngữ - chữ Việt ra
đời.

2.12. Thời Tây Sơn ( 1771 – 1802 ):
-

-

Tây Sơn là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam tồn tại từ năm 1778 đến
năm 1802, được thành lập trong bối cảnh tranh chấp quyền lực cuối thời Lê Trung
hưng (1533–1789). Theo cách gọi của phần lớn sử gia, nhất là các sử gia hiện đại[1] tại
Việt Nam thì "nhà Tây Sơn" được dùng để gọi triều đại của anh em Nguyễn Nhạc,
Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ để phân biệt với nhà Nguyễn của Nguyễn Ánh (vì cùng họ
Nguyễn). Ngồi ra, "Tây Sơn" cũng chỉ các lãnh tụ và quân đội khởi nghĩa xuất thân
từ ấp Tây Sơn; cũng được dùng làm tên cuộc chiến của Tây Sơn.
Triều đại Tây Sơn tồn tại khoảng 24 năm thì sụp đổ sau khi Nguyễn Ánh tiến hành
một cuộc chiến tranh toàn diện để tiêu diệt nhà Tây Sơn và thành lập nhà Nguyễn. Đối
với nhà Nguyễn, nhà Tây Sơn bị xem là giặc phản loạn do họ đã đánh đổ thế lực của
chúa Nguyễn. Chính vì thế, nhà Nguyễn tìm nhiều cách xóa bỏ uy tín và những di tích

liên quan tới nhà Tây Sơn, nhưng những người mến mộ vẫn ghi nhớ các chiến tích và
cơng lao của nhà Tây Sơn, nhiều nơi đã lập đền thờ các vị vua, tướng lĩnh của triều đại
này. Ngày nay, nhà Tây Sơn được coi là một triều đại chính thống của Việt Nam,
hoàng đế Quang Trung được coi là người anh hùng dân tộc với những chiến công

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

-

-

-

chống ngoại xâm và cũng là người đề ra nhiều cải cách quan trọng trong xây dựng đất
nước.
Trong thế kỷ 18, nước Đại Việt nằm dưới quyền cai trị tượng trưng của vua Lê, có
danh mà khơng có quyền hành chính trị. Quyền lực thực sự nằm trong tay hai gia đình
phong kiến, các chúa Trịnh ở phía Bắc, kiểm sốt nhà vua và điều khiển triều đình ở
Thăng Long và các chúa Nguyễn ở phía Nam, đóng đơ tại thành Phú Xuân. Hai bên
từng đánh lẫn nhau để giành quyền kiểm sốt tồn bộ đất nước trong suốt 45 năm và
đều tuyên bố trung thành với nhà Lê để củng cố quyền lực cho mình.
Một trong những cơng tích lớn nhất của nhà Tây Sơn trong lịch sử dân tộc là đã tiến
đến rất gần công cuộc thống nhất và mở rộng lãnh thổ đất nước sau hàng trăm năm
Việt Nam bị chia cắt bởi các cuộc tranh giành quyền lực giữa các thế lực lớn Mạc –
Trịnh – Nguyễn kể từ khi nhà Lê sơ (1428–1527) bị sụp đổ, đồng thời triều đại này đã
2 lần đánh bại quân xâm lược ngoại quốc (quân Xiêm La và quân nhà Thanh) bằng
những chiến dịch quân sự thần tốc. Tuy nhiên, năm 1792, vua Quang Trung (Nguyễn

Huệ) đột ngột qua đời khi còn khá trẻ, người kế vị là Quang Toản còn quá nhỏ (9 tuổi)
đã khiến nhà Tây Sơn khơng có lãnh đạo đủ năng lực, ưu thế dần chuyển sang Nguyễn
Ánh, một hậu duệ của dòng họ Chúa Nguyễn nắm quyền trên đất Đàng Trong trước
kia.
Những di tích thời Tây Sơn tiêu biểu là các đồng xu sau đây:

2.13. Thời nhà Nguyễn:
-

-

-

Nhà Nguyễn là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn
được thành lập sau khi Nguyễn Ánh (Gia Long) lên ngơi hồng đế năm 1802 và kết
thúc khi Bảo Đại thoái vị vào năm 1945, tổng cộng là 143 năm. Triều Nguyễn là một
triều đại đánh dấu nhiều thăng trầm trong lịch sử Việt Nam, đặc biệt là cuộc xâm lược
của người Pháp giữa thế kỷ 19.
Năm 1778, Nguyễn Ánh quay lại và tập hợp lực lượng chiếm được Gia Định và đến
năm 1780, ông xưng vương.
Tháng 3 năm 1782, Nguyễn Huệ cùng vua Thái Đức mang quân thủy bộ Nam tiến.
Tây Sơn đụng trận dữ dội ở sông Ngã Bảy, cửa Cần Giờ với quân đội nhà Nguyễn do
chính Nguyễn Ánh chỉ huy. Dù lực lượng thuyền của Quân đội Tây Sơn yếu hơn,
nhưng họ đã phá tan quân Nguyễn, buộc Manuel tự sát, tuy vậy cũng thiệt hại khá
nhiều binh lực.Nguyễn Ánh bỏ chạy về Ba Giồng.
Sau khi chiến thắng quân Bát kỳ của nhà Thanh, vua Quang Trung đang chuẩn bị phối
hợp với Nguyễn Nhạc đem quân vào Nam đánh Gia Định thì đột ngột qua đời (1792),
con là Nguyễn Quang Toản cịn nhỏ tuổi lên nối ngơi, hiệu là Cảnh Thịnh. Loạn lạc
liền nổ ra ở Bắc Hà, sĩ phu trung thành với nhà Lê nổi lên tôn Lê Duy Cận làm minh
chủ. Duy Cận liên lạc với Nguyễn Ánh để cùng đánh Tây Sơn.


Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

-

-

-

-

-

-

-

Từ năm 1794 đến năm 1795, Tây Sơn phản công, họ cho quân nhiều lần vào đánh Phú
Yên, vây thành Diên Khánh, quân Nguyễn cũng ra sức chống cự, nhiều lần kìm hãm,
thậm chí là đánh lại được qn Tây Sơn. Tuy nhiên nội bộ Tây Sơn lại mâu thuẫn, các
tướng tranh quyền. Vũ Văn Dũng giết Bùi Đắc Tuyên và Ngơ Văn Sở, Quang Toản
nhỏ tuổi khơng làm gì được. Trần Quang Diệu đang đi đánh Nguyễn Ánh, nghe tin
đành rút quân về, suýt giao tranh với Vũ Văn Dũng may nhờ có Quang Toản sai quan
ra khuyên giải Trần Quang Diệu mới đồng ý hòa.
Sự quan tâm tới khoa học quân sự phương Tây của Gia Long được xem là do tình thế
bắt buộc thì với Minh Mạng lại hoàn toàn tự nguyện. Minh Mạng lấy phương Tây làm
kiểu mẫu cho việc tổ chức quân đội, hướng đến việc quân cần tinh nhuệ, không cần

nhiều, bỏ bớt số lượng người cầm cờ từ 40 người xuống 2 người trong đội ngũ đơn vị
1 vệ (500 người).
Sang thời Tự Đức, cơng tác quốc phịng của nhà Nguyễn bị sa sút và có sự tương phản
rõ rệt với các triều vua trước. Một trong các lý do khiến tình hình quân đội suy sút là
vấn đề tài chính. Vũ khí và trang thiết bị làm mới gần như khơng có. Trang bị bộ binh
rất lạc hậu: 50 người mới có 5 súng, mỗi năm chỉ tập bắn 1 lần 6 viên đạn. Vũ khí
được bảo trì cũng kém. Về thủy binh, khơng tàu hơi nước nào được đóng mới, thủy
qn thậm chí khơng đủ khả năng bảo vệ bờ biển chống hải tặc.
Trong dân gian đã xuất hiện các bài vè, bài ca miêu tả sự nặng nề của chế độ lao dịch,
ví dụ bài "Tố khuất khúc" của dân Sơn Nam Hạ có câu:
Binh tài hai việc đã xong,
Lại cịn lực dịch thổ cơng bao giờ.
Một năm ba bận cơng trình,
Hỏi rằng mọt sắt dân tình biết bao...
Lúc đầu, nhà Nguyễn chưa có một bộ luật rõ ràng, chi tiết. Vua Gia Long chỉ mới lệnh
cho các quan tham khảo bộ luật Hồng Đức để rồi từ đó tạm đặt ra 15 điều luật quan
trọng nhất.
Năm 1811, theo lệnh của Gia Long, tổng trấn Bắc Thành là Nguyễn Văn Thành đã chủ
trì biên soạn một bộ luật mới và đến năm 1815 thì nó đã được vua Gia Long ban hành
với tên Hồng Việt luật lệ hay cịn gọi là luật Gia Long. Bộ luật Gia Long gồm 398
điều chia làm 7 chương và chép trong một bộ sách gồm 22 cuốn, được in phát ra khắp
mọi nơi.
Vua Gia Long rất đề cao Nho học, cho lập Văn Miếu ở các doanh, các trấn thờ đức
Khổng Tử và lập Quốc Tử Giám năm 1803 ở Kinh thành Huế để dạy cho các quan và
các sĩ tử, mở khoa thi Hương lấy những người có học, có hạnh ra làm quan. Cũng
trong năm này, Gia Long cũng cho ban hành hai đạo dụ về việc mở các trường ở các
tỉnh, ấn định nhân viên giáo giới và chương trình học chế đồng thời tái lập lại các khoa
thi ở các trấn.
Văn học nhà Nguyễn có thể chia làm các thời kỳ như sau: thời Nguyễn sơ, thời kỳ nhà
Nguyễn còn độc lập và thời kỳ nhà Nguyễn thuộc Pháp. Thời Nguyễn sơ là thời kỳ

của các nhà thơ thuộc hai nguồn gốc chính là quan của vua Gia Long và các cựu thần
nhà Hậu Lê bất phục nhà Nguyễn. Tiêu biểu cho thời kỳ này là các tác giả: Phạm Quy
Thích, Nguyễn Du, Trịnh Hồi Đức và Lê Quang Định.
Ngay từ cuối thế kỷ XVIII, Sử học là một trong những ngành khoa học rất phát triển.
Sang đầu thế kỷ XIX, dưới thời nhà Nguyễn, ngành này lại càng phát triển hơn, có thể
nói đó là ngành phát triển nhất thời vương triều Nguyễn.
Nhà Nguyễn là triều đại có nhiều đóng góp trong lịch sử Việt Nam, đặc biệt là một
kho tàng kiến trúc đồ sộ, mà tiêu biểu là quần thể kinh thành Huế và nhiều cơng trình
qn sự khác.
Thành Gia Định là một cơng trình phịng thủ qn sự, được Nguyễn Phúc Ánh ra lệnh
xây dựng tại làng Tân Khai, huyện Bình Dương, đất Gia Định, sau này là Sài Gòn.

Downloaded by tran quang ()



×