Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965 - 1975 - Full 10 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.72 KB, 20 trang )

3
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

BÙI BÍCH HẠNH

CÁI TƠI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965 - 1975

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

TP. Hồ Chí Minh - 2012

3
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

BÙI BÍCH HẠNH

CÁI TƠI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965 - 1975

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62.22.34.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN HỮU TÁ

TP. Hồ Chí Minh - 2012


3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu độc lập của
tác giả luận án. Kết quả nghiên cứu không sao chép từ bất kì
một cơng trình nào khác. Tơi xin chịu trách nhiệm về lời cam
đoan danh dự này.

Tác giả

Bùi Bích Hạnh

3

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ............................................................................ 3
MỤC LỤC ........................................................................................ 3
MỞ ĐẦU........................................................................................... 3

1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 3
2. Mục đích nghiên cứu................................................................................... 3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 4
4. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 4
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................ 12
6. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................... 12
7. Những đóng góp mới................................................................................. 13
8. Cấu trúc luận án........................................................................................ 13


CHƯƠNG 1: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT
NAM 1965 – 1975 - MỘT CÁI NHÌN KHÁI QUÁT ................. 14

1.1. Quan niệm về cái tơi trữ tình ................................................................ 14

1.1.1. Cái tơi..........................................................................................................14
1.1.2. Cái tơi trữ tình.............................................................................................19

1.2. Đặc trưng của cái tơi trữ tình................................................................ 25

1.2.1. Nhu cầu tự bộc lộ và nhu cầu đối thoại ......................................................25
1.2.2. Biểu hiện của cái tôi mang giá trị thẩm mĩ.................................................27

1.3. Cái tơi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 - nhìn từ sự vận động của
cái tơi trữ tình trong thơ Việt Nam 1945 - 1975 ......................................... 31

1.3.1. Thơ trẻ 1965 - 1975 - một âm hưởng mới của thời đại .............................31
1.3.2. Diện mạo cái tơi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 - nhìn từ sự vận động
của cái tơi trữ tình trong thơ Việt Nam 1945 - 1975 ............................................35

CHƯƠNG 2: CÁI TƠI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT
NAM 1965 - 1975 - NHÌN TỪ DẠNG THỨC BIỂU HIỆN ...... 54

2.1. Cái tôi sử thi............................................................................................ 54

2.1.1. Cái tôi ngưỡng vọng về Tổ quốc, nhân dân................................................55
2.1.2. Cái tôi xốn xang trong sự ẩn nhường riêng - chung ...................................66

4


2.2. Cái tôi sử thi biến thể ............................................................................. 79

2.2.1. Cái tôi tự thức trong quan niệm thơ............................................................80
2.2.2. Cái tôi tự họa chân dung thế hệ ..................................................................85

2.3. Cái tôi phi sử thi ..................................................................................... 93

2.3.1. Cái tơi thấm thía nỗi đau chiến tranh..........................................................94
2.3.2. Cái tôi tự nghiệm số phận đời tư ..............................................................108

Chương 3: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ 1965 -
1975 - NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN..................... 128

3.1. Trường ca và thơ tự do ........................................................................ 128

3.1.1. Trường ca - Từ triết luận cao cả đến suy ngẫm riêng tư...........................129
3.1.2. Thơ tự do - Sự tích hợp những vấn đề phức tạp của thế giới tinh thần ....140

3.2. Chất khẩu ngữ và yếu tố văn xuôi ...................................................... 156

3.2.1. Chất khẩu ngữ - Sự lột tả cái gân guốc của chất liệu hiện thực ..............157
3.2.2. Yếu tố văn xi - Sự xích lại ngữ điệu đời thường ..................................161

3.3. Thủ pháp đối lập và trùng điệp .......................................................... 165

3.3.1. Đối lập - Cái nhìn luận giải nhiều chiều kích ...........................................166
3.3.2. Trùng điệp - Sự giải tỏa ám ảnh dồn nén..................................................172

3.4. Bản tự thuật đa giọng điệu .................................................................. 178


3.4.1. Giọng ngợi ca, hào sảng ...........................................................................179
3.4.2. Giọng nồng ấm, yêu tin ............................................................................181
3.4.3. Giọng nghiệm suy, chất vấn .....................................................................185
3.4.4. Giọng âu lo, dự cảm..................................................................................189

KẾT LUẬN .................................................................................. 194
DANH MỤC CƠNG TRÌNH ĐÃ CƠNG BỐ CĨ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN............................................................. 196
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 197

3

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Hoàn cảnh đất nước Việt Nam những năm kháng chiến chống Mỹ với hiện
thực chiến tranh khốc liệt đã tác động sâu sắc đến đời sống văn học. Nếu như tiếng
rít gầm hãi hùng của chiến tranh làm tổn thương đời sống nội cảm con người thì
tiếng thơ 1965 - 1975 là đất cựa mình sầm sịch trong khuya (Nguyễn Duy), là cuộc
đời như sắp sửa đi xa (Lưu Quang Vũ), là những vành môi khát sữa, những bước
nhớ lang thang (Trần Quang Long), là những bát cơm không đủ níu lịng (Trần Phá
Nhạc)… Thơ trẻ 1965 - 1975 là hiện tượng văn học mang lại cho thơ Việt Nam
1945 - 1975 những khn diện mới, trước hết nhìn từ khía cạnh cái tơi trữ tình. Nếu
quan niệm “văn chương là một tiếng gọi” [173, tr.63] thì thơ trẻ 1965 - 1975 sẽ cịn
vẫy gọi tầm đón đợi của người tiếp nhận.

Với nguyện ước làm thơ ghi lấy cuộc đời mình (Hữu Thỉnh), một lớp nhà thơ -
thế hệ thơ trẻ - đối mặt với chiến tranh, nếm trải bi kịch chiến tranh. Họ đến với thơ
bằng trái tim tự nguyện của lớp tuổi hai mươi, ba mươi. Sống trong nỗi đau giằng

xé, mất mát, các nhà thơ khát khao tự họa chân dung thế hệ từ âm bản hiện thực tàn
khốc của chiến tranh. Hơn nữa, với cái nhìn “cuộc sống đã mong manh tái nhạt
trong từng cá thể con người”, một bộ phận sáng tác thậm chí bóc trần những thân
phận bi kịch thời chiến. Chính vì vậy, thơ trẻ 1965 - 1975 có thể được xem là bản tự
thuật đa giọng điệu, góp phần làm sinh động diện mạo thơ Việt Nam 1945 - 1975.

2. Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu Cái tơi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 là con đường tiếp
cận khơi sâu vào bản sắc của thơ trẻ. Việc xác định những dạng thức của cái tơi trữ
tình nhằm khái quát hệ thống quan điểm thẩm mĩ cũng như năng lực chiếm lĩnh
hiện thực của nhà thơ; trên cơ sở đó, khẳng định thuộc tính của thơ trẻ giai đoạn
này. Đồng thời, luận án đi sâu khám phá những dạng thức biểu hiện của cái tôi trữ

4

tình trong xu hướng vận động để thấy rằng chịu sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử,
bối cảnh đời sống văn học, lí tưởng thẩm mĩ..., cái tơi trữ tình mang diện mạo riêng.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận án xác định đối tượng thơ trẻ ở miền Bắc, ở vùng giải phóng và ở vùng
tạm chiếm miền Nam, tạo nên cái nhìn tồn cảnh về thơ trẻ Việt Nam giai đoạn này.
Nếu thơ trẻ miền Bắc đã khắc dấu sắc cạnh vào nền thơ hiện đại và thơ trẻ vùng giải
phóng đã tạo được nhiều phong cách riêng thì ở thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam,
phải kể đến sự góp mặt của những cây bút “viết trên đường tranh đấu” cùng một lớp
nhà thơ khơng đứng trong dịng chủ lưu của văn học cách mạng, thậm chí chỉ được
xem là bộ phận “bên kia chiến tuyến”. Qua đó, luận án khẳng định sự đa dạng của
cái tôi trữ tình, vốn là yếu tố căn cốt hình thành nên bản sắc thơ trẻ giai đoạn này;
đồng thời góp phần khôi phục khuôn mặt đa diện của thơ Việt Nam 1945 - 1975.


4. Lịch sử vấn đề

4.1. Thơ 1965 - 1975 tạo nên một vị trí xứng đáng trong dịng chảy của thơ
Việt Nam 1945 - 1975, thu hút nhiều cây bút nghiên cứu, phê bình. “Tập trung vào
chủ đề đánh Mỹ, thơ chống Mỹ rất chính trị, nhưng lại là một thứ chính trị tự nhiên,
nằm ngay trong đời sống, không lên gân, khơng giả tạo” [208, tr.137]. Và đây cũng
chính là yếu tố làm nên sức hấp dẫn của thơ giai đoạn này, đặc biệt là sáng tác của
thế hệ cầm bút trẻ. Khơng ít cơng trình nghiên cứu, phê bình nhận định, đánh giá sự
xuất hiện của thơ trẻ thời chống Mỹ như là một bước chuyển mình đáng kể của văn
học cách mạng vốn đã tạo được hương sắc riêng từ thế hệ các nhà thơ lớp trước.
Biểu hiện của cái tơi trữ tình, một trong những đóng góp đáng kể của thơ trẻ Việt
Nam 1965 - 1975, trở thành vấn đề nghiên cứu được quan tâm, trong đó hầu hết nêu
nhận định về đặc điểm cơ bản của cái tơi trữ tình trong thơ trẻ.

Trước hết phải kể đến cơng trình nghiên cứu của Vũ Tuấn Anh, “Nửa thế kỷ
thơ Việt Nam 1945 - 1995 (Nhìn từ phương diện vận động của cái tơi trữ tình)”.
Đây là cơng trình khái qt sự vận động, phát triển cũng như rút ra được những
dạng thức biểu hiện chính của cái tơi trữ tình trong thơ cách mạng, từ cái tơi trữ tình

5

yêu nước - kháng chiến (1945 - 1954), cái tôi ngợi ca cuộc sống mới (1954 - 1964)
đến sự phát triển đỉnh cao của cái tôi trữ tình cơng dân (1964 -1975). Vũ Tuấn Anh
nhận định thơ chống Mỹ là “giai đoạn phát triển đến đỉnh điểm của cái tơi trữ tình
cơng dân để trở thành cái tôi khái quát, cái tôi tập hợp, cái tôi nhân danh cái Ta dân
tộc và Thời đại” [4, tr.124]. Xuất phát từ nhận định đó, tác giả xác định hai dạng
thức biểu hiện cơ bản của cái tôi thơ chống Mỹ là “cái tôi sử thi” và “cái tôi thế hệ”.
Với tâm thế cái tơi sử thi, tiếng nói của cái tơi trữ tình ở các nhà thơ trẻ chống Mỹ
“có sức âm vang của hàng ngàn giọng nói, có sức thuyết phục của chân lý phổ quát”

