Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Phân tích tình hình xuất khẩu dầu thô của Việt Nam từ 2001-2007 và 8 tháng đầu 2008.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.94 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................2
I. KHÁI QUÁT VỀ XUẤT KHẨU DẦU THÔ VIỆT NAM............................................................3
II.TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU DẦU THÔ TỪ NĂM 2001 ĐẾN THÁNG 08/2008.......................4
1. Tình hình xuất khẩu dầu thô giai đoạn 2001 – 2007..................................................................4
1.1.Tình hình...............................................................................................................................4
1.2. Nguyên nhân.........................................................................................................................6
2. Tình hình xuất khẩu dầu thô 8 tháng đầu 2008..........................................................................8
2.1. Tình hình..............................................................................................................................8
2.2. Nguyên nhân.......................................................................................................................11
III. TÁC ĐỘNG CỦA XUẤT KHẨU DẦU THÔ ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ...............................14
1.Tác động tích cực.......................................................................................................................14
2. Tác động tiêu cực của xuất khẩu dầu........................................................................................15
IV. NHỮNG THAY ĐỔI TRONG CHÍNH SÁCH XUẤT KHẨU DẦU THÔ VÀ PHƯƠNG
HƯỚNG TRONG TƯƠNG LAI......................................................................................................16
1. Những thay đổi trong chính sách xuất khẩu dầu thô................................................................16
2. Phương hướng phát triển xuất khẩu dầu thô trong tương lai...................................................18
KẾT LUẬN.......................................................................................................................................22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................23
LỜI MỞ ĐẦU
ai trò của xuất khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế là cực kì quan trọng và
nó được coi là phương tiện để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Chính vì thế,
Nhà nước đã và đang có những biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng về xuất
khẩu nhằm tận dụng hết những ích lợi của nó. Một trong số đó là chính sách xây
dựng nhsững mặt hàng chủ lực cho xuất khẩu. Là một nước xuất khẩu dầu thô đứng
thứ 3 Đông Nam Á và có những lợi thế đặc biệt cho việc khai thác, dầu thô là một
trong những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu rất cao ở Việt Nam.
V
ền kinh tế toàn cầu đang ngày càng phụ thuộc vào năng lượng và trong đó dầu
mỏ giữ vai trò quan trọng hàng đầu. Giá dầu tác động và ảnh hưởng tới sự phát
triển nền kinh tế thế giới và hầu như mọi ngành công nghiệp đều phụ thuộc rất lớn


vào nguồn tài nguyên quý giá này.
N
hính vì lẽ đó, nhóm thuyết trình chính sách thương mại quốc tế số 28 lớp A12
dưới sự hướng dẫn của cô Xuân Nữ đã chọn đề tài “Phân tích tình hình xuất
khẩu dầu thô của Việt Nam từ 2001-2007 và 8 tháng đầu 2008” nhằm đưa ra cái nhìn
khái quát về hoạt động xuất khẩu mặt hàng dầu thô của Việt Nam trong thời gian trở
lại đây.
C
rong quá trình làm do hạn chế về kiến thức và thời gian, bài tiểu luận còn nhiều
thiếu sót. Nhóm rất mong nhận được ý kiến đóng góp của cô và các bạn để bài
tiểu luận được hoàn thiện hơn.
T
Nhóm thuyết trình xin chân thành cảm ơn cô!
2
I. KHÁI QUÁT VỀ XUẤT KHẨU DẦU THÔ VIỆT NAM
Việt Nam được xếp vào các nước xuất khẩu dầu mỏ (dầu thô) từ năm 1991 khi
sản lượng xuất được vài ba triệu tấn. Đến nay, sản lượng dầu khí khai thác và xuất
khẩu hàng năm đạt vào khoảng 20 triệu tấn/năm. Toàn bộ dầu thô khai thác được đều
dành cho xuất khẩu.
Việt Nam là nhà cung cấp dầu thô đứng thứ 3 Đông Nam Á, với trữ lượng dầu
thô đứng thứ 31 trên thế giới chiếm khoảng 0,2% trữ lượng dầu thế giới (theo Cơ
Quan Năng Lượng Quốc Tế - IEA). Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Hãng British
Petroleum, nếu với tốc độ khai thác như bây giờ thì trữ lượng dầu mỏ đã được thăm
dò của Việt Nam sẽ cạn kiệt sau 6 năm.
Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam (Vietnam National Oil and Gas Group –
PetroVietNam) là doanh nghiệp Nhà nước duy nhất được phép hoạt động trong lĩnh
vực tìm kiếm, thăm dò, khai thác và xuất khẩu dầu ra nước ngoài. Dưới sự quản lý
của Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam, các xí nghiệp liên doanh của Việt Nam với
các chính phủ nước ngoài trong đó lớn nhất là Xí nghiệp Liên doanh Vietsopetro-
cánh chim đầu đàn của ngành dầu khí Việt Nam (đóng góp 80% sản lượng khai thác

