Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

đề tài phân tích tình hình xuất khẩu thủy sản của việt nam gian đoạn 2007- 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.86 KB, 40 trang )

GVHD: Trịnh Thị Kiều Hạnh Chuyên đề kinh tế

Đề tài: Phân tích tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam gian đoạn
2007- 2009
SVTH: Trương Ngọc Thanh Lan
Trang 1
GVHD: Trịnh Thị Kiều Hạnh Chuyên đề kinh tế
Mục lục
. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1 Mục tiêu chung
Phân tích tình hình xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong gian đoạn 2007-2009 và đề xuất một
số giải pháp cho xuất khẩu thủy sản Việt Nam
2.2 Mục tiêu cụ thể
- Phân tích tình hình xuất khẩu thủy sản trong gian đoạn 2007- 2009.
- Đánh giá những thuận lợi và khó khăn đối với xuất khẩu thủy sản.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho xuất khẩu thủy sản.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu thứ cấp được thu thập từ: internet, sách báo, tạp chí chuyên ngành kinh tế có liên
quan đến đề tài nghiên cứu 3.2
Phương pháp phân tích số liệu
- Phương pháp so sánh số tuyệt đối để đánh giá sự biến động về sản lượng và kim ngạch
xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong thời gian nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh số tương đối để đánh giá tốc độ tăng trưởng của ngành thuỷ sản
thông qua các chỉ tiêu nghiên cứu.
- Phân tích dựa theo ma trận SWOT để đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách
thức để xác định chiến lược từ đó đề ra một số biện pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thủy
sản Việt Nam
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1 Thời gian
- Số liệu sử dụng trong đề tài là số liệu từ năm 2007 đến năm 2009.


- Đề tài được thực hiện từ ngày 25/5 đến ngày 20/6/2010.
4.2 Không gian
Địa bàn nghiên cứu: Việt Nam.
4.3 Đối tượng nghiên cứu
Tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam

PHẦN GIỚI THIỆU
SVTH: Trương Ngọc Thanh Lan
Trang 2
GVHD: Trịnh Thị Kiều Hạnh Chuyên đề kinh tế
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hiện nay trên thế giới xu thế toàn cầu hóa ngày càng được nhiều quốc gia chú trọng.
Đặc biệt là việc gia nhập vào các tổ chức kinh tế lớn trên thế giới. Việt Nam cũng
vậy, cũng bị ảnh hưởng không nhỏ bởi xu hướng toàn cầu này. Năm 2007, Việt Nam
gia nhập WTO, tổ chức thương mại lớn nhất thế giới. Đây có thể cơ hội tốt cho
những bước tiến của kinh tế Việt Nam nhưng cũng không thể tránh được những
thách thức mà tổ chức này đặt ra cũng như sự cạnh tranh gay gắt của các thành viên
khác trong tổ chức. Bởi lẽ nó ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực kinh tế. Đặc biệt là đối
với lĩnh vực xuất khẩu thủy sản của nước ta hiện nay. Trong các nước xuất khẩu
thủy sản trên thế giới, Việt Nam được coi là một trong những nước có tốc độ tăng
trưởng thủy sản nhanh nhất, với tốc độ tăng trưởng trung bình trong giai đoạn1998-
2008 đạt 18%/năm. Hiện nay, thủy sản Việt Nam ngày càng được đánh giá cao trên
thị trường quốc tế. Cả nước có khoảng 700 nhà máy chế biến thủy sản quy mô công
nghiệp. Mặt hàng thủy sản của Việt Nam cũng đã và đang có mặt ở nhiều quốc gia
và vùng lãnh thổ trên thế giới. Mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng của suy thoái kinh tế
toàn cầu, nhưng nhiều mặt hàng thủy sản vẫn có được chỗ đứng riêng cho mình và
duy trì tốc độ tăng trưởng. Thủy sản Việt Nam luôn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của ngành nông nghiệp. Tuy nhiên, ngành thủy sản cũng đang đứng trước nhiều khó
khăn. Thị trường xuất khẩu thủy sản thế giới vẫn đang phải đối mặt với nền kinh tế
toàn cầu chưa hoàn toàn thoát khỏi khủng hoảng. Tiêu dùng giảm, xu hướng tiết

kiệm gia tăng, những rào cản kỹ thuật từ phía nhà nhập khẩu, đặc biệt là luật mới:
Luật IUU (Quy định về hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp, không có báo cáo và
không theo quy định) bắt đầu có hiệu lực từ 1/1/2010… Với những thách thức cùng
những rào cảng nêu trên, xuất khẩu thủy sản của ta có thể vượt qua và tiếp tục phát
triển được hay không? Chính vì vậy mà đề tài “Phân tích tình hình xuất khẩu
thủy sản của Việt Nam gian đoạn 2007-2009” được thực hiện và qua đó đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho việc sản xuất, khai thác và xuất khẩu
thủy sản của Việt Nam.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
SVTH: Trương Ngọc Thanh Lan
Trang 3
GVHD: Trịnh Thị Kiều Hạnh Chuyên đề kinh tế
2.1 Mục tiêu chung
Phân tích tình hình xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong gian đoạn 2007-2009 và đề
xuất một số giải pháp cho xuất khẩu thủy sản Việt Nam
2.2 Mục tiêu cụ thể
- Phân tích tình hình xuất khẩu thủy sản trong gian đoạn 2007- 2009.
- Đánh giá những thuận lợi và khó khăn đối với xuất khẩu thủy sản.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho xuất khẩu thủy sản.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu thứ cấp được thu thập từ: internet, sách báo, tạp chí chuyên ngành kinh tế có
liên quan đến đề tài nghiên cứu…
3.2 Phương pháp phân tích số liệu
- Phương pháp so sánh số tuyệt đối để đánh giá sự biến động về sản lượng và kim
ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong thời gian nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh số tương đối để đánh giá tốc độ tăng trưởng của ngành thuỷ
sản thông qua các chỉ tiêu nghiên cứu.
- Phân tích dựa theo ma trận SWOT để đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu, cơ
hội, thách thức để xác định chiến lược từ đó đề ra một số biện pháp nhằm đẩy mạnh

xuất khẩu thủy sản Việt Nam
SVTH: Trương Ngọc Thanh Lan
Trang 4
GVHD: Trịnh Thị Kiều Hạnh Chuyên đề kinh tế
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1 Thời gian
- Số liệu sử dụng trong đề tài là số liệu từ năm 2007 đến năm 2009.
- Đề tài được thực hiện từ ngày 25/5 đến ngày 20/6/2010.
4.2 Không gian
Địa bàn nghiên cứu: Việt Nam.
4.3 Đối tượng nghiên cứu
Tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam.
SVTH: Trương Ngọc Thanh Lan
Trang 5
GVHD: Trịnh Thị Kiều Hạnh Chuyên đề kinh tế
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
VIỆT NAM
1.1 Lịch sử ngành xuất khẩu thủy sản Việt Nam
1.1.1 Những nét chung về ngành thủy sản.
Nhìn lại chặng đường hơn 45 năm qua, kể từ ngày thành lập, ngành thủy sản từ một
lĩnh vực sản xuất nhỏ, nghèo và lạc hậu, nay đã phát triển trở thành một trong những
ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước với tốc độ tăng trưởng cao, có tỷ trọng GDP
ngày càng lớn và có vị trí xứng đáng trong nền kinh tế quốc dân. Trong những năm
60 của thế kỷ trước tổng sản lượng thủy sản ở miền bắc chỉ đạt trên dưới 200.000
tấn (trong đó cả khai thác hải sản và nuôi trồng thủy sản đều xấp xỉ 100.000 tấn),
đến năm 1976 - năm đầu thống nhất đất nước, tổng sản lượng thủy sản đạt khoảng
840.000 tấn (trong đó khai thác hải sản 670.000 tấn, nuôi trồng thủy sản 170.000
tấn), kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 1980 chỉ đạt khoảng 11 triệu rúp-đô la.