[4, tr.126]. Vũ Tuấn Anh nhìn thấy mối quan hệ khăng khít giữa cái tôi - cái ta như
là một sự thể hiện nhất quán của cái tôi sử thi, đồng thời cũng nhận dạng một kiểu
cái tơi trữ tình chủ yếu thuộc vào lớp nhà thơ trẻ, “thể hiện cách nhìn, cách cảm
riêng của một lứa tuổi trẻ gánh trên vai họ thử thách nặng nề nhất của cuộc chiến
tranh, với những gian lao, hy sinh mà họ nếm trải đến tận cùng xương thịt” [4,
tr.137]. Chính sự xuất hiện của “cái tôi thế hệ” đã tạo nên tư thế trữ tình mới của
thơ 1945 - 1975: là độc thoại, đối thoại với thế hệ mình - “Cái tơi thế hệ, bằng cách
chiếm lĩnh hiện thực riêng, là sự tăng cường và bổ sung quý báu phẩm chất hiện
thực cho nền thơ chống Mỹ” [4, tr.140]. Cùng hướng khai thác với Vũ Tuấn Anh,
trong “Văn học Việt Nam trong thời đại mới”, Nguyễn Văn Long cũng cho rằng cái
“tôi” sử thi và cái “tôi” thế hệ là hai dạng thức tiêu biểu của cái tơi trữ tình trong
sáng tác của các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ cứu nước, trong đó cái tôi thế hệ “thống
nhất với cái “tôi” sử thi và có thể coi là một biến thể, một dạng độc đáo và cụ thể
của cái “tôi” sử thi” [92, tr.112]. Theo Nguyễn Văn Long, “cái “tôi” sử thi trong thơ
thời kì chống Mỹ tuy rất thống nhất nhưng khơng đơn điệu, khơng hồn tồn thủ
tiêu cái “tơi” của tác giả, vì thế bản sắc, cá tính của mỗi nhà thơ vẫn có chỗ để bộc
lộ, phát huy” [92, tr.112]. Nguyễn Văn Long cảm nhận: “từ cái náo nức, say sưa với
cảm hứng của buổi đầu, đến sự trải nghiệm với nhiều suy tư, trầm tĩnh trong giai
đoạn cuối của cuộc chiến tranh, cái “tơi” của thơ trẻ muốn tìm cho mình một tiếng
nói trầm tĩnh, trực tiếp, thậm chí đến trần trụi, chối bỏ những gì hoa mĩ và sáo mòn
trong thơ” [92, tr.114]. Tuy nhiên, biểu hiện của cái tơi trữ tình trong thơ trẻ Việt

6

Nam 1965 - 1975 được các nhà nghiên cứu đặt trong quá trình vận động của cái tơi
trữ tình trong tiến trình văn học cách mạng, vì thế vẫn chưa phải là một cách nhìn
nhận tồn diện về diện mạo cái tơi trữ tình.

Lê Lưu Oanh, trong “Thơ trữ tình Việt Nam (1975 - 1990)”, đề cập đến đặc
điểm của cái tơi trữ tình trong thơ chống Mỹ, nhằm so sánh với biểu hiện của cái tơi

trữ tình trong thơ sau 1975. Chuyên luận đặt những dạng thức của cái tôi sử thi
tương ứng với kiểu nhà thơ hiện thực cách mạng, từ đó cho rằng “vị trí chủ yếu của
con người trữ tình là vị trí của cái tôi xã hội, cái tôi công dân mang một sinh khí
mới mẻ, mạnh mẽ và kiêu hãnh. Đây là giai đoạn các nhà thơ tuyên bố rời bỏ cái tôi
cá nhân, để cái riêng tư hòa lẫn trong cái chung” [152, tr.74]. Trong bài viết “Đội
ngũ nhà văn trong chiến tranh chống Mỹ”, Ngơ Thảo cũng có nhận định về tâm thế
mới của cái tôi thơ trẻ chống Mỹ: “Lớp trẻ vào thơ chống Mỹ khơng cịn phân vân
đo đếm tỷ lệ “riêng - chung”, “tôi và chúng ta” trong tác phẩm… Họ khơng khốc
cho tác phẩm tấm áo đồng phục hay mảnh dù ngụy trang” [199, tr.257]. Cũng nhận
định về cái tơi trữ tình trong thơ chống Mỹ, Nguyễn Bá Thành cho rằng: “Vị trí số
một của nhân vật trữ tình trong thơ thời chống Mỹ là một cái Ta. Cái ta lấn át cái
tơi”. [197, tr.189]. Từ đó, tác giả khẳng định “Đến giai đoạn chống Mỹ, cái tơi trữ
tình thật sự trở thành cái tơi phương tiện, cái tôi chứng kiến sự vận động của lịch sử.
Thời kỳ chống Mỹ, cái tơi trữ tình có mờ nhạt đi” [197, tr.191]. Theo Nguyễn Bá
Thành, “Xu hướng ẩn khuất của cái tơi trữ tình ngày càng thể hiện rõ trong thơ
chống Mỹ ở giai đoạn sau. Nhất là trong loại thơ suy tưởng, chính luận, thơ đánh
giặc” [197, tr.193]. Một mặt nhà nghiên cứu này nêu lên đặc trưng của cái tơi trữ
tình thơ chống Mỹ, mặt khác chỉ ra sự nhịe mờ, ẩn khuất của cái tơi trữ tình giai
đoạn này. Trong khi đó, Vũ Văn Sỹ lại cho rằng: “Một trong các hình thức tồn tại
ước lệ của cái tôi nhân chứng, khiến ta nhận diện một cách dễ dàng, đó là hình thức
nhân vật xưng tơi đứng ra trần thuật. Cái hình thức trần thuật như vậy khơng chỉ là
kinh nghiệm thơ ca, mà cịn là nội dung nghệ thuật, một hình thức biểu hiện của con
người mang dấu ấn thẩm mĩ lịch sử” [183, tr.134]. Từ đó, Vũ Văn Sỹ khẳng định:
“Trong q trình vận động của lịch sử thơ ca, chữ “tôi” nhân xưng trần thuật ngày

7

càng biến hóa đa dạng ở lớp nhà thơ chống Mỹ, gắn với những cá tính thơ khác
nhau như Thu Bồn, Phạm Ngọc Cảnh, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Vũ Quần
Phương, Thanh Thảo (…) tạo nên bức chân dung hồn chỉnh về chữ “Tơi” của thơ

trữ tình Cách mạng” [183, tr.135]. Đây là vấn đề được luận án tiếp tục làm sáng rõ
khi khám phá bản chất cái tơi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975.

Đứng từ góc nhìn cái tơi trữ tình gắn với ý thức khẳng định bản sắc sáng tạo
của người nghệ sĩ, theo Vũ Văn Sỹ, “Những nhà thơ xuất sắc của thế hệ chống Mỹ
như Nguyễn Khoa Điềm, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo,
Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh… đều là những cây bút đã chạm khắc được rõ nét chân
dung tinh thần của mình, đồng thời cũng là của thế hệ mình vào những mảng sự
kiện và biến cố lịch sử” [183, tr.115]. Cịn xem cái tơi trữ tình như một biểu hiện
của quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ chống Mỹ, Trần Đình Sử lại đánh
giá: “Con người của văn học mười năm cả nước đánh Mỹ vẫn là con người chính trị
và dân tộc, con người của sự nghiệp chung, quên mình vì nghĩa lớn, vì tập thể”
[130, tr.68] và theo Trần Đình Sử, “chiến tranh dầu ở đâu cũng là một hoàn cảnh bất
thường, và gương mặt con người trong chiến tranh thường là gương mặt đau
thương, nghị lực và ý chí” [130, tr.73] nhưng các nhà thơ “tránh nói những gì đau
thương mất mát” [130, tr.73]. Đây cũng là một gợi ý để tác giả luận án có cơ hội tìm
tịi, suy ngẫm thêm về những biểu hiện khác nữa của cái tôi trữ tình trong thơ 1965 -
1975, ở đó người nghệ sĩ không hề lảng tránh bi kịch chiến tranh.

