Tải bản đầy đủ (.pdf) (134 trang)

XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CHO HỌC SINH LỚP 4 TRONG DẠY HỌC MÔN TOÁN - Full 10 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 134 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG NAM
KHOA: TIỂU HỌC – MẦM NON

----------

NGUYỄN THỊ THÚY

XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP TRẮC
NGHIỆM KHÁCH QUAN NHẰM PHÁT HUY

TÍNH TÍCH CỰC CHO HỌC SINH LỚP 4
TRONG DẠY HỌC MƠN TỐN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Quảng Nam, tháng 5 năm 2016

Để hoàn thành bài khóa luận này, tơi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ
thầy cô giáo, bạn bè và người thân.

Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cơ giáo Th.S Nguyễn Thị
Thu Thủy, người đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo động viên tôi trong suốt quá trình
thực hiện khóa luận. Qua đó, tơi đã tích lũy thêm nhiều hiểu biết về phương pháp
và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học để có thể hồn thành khóa luận này.

Chân thành cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ của quý thầy cô giáo trong khoa
Tiểu học – Mầm non, trường Đại học Quảng Nam đã giảng dạy tơi trong suốt q
trình làm khóa luận; tạo điều kiện thuận lợi để tơi học tập, nghiên cứu và hồn
thành bài khóa luận này.

Tôi cảm ơn sự hợp tác, giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, các thầy cô


giáo cùng các em học sinh khối lớp 4 trường Tiểu học Võ Thị Sáu đã giúp đỡ tơi
trong q trình khảo sát, điều tra sư phạm, dạy thực nghiệm và thu thập những số
liệu cần thiết cho bài khóa luận.

Cuối cùng, tôi xin gửi đến những người thân yêu và bạn bè gần xa đã
động viên, khích lệ tơi trong suốt q trình thực hiện khóa luận lời cảm ơn sâu
sắc nhất. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nỗ lực để hồn thành khóa luận nhưng chắc
chắn sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự chỉ bảo của
quý thầy cô giáo cũng như đóng góp của các bạn quan tâm.

Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tam Kỳ, tháng 4 năm 2016
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Thúy

1

A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Đầu tư trong lĩnh vực giáo dục là
hoạt động đầu tư đặc thù thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện và được ưu đãi đầu
tư (Khoản 1, Điều 13 - Luật Giáo dục). Vì vậy, ngành giáo dục đã không ngừng
đổi mới, áp dụng những phương pháp dạy học hiện đại vào trong công tác giảng
dạy để phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh, phát triển tốt tư duy, năng lực
của người học. Trong chương trình Tiểu học, cùng với mơn Tiếng Việt, mơn
Tốn có vị trí hết sức quan trọng. Từ những kiến thức có được từ mơn Tốn sẽ
giúp các em có được các kĩ năng ứng dụng vào đời sống hằng ngày, trong lao
động. Hơn nữa, đây là cơ sở tạo tiền đề cho việc học ở các bậc học cao hơn sau

này, giúp học sinh nhận biết những mối quan hệ về số lượng và hình dạng khơng
gian của thế giới hiện thực; rèn luyện cho học sinh phương pháp suy nghĩ, giải
quyết vấn đề, phát triển trí thơng minh; phát triển khả năng nhận thức thế giới
hiện thực thông qua các phương pháp như phân tích - tổng hợp, so sánh, khái
quát hóa, trừu tượng hóa, cụ thể hóa... Ngồi ra, mơn Tốn cịn giúp học sinh rèn
luyện trí tuệ như: tính sáng tạo, tính linh hoạt, tính độc lập...

Với vai trò quan trọng như vậy nên cần phải đưa ra nhiều hình thức và
phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của người học, nâng cao chất
lượng học tập. Tuy nhiên mỗi hình thức lại có những ưu nhược điểm nhất định,
khơng có hình thức nào là hồn mỹ cho việc thực hiện mục tiêu giáo dục. Trong
những năm gần đây, loại trắc nghiệm khách quan có nhiều ưu thế và phù hợp với
ngành giáo dục nước ta, đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo chính thức sử dụng vào
việc kiểm tra, đánh giá chất lượng học sinh. Tác dụng của việc sử dụng câu hỏi
trắc nghiệm có ảnh hưởng tích cực trong q trình giáo dục. Việc sử dụng trắc
nghiệm hợp lý sẽ giúp người giáo viên kiểm tra một cách thực chất kết quả học
tập của học sinh để rồi từ đó có biện pháp điều chỉnh thích hợp trong q trình
dạy học của mình. Sử dụng câu hỏi trắc nghiệm khách quan trong dạy học mơn
Tốn của học sinh tiểu học đảm bảo tính khách quan, xác định rõ được trình độ
kiến thức cũng như năng lực học tập, đảm bảo tính tồn diện trong quá trình đánh