Nghề cá Việt Nam cho đến những năm giữa thế kỷ trước vẫn là một loại hình kinh
tế tự cấp, tự túc với trình độ hết sức lạc hậu và chỉ được xem là một nghề phụ trong
sản xuất nông nghiệp. Năm 1981, với sự ra đời của công ty xuất nhập khẩu
Seaprodex, ngành thủy sản đã chủ động thực hiện cơ chế gắn sản xuất với thị
trường. Ngành đã vận dụng sáng tạo và có hiệu quả cơ chế này mà tiêu biểu là thành
công của mô hình Seaprodex lúc đó. Việc áp dụng thành công cơ chế gắn sản xuất
với thị trường đã tạo ra bước ngoặc quyết định cho phát triển kinh tế thủy sản, mở
đường cho sự tăng trưởng liên tục suốt hơn 23 năm qua. Năm 1993, thủy sản trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta.
SVTH: Trương Ngọc Thanh Lan
Trang 6
GVHD: Trịnh Thị Kiều Hạnh Chuyên đề kinh tế
Trong xu thế ở cửa và hội nhập, ngành luôn coi xuất khẩu là động lực và ưu tiên đầu
tư cho lĩnh vực này. Thế mạnh của nghề cá nhân dân được phát triển mạnh qua các
mô hình kinh tế ngoài quốc doanh, thu hút các thành phần kinh tế đầu tư để phát
triển. Việc đầu tư đúng hướng tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất kinh
doanh, nâng cao năng lực, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, tạo ra nhiều việc
làm và tăng thu nhập cho lao động nghề cá cả nước, tạo nguồn thu lớn cho ngân
sách nhà nước. Thời kì này, trong chiến lược phát triển của ngành, các lĩnh vực khai
thác và nuôi trồng thủy sản được định hướng phát triển phục vụ xuất khẩu. Ngành
đã chủ động đi trước hội nhập quốc tế, đẩy mạnh việc áp dụng khoa học công nghệ
tiên tiến vào sản xuất, gắn sản xuất nguyên liệu với chế biến, xúc tiến thương mại,
mở rộng thị trường xuất khẩu. Đặc biệt, từ giữa những năm 1990, ngành đã đổi mới
phương thức quản lý chất lượng và an toàn sản phẩm, tiếp cận để đáp ứng những đòi
hỏi cao nhất về lĩnh vực xuất khẩu của các thị trường lớn nhờ đó đứng vững được
trên các thị trường thủy sản lớn nhất trên thế giới. Từ những giải pháp đúng đắn
nghàng đã thu được những kết quả quan trọng trong những năm cuối thế kỷ XX.
Đến năm 2000, tổng sản lượng thủy sản đã vượt qua mức 2 triệu tấn, giá trị kim
ngạch xuất khẩu 1,475 tỷ USD. Năm 2002, xuất khẩu thủy sản vượt qua mốc 2 tỷ
USD với kim ngạch 2,014 tỷ USD. Năm 2005, ngành thủy sản vượt qua những khó

khăn khách quan và chủ quan, hoàn thành một cách vẻ vang các chỉ tiêu kế hoạch
mà ngành đã xây dựng trong giai đoạn 2001 -2005. Tính chung 5 năm 2001-2005:
tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt trên 11 tỷ USD, chiếm khoảng 9% giá
trị xuất khẩu cả nước. Đặc biệt cơ cấu sản phẩm của kinh tế thủy sản được thay đổi
mạnh mẽ theo hướng tăng tỷ trọng nuôi trồng, tăng tỷ trọng sản phẩm có giá trị cao
đăc biệt là sản phẩm xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp đã khẳng định được uy tín của
mình trên các thị trường lớn, như: Seaprodex, Minh Phú, Kim Anh, Saota (fimex),
Phú Cường, Camimex, Cafatex, Angifish, Vĩnh Hoàn, Sea Minh Hải, Sea Sài Gòn,
Seaspimex, Sea Ðà Nẵng, Sea Hà Nội, Ðến giai đoạn này, cả nước đã có 439 nhà
máy chế biến thủy sản xuất khẩu, trong đó có 171 doanh nghiệp được xếp vào danh
sách 1 xuất khẩu vào EU, 300 doanh nghiệp áp dụng quy trình quản lý chất lượng
sản phẩm theo HACCP, đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường Mỹ, 222 doanh
SVTH: Trương Ngọc Thanh Lan
Trang 7
GVHD: Trịnh Thị Kiều Hạnh Chuyên đề kinh tế
nghiệp đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sản phẩm vào Hàn Quốc, 295 doanh nghiệp đạt tiêu
chuẩn xuất khẩu vào Trung Quốc Những con số đó cho thấy sự trưởng thành của
công nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản Việt Nam cả về công nghệ, kỹ thuật và
trình độ quản lý. Các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu Việt Nam đã đạt
trình độ tiên tiến trong khu vực, đã tiếp cận, đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn chất
lượng sản phẩm khắt khe nhất của thị trường quốc tế. Ngành thủy sản đã có bước
phát triển vượt bậc, toàn diện, cả về khai thác, nuôi trồng và chế biến xuất khẩu, liên
tục tăng trưởng với tốc độ cao. Năm 2009, sản lượng đã đạt trên 4,8 triệu tấn (gấp
hơn 6 lần năm 1986), nuôi trồng tăng mạnh, đạt trên 2,5 triệu tấn (gấp hơn 20 lần
năm 1986, tăng bình quân 14%/năm trong 24 năm qua), không những cung cấp khối
lượng thực phẩm lớn, có giá trị dinh dưỡng cao cho nhu cầu tiêu dùng trong nước
ngày càng tăng, ngành còn đẩy mạnh chế biến xuất khẩu. Với sự năng động sáng tạo
của hàng trăm doanh nghiệp chế biến xuất khẩu, hàng thủy sản Việt Nam đã có mặt
ở 160 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, kim ngạch xuất khẩu đạt trên 4,2 tỷ
USD (gấp 40 lần so năm 1986, tăng bình quân 17%/năm, 24 năm qua, nước ta đã