Một số cơng trình về đặc điểm của thơ thời chống Mỹ cũng ít nhiều bàn đến
cái tơi trữ tình, như một trong những phương diện nổi bật làm nên diện mạo nền
thơ. Hữu Thỉnh khẳng định “nhập cuộc và hành động là vẻ đẹp của thơ ca kháng
chiến” và cho rằng đấy là tâm thế hình thành nên một lớp thi sĩ kiểu mới trong thơ
kháng chiến, “một cuộc dấn thân để tìm thấy sự kết hợp hài hòa giữa chủ thể sáng
tạo và khách thể thẩm mĩ” [209, tr.7-8]. Đây cũng chính là một cách nhìn nhận về
đặc điểm của cái tơi trữ tình trong thơ trẻ giai đoạn này mà khơng ít nhà nghiên cứu
đề cập. Trong bài viết “Về một đặc điểm của thơ 1955 - 1975”, Trần Đăng Xuyền
khẳng định “cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nước không cho phép con người nghĩ

8


đến cái tôi cá nhân riêng tư, nhất là cái cá nhân ấy lại đối lập, cản trở cái chung của
cộng đồng, của toàn dân tộc (...) Nỗi đau của cái tơi riêng tư hịa vào nỗi đau chung
của toàn dân tộc” [33, tr.259]. Mai Hương, khi ghi nhận về đóng góp của các cây
bút trẻ trong thơ chống Mỹ nhận thấy “những nhà thơ chiến sĩ viết về những người
cùng thời và cũng là của chính họ” [74, tr.93]. Trường Lưu lại so sánh: “Cái tôi mà
phần lớn lớp nhà văn trước Cách Mạng Tháng Tám đã đấu tranh vất vả khi thể hiện
những con người và xóm làng trong kháng chiến chống Pháp, thì giờ đây đã nhuần
nhuyễn hòa vào cái ta, cái chúng ta chung của cảm nghĩ dân tộc” [97, tr.98]. Bài
viết “Chuyển biến nhận thức của đội ngũ nhà thơ trẻ trong chiến tranh giải phóng”
của Lê Thị Bích Hồng cũng góp phần khái quát một số biểu hiện của cái tơi trữ tình,
trong đó có những nhận định khá xác đáng trên tinh thần phát triển thành quả
nghiên cứu của người đi trước: “Chữ tôi trong thơ mang một tâm thế hồn tồn mới
mẻ. Đó là cái tơi chung, cái tôi cộng đồng, cái tôi giai cấp, cái tôi thế hệ. Có lúc thơ
phải bằng lịng một sự phiến diện để yên lòng người đánh giặc” [66, tr.15].

Nhìn một cách tổng thể, cái tơi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 đã được đề
cập đến ở một vài góc độ trong các cơng trình nghiên cứu về thơ chống Mỹ, tuy
nhiên, phần lớn chỉ tập trung khái quát nên một số dạng thức cơ bản và có tính chất
phổ qt của cái tơi trữ tình, đó là cái tơi sử thi, cái tơi thế hệ. Ở cơng trình luận văn
Thạc sĩ “Thế giới nghệ thuật thơ Lưu Quang Vũ”, tác giả luận án cũng đã nhận thấy
trong thế giới nghệ thuật thơ ấy, có biểu hiện của cái tơi thế sự, đời tư - cái tơi dằn
vặt, nhìn thấu vào chiều đau xót bi thương của chiến tranh hay cũng có cái tơi cô
đơn đến tuyệt vọng, chông chênh trong chuỗi bi kịch vụn vỡ của tình yêu. Lưu
Quang Vũ một mình lặng lẽ trở về góc riêng dành cho những điều bình thường mà
cả dân tộc đang bận rộn với nhiều điều lớn lao, thiết thực hơn dường như đã bỏ
quên và dừng lại ở thế giới thơ tình Lưu Quang Vũ, hẳn chúng ta sẽ ngẫm ngợi
được nhiều điều trăn trở của cái tôi giữa cõi riêng tư thăm thẳm. Như vậy, dù không
phải là một dạng thức phổ biến nhưng trong thơ trẻ thời chống Mỹ, không thể
khuyết sự thể hiện sâu sắc của cái tơi trữ tình đời tư, vốn là một đặc trưng nổi bật

của thơ trữ tình sau 1975. Việc khảo sát dạng thức này cũng là một trong những

9

mục đích nghiên cứu của luận án. Đến gần đây, với chuyên luận “Thơ với cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, Lê Thị Bích Hồng nhận diện bên cạnh cái tôi sử
thi và cái tôi thế hệ, cịn có cái tơi phi sử thi - vốn là một dạng thức hiện hữu trong
thơ chống Mỹ những năm cuối chiến tranh: “Con người một mặt vừa chịu áp lực sử
thi, một mặt lại trở về với cái tơi nhân bản. Thơ chống Mỹ đã góp một thành tựu
trong việc thể hiện con người, khát vọng con người từ cái nhìn phi sử thi” [68,
tr.118]. Đây là một dạng thức cái tôi mà hầu hết các nhà nghiên cứu phê bình trước
đây gần như khơng bàn đến, hoặc chỉ khẳng định đó là diện mạo cái tơi trữ tình của
thơ sau 1975, khi cuộc sống dần trở lại những quy luật bình thường, con người phải
đối mặt với bao nhiêu biến động của xã hội. Lúc đó, cái tôi cá nhân mới thực sự
bừng tỉnh, “trở về những giá trị truyền thống nhân bản” [4, tr.174]. Lê Thị Bích
Hồng khẳng định: “Thật ra, cái tơi nhìn theo số phận cá nhân đã có mặt ngay trong
thời điểm chiến tranh” [68, tr.108]. Tác giả chuyên luận này cũng đã tập trung vào
chủ yếu hiện tượng thơ Lưu Quang Vũ; bên cạnh đó, tác giả cịn nhắc đến một số
cây bút “bên kia chiến tuyến” ở các đô thị miền Nam khi đề cập đến xu hướng chiến
tranh nhìn từ sự mất mát, hi sinh.