2

giá đó là chú trọng cả kiến thức, kỹ năng và thái độ, phát huy tính tích cực, tự
giác trong học tập của học sinh. Tích cực, tự giác trong học tập sẽ giúp học sinh
chủ động, tự tin và sáng tạo trong học tập, đây cũng chính là bản chất của những
phương pháp dạy học hiện đại - lấy người học làm trung tâm của q trình dạy
học. Chính vì vậy địi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị hệ thống câu hỏi thật chu
đáo, sát thực với những kiến thức mà các em được tiếp thu.


Để đạt được hiệu quả cao trong việc sử dụng bài tập trắc nghiệm khách
quan trong dạy học thì giáo viên cần trang bị đầy đủ kiến thức về trắc nghiệm và
việc sử dụng hình thức trắc nghiệm khách quan trong dạy học phải theo hệ thống
câu hỏi thật logic. Có như vậy thì việc sử dụng trắc nghiệm mới phát huy hết tính
hiệu quả của nó trong q trình dạy học. Tuy nhiên trên thực tế dạy học hiện nay,
nhiều giáo viên chỉ chú trọng đến việc cung cấp kiến thức, mà chưa chú trọng
đến việc phát huy cao tính tích cực, tự giác trong học sinh, việc sử dụng hệ thống
câu hỏi trắc nghiệm khách quan chưa thật sự hợp lý và chưa phát huy vai trị của nó
trong việc phát huy tính tích cực của người học.

Vì những lí do đã nêu trên, chúng tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài: “Xây
dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan nhằm phát huy tính tích cực cho
học sinh lớp 4 trong dạy học mơn Tốn” để góp phần đưa ra hệ thống bài tập giúp
học sinh phát huy tính tích cực, đem lại hiệu quả cao trong dạy học mơn Tốn.
2. Mục tiêu của đề tài

Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan trong dạy học Tốn
lớp 4 nhằm phát huy tính tích cực, chủ động cho học sinh, góp phần nâng cao
chất lượng dạy học mơn Tốn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan nhằm phát huy tính
tích cực cho học sinh lớp 4.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Về lý luận

Tìm hiểu tài liệu về nội dung dạy học mơn Tốn lớp 4 trong chương trình

3


học kì II.
3.2.2. Về thực tiễn

Tìm hiểu thực trạng việc xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan
trong dạy học mơn Tốn 4 trường Tiểu học Võ Thị Sáu - Tam Kỳ - Quảng Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận

Nghiên cứu đọc giáo trình, sách giáo khoa, các tài liệu về lý luận dạy học,
tâm lý học, giáo dục học và các tài liệu liên quan đến đề tài. Dùng phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh rút ra những vấn đề lý luận có tính chất định hướng
làm cơ sở để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
4.2.1. Phương pháp điều tra thực tế

Xây dựng phiếu điều tra gồm hệ thống các câu hỏi về việc sử dụng hệ
thống bài tập trắc nghiệm khách quan trong dạy học Toán lớp 4. Tìm hiểu thực
trạng việc sử dụng bài tập trắc nghiệm khách quan trong dạy học, phát hiện ra
những vấn đề cần giải quyết, nguyên nhân, chuẩn bị cho các bước nghiên cứu
tiếp theo.

Thông qua trao đổi, phỏng vấn học sinh, giáo viên và phụ huynh học sinh
nhằm nắm bắt, thu thập các tài liệu, các thơng tin và tình hình thực tế có liên
quan đến nội dung đề tài nghiên cứu.
4.2.2. Phương pháp quan sát

Thông qua các tiết dự giờ trên lớp để quan sát tình hình học tập của học
sinh. Qua đó có thể biết được khả năng tiếp thu, nắm bắt kiến thức và vận dụng
kiến thức vào giải bài tập.