xuất khẩu được 35 tỷ USD), trở thành ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ 3 của
nước ta , đưa Việt Nam trở thành 1 trong 6 nước xuất khẩu thủy sản hàng đầu thế
giới.
Tiềm năng phát triển thủy sản của nước ta còn rất lớn cả về khai thác thủy sản, đặc
biệt là khả năng mở rộng diện tích và tăng năng sất nuôi trồng, tiết kiệm chi phí hạ
giá thành, nâng cao chất lượng và hiệu quả. Tuy nhiên ngành thủy sản cũng không
thể tránh được việc tồn tại những bất cập. Nghề khai thác nhìn chung vẫn còn trong
tình trạng qui mô nhỏ, khai thác gần bờ, tàu thuyền và phương tiện khai thác chậm
đổi mới. Việc nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ vào phát triển thủy sản
còn chậm, hiệu quả thấp, chưa được quan tâm đúng mức. Đời sống của lao động
nghề cá còn nhiều khó khăn và sản xuất kinh doanh của thủy sản Việt Nam cũng
đang phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức. Những khó khăn này đòi hỏi toàn
ngành thủy sản, nhất là bà con nông dân, ngư dân, các doanh nghiệp, các nhà khoa
học, nhà quản lý phải có những biện pháp để hạn chế những khó khăn, sử dụng lợi
SVTH: Trương Ngọc Thanh Lan
Trang 8
GVHD: Trịnh Thị Kiều Hạnh Chuyên đề kinh tế
thế đang có để tạo điền kiện cho ngành thủy sản ngày càng phát triển bền vững và
ngày càng có vị thế cao trên thương trường thế giới.
1.1.2 Tình hình nuôi trồng, khai thác thủy sản trong thời gian qua
1.1.2.1 Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản
Bảng 1: DIỆN TÍCH MẶT NƯỚC NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Ở CÁC VÙNG
MIỀN TRONG GIAI ĐOẠN 2007-2009
Vùng
Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Chênh lệch
2008/2007
Chênh lệch
2009/2008
DT
(1000

ha)
Tỷ
trọng
(%)
DT
(1000
ha)
Tỷ
trọng
(%)
DT
(1000
ha)
Tỷ
trọng
(%)
Mức
(1000
ha)
Tỷ
lệ
(%)
Mức
(1000
ha)
Tỷ
lệ
(%)
ĐBSCL 723.8 71,0 752.2 71,5 830,0 70,8 28,4 3,9 77,8 10,3
ĐBSH 117.2 11,5 121.2 11,5 - - 4,0 3,4 - -

TD và
MNPB
36,2 3,6 37,9 3,6 - - 1,7 4,6 - -
BTB và
DH MT
78,9 7,7 77,9 7,4 - - -1 1,3 - -
Tây
Nguyên
9,3 0,9 10,7 1,0 - - 1,4 15,0 - -
Đông
Nam Bộ
53,4 5,3 52,7 5,0 - - -0,7 1,3 - -
Tổng
cộng
1018.8 100 1052.6 100 1173.1 100 33,8 3,3 120,5 11,8
Nguồn: tổng cục thống kê
Nhìn chung diện tích nuôi trồng thủy sản đều tăng trong năm 2008 và 2009. Tổng
diện tích nuôi trồng tăng từ 1018,8 nghìn ha năm 2007 lên 1052,6 nghìn ha năm
2008, tăng 33,8 nghìn ha tức tăng 3,3 % so với 2007. Năm 2009, diện tích nuôi
SVTH: Trương Ngọc Thanh Lan
Trang 9
GVHD: Trịnh Thị Kiều Hạnh Chuyên đề kinh tế
trồng thủy sản vẫn tiếp tục tăng mạnh. Cụ thể, diện tích nuôi trồng 2009 đạt 1173,1
nghìn ha tăng 120,5 nghìn ha, tức tăng 11,8% so với 2008.
ĐBSCL luôn là vùng có diện tích mặt nước nuôi trồng lớn nhất cả nước. Năm 2007,
vùng có 723,8 nghìn ha nuôi trồng thủy sản. Năm 2008, diện tích nuôi trồng của
vùng tăng lên 52,2 nghìn ha, tăng 28,4 nghìn ha tức tăng 3,9% so với năm 2007.
Năm 2009, diện tích nuôi trồng tiếp tục tăng và tăng cao hơn so với năm 2008, diện
tích nuôi trồng đạt 830 nghìn ha, tăng 77,8 nghìn ha tăng 10,3% so với năm trước.
Nguyên nhân là do Đồng bằng Sông Cửu Long có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc

nuôi cá tra và basa, trong đó quan trọng nhất là có diện tích mặt nước ngọt lớn và
mạng lưới ao hồ, kênh rạch dày đặc, cộng thêm cuộc khủng hoảng tài chính và
nguồn nguyên liệu trong nước sụt giảm mạnh. Đây cũng là lý do để nhiều tỉnh thành
vùng ĐBSCL quyết định gia tăng diện tích nuôi trồng nhằm gỡ khó cho ngành thủy
sản.
Một số vùng khác diện tích nuôi trồng cũng tăng như: ĐBSH tăng 4 nghìn ha năm
2008 tức tăng 3,4 % so với 2007, TD và MNPB (Trung Du và Miền Núi Phía Bắc)
tăng 1,7 nghìn ha, tăng 4,6%, Tây Nguyên tăng 1,4 nghìn ha, tăng 15% so với 2007.
Bên cạnh đó cũng có một số nơi giảm như: BTB và DHMT (Bắc trung Bộ và Duyên
Hải Miền Trung) giảm 1 nghìn ha, giảm 1,3%, Đông Nam Bộ giảm 0,7 nghìn ha,
giảm 1,3% so với 2007.
1.1.2.2 Sản lượng thủy sản trong thời gian qua
Với những diều kiện mà thiên nhiên ban tặng cùng với những kinh nghiện được tích
lũy trong thời gian dài, ngành thủy sản đã đạt được những thành tựu quan trọng, đưa
nước ta trở thành một trong những nước có sản lượng thủy sản lớn trên thế giới, góp
phần quan trọng vào sự phát triển chung của các ngành nông, lâm, thủy sản và sự ổn
định kinh tế - xã hội của đất nước.
SVTH: Trương Ngọc Thanh Lan
Trang 10
GVHD: Trịnh Thị Kiều Hạnh Chuyên đề kinh tế
a) Sản lượng về mặt nuôi trồng:
Bảng 2: SẢN LƯỢNG THỦY SẢN NUÔI TRỒNG PHÂN THEO MẶT HÀNG
TRONG GIAI ĐOẠN 2007-2009
Mặt
hàng
Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Chênh lệch
2008/2007
Chênh lệch
2009/2008
SL

(1000
tấn)
Tỷ
trọng
(%)
SL
(1000
tấn)
Tỷ
trọng
(%)
SL
(1000
tấn)
Tỷ
trọng
(%)
Mức
(100
0
tấn)
Tỷ
lệ
(%)
Mức
(1000
tấn)
Tỷ
lệ
(%)