hàng năm) đã tiến hành thăm dò và khai thác dầu thô trên thềm lục đại Việt Nam.
Hiện nay, Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam (Vietnam National Oil and Gas
Group – PetroVietNam) và các đối tác liên doanh như Xí nghiệp Liên Doanh
Vietsopetro, Công ty dầu khí Việt - Nhật (JVPC), Petronas Carigali Vietnam (PCV)
đang tiến hành khai thác dầu thô trên các mỏ Bạch Hổ (do Vietsovpetro khai thác),
Rồng, Nam Côn Sơn, Đại Hùng, Hồng Ngọc, Rạng Đông, Sư Tử Đen,… Sắp tới mỏ
Phương Đông, Cá Ngừ Vàng sẽ đi vào hoạt động…
Thị trường xuất khẩu dầu thô chính của Việt Nam: Hiện có khoảng 10 nước
nhập khẩu dầu thô của Việt Nam, trong đó có các bạn hàng lớn là Australia (24%),
Nhật Bản (20%), Singapore, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia,…
3
Bảng 1 – Cơ cấu thị trường xuất khẩu dầu thô của Việt Nam (2007)
Tuy nhiên, hiện tại ở Việt Nam chưa có nhà máy lọc dầu nào đã đi vào hoạt
động. Dự kiến nhà máy lọc dầu Dung Quất sẽ đi vào hoạt động trong tháng 2/2009.
Hàng năm doanh thu từ hoạt động xuất khẩu dầu thô trung bình chiếm 25%
ngân sách nhà nước.
Dầu thô trong nhiều năm luôn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta.
II.TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU DẦU THÔ TỪ NĂM 2001 ĐẾN
THÁNG 08/2008
1. Tình hình xuất khẩu dầu thô giai đoạn 2001 – 2007.
1.1.Tình hình.
Giai đoạn 2001-2007 là giai đoạn khối lượng dầu thô xuất khẩu khả ổn định và
kim ngạch xuất khẩu tăng khá đều đặn.
- Về khối lượng xuất khẩu:
4
Bảng 2 - Biểu đồ khối lượng xuất khẩu dầu thô giai đoạn 2001 - 2007
(Nguồn: Tổng Cục Thống Kê)
Nhìn vào biểu đồ ta thấy, đồ thị có dạng parabol thoải cho thấy khối lượng dầu
thô xuất khẩu qua các năm khá ổn định, dao động trong khoảng 15- 20 triệu tấn; cao
nhất là vào năm 2004 với khối lượng xuất khẩu là 20,50 triệu tấn.