4.2.3. Phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia

Tham khảo ý kiến của thầy cô giáo trong khoa Tiểu học – Mầm non và
thầy cô giáo tại trường Tiểu học.
4.3. Phương pháp thống kê toán học

Sử dụng cơng thức tốn học để thống kê, xử lí số liệu nhằm đưa đến các
kết luận khoa học của đề tài.

4

4.4. Phương pháp thực nghiệm
Thiết kế kế hoạch dạy học và tiến hành thực nghiệm một số tiết dạy nhằm

chứng minh tính khả thi và hiệu quả của hệ thống bài tập đã xây dựng.
5. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
5.1. Trên thế giới

Các phương pháp trắc nghiệm đo lường thành quả học tập đầu tiên được
tiến hành vào thế kỷ XVII - XVIII tại Châu Âu. Sang thế kỉ XIX đầu thể kỉ XX,
các phương pháp trắc nghiệm đo lường thành quả học tập đã được chú ý.

Năm 1904 nhà tâm lí học người Pháp - Alfred Binet trong quá trình nghiên
cứu trẻ em mắc bệnh tâm thần, đã xây dựng một số bài trắc nghiệm về trí thơng
minh. Năm 1916, Lewis Terman đã dịch và soạn các bài trắc nghiệm này ra tiếng
Anh từ đó trắc nghiệm trí thơng minh được gọi là trắc nghiệm Stanford - Binet.

Vào đầu thế kỷ XX, E. Thorm Dike là người đầu tiên đã dùng trắc nghiệm
khách quan như là phương pháp “khách quan và nhanh chóng” để đo trình độ học
sinh, bắt đầu dùng với mơn số học và sau đó là một số môn khác.


Trong những năm gần đây trắc nghiệm là một phương tiện có giá trị
trong giáo dục. Hiện nay trên thế giới trong các kì kiểm tra, thi tuyển một số
mơn đã sử dụng trắc nghiệm khá phổ biến.
5.2. Ở Việt Nam

Tác giả Nguyễn Như An dùng phương pháp trắc nghiệm khách quan
trong việc thực hiện đề tài “Bước đầu nghiên cứu nhận thức tâm lí của sinh viên
đại học sư phạm” năm 1976 và đề tài “Vận dụng phương pháp test và phương
pháp kiểm tra truyền thống trong dạy học tâm lí học” năm 1978.

Những năm gần đây, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường đại
học, Bộ giáo dục và Đào tạo và các trường đại học đã tổ chức các cuộc hội thảo
trao đổi về việc cải tiến hệ thống các phương pháp kiểm tra, đánh giá của sinh
viên trong nước và trên thế giới, các khoá huấn luyện và cung cấp những hiểu
biết cơ bản về lượng giá giáo dục và các phương pháp trắc nghiệm khách quan.

Theo xu hướng đổi mới của việc kiểm tra đánh giá, Bộ giáo dục và đào
tạo đã giới thiệu phương pháp trắc nghiệm khách quan trong các trường đại học

5

và bắt đầu những cơng trình nghiên cứu thử nghiệm. Các cuộc hội thảo, các lớp
huấn luyện đã được tổ chức ở các trường như: Đại học sư phạm Hà Nội, Đại học
Bách khoa Hà Nội, Cao đẳng sư phạm Hà Nội...

Tháng 4 năm 1998, trường Đại học sư phạm Hà Nội - Đại học quốc gia
Hà Nội có tổ chức cuộc hội thảo khoa học về việc sử dụng trắc nghiệm khách
quan trong dạy học và tiến hành xây dựng ngân hàng trắc nghiệm khách
quan để kiểm tra, đánh giá một số học phần của các khoa trong trường.


Ngoài ra, một số nơi khác cũng đã bắt đầu nghiên cứu việc sử dụng
phương pháp trắc nghiệm khách quan trong quá trình kiểm tra, đánh giá nhận
thức của học sinh. Một số môn đã có sách trắc nghiệm khách quan như: Tốn
học, Văn học, Vật Lí, Hố học, Sinh học, Tâm lí học...