Tôm 384,5 18,1 338,4 13,7 413,1 16,1 -46,1 13,6 74,7 18,1
Cá 1530,3 72,1 1863,3 75,6 1951,1 75,9 333,0 21,8 87,8 4,7
TS
khác
208,5 9,8 213,9 8,7 205,7 8,0 5,4 2,6 -8,2 3,8
Tổng
cộng
2123,3 100 2465,6 100 2569,9 100 342,3 16,1 104,3 4,2
Nguồn: Tổng cục thống kê
Sản lượng thủy sản nuôi trồng năm 2007 đạt 2123,3 nghìn tấn. Năm 2008, sản lượng
này tăng lên và đạt 2456,6 nghìn tấn, tăng 342,3 nghìn tấn tức tăng 16,1 % so với
năm 2007. Năm 2009, sản lượng nuôi trồng đạt 2569,9 nghìn tấn, tăng 4,2% so với
2008, tăng 104,3 nghìn tấn. Sản lượng cụ thể của các mặt hàng trong thời gian qua
như sau:
-Năm 2007:
- Sản lượng tôm đạt 384,5 nghìn tấn, chiếm 18,1% tỷ trọng sản lượng nuôi trồng.
- Cá luôn là mặt hàng chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu sản lượng, với tỷ trọng 72,1%
và ở mức sản lượng là 1530,3 nghìn tấn năm 2007.
- Thủy sản khác đạt 208,5 nghìn tấn, tỷ trọng 9,8%.
SVTH: Trương Ngọc Thanh Lan
Trang 11
GVHD: Trịnh Thị Kiều Hạnh Chuyên đề kinh tế
-Năm 2008:
- Tôm đạt 338,4 nghìn tấn, chiếm 13,7% tỷ trọng, tăng 46,1 nghìn tấn tức giảm
13,6% so với năm trước.
- Cá đạt 1863,3 nghìn tấn, chiếm 75,6% tỷ trọng, tăng 333 nghìn tấn, tăng 21,8% so
với năm trước.
- Thủy sản khác đạt 213,9 nghìn tấn với 8,7% tỷ trọng, tăng 5,4 nghìn tấn, tức tăng
2,6% so với 2007.
-Năm 2009:

- Sản lượng tôm tăng trở lại, đạt 413,1 nghìn tấn, chiếm 16,1% tỷ trọng, tăng 18,1%
chênh lệch 74,7 nghìn tấn so với năm trước.
- Cá đạt 1951,1 nghìn tấn 75,9% tỷ trọng, tăng 87,8 nghìn tấn, tăng 4,7% so với
năm trước.
- Thủy sản khác đạt 205,7 nghìn tấn, chiếm 8% tỷ trọng giảm 8,2 nghìn tấn tức giảm
3,6% so với 2007.
b) Sản lượng về mặt khai thác:
Bảng 3: SẢN LƯỢNG THỦY SẢN KHAI THÁC PHÂN THEO MẶT HÀNG
TRONG GIAI ĐOẠN 2007-2009
Mặt
hàng
Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Chênh lệch
2008/2007
Chênh lệch
2009/2008
SL
(1000
tấn)
Tỷ
trọng
(%)
SL
(1000
tấn)
Tỷ
trọng
(%)
SL
(1000
tấn)

Tỷ
trọng(
%)
Mức
(1000
tấn
Tỷ
lệ
(%)
Mức
(1000
tấn)
Tỷ
lệ
(%)
Tôm 111,4 5,4 113,4 5,3 124,6 5,5 2,0 1,8 11,2 9,9
Cá 1566,5 75,5 1605,7 75,2 1703,1 74,8 39,2 2,5 97,4 6,0
TS
khác
396,6 19,1 417,3 19,5 450,1 19,7 20,7 5,2 32,8 7,9
SVTH: Trương Ngọc Thanh Lan
Trang 12
GVHD: Trịnh Thị Kiều Hạnh Chuyên đề kinh tế
Tổng
cộng
2074,5 100 2136,4 100 2277,7 100 61,9 3,0 141,3 6,6
Nguồn: Tổng cục thống kê
Sản lượng thủy sản khai thác năm 2007 là 2074,5 nghìn tấn. Năm 2008, sản lượng
đạt 2136,4 nghìn tấn, tăng 61,9 nghìn tấn tức tăng 3% so với năm 2007. Năm 2009,
khai thác 2277,7 nghìn tấn, tăng 6,6% so với 2008, tăng 141,3 nghìn tấn. Sản lượng

khai thác cụ thể của các mặt hàng trong thời gian qua như sau:
- Năm 2007:
- Sản lượng tôm đạt 111,4 nghìn tấn, chiếm 5,4 % tỷ trọng sản lượng nuôi trồng.
- Cá cũng chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu sản lượng thủy sản khai thác với tỷ trọng
75,5 %, sản lượng đạt 1566,5 nghìn tấn năm 2007.
- Thủy sản khác đạt 396,6 nghìn tấn, tỷ trọng 19,1%.
- Năm 2008:
- Tôm đạt 113,4 nghìn tấn, chiếm 5,3% tỷ trọng, tăng 2,0 nghìn tấn tức tăng 1,8% so
với năm trước.
- Cá đạt 1605,7 nghìn tấn, chiếm 75,2% tỷ trọng, tăng 39,2 nghìn tấn, tăng 2,5% so
với năm trước.
- Thủy sản khác đạt 417,3 nghìn tấn với 19,5% tỷ trọng, tăng 20,7 nghìn tấn, tức
tăng 5,2% so với 2007.
- Năm 2009:
- Sản lượng tôm tiếp tục tăng, đạt 124,6 nghìn tấn, chiếm 5,5% tỷ trọng, tăng 9,9%
tức chênh lệch 11,2 nghìn tấn so với năm trước.
- Cá khai thác đạt 1703,1nghìn tấn, chiếm 74,8% tỷ trọng, tăng 97,4 nghìn tấn, tăng
6,0 % so với năm trước.
- Thủy sản khác đạt 450,1 nghìn tấn, chiếm 19,7% tỷ trọng tăng 32,8 nghìn tấn tức
tức tăng 7,9% so với 2007.
Sản lượng khai thác và nuôi trồng đạt kết quả khả quan như vậy trong thời gian qua
là do nước ta có nhiều lợi thế phát triển thủy sản, đặc biệt là nuôi trồng thủy sản ở
SVTH: Trương Ngọc Thanh Lan
Trang 13
GVHD: Trịnh Thị Kiều Hạnh Chuyên đề kinh tế
cả nước ngọt, nước lợ và biển, phần lớn nguồn lợi tự nhiên như nguồn lợi hải sản
ven bờ, diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản đã và đang được khai thác, sử dụng ở
mức tối đa. Sự tăng trưởng thời gian qua đã có chú ý phát triển theo chiều sâu và cả
phát triển theo chiều rộng, qua việc tăng diện tích nuôi trồng, tăng số lượng tàu
thuyền khai thác, phát huy tiềm năng nguồn lợi và điều kiện tự nhiên là chính.