Bên cạnh những cơng trình mang tính chất nhận định về diện mạo cái tơi trữ
tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, còn một số bài viết đi vào khảo sát phong
cách nghệ thuật của thơ trẻ, ít nhiều cũng đề cập đến một vài nét biểu hiện của cái
tơi trữ tình. Tuy nhiên, các cơng trình chủ yếu mới dừng lại phác thảo một số dạng
thức cái tơi trữ tình trong thơ trẻ một cách khái qt hoặc chỉ dừng lại khảo sát chân
dung cái tôi trữ tình trong một số ít hiện tượng tiêu biểu.

4.2. Đối với mảng thơ miền Nam, một số bài viết như: “Thơ miền Nam, tiếng
hát của quê hương” (Tế Hanh - Khái Vinh), “Sự nghiệp giải phóng dân tộc và thơ

trẻ ở miền Nam” (Bùi Công Hùng), “Thơ ca chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam 1954
- 1970” (Phạm Văn Sĩ)… đã đề cập đến tư tưởng, quan điểm nghệ thuật, cảm hứng
sáng tác của thơ trẻ miền Nam. Song hầu hết chỉ mới dừng ở mức độ giới thiệu,
khái lược, chưa đi sâu nhận diện bản chất của cái tơi trữ tình.

10

Đối với các nhà thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam, giới nghiên cứu phê bình
dành khơng ít sự quan tâm. Trong bài viết “Nghĩ về tuổi trẻ, nghĩ về thơ, nghĩ…”,
Trần Hữu Tá khái quát một số đặc sắc trong cá tính sáng tạo của các cây bút học
sinh sinh viên: “Ta dễ nhận ra giọng thơ hào sảng thấm đẫm nhiệt tình của Trần
Quang Long, cách thể hiện cơ đọng và hiện đại trong thơ Ngô Kha. Ta dễ mến tiếng
thơ hồn nhiên chân thật của Hữu Đạo, Võ Q và lối viết mực thước, tinh tế của
Đơng Trình… Quan trọng hơn, xét chung cả đội ngũ, sáng tác của họ thật sự có một
sinh khí dồi dào và một diện mạo mới mẻ” [64, tr.20-21]. Người nghiên cứu rút ra
nhận định cảm hứng sáng tạo của thơ trẻ trong lịng đơ thị miền Nam “thể hiện thật
nhức nhối nỗi buồn, niềm đau của những người sống trên nơi chơn rau cắt rốn” [64,
tr.21]; qua đó, đi đến khẳng định biểu hiện cơ bản của cái tơi trữ tình ở vùng thơ
này là “ý thức nhân danh cộng đồng để suy nghĩ, phát biểu và hành động” [64,
tr.23]. Cũng bàn về tư duy nghệ thuật của một số cây bút học sinh sinh viên, Thạch
Phương đã nhận định tiếng nói chủ đạo của lực lượng sáng tác thơ trẻ miền Nam
giai đoạn này là “tiếng nói phủ định cái trật tự xã hội khốn nạn “đầy rẫy những dây
kẽm gai, mộ địa và lưỡi lê” [158, tr.46]; cho rằng đây là “một sự chối bỏ toàn diện”
nhằm “lật tung cái bộ mặt thật của thuộc địa trá hình” [158, tr.47]. Khi bàn về sức
bật của lực lượng cầm bút trẻ thành thị miền Nam 1965 - 1975, Thạch Phương cảm
nhận: “Đọc thơ họ, ta cũng bắt gặp khơng ít những nỗi quằn quại, ngột ngạt giữa
một cuộc sống tù đọng” [208, tr.421]. Song Thạch Phương cũng khẳng định cảm
hứng chủ đạo của thơ trẻ thành thị miền Nam là “những thao thức, trăn trở của con
người, hay nói rộng hơn của cả một thế hệ mang tinh thần thức tỉnh trước một thực
tế cần phải đổi thay” [208, tr.422]; đồng thời, bước đầu nhận diện được một số biểu

hiện của cái tơi trữ tình ở một vài cây bút tiêu biểu: “Có chất anh hùng ca của Trần
Quang Long, Đam San, cũng có cái trữ tình da diết của Võ Quê, Thái Ngọc San. Có
cách suy tư lắng đọng kiểu Đơng Trình…” [158, tr.52]. Tơn Thất Bút, trong bài viết
“Xuân và niềm tin đã mất với người thơ hôm nay”, lại nhận diện chân dung tinh
thần của bộ phận thơ trong vùng tạm chiếm miền Nam đánh mất niềm tin vào cuộc
đời: “Sự lạc lõng đã trở thành như một ám ảnh thường trực” [10, tr.44] và “Cuộc

11

sống đã mong manh tái nhạt trong từng cá thể con người” [10, tr.45]. Đối với những
cây bút vùng tạm chiếm miền Nam khơng thuộc dịng thơ “viết trên đường tranh
đấu” như Nhã Ca, Lệ Khánh, Nguyên Sa, Du Tử Lê, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy
Yên, Nguyễn Bắc Sơn, Trần Dạ Từ…, nhìn chung rải rác đã có một số cơng trình
bàn đến, tuy nhiên chủ yếu vẫn mới dừng lại giới thiệu và thẩm bình một số nét cá
tính sáng tạo, cốt phác họa diện mạo thơ trẻ ở bộ phận này như một yếu tố mới của
văn học vùng tạm chiếm miền Nam: “Thi ca và thi nhân” (Cao Thế Dung), “Thi ca
miền Nam 1954 - 1975” (Nguyễn Vy Khanh), “Những dấu hiệu hiện đại hóa thơ hải
ngoại” (Trần Văn Nam), “Thơ với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước” (Lê Thị
Bích Hồng); “Vị trí và ảnh hưởng thơ Nguyên Sa trong văn học Việt” (Du Tử Lê),
“Đêm và biện chứng vĩnh cửu trong thơ Nguyên Sa” (Trần Nhựt Tân), “Nguyễn Tất
Nhiên, nhà thơ biểu tượng?” (Nguyễn Bảo Hưng), “Luân Hoán, nhà thơ thế hệ
chiến tranh” (Phạm Văn Nhàn), “Nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn” (Đặng Tiến)...