Như vậy, phương pháp trắc nghiệm khách quan đã rất phổ biến ở các nước
phát triển, trong nhiều lĩnh vực, nhiều môn học với kết quả tốt và được đánh giá
cao. Việc xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan đã được nhiều tác
giả tìm hiểu nhưng vấn đề xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan
nhằm phát huy tính tích cực cho học sinh lớp 4 vẫn chưa có tác giả nào nghiên cứu.
6. Đóng góp của đề tài

Hệ thống hóa một số vấn đề về trắc nghiệm khách quan và thực tiễn sử
dụng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan trong dạy học mơn Tốn 4.

Tìm hiểu thực trạng việc xây hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan
nhằm phát huy tính tích cực cho học sinh lớp 4 trong dạy học mơn Tốn.

Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan nhằm phát huy tính
tích cực cho học sinh lớp 4 trong dạy học mơn Tốn.

Thực nghiệm sư phạm.
Hướng dẫn sử dụng hệ thống bài tập vào thực tiễn dạy học Tốn 4 để góp
phần phát huy tính tích cực của học sinh, nâng cao chất lượng dạy học.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục; nội dung đề
tài được chia thành 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng hệ thống bài tập


6

trắc nghiệm khách quan nhằm phát huy tính tích cực cho học sinh lớp 4 trong dạy học
mơn Tốn.

Chương 2. Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan nhằm phát
huy tính tích cực cho học sinh lớp 4 trong dạy học mơn Tốn .

Chương 3. Thực nghiệm sư phạm.

7

B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CHO HỌC SINH LỚP 4

TRONG DẠY HỌC MƠN TỐN
1.1. Một số vấn đề về trắc nghiệm khách quan
1.1.1. Khái niệm trắc nghiệm khách quan (TNKQ)

Theo chữ hán “trắc” có nghĩa là “đo lường”, “nghiệm” có nghĩa là “suy
xét, chứng thực”. “Trắc nghiệm” (Test) theo tiếng Anh là “thử”, “phép thử”, “sát
hạch”. Để tìm hiểu rõ khái niệm về câu hỏi trắc nghiệm, chúng ta hãy tìm hiểu
một số định nghĩa của các nhà lý luận về trắc nghiệm như sau:

Theo A. Petropxi (1970) cho rằng: “Trắc nghiệm (test) là bài tập làm
trong thời gian ngắn mà việc thực hiện bài tập đó nhờ có sự đánh giá về số lượng,
chất lượng có thể coi là dấu hiệu của sự hoàn thiện một số chức năng tâm lý”.
[10, 13]


Theo Trần Bá Hồnh: “Test có thể tạm dịch là phương pháp trắc nghiệm
là hình thức đặc biệt để thăm dị một số đặc điểm về năng lực, trí tuệ của học sinh
(thơng minh, trí nhớ, tưởng tượng, chú ý…)”. [10, 13]

Theo Gronlund (1981): “Trắc nghiệm là cơng cụ hay quy trình có hệ
thống nhằm đo lường mức độ một cá nhân đạt được trong một lĩnh vực cụ thể
nào đó”. [10, 13]

Cho tới ngày nay người ta vẫn hiểu trắc nghiệm là một bài tập nhỏ hoặc
câu hỏi có kèm theo câu trả lời sẵn, yêu cầu học sinh suy nghĩ rồi dùng kí hiệu
đơn giản đã quy ước để trả lời.

Trên đây là một số ý kiến của một số tác giả trong và ngồi nước, qua đó
ta thấy được nhiều mặt, nhiều khía cạnh khác nhau thuộc về bản chất của câu hỏi
trắc nghiệm. Đa số các nhà tâm lý học hiện nay đều có xu hướng xem trắc
nghiệm là một phương pháp dạy học dùng những bài tập ngắn để kiểm tra, đánh
giá khả năng hoạt động nhận thức, năng lực trí tuệ và kĩ năng của học sinh.