c) Về tổng sản lượng cả nước:
Bảng 4: SẢN LƯỢNG THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN
2007- 2009
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
Chênh lệch
2008/2007
Chênh lệch
2009/2008
Mức Tỷ lệ
(%)
Mức Tỷ lệ
(%)
Sản lượng
(nghìn tấn)
4197,8 4602,0 4864,0 404,2 9,63 262 5,69
Nguồn: Tổng cục thống kê
Năm 2007, sản lượng thủy sản đạt 4197,8 nghìn tấn.
Năm 2008, sản lượng thủy sản đạt 4602 nghìn tấn, tăng 9,63% và chêch lệch 404,2
nghìn tấn so với năm 2007.
Bước sang năm 2009, sản lượng vẫn ở mức cao và tiếp tục tăng so với năm 2008.
Tuy nhiên mức tăng có thấp hơn mức tăng của năm 2008. Tổng sản lượng là 4864
nghìn tấn, tăng 5,69% so với năm 2008, chỉ tăng ở mức 262 nghìn tấn.
Sản lượng thủy sản có sự tăng trưởng mạnh trong thời gian qua là do nhiều nguyên
nhân. Tình trạng số lượng tàu thuyền khai thác thủy sản tăng mạnh, công tác quản lý
tàu cá đã được Bộ và các cơ quan quản lý chuyên ngành chú trọng. Chính sách hỗ

trợ kịp thời, hợp lý và đúng vào thời điểm ngư dân đang gặp khó khăn, cho nên hoạt
động khai thác được duy trì và phát triển, bảo đảm ổn định đời sống của ngư dân và
cộng đồng dân cư ven biển. Thời tiết và diễn biến nguồn lợi thủy sản trong các vụ cá
Bắc, cá Nam tại nhiều địa phương khá thuận lợi cho hoạt động khai thác. Bên cạnh
đó, các địa phương tiếp tục chuyển đổi và mở rộng diện tích nuôi trồng theo hướng
SVTH: Trương Ngọc Thanh Lan
Trang 14
GVHD: Trịnh Thị Kiều Hạnh Chuyên đề kinh tế
kết hợp đa canh, đa con. Bên cạnh đó, mô hình nuôi thuỷ sản lồng, bè tiếp tục phát
triển, đặc biệt là nuôi lồng, bè trên biển ở các tỉnh: Kiên Giang, Quảng Nam, Ninh
Thuận, Phú Yên, Hải Phòng…
1.2 Định hướng phát triển ngành thủy sản
Theo dự thảo chiến lược phát triển thủy sản đến năm 2020, bộ nông nghiệp và phát
triển nông thôn khẳng định ngành thủy sản sẽ trở thành một trong những ngành kinh
tế mũi nhọn về xuất khẩu, có khả năng cạnh tranh hội nhập vững chắc.
Nói về tiềm năng ngành thủy sản, hiện chúng ta đã xác định định được 544 loài cá,
trong đó có khoảng 97 loài kinh tế. Sản lượng khai thác nước ngọt đạt khoảng 200
nghìn tấn/năm, tập trung ở các tỉnh Nam Bộ đặc biệt là ĐBSCL. ĐBSCL rất thuận
lợi cho phát triển thủy sản nói riêng trên các vùng sinh thái: nuôi ngọt, nuôi lợ, nuôi
biển, khai thác thủy sản biển và nội địa đồng tạo ra nhiều mặt hàng thủy sản xuất
khẩu có giá trị cho quốc gia. ĐBSCL được xem là vùng có điều kiện tự nhiên thuận
lợi cho phát triển thủy sản đặc biệt là NTTS nhất trong cả nước và khu vực. Giá trị
xuất khẩu thủy sản tăng liên tục trong thời gian qua, đưa Việt Nam trở thành một
trong những quốc gia xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới. So với 1985, giá trị kim
ngạch XKTS năm 2008 đã tăng trên 50 lần từ 0,09 tỷ USD lên 4,5 tỷ USD. Sản
phẩm thủy sản đã có mặt ở 150 quốc gia và vùng lãnh thổ. Nuôi trồng thủy sản có
thể phát triển ở các vùng kinh tế khác nhau từ miền núi, trung du, đồng bằng đến các
vùng biển đảo.
Xu hướng và nhu cầu tiêu thụ thuỷ sản đã và đang tiếp tục tăng mạnh. Riêng sản
phẩm cá tra của nước ta đang được nhiều quốc gia quan tâm và xem là sản phẩm

thay thế cá thịt trắng có nguồn gốc từ các vùng biển bởi giá cả hợp lý mà chất lượng
lại thơm ngon, sản lượng dồi dào và ổn định. Các nhà máy chế biến thuỷ sản tại
châu Âu cũng rất cần nguyên liệu cá tra và cá ba sa Việt Nam để chế biến và cung
cấp cho các thị trường. Mặc dù ngành thuỷ sản đã đóng góp rất lớn kim ngạch xuất
khẩu của cả nước và có tiềm năng phát triển nhưng sản xuất vẫn gặp nhiều khó
khăn, thách thức. Hiện ngành thuỷ sản tiềm ẩn nhiều bất cập, rủi ro và thiếu bền
SVTH: Trương Ngọc Thanh Lan
Trang 15
GVHD: Trịnh Thị Kiều Hạnh Chuyên đề kinh tế
vững, thậm chí nếu không được đầu tư có thể sẽ “lụi tàn”. Chính vì vậy mà định
hướng để phát triển ngành thuỷ sản trong tương lai là: sản lượng khai thác hàng năm
phải tăng theo năng suất lao động cũng như tỷ lệ đóng góp của nghề cá so với việc
sử dụng tài nguyên, sự tăng trưởng của nghề phải đi đôi với việc thay đổi bộ mặt
nông thôn và thể hiện rõ vai trò gắn kết giữa ngư nghiệp – nông nghiệp và nông
thôn Mục tiêu mà ngành Thủy sản đặt ra đến năm 2012 là đảm bảo 90% cá tra và
tôm nuôi có thể truy nguồn gốc xuất xứ; 70% thủy sản khai thác có nhật ký theo dõi,
90% cơ sở chế biến thủy sản áp dụng chương trình quản lý chất lượng. Từ nay đến
năm 2020, ngành thuỷ sản đặt mục tiêu đạt kim ngạch xuất khẩu 7 tỷ USD. Mỗi giai
đoạn, thị trường lại có những yêu cầu, đòi hỏi khác nhau, vì vậy, ngành phải tìm
hiểu yêu cầu của thị trường trong từng giai đoạn để tổ chức lại sản xuất.
SVTH: Trương Ngọc Thanh Lan
Trang 16
GVHD: Trịnh Thị Kiều Hạnh Chuyên đề kinh tế
CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM
QUA 3 NĂM 2007-2009
2.1 Tình hình xuất khẩu thủy sản trong 3 năm 2007-2009
2.1.1 Đánh giá chung về tình hình xuất khẩu thủy sản
Thuỷ sản được xem là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta. Ngành
thủy sản đã và đang tận dụng mọi lợi thế để phát huy nội lực góp phần làm tăng kim

ngạch xuất khẩu cho Việt Nam.
Bảng 5: SẢN LƯỢNG VÀ KIM NGẠCH XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT
NAM TRONG 3 NĂM 2007 – 2009
Chỉ tiêu Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
Chênh lệch
2008/2007
Chênh lệch
2009/2008
Mức Tỷ lệ
(%)
Mức Tỷ lệ
(%)
Sản lượng
(nghìn tấn)
924,46 1236,00 1216,00 311,54 33,7 -20,00 1,6
Kim ngạch
(tỷ USD)
3,76 4,51 4,250 0,75 19,8 -0,26 5,7
Nguồn:tổng cục hải quan
Năm 2007, tổng sản lượng thủy sản xuất khẩu của cả nước là 924,46 nghìn tấn với
kim ngạch là 3,76 tỷ USD.
Bước sang năm 2008, cả sản lượng và kim ngạch thủy sản xuất khẩu đều tăng so với
năm 2007. Cụ thể, tổng sản lượng thủy sản xuất khẩu đạt 1236 nghìn tấn, tăng
33,7% so với năm 2007,chêch lệch 311,54 nghìn tấn. Kim ngạch xuất khẩu đạt
4,509 tỷ USD tăng 0,749 tỷ USD tức tăng 19,8% so với cùng kì năm 2007.