Tuy hầu hết các bài viết, cơng trình chưa đi sâu khám phá cái tơi trữ tình, song
qua đó tác giả luận án cũng nhận diện một số đặc trưng cơ bản trong tư tưởng nghệ
thuật của thơ trẻ đơ thị miền Nam, có cơ sở khoa học trong việc nhìn nhận những
nhân tố tác động đến đặc điểm thơ của thế hệ trẻ đồng thời cũng có cái nhìn khái
qt về một số phong cách thơ tiêu biểu như Ngô Kha, Trần Quang Long, Thái
Ngọc San, Ngụy Ngữ, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Du Tử Lê, Tô Thùy Yên,
Trần Dạ Từ, Nguyễn Bắc Sơn… Từ đó, tác giả luận án tiếp tục mở rộng diện nghiên

cứu và đi sâu tìm hiểu sắc diện của cái tơi trữ tình trong thơ trẻ vùng tạm chiếm
miền Nam.

Nhìn chung, các cây bút nghiên cứu phê bình đã khám phá được một số dạng
thức cơ bản cũng như khái quát một số biểu hiện của cái tơi trữ tình trong thơ trẻ
Việt Nam 1965 - 1975. Qua đó, thấy được diện mạo mới của cái tơi trữ tình trong
một giai đoạn lịch sử văn học đầy biến động thông qua cái nhìn đối chiếu với cái tơi
trữ tình của những thế hệ nhà thơ lớp trước. Một số cơng trình khá dày dặn song
cũng nhiều bài viết chỉ mới dừng ở dạng định hướng nhận diện về những biểu hiện
của cái tơi trữ tình trong thơ trẻ giai đoạn này.

12

Với lịch sử vấn đề nghiên cứu trên, luận án có cơ sở đi sâu tìm hiểu cái tơi trữ
tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 dưới một góc nhìn tồn diện hơn; tiếp tục đưa ra
những nhận định mà các cơng trình trước giải quyết chưa triệt để hoặc mới dừng ở
mức độ gợi mở. Xuất phát từ việc mở rộng nội hàm khái niệm thơ trẻ, tác giả luận
án đi vào cụ thể hóa những dạng thức nổi trội của cái tơi trữ tình ở cả ba vùng sáng
tác: miền Bắc, vùng giải phóng và vùng tạm chiếm miền Nam. Qua đó nhận diện
một cách thỏa đáng hơn diện mạo cái tơi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 và khẳng
định thành tựu nhất định của thơ trẻ giai đoạn này trong dòng chảy thơ Việt Nam
1945 - 1975.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

5.1. Đối tượng nghiên cứu: Thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, tập trung vào
những tác phẩm của các tác giả tiêu biểu ở ba vùng thơ: Thơ trẻ miền Bắc, thơ trẻ
vùng giải phóng và thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam.

5.2. Phạm vi nghiên cứu: Cái tơi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975

với những dạng thức biểu hiện và một số phương thức thể hiện nổi bật.

6. Phương pháp nghiên cứu

6.1. Phương pháp hệ thống: Nhằm đặt những tác phẩm khảo sát vào trong tính
chỉnh thể của vấn đề nghiên cứu; đặt vấn đề cái tơi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975
vào sự vận động và phát triển của cái tơi trữ tình trong thơ Việt Nam 1945 - 1975.

6.2. Phương pháp phân tích - tổng hợp: Nhằm phân tích những nét biểu hiện
của cái tơi trữ tình trong sáng tác của các nhà thơ trẻ tiêu biểu; qua đó, tổng hợp,
khái qt thành những dạng thức cái tơi trữ tình của thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975.

6.3. Phương pháp so sánh - đối chiếu: là phương pháp được vận dụng để so
sánh những biểu hiện của cái tơi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 với các giai đoạn
văn học khác, đồng thời phát hiện và lí giải những nét riêng cũng như sự gặp gỡ cái
tơi trữ tình giữa các vùng thơ.

6.4. Phương pháp thống kê: Trong quá trình khảo sát những tác phẩm tiêu biểu
của thế hệ thơ trẻ, tác giả luận án sử dụng phương pháp này nhằm thống kê tần số

13

xuất hiện của thể thơ tự do - một phương tiện nghệ thuật quan trọng biểu đạt cái tơi
trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975.

7. Những đóng góp mới

Khảo sát diện mạo cái tơi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam ở cả miền Bắc, vùng
giải phóng và vùng tạm chiếm miền Nam, luận án góp phần mở rộng nội hàm thơ
trẻ Việt Nam 1965 - 1975, hướng tới khái qt một cách tồn diện hơn chân dung

cái tơi trữ tình và nhận diện một cách thỏa đáng hơn tư tưởng nghệ thuật, cũng như
đặc điểm nổi bật của thơ Việt Nam 1965 - 1975. Đồng thời, mong muốn khôi phục
khuôn mặt vốn đa diện của thơ 1945 - 1975, trước hết là giai đoạn 1965 - 1975. Từ
đó, luận án mở ra hướng nghiên cứu mới, khi quan điểm đánh giá khơng cịn “trượt
theo qn tính” hầu hết cho rằng văn học Việt Nam 1945 - 1975 chỉ là sự hợp thành
của văn học miền Bắc và vùng giải phóng.

Luận án nhận định trong thơ trẻ 1965 - 1975, cái tôi sử thi là diện mạo cơ bản
của cái tơi trữ tình song cái tôi sử thi biến thể, cái tôi phi sử thi mới là những dạng
thức biểu hiện nổi trội, in đậm bản sắc thơ trẻ giai đoạn này.