Trắc nghiệm (TN) trong giáo dục là phương pháp dùng bài trắc nghiệm

8

như một công cụ đo lường mức độ mà cá nhân đạt được trong một lĩnh vực cụ thể.
Trong lĩnh vực giáo dục có nhiều cách phân loại TN. Căn cứ vào mục đích

của TN có TN năng lực và trắc nghiệm kết quả học tập. Căn cứ vào việc sử dụng
TN có TN theo tiêu chuẩn và TN theo tiêu chí. Căn cứ vào mục đích và q trình
tiến hành TN có TN hình thành và TN tổng kết…


Như vậy, TNKQ là hình thức HS chỉ sử dụng các ký hiệu đơn giản để xác
nhận câu trả lời đúng. Thơng thường có nhiều câu trả lời được cung cấp cho
mỗi câu hỏi nhưng chỉ có một câu trả lời đúng nhất. Bài TN được chấm
bằng cách đếm số lần HS chọn câu trả lời đúng. Do đó kết quả bài làm khách
quan và khơng phụ thuộc vào người chấm.
1.1.2. Vai trị của trắc nghiệm khách quan trong dạy học

TN là một quy trình nằm trong nhóm quy trình kiểm tra và đánh giá thành
quả học tập. TNKQ dùng trong kiểm tra đánh giá đã mang lại hiệu quả cao hơn
so với các phương pháp kiểm tra đánh giá khác như:

- Phạm vi kiến thức rộng, bao quát tránh được việc học lệch, học tủ của HS.
- Đánh giá chính xác mức độ nhận thức của HS trong quá trình học tập.
- Các thơng tin phản hồi lại của HS nhanh chóng.
Nó có chức năng tạo thơng tin “liên hệ ngược ngồi” tác động lên người
dạy để người dạy điều chỉnh nội dung, phương pháp giảng dạy cho phù hợp với
mục tiêu. Ngoài ra, nó cịn tạo thơng tin “liên hệ ngược trong” tác động đến
người học, giúp người học tự điều chỉnh thái độ, phương pháp, tâm thế học tâp theo
hướng tích cực hơn.
Với người dạy, sử dụng phương pháp TN nhằm cung cấp thông tin ngược
để điều chỉnh phương pháp, nội dung cho phù hợp, nắm bắt được trình độ người
học và quyết định nên bắt đầu từ đâu, tìm ra khó khăn để giúp đỡ người học, tổng
kết để thấy đã đạt được mục tiêu dạy học hay chưa, có nên cải tiến phương pháp
dạy học hay không và cải tiến theo hướng nào để đạt được hiệu quả trong dạy
học. Do đó TN đã nâng cao hiệu quả trong giảng dạy.
Với người học, sử dụng TN có thể tăng cường tinh thần trách nhiệm trong
học tập, học tập trở nên nghiêm túc. TNKQ giúp người học tự kiểm tra – đánh

9


giá kiến thức, kĩ năng, phát hiện năng lực tiềm ẩn của mình. Sử dụng TNKQ giúp
cho quá trình tự học có hiệu quả hơn, phát huy được suy nghĩ độc lập sáng tạo
của người học, phát triển được tính tích cực, chủ động, tự giác trong học tập, linh
hoạt vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các tình huống nảy sinh trong thực
tế cuộc sống.

Hiện nay, với quan điểm tích cực trong dạy học (lấy người học làm trung
tâm) thì TNKQ được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau như:

- Sử dụng vào việc lập kế hoạch giảng dạy: TNKQ được sử dụng nhằm
mục đích kiểm tra mức độ nhận thức của HS sau một năm học, đồng thời nhằm
giúp nhà trường tìm được những yếu kém trong giảng dạy để nâng cao chất
lượng giảng dạy.

- Sử dụng trong khâu bài học mới: GV có thể cho HS làm câu hỏi TNKQ,
cho HS lựa chọn phương án nào đúng nhất và phát hiện thêm tại sao HS lại chọn
câu đó. Do đó, HS phải tìm tịi tài liệu mới trả lời được. Do vậy, GV phải có sự
khéo léo dẫn dắt HS hướng vào bài mới và đây là biện pháp rất có hiệu quả.

- Sử dụng trong khâu ơn tập, củng cố, hồn thiện và nâng cao kiến thức:
Sau mỗi bài, mỗi chương đều nên có những bài kiểm tra hình thức TNKQ sẽ giúp
HS nhớ kiến thức lâu hơn mà không phải học vẹt.