Năm 2009, tuy sản lượng khai thác và nuôi trồng có tăng nhưng xuất khẩu lại ở mức
tăn trưởng âm. Đó là lần đầu tiên trong 13 năm xuất khẩu thủy sản đạt tăng trưởng
âm. Cụ thể, sản lượng thủy sản xuất khẩu đạt 1216 nghìn tấn, giảm 20 nghìn tấn,
tức giảm 1,6% so với năm 2008. Kim ngạch xuất khẩu đạt 4,250 tỷ USD giảm 0,259
tỷ USD, tức giảm 5,7% so với năm 2008.
SVTH: Trương Ngọc Thanh Lan
Trang 17
GVHD: Trịnh Thị Kiều Hạnh Chuyên đề kinh tế
Sở dĩ có sự biến động như vậy là do một số nguyên nhân sau đây: năm 2008, ngành
thủy sản trãi qua nhiều sóng gió, cả thế giới nằm trong tình trạng lạm phát, kinh tế
tăng trưởng chậm, tỷ giá đồng USD bấp bênh, chi phí đầu tư tăng vọt, lãi suất ngân
hàng cao ngất ngưỡng… Trong hoàn cảnh đó, các nhà xuất khẩu thủy sản Việt Nam
đã chủ động chuyển hướng để tránh được cơn bão do cuộc khủng hoảng gây ra. Họ
chuyển từ “trọng tâm” của các cuộc khủng hoảng là: EU, Mỹ, Nhật Bản, Hàn
Quốc…để khai phá những thị trường mới như Nga, Ucraina, Ai Cập… Năm 2009,
tuy xuất khẩu có giảm so với năm 2008, nhưng đó cũng là một kết quả đầy khả quan
cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản trước những khó khăn về việc thiếu nguồn
nguyên liệu, thị trường tiêu thụ chính giảm nhu cầu, những rào cản kĩ thuật và thuế
quan của các nước nhập khẩu
2.1.2 Kim ngạch xuất khẩu thủy sản theo thị trường
Hiện nay, thủy sản của ta đã xuất khẩu sang 163 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm
một vị trí không nhỏ trong thị trường chung. Tuy thủy sản Việt Nam đang phải đối
mặt với không ít khó khăn, song với sự nỗ lực không ngừng ngành thủy sản vẫn trụ
vững và đạt được những bước tiến đáng ghi nhận. Nhìn chung kim ngạch xuất khẩu
sang các thị trường chủ yếu đều tăng trong năm 2008, nhưng giảm vào năm 2009.
SVTH: Trương Ngọc Thanh Lan
Trang 18
GVHD: Trịnh Thị Kiều Hạnh Chuyên đề kinh tế
Bảng 6: MỘT SỐ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN CHỦ YẾU
CỦA VIỆT NAM TRONG 3 NĂM 2007- 2009

Nguồn:
- Năm 2007:
Tính đến cùng kì năm 2007, Việt Nam đã xuất khẩu thủy sản sang với 130 quốc gia
và vùng lãnh thổ. Tình hình xuất khẩu sang các thị trường như sau:
- Thị trường châu Âu (EU): đứng đầu với 24,1% tỷ trọng, với KNXK đạt 0,905 tỷ
USD.
SVTH: Trương Ngọc Thanh Lan
Thị
trường
Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Chênh lệch
2008/2007
Chênh lệch
2009/2008
Số tiền
(tỷ
USD)
Tỷ
trọng
(%)
Số tiền
(tỷ
USD)
Tỷ
trọng
(%)
Số tiền
(tỷ
USD)
Tỷ
trọng

(%)
Mức
(tỷ
USD)
Tỷ lệ
(%
Mức
(tỷ
USD)
Tỷ
lệ
(%)
EU 0,905 24,1 1,140 25,3 1,096 25,8 0,235 26,0 -0,044 3,9
Nga 0,120 3,2 0,218 4,8 0,085 2,0 0,098 81,7 -0,133 61,0
Nhật
Bản
0,746 20,0 0,828 18,4 0,758 17,8 0,082 11,0 -0,070 8,5
Hoa

0,767 20,4 0,745 16,5 0,713 16,8 -0.022 2,9 -0,032 4,3
Trung
Quốc
- - 0,156 3,5 0,200 4,7 - - 0.044 28,2
Các
nước
khác
- - 1,420 31,5 1,398 32,9 - - -0,022 1,5
Tổng
cộng
3,76 100 4,509 100 4,250 100 0,749 19,8 -0,259 -5,7

Trang 19
GVHD: Trịnh Thị Kiều Hạnh Chuyên đề kinh tế
- Thị trường Hoa Kì: đứng thứ nhì, chiếm khoảng 20,4% tỷ trọng, KNXK đạt 0,767
tỷ USD.
- Thị trường Nhật Bản: đứng thứ ba, chiếm 20% tỷ trọng với KNXK là 0,746 tỷ
USD.
- Thị trường Nga: chiếm 3,2% về tỷ trọng với KNXK đạt 0,120 tỷ USD.
- Các thị trường khác như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ukraine, Asean…chiếm khoảng
32,3% tỷ trọng với KNXK khoảng 1,222 tỷ USD.
-Năm 2008:
Bước sang năm 2008, Việt Nam XK thủy sản sang 160 thị trường với gần 70 loại
sản phẩm khác nhau.
-Liên minh Châu Âu (EU): tiếp tục giữ vị trí nhà nhập khẩu thủy sản lớn nhất của
Việt Nam với KNXK đạt 1,14 tỷ USD, tăng 0,235 tỷ USD, chênh lệch 26% so với
năm 2007, chiếm 25,3% về tỷ trọng KNXK - Đứng thứ hai là thị trường Nhật Bản,
KNXK đạt 0,828 tỷ USD, chiếm 18,4% về tỷ trọng, tăng 0,082 tỷ USD tức tăng
11% so với năm trước.
- Năm 2008, Mỹ đã tụt xuống hàng thứ 3 về nhập khẩu thủy sản của Việt Nam. Tỷ
trọng của thị trường Mỹ giảm từ 20,4% xuống 16,5% trong cơ cấu thị trường xuất
khẩu của Việt Nam. KNXK thủy sản sang thị trường này đạt 0,745 tỷ USD giảm
0,022 tỷ USD tức giảm 2,9% so với năm trước.
- Cũng trong năm 2008, Nga vẫn là “lực hút” lớn cho nhiều doanh nghiệp xuất khẩu
thủy sản của Việt Nam. So với năm 2007, xuất khẩu thủy sản sang thị trường này
đạt 0,218 tỷ USD, tăng tới 81,7% và chênh lệch 0,098 tỷ USD. Tỷ trọng của thị
trường này năm 2008 là 4,8 %.
- Thị trường Trung Quốc: chiếm 3,5% về tỷ trọng, KNXK đạt 0,156 tỷ USD.
- Các thị trường khác: KNXK đạt 1,420 tỷ USD, chiếm 31,5% về tỷ trọng.
-Năm 2009:
Năm 2009, Việt Nam XK 85 loại sản phẩm thủy sản sang 163 thị trường. Số lượng
sản phẩm và thị trường XK đều tăng, nhưng giảm về khối lượng và giá trị, so với