8. Cấu trúc luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận án được cấu trúc thành 3 chương
Chương 1. Cái tơi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975

- một cái nhìn khái quát
Chương 2. Cái tơi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975

- nhìn từ dạng thức biểu hiện
Chương 3. Cái tơi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975

- nhìn từ phương thức thể hiện

14

CHƯƠNG 1: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT
NAM 1965 – 1975 - MỘT CÁI NHÌN KHÁI QUÁT

Trong tiến trình phát triển của thơ Việt Nam 1945 - 1975, cái tơi trữ tình

khơng ngừng vận động, góp phần làm nên diện mạo của từng giai đoạn thơ. “Tiếng
thơ phải được nói lên từ một tấm lịng, từ những rung động sâu xa của một trái tim
đang xúc động. Những thương mến, căm giận và những nỗi niềm khác nhau bộc lộ
trong hình tượng thơ đều phải chân thành, tự nhiên, như một lời tâm sự, một tình
cảm khơng nén lại được” [45, tr.117]. Đây có thể xem là sứ mệnh thơ trẻ 1965 -
1975, trước hết nhìn từ ý nghĩa tồn tại của cái tơi trữ tình. Với những dạng thức biểu
hiện phong phú, cái tơi trữ tình tạo cho thơ trẻ một chân dung tinh thần, một phong
cách thời đại.

1.1. Quan niệm về cái tơi trữ tình

1.1.1. Cái tôi
Với tư cách là ý thức cá nhân của mỗi con người, cái tôi xuất hiện từ rất lâu

trong lịch sử triết học. Cái tôi thuộc về bản chất, là chiều sâu tinh thần con người.
Dẫu tiềm ẩn hay hiển lộ, cái tôi đều được thừa nhận như là nhu cầu thể hiện cá nhân
chính đáng. “Cái tơi tự khẳng định chính nó và tìm được tiếng vang của nó trong cái
ta, đồng thời cái ta cũng tự khẳng định khi bao bọc cái tơi và tìm được tiếng vang
bên trong của nó trong cái tơi” [201, tr.82]. Cái tơi là sự thức tỉnh đầu tiên của con
người, để xác lập vị trí của cá thể này so với cá thể khác.

Trong lịch sử triết học phương Đông, cái tôi mang diện mạo riêng. Với Lão
giáo, con người cá nhân không thể là trung tâm vũ trụ; chừng nào con người qn
“tơi” thì mới có thể sống trong cái vô cùng của không gian và cái vô tận của thời
gian. Theo Nho giáo, con người được đặt trong mối quan hệ với thiên mệnh: “Con
người kính sợ trời, tin thiên mệnh, tin huyền tưởng, ngưỡng vọng siêu nhân” [150,
tr.74]. Bên cạnh đó, Nho giáo lại quan tâm đến cá nhân trong mối quan hệ luân lí,
cương thường giữa người với người; đưa con người vào cái đại ngã của gia tộc,

15


quốc gia nhưng cũng hướng con người vào tự do nội tâm. Cái tôi trong tư tưởng
Nho giáo không tồn tại với ý nghĩa tự thân mà chỉ tồn tại với ý nghĩa con người là
“cái đức của trời đất, là sự kết giao của âm dương…”. Còn với Phật giáo, con người
được thiết lập trong quan hệ với chính mình và được lí giải trên học thuyết “vô
ngã”. Đạo Phật quan niệm phải tiêu diệt cái tơi vật chất để giải phóng cái tơi tinh
thần, phải đưa con người đến nhu cầu hướng nội. Như vậy khơng có nghĩa là Phật
giáo phủ nhận hồn tồn sự tồn tại của cái tôi. “Con đường đắc đạo của đạo Phật là
một con đường cá nhân, chứ không thể cộng đồng” [150, tr.75]. Tuy tam giáo đều
quan niệm về cái tôi cá nhân dựa trên khuynh hướng “vô ngã” song hồn tồn
khơng phải là sự triệt tiêu cái “ngã”. Lão giáo dùng “ngã” để khước từ, tiêu diệt
danh lợi chính là khẳng định vai trị của yếu tố cá nhân trên con đường thực hiện lí
tưởng đó. Nho giáo một mặt đặt con người vào mối quan hệ khăng khít với thiên
mệnh, khn con người vào cương thường, ln lí; mặt khác lại đưa con người quay
vào thế giới nội tại. Điều này có nghĩa là “cá nhân hịa tan vào một bản chất chung
của con người - tự nhiên, con người - chức năng, con người - cương thường, và
khơng cịn ý nghĩa như một cái tơi tồn tại độc lập” [4, tr.22]. Như vậy, dù xuất phát
từ quan niệm về cái tôi cá nhân của mỗi triết thuyết có những đặc trưng khác nhau
thì tất cả đều không thể phủ định ý nghĩa của con người trong việc thực hiện tư
tưởng. Ở mỗi triết thuyết, con người cá nhân dù không tồn tại độc lập nhưng vẫn
được bộc lộ ở một hình thức nhất định. Và “tất cả đều dựa vào phẩm chất cá nhân
để giải phóng cho cái “ngã” nội tại khao khát tự do được bước sang một thế giới
khác, khơng gị bó, tạm bợ” [150, tr.75].