Như vậy, để đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả thì phải đổi mới
phương pháp kiểm tra đánh giá: một trong những phương pháp đạt hiệu quả là sử
dụng TNKQ. Mặt khác, TNKQ cịn có thể sử dụng ở các khâu trong quá trình
dạy học và mang lại hiệu quả cao.
1.1.3. Phân loại trắc nghiệm khách quan
1.1.3.1. Trắc nghiệm đúng – sai


Loại câu TN đúng – sai là một câu khẳng định mà nội dung của nó có thể
chứa một hoặc nhiều mệnh đề. Người làm bài có nhiệm vụ xác định nội dung
khẳng định đó là đúng hay sai.

Đối với nội dung câu đúng: mọi chi tiết trong phát biểu, khẳng định phải
đúng và phù hợp với tri thức khoa học.

Đối với nội dung câu sai: trong cùng một phát biểu, khẳng định có nhiều

10

mệnh đề thì chỉ cần một chi tiết hoặc một mệnh đề sai với khoa học thì tồn bộ

câu đó được hiểu là sai.

Ví dụ 1: Đúng ghi Đ, sai ghi S vào ô trống:

a) Nếu hai chữ số chia hết cho 5 thì tổng của chúng chia hết cho 5 

b) Nếu tổng các chữ số chia hết cho 3 thì số đó chia hết chia hết cho 9 

c) Nếu hiệu hai chữ số chia hết cho 2 thì hai số đó chia hết cho 2 

d) Số 3560 vừa cia hết cho 3 vừa chia hết cho 5 

Ví dụ 2: Đúng ghi Đ, sai ghi S vào ô trống:

a) 496857 < 497899  c) 545630 = 554630 

b) 657890 > 658999  d) 289357 < 290000 


• Ưu điểm

Ra đề dễ dàng. Đề thi vừa có thể là câu trần thuật vừa có thể là câu hỏi. Ý

nghĩa của đề thi vừa có thể là khẳng định, cũng có thể là phủ định, hình thức đơn

giản, giáo viên ít mắc phải sai lầm khi thiết kế.

• Nhược điểm

Loại câu TN này chỉ kiểm tra được HS ở hai mức độ: hiểu, biết.

HS có thể đốn mị, vì vậy có độ tin cậy thấp, dễ tạo điều kiện cho HS học

thuộc lịng hơn là hiểu.

HS giỏi có thể khơng thoả mãn khi buộc phải chọn đúng hay sai, hoặc có

thể có những trường hợp ngoại lệ chứ khơng phải chỉ có hồn tồn đúng hay

hồn tồn sai.

1.1.3.2. Trắc nghiệm nhiều lựa chọn

Câu hỏi TN yêu cầu người thi tuỳ ý lựa chọn đáp án chính xác trong một

số đáp án được gọi là câu hỏi nhiều phương án lựa chọn, gọi tắt là câu hỏi nhiều

lựa chọn.


Một câu hỏi nhiều lựa chọn gồm 2 bộ phận: câu dẫn và câu chọn. Trong

câu chọn chia thành 2 loại: câu đúng (hoặc câu sai phải lựa chọn) và câu nhiễu.

- Câu dẫn: Ở đầu câu kiểm tra có thể viết dưới dạng một câu trực tiếp hay

một cách phát biểu không đầy đủ. Điều này có tác dụng như cách phát biểu để

tạo ra một kích thích gợi ý câu trả lời cho HS.

11

- Câu chọn: Thường gồm từ 3 đến 5 câu là phù hợp, câu lựa chọn khơng

nên q ít hoặc quá nhiều dựa vào quy luật tâm lý và các quy luật xác suất thống kê.

+ Câu đúng: Là câu đúng nhất trong các câu lựa chọn

+ Câu sai: Là câu kém chính xác nhất

+ Câu nhiễu: Là câu trả lời có vẻ hợp lý, chúng có tác động nhiều đối với

học sinh có năng lực tốt và tác dụng thu hút đối với HS có năng lực kém.

Ví dụ 3: Trong các phân số dưới đây, phân số nào bé nhất?

A. 5 B. 4 C. 4 D. 3
4 5 4 4


Ví dụ 4: 6dag5g = ......... g.

A. 65 g B. 605 g C. 56 g D. 650 g

• Ưu điểm

Đây là loại câu TN có độ may rủi thấp, xác suất may rủi tự nhiên phụ

thuộc số lượng chọn trả lời.