năm 2008.
SVTH: Trương Ngọc Thanh Lan
Trang 20
GVHD: Trịnh Thị Kiều Hạnh Chuyên đề kinh tế
- Góp phần đáng kể vào sự sụt giảm này là thị trường EU– nhà nhập khẩu lớn nhất
thuỷ sản Việt Nam, chiếm 25,8% tỷ trọng XK của Việt Nam. Xuất khẩu sang thị
trường này giảm 3,9% về giá trị, đạt 1,096 tỷ USD, giảm 0,044 tỷ USD trong đó 5
thị trường đơn lẻ trong khối là Đức, Tây Ban Nha, Hà Lan, Italia và Bỉ chiếm 64%
tổng nhập khẩu thuỷ sản từ Việt Nam.
-Thị trường Nhật Bản vẫn đứng vị trí thứ 2 trong tốp các thị trường nhập khẩu thuỷ
sản Việt Nam với 0,758 tỷ USD, giảm 8,5% so với năm 2008, giảm 0,07 tỷ USD, tỷ
trọng của thị trường Nhật Bản trong năm 2009 là 17,8%.
- Tiếp đến là Mỹ với tỷ trọng 16,8%, KNXK là 0,713 USD, giảm 4,2% tức giảm
0,032 tỷ USD so với năm 2008.
- Đến hết năm 2009, KNXK sang Nga là 0,085 tỷ USD, giảm 61% tức giảm 0,133
tỷ USD so với năm trước. Tỷ trọng của thị trường này giảm từ 4,8% xuống còn 2%
trong năm 2009.
- Đáng lưu ý là thị trường Trung Quốc luôn đạt tăng trưởng 2 - 3 con số liên tiếp
trong các tháng, cả năm tăng 28,2% về giá trị, tăng 0,044 tỷ USD đạt khoảng 0,200
tỷ USD, chiếm 4,7% tỷ trọng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
- Các thị trường khác chiếm khoảng 32,9% tỷ trọng, KNXK đạt 1,398 tỷ USD, giảm
0,022 tỷ USD tức giảm khoảng 1,5 %.
Nguyên nhân về sự biến động KNXK ở các thị trường là do: năm 2007, Việt Nam
gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã tạo thuận lợi để xuất khẩu thủy sản
đạt tốc độ tăng trưởng cao, khi các doanh nghiệp đã chủ động chuyển hướng thị
trường, vừa giữ được thị trường truyền thống, vừa mở rộng phát triển sang các thị
trường mới. Trong 2008, Việt Nam tiếp tục giữ vững và nâng cao KNXK thủy sản ở
thị trường nhập khẩu lớn nhất là EU, ta đã xuất khẩu thủy sản sang 26/27 quốc gia
thuộc khối này, đứng đầu là 5 thị trường: Đức, Italia, Tây Ban Nha, Hà Lan và Bĩ.
Năm 2009, KNXK thủy sản giảm . Nguyên nhân do sự vắng mặt của thị trường Nga

SVTH: Trương Ngọc Thanh Lan
Trang 21
GVHD: Trịnh Thị Kiều Hạnh Chuyên đề kinh tế
4 tháng đầu năm do lệnh cấm thuỷ sản Việt Nam từ cuối năm 2008, một yếu tố
chính khiến xuất khẩu thuỷ sản giảm, vì Nga vốn là thị trường đơn lẻ tiêu thụ nhiều
nhất cá tra của Việt Nam trong năm 2008.
2.1.3 Kim ngạch xuất khẩu thủy sản theo mặt hàng
Bảng 7: KIM NGẠCH XUẤT KHẨU THỦY SẢN THEO MẶT HÀNG
TRONG GIAI ĐOẠN 2007-2009
Nguồn: tổng cục hải quan
Về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu thuỷ sản cho thấy không có sự biến động nhiều giữa
các nhóm sản phẩm, nhìn chung tôm vẫn là nhóm sản phẩm chủ lực đóng góp trung
SVTH: Trương Ngọc Thanh Lan
Mặt
hàng
Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Chênh lệch
2008/2007
Chênh lệch
2009/2008
Số tiền
(tỷ
USD)
Tỷ
trọng
(%)
Số tiền
(tỷ
USD)
Tỷ
trọng

(%)
Số tiền
(tỷ
USD)
Tỷ
trọng
(%)
Mức
(tỷ
USD)
Tỷ lệ
(%)
Mức
(tỷ
USD)
Tỷ
lệ
(%)
Tôm 1,500 40,0 1,625 36,0 1,675 39,4 0,125 8,3 0,050 3,0
Cá tra,
basa
0,977 26,0 1,450 32,2 1,340 31,5 0,473 48,4 -0,110 7,6

ngừ
0,151 4,0 0,189 4,2 0,183 4,3 0,038 25 -0,006 3,1
Mực,
bạch
tuộc
0,290 7,7 0,297 6,6 0,276 6,5 0,007 2,4 -0,021 7,0
Mặt

hàng
khác
0,842 22,3 0,948 21,0 0,776 18,2 0,106 12,6 -0,172 18,1
Tổng
cộng
3,76 100 4,509 100 4,250 100 0,749 19,8 -0,259 -5,7
Trang 22
GVHD: Trịnh Thị Kiều Hạnh Chuyên đề kinh tế
bình 40% tỷ trọng KNXK thủy sản mỗi năm, tiếp theo là nhóm sản phẩm cá, mực,
bạch tuộc đông lạnh…
- Năm 2007:
- Tôm là mặt hàng chủ lực đóng góp 40% tỷ trọng với KNXK đạt 1,5 tỷ USD.
- Tiếp theo là cá tra, basa chiếm 26% tỷ trọng, KNXK đạt 0,977 tỷ USD.
- Mặt hàng cá ngừ, mực, bạch tuộc chiếm tỷ trọng khá nhỏ so với tôm và cá tra,
basa. KNXK cá ngừ đạt 0,151 tỷ USD, tỷ trọng 4%, mực bạch tuộc chiếm 7,7% với
KNXK 0,290 tỷ USD. Các mặt hàng còn lại chiếm 22,3% với 0,842 tỷ USD.
- Năm 2008:
Các mặt hàng đều có kim ngạch tăng so với năm 2007. Cụ thể:
- Xuất khẩu tôm đạt 1,625 tỷ USD, chiếm 36% tỷ trọng, tăng 0,125 tỷ USD, tăng
8,3% so với năm trước.
- KNXK cá tra,basa đạt 1,45 tỷ USD, chiếm 32% tỷ trọng, tăng khá mạnh so với
2007 tăng tới 48,4% tức tăng 0,473 tỷ USD.
- Cá ngừ, mực, bạch tuộc cũng tăng so với cùng kì năm trước. KNXK cá ngừ tăng
0,038 tỷ USD, tăng 25% so với 2007 với kim ngạch và tỷ trọng lần lượt là 0,189 tỷ
USD và 4,2%. Mực, bạch tuộc tăng 2,4% tức tăng 0,007 tỷ USD, KNXK đạt 0,297
tỷ USD, chiếm 6,6% KNXK thủy sản. Các mặt hàng khác tăng 12,6% tức tăng 0,106
tỷ USD.
- Năm 2009:
KNXK thủy sản của các mặt hàng đều giảm so với năm 2008, chỉ có mặt hàng tôm
tiếp tục giữ vị trí số 1 và là mặt hàng thủy sản duy nhất tăng trưởng trong năm 2009.