- Về kim ngạch xuất khẩu:
Bảng 3- Biểu đồ kim ngạch xuất khẩu dầu thô của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2007
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Nhìn vào biểu đồ ta thấy, kim ngạch xuất khẩu dầu thô giai đoạn 2001 – 2007
có xu hướng tăng dần theo thời gian, cao nhất là năm 2007 với kim ngạch xuất khẩu
đạt 8,59 tỷ USD. Qua phân tích tính toán, ta thấy tốc độ phát triển bình quân là
118,35 % và lượng tăng bình quân của kim ngạch xuất khẩu dầu thô là 0,91tỷ USD.
So với năm 2001, giá trị xuất khẩu năm 2007 tăng thêm 5,46 tỷ USD
(274,79%). Mặc dù lượng xuất khẩu có giảm đi 0,3 triệu tấn (98,2%) nhưng do giá
5
dầu thô tăng mạnh thêm 336 $/thùng (gấp 3 lần) nên kim ngạch xuất khẩu không
giảm mà vẫn tăng theo xu hướng chung.
Ta có biểu đồ giá xuất dầu thô bình quân của Việt Nam giai đoạn 2001-2007
Bảng 4- Biểu đồ giá xuất dầu thô bình quân của Việt Nam giai đoạn 2001-2007
1.2. Nguyên nhân
1.2.1. Sản lượng khai thác dầu thô làm giảm khối lượng xuất khẩu
Khối lượng xuất khẩu dầu thô hàng năm phụ thuộc vào sản lượng khai thác
hàng năm của nước ta. Vì nhà máy Lọc Dầu Dung Quất vẫn chưa đi vào hoạt động
nên toàn bộ sản lượng dầu khai thác ở nước ta nên toàn bộ sản lượng dầu thô khai
thác được sẽ để phục vụ xuất khẩu.
Từ năm 2001, các mỏ dầu mà Việt Nam khai thác được đang vận hành và sản
lượng đang ở mức cao và ổn định. Đến năm 2004 là năm sản lượng cao nhất. Tuy
nhiên, do nguồn tài nguyên thiên nhiên có hạn: sự cạn kiệt của các mỏ dầu cũ trong
khi công tác tham dò, khai thác các mỏ dầu mới không mới tiến triển nên sau đó sản
lượng năm 2005-2007 đã giảm.
1.2.2. Giá dầu thế giới tăng cao làm tăng kim ngạch xuất khẩu
Như vậy, có thể kết luận rằng, giai đoạn 2001 – 2007 sản lượng dầu thô khai
thác được là khá ổn định (dao động trong khoảng 15- 20 triệu tấn) do đó lượng thay
đổi là nhiều, không ảnh hưởng nhiều đến trị giá xuất khẩu. Trái lại, biến động của giá
dầu thô lại chính là nguyên nhân chính trực tiếp làm tăng kim ngạch xuất khẩu dầu

thô giai đoạn 2001-2007.
6
Giá dầu thế giới không ổn định chính là tác nhân chính tác động đến giá dầu
thô Việt Nam. Theo quy luật kinh tế thông thường, giá dầu thế giới cũng chịu chi
phối bởi cung và cầu. Trong đó, nguồn cung dầu mỏ chủ yếu chính là các nước
OPEC và các nước xuất khẩu dầu không thuộc OPEC và Mỹ có thể coi là người tiêu
dùng có nhu cầu về dầu mỏ lớn nhất thế giới. Do đó, những thay đổi trong chính sách
xuất khẩu của OPEC cũng như biến động của nền kinh tế Mỹ sẽ gây ảnh hưởng
không nhỏ tới giá dầu thế giới.
Giai đoạn 2001-2007 chứng kiến diễn biến căng thẳng về giá dầu thế giới.
Vào năm 2001, nền kinh tế Mỹ yếu đi và sự gia tăng sản lượng của các nước
ngoài OPEC đã gây áp lực giảm giá dầu. Giá dầu thế giới lúc này là 25USD/Thùng.
Ở trong nước thời điểm này giá dầu bình quân là 187USD/tấn tương đương
27USD/Thùng.
Từ năm 2004, nhu cầu tiêu thụ dầu của thế giới giai đoạn này là rất lớn (trên
80 triệu thùng/ngày) là nguyên nhân chính dẫn tới việc giá dầu vượt quá khoảng giá
40-50 USD/thùng. Một vài yếu tố quan trọng khác dẫn tới sự tăng lên của giá dầu đó
là sự suy yếu của đồng USD và sự phát triển liên tục và nhanh chóng của các nền
kinh tế châu á đi liền với sự tiêu thụ dầu của các quốc gia này.Các trận bão nhiệt đới
năm 2005 đã gây nên tổn thất cho hệ thống lọc dầu của Mỹ và các nước khác, cộng
với việc chuyển từ việc sử dụng hỗn hợp Ête, Butila và Metal sang sử dụng công
nghệ ethanol cũng đóng góp vào sự tăng giá dầu. Giai đoạn này giá dầu thô xuất khẩu
của Việt Nam là 396USD/Tấn tương đương 57USD/Thùng.
Một trong những lý do quan trọng nhất dẫn tới sự tăng lên của giá dầu đó là
mức dự trữ dầu ở Mỹ và các nước tiêu thụ dầu khác. Trước khi sử dụng khả năng sản
xuất thặng dư thì dự trữ dầu vẫn là một công rất tốt dùng để dự đoán giá dầu trong
ngắn hạn.Tuy nhiên OPEC đã không công bố công khai trong một vài năm do chính
sách liên quan tới việc quản lý dự trữ dầu thô quốc tế. Một lý do mà OPEC cắt giảm
sản lượng vào tháng 11/2006 và 2/2007 đó là việc dự trữ dầu của các nước thuộc tổ
chức hợp tác và phát triển kinh tế. Giai đoạn này giá dầu thế giới dao động trong