Đến với một số tư tưởng triết học phương Tây, có thể cũng tìm thấy những
quan niệm về con người. Với Descartes, con người đặt mình trong tư thế đối diện
với vũ trụ, là một “bản thể suy tư”; bản chất con người là bản chất cá thể. Theo
quan niệm của Descartes, con người không chỉ tồn tại trong mối liên hệ giữa thể xác
và linh hồn mà người là Người vì người biết đau khổ, đam mê trong sự so sánh với
tộc loại; con người dù nhỏ bé cũng không bị cô lập trong vũ trụ mà ln tự nhận

thức mình là một phần của trật tự tồn vẹn và có vị thế nhất định trong trật tự toàn

16

vẹn đó. Như Héraclite quan niệm “giữa vũ trụ và con người ln ln có một liên
hệ” [114, tr.182]. Dừng lại ở Kant, một đại diện tiêu biểu của triết học duy tâm,
cũng thấy rất rõ ý nghĩa của cái tôi trong đời sống con người. Cái tôi tồn tại vừa là
chủ thể vừa là khách thể của q trình nhận thức, đồng thời Kant cịn tuyệt đối hóa
khả năng nhận thức của cái tơi: “Tính thống nhất của tự nhiên khơng phải ở trong
tính vật chất của nó, mà ở trong tính thống nhất của chủ thể nhận thức, của cái tôi”
[147, tr.113]. Như vậy, cái tôi cá nhân được thừa nhận như là một đối tượng khám
phá phức tạp của con người. Hay đối với Hegel, cái tôi tồn tại như một cá thể độc
lập. Cái tơi có khả năng tự biểu hiện mình, thể hiện khát vọng của con người. Xét
đến sự ảnh hưởng trực tiếp hoặc có mối liên hệ với quan niệm cái tơi trữ tình, dừng
lại ở triết học hiện tượng luận của Husserl, thấy rằng cái tôi được chú trọng với tư
cách “chủ tri”, là suy tư về chính chủ thể; khách thể chỉ là cái cớ để chủ thể suy tư.
Chính tư tưởng này đã đẩy triết thuyết của Husserl đến một quan niệm về con người
tự do. Ở đó con người tự thân đã là một chủ thể sáng tạo khơng có một mối dây
ràng buộc nào với thực tại khách quan. Gặp gỡ Husserl, J.P.Sartre cũng đưa ra một
quan niệm hiện sinh về ý thức của cái tơi, trong đó cái tơi khơng chỉ thiết lập sự
khác biệt của nó với ngoại vật, với tha nhân mà cịn với chính mình. Theo quan
niệm của triết học hiện sinh, “Con người cũng là một tồn thể khơng phân chia; do
đó mỗi cử chỉ, hành động của nó, dù bé nhỏ, tầm thường cũng bày tỏ một ý nghĩa,
một thái độ của con người hiểu như một toàn thể trước cuộc đời” [232, tr.252]. Con
người được đặt trong sự tự do hóa tuyệt đối, là hữu thể trong mối quan hệ với chính
nó, khơng có tha tính, là sự “tự ý thức”. Như một sự kế thừa hiện tượng học của
Husserl, J.P. Sartre cho rằng chính cá nhân ra luật cho toàn thế giới, cá nhân phải
xác định ý nghĩa của thực thể trong mình và bên ngồi mình. Từ đó, Sartre quan
niệm: “khơng có vũ trụ nào khác ngoài vũ trụ con người” [172, tr.31] và khẳng định
“con người khơng phải là đóng kín trong bản thân mình mà ln ln có mặt trong

một vũ trụ con người” [172, tr.32]. Đối lập với những triết thuyết tuyệt đối hóa cái
tơi cá nhân, đến triết học Marx, giá trị con người cá nhân được xác lập với tư cách
vừa là chủ thể vừa là khách thể của các mối quan hệ xã hội. Cá nhân luôn tự thiết

17

lập quan hệ với môi trường xã hội, là “bộ mặt xã hội”. Đến đây, cái tôi tồn tại như
là trung tâm của cá tính con người khơng tách rời khỏi hiện thực: “Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hịa những quan hệ xã hội” [102, tr.11].

Theo lí giải của triết học, cái tơi là một yếu tố của chủ thể, là quan niệm của
chủ thể về chính mình. Hay nói cách khác, cái tơi chính là khả năng tự nhận thức
của chủ thể. Sự khu biệt cơ bản nhất của hai phạm trù này là nếu chức năng của chủ
thể là nhận thức và cải tạo thế giới thì chức năng của cái tơi là xác lập vị thế của
mình trong thế giới. Chủ thể, theo quan niệm của triết học, không hẳn là một cá
nhân đơn lẻ, mà đó có thể là một tập thể, một cộng đồng. Như vậy, tương ứng với
chủ thể của mỗi thời đại là sự biểu hiện một loại hình cái tơi phù hợp.

“Sẽ giản đơn, siêu hình nếu xem cái tơi cá nhân là một cái gì nhỏ hẹp, hạn chế,
khép kín” [181, tr.136]. Mang những đặc tính riêng, cái tơi khơng đơn thuần là cái
tôi cá nhân riêng lẻ, nhỏ hẹp, bất biến mà đó là một phạm trù mang tính “động”,
“không chỉ là chức năng tự ý thức của chủ thể, mà còn là chức năng tự ý thức về
bản chất xã hội của chủ thể” [181, tr.136]. Cái tôi tự thân có sức dung chứa vơ cùng
bởi cái tơi có chức năng thâu nhận thế giới khách quan qua lăng kính nội cảm. Sự
thâu nhận này đã tạo nên một thế giới chủ quan của cái tơi, ở đó sức nội cảm của cái
tôi tỉ lệ thuận với sự phong phú đa dạng của cuộc đời. Đây chính là thế giới của
những giá trị qua cách nhìn của cái tơi, là thế giới khó tách bạch đâu là chủ quan
đâu là khách quan: Khúc thu/ Khúc thu/ Bần bật lá vàng/ Đôi giày nhỏ xinh xinh
nàng công chúa (Dương Kiều Minh); Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau/
Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa/ Tia nắng tía nháy hồi trong ruộng lúa/ Núi

uốn mình trong chiếc áo the xanh (Đồn Văn Cừ). Chính đặc tính này tạo nên sự đa
dạng trong những dạng thức biểu hiện của cái tơi trữ tình: cái tơi hướng nội, cái tơi
hướng ngoại… Cái tôi luôn tự thiết lập một cách ứng xử “thống nhất bền vững” đối
với cuộc sống. Điều đó khơng có nghĩa cái tơi là một phạm trù bất biến. Sự bền
vững ở đây có thể hiểu là sự nhất quán trong bản chất tinh thần con người, nghĩa là
ý thức khẳng định bản chất tinh thần qua nhiều biến cố của đời sống: Biển vẫn cậy
mình dài rộng thế/ Vắng cánh buồm một chút/ đã cô đơn (Hữu Thỉnh); Ký hiệu đời


×