Cụ thể:
- KNXK tôm tăng 0,05 tỷ USD, chỉ tăng 3% so với 2008, đạt 1,675 tỷ USD với tỷ
trọng là 39,4%.
- Xuất khẩu cá tra, basa giảm 7,6% tức giảm khoảng 0,110 tỷ USD, KNXK đạt 1,34
tỷ USD chiếm 31,5% tỷ trọng.
- Cá ngừ cũng giảm KNXK xuống còn 0,183 tỷ USD với tỷ trong 4,3%, giảm 3,1%
so với 2008, tức giảm 0,006 tỷ USD. Mực, bạch tuộc cũng giảm khá mạnh, giảm 7%
SVTH: Trương Ngọc Thanh Lan
Trang 23
GVHD: Trịnh Thị Kiều Hạnh Chuyên đề kinh tế
so với năm trước tức giảm 0,021 tỷ USD, KNXK đạt 0,276 tỷ USD, chiếm 6,5% tỷ
trọng. Các mặt hàng khác giảm 18,1% tức giảm 0,172 tỷ USD.
Một số nguyên nhân làm biến động KNXK của các mặt hàng như sau:
-Công tác kiểm soát chất lượng tôm nguyên liệu được thực hiện khá tốt, nguồn cung
tôm nguyên liệu trong nước luôn ở mức cao và ổn định, nguồn cung tôm của thế
giới cũng tăng khá cao, trong khi nhu cầu tiêu thụ mặt hàng này tại một số thị trường
lớn lại giảm.
- EU chiếm hơn 40% xuất khẩu cá tra của Việt Nam. Năm 2009, xuất khẩu cá tra
sang thị trường EU giảm vì nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến thông tin xấu
“bôi bẩn” cá tra ở một số quốc gia như Tây Ban Nha, Ý, Ai Cập. Sự vắng mặt của
thị trường Nga 4 tháng đầu năm do lệnh cấm thủy sản Việt Nam từ cuối năm 2008
cũng là một yếu tố khiến xuất khẩu cá tra, basa giảm vì Nga vốn là thị trường đơn
lẻ tiêu thụ nhiều nhất cá tra của Việt Nam trong năm 2008.
- Xuất khẩu cá ngừ tăng trong 2008 do nhu cầu tiêu thụ cá ngừ trên thị trường thế
giới tăng, trong khi sản lượng đánh bắt ở các quốc gia xuất khẩu chính đang giảm
sút, nhưng 2009 thì xu hướng này đã đi ngược lại do nhu cầu ở các thị trường lớn
giảm đáng kể và giá xuất khẩu tăng đáng kể vào những tháng cuối năm…
-Năm 2008, lượng dự trữ mực, bạch tuộc của của các thị trường chính giảm, giá
bạch tuộc trong năm 2008 và các tháng đầu năm 2009 tăng nhẹ, Sức tiêu thụ bạch
tuộc ở châu Âu có nhu cầu ổn định. Nhưng do nguồn nguyên liệu chế biến thiếu

trầm trọng do thời tiết biển bất lợi, các tàu đánh bắt phải nằm bờ để tránh bão, hầu
hết thị trường tiêu thụ vẫn chưa phục hồi do hệ lụy của cuộc khủng hoảng kinh tế
toàn cầu và những rào cản về kỹ thuật và chất lượng của một số thị trường khó tính
khác dẫn tới KNXK mực 2009 bị giảm đi…
SVTH: Trương Ngọc Thanh Lan
Trang 24
GVHD: Trịnh Thị Kiều Hạnh Chuyên đề kinh tế
2.2 Sự biến động về giá của các mặt hàng thủy sản
Hiện nay ngành thủy sản nước ta đã xuất khẩu hơn 85 loại sản phẩm thuộc các
chủng loại như: tôm, cá tra , basa, cá ngừ, mực, bạch tuộc…với hai mặt hàng chủ
lực là tôm và cá tra, basa. Sự biến động giá của một số sản phâm chủ yếu như sau:
2.2.1 Giá tôm đông lạnh xuất khẩu:
Giá xuất khẩu trung bình tôm đông lạnh của Việt Nam năm 2007 đạt 9,6 USD/kg.
Trong tháng 12/2007, giá xuất khẩu trung bình mặt hàng này đạt 8,93 USD/kg.
Giá xuất khẩu trung bình tôm đông lạnh trong tháng 1/2008 giảm mạnh, chỉ đạt 7,99
USD/kg, giảm 2,3 USD/kg so với tháng 1/2007 và gần 1 USD/kg so tháng 12/2007.
Nguyên nhân là do lượng tôm thẻ đông lạnh xuất khẩu của Việt Nam tăng và tôm sú
cỡ nhỏ xuất khẩu tăng tới các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada tăng.
giá xuất khẩu trung bình của tôm đông lạnh trong quí I/2008 chỉ dao động từ 8 –
8,5USD/kg.
Năm 2009, do giá tôm nguyên liệu tăng nên giá tôm đông lạnh xuất khẩu tăng và đạt
mức trung bình 9,4USD/kg.
2.2.2 Giá cá tra, basa đông lạnh xuất khẩu:
Trong năm 2007, giá xuất khẩu trung bình mặt hàng cá tra đông lạnh của Việt Nam
đạt 2,58 USD/kg. Tháng 12/2007 là tháng có giá xuất khẩu trung bình thấp nhất
trong năm đạt 2,356 USD/kg. Theo quy luật, giá xuất khẩu trung bình mặt hàng này
thường tăng cao vào 6 tháng đầu năm và giảm nhẹ vào 6 tháng cuối năm.
Giá xuất khẩu trung bình cá tra phi lê của Việt Nam trong quý I/2008 đạt 2,3
USD/kg giảm 0,27 USD/kg so với quý I/2007. Như vậy trong quý I/2008 giá xuất
khẩu trung bình cá tra, ba sa là tương đối ổn định trong khi giá cá tra, ba sa nguyên

liệu lại biến động mạnh từng tuần trong quý I/2008. Nguyên nhân chính là do các lô
hàng xuất khẩu cá tra, ba sa trong quý I/2008 đều được ký kết từ trước đó. Tính toán
sơ bộ cho thấy giá xuất khẩu trung bình cá tra đông lạnh của Việt Nam trong tháng
10/2008 đạt 2,44 USD/kg, giảm 0,52 USD/kg so với cùng kỳ năm trước và tăng nhẹ
SVTH: Trương Ngọc Thanh Lan
Trang 25

×