khoảng 60-70USD/Thùng trong khi đó giá dầu thô Việt Nam đạt mức trung bình
523USD/Tấn tương đương 73USD/Thùng.
7

Dầu thô là mặt hàng có kim ngạch liên tục đứng đầu, chiếm tới 22,7% tổng
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam; tốc độ tăng bình quân trong 5 năm đạt 16,1%,
trong đó do giá tăng 12,6%, do lượng tăng 3,1% nhưng chủ yếu là từ 2001- 2004,
còn từ năm 2005 đến nay có xu hướng giảm để tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; khi
Nhà máy Lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động thì xuất nhập khẩu dầu thô mới thôi
giữ vị trí đứng đầu.
2. Tình hình xuất khẩu dầu thô 8 tháng đầu 2008
2.1. Tình hình.
- Về khối lượng xuất khẩu:
Trong 8 tháng đầu năm 2008, sản lượng dầu thô xuất khẩu của Việt Nam giảm so
với cùng kì năm trước, chưa đạt được đúng tiến độ đã đề ra.
Biểu đồ thống kê sản lượng XK dầu thô 8 tháng đầu năm 2008
Cụ thể, trong quý I-2008, Petro Việt Nam đạt tổng sản lượng khai thác 5,64
triệu tấn quy dầu. Trong đó, lượng dầu thô xuất khẩu là 3,67 triệu tấn, riêng 2 tháng
đầu năm là 2,27 triệu tấn. Con số này nằm trong dự kiến 14,92 triệu tấn mà Việt
Nam dự định khai thác trong năm 2008 so với 15,8 triệu tấn đã khai thác được năm
2007.
8
Tháng 4 năm 2008, sản lượng dầu thô khai thác 4 tháng ước tính đạt 5,02 triệu
tấn, giảm 4,3% so với cùng kỳ năm trước. Dầu thô xuất khẩu đạt 4,58 triệu tấn, giảm
9,6% về lượng so với cùng kỳ năm trước;
Tiếp đó, theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, 5 tháng đầu năm sản
lượng xuất khẩu dầu thô ước đạt 5,7 triệu tấn, bằng 81,8% 5 tháng đầu năm 2007
Tổng kết 2 quý đầu năm 2008, sản lượng xuất khẩu dầu thô đạt 6,7 triệu tấn.
Tháng 7, nước ta đã khai thác được hơn 1 triệu tấn dầu thô, giảm 3,7% so với
tháng 6, do đó làm tổng sản lượng xuất khẩu 7 tháng đầu năm giảm 6% so với năm

trước. Theo thống kê của bộ Công Thương, 7 tháng đầu năm 2008 Việt Nam đã xuất
khẩu được 7,8 triệu tấn dầu thô, chiếm 53.5% kế hoạch năm.
Như vậy, xuất khẩu dầu thô chưa đạt tiến độ (qua 8 tháng mới chỉ đạt 9 triệu
tấn trong khi kế hoạch cả năm tối thiểu là 15 triệu tấn), giảm 10,8% về lượng so với
cùng kỳ năm trước.
- Về kim ngạch xuất khẩu:
Đứng đầu trong số 10 mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỉ USD, tăng so với
cùng kì năm trước do giá dầu thế giới tăng cao.
Biểu đồ thống kê Kim ngạch XK dầu thô của nước ta trong 8 tháng đầu năm
2008
9

×