Nếu được biên soạn một cách khoa học các câu TN loại này thường có

tính tin cậy rất cao.

Có thể sử dụng trong nhiều trường hợp vì đây là một loại TN có tính linh

động cao.

Khả năng phân biệt năng lực học tập HS là rất tốt. Có thể dùng để đánh

giá năng lực học tập của một số lượng HS rất đông, thời gian chấm bài nhanh và

chính xác.

Kết quả chấm bài khách quan vì khơng phụ thuộc nhiều vào người chấm.

Kết quả của bài TNKQ không phụ thuộc vào chữ viết, khả năng diễn đạt của HS

và trình độ người chấm bài…


• Nhược điểm

Viết câu hỏi rất khó khăn. Vì việc biên soạn và đáp án chính xác vừa có

khác biệt bản chất nhưng về bề mặt là có những chỗ tương đồng như 3, 4 phương

án nhiễu, thực sự không phải là một việc dễ dàng.

Các nhân tố để đoán đúng đáp án đã giảm đi so với câu đúng sai nhưng

nó vẫn tồn tại.

Loại câu hỏi này khó soạn vì phải tìm câu trả lời đúng nhất, còn những

12

câu cịn lại gọi là câu nhiễu thì cũng phải hợp lý. Ngồi ra phải soạn câu hỏi thế

nào đó để đo được các mức trí nâng cao hơn mức biết, mức hiểu.

Những HS có óc sáng tạo, tư duy tốt có thể tìm ra những câu trả lời hay

hơn đáp án thì sẽ làm cho HS đó cảm thấy khơng thoả mãn.

Các câu hỏi nhiều lựa chọn có thể khơng đo được khả năng phán đốn tinh

vi và khả năng giải quyết vấn đề khéo léo, sáng tạo một cách hiệu nghiệm bằng

loại câu hỏi TNTL.


1.1.3.3. Trắc nghiệm điền khuyết

TN điền khuyết là hình thức các phát biểu, hoặc khẳng định chưa hồn

chỉnh khi cịn chừa các khoảng trống. Nhiệm vụ của người làm bài là điền hoặc

liệt kê một từ hoặc nhiều từ vào các khoảng trống bỏ lửng để nội dung của phát

biểu đó đúng.

Ví dụ 5: Điền số thích hợp vào chỗ trống

a) 1 + 1 + 1 = 1 + 1 + ....

2 7929

b) 2  3  5 = 5  2  ....

3 7 44 3

c) 3  ( 4 + 3 ) = 3  4 + 3  ...

2 57 2 5 7

Ví dụ 6: A B

D C

Hình bình hành ABCD có:


a) AH vng góc với: ..........

b) AD song song với: ..........

c) AB song song với: ..........

• Ưu điểm

Có thể đo lường mức độ ghi nhớ và lí giải kiến thức.

Tất cả các mơn học đều có thể dùng, phạm vi ứng dụng rộng rãi.

Cơ hội đốn mị là rất thấp.

13

HS có cơ hội trình bày những câu trả lời khác thường, phát huy óc sáng
kiến; khơng có cơ hội đốn mị mà phải nhớ ra, nghĩ ra, tìm ra câu trả lời. Việc
chấm bài vẫn nhanh hơn TNTL song rắc rối hơn những loại câu hỏi TNKQ khác.
Loại câu hỏi này cũng dễ soạn hơn loại câu hỏi nhiều lựa chọn.
• Nhược điểm

Nhìn từ bề ngồi thì câu hỏi điền vào chỗ trống yêu cầu hoạt động trí lực
cao hơn câu hỏi lựa chọn. Vì nó đưa ra câu trả lời dựa trên cơ sở tái hiện, chứ
không phải đưa ra câu trả lời dựa trên cơ sở nhận thức lại. Nhưng trên thực tế,
câu hỏi điền vào chỗ trống khơng phân tích một cách sâu sắc năng lực nhận thức,
tư duy và lý giải như câu hỏi lựa chọn.

Khó nắm bắt được đáp án HS đưa ra, tính chính xác của đáp án đưa ra
kém, tính chủ quan của người chấm bài nhiều hơn.


Khi soạn thảo loại câu hỏi này thường dễ mắc sai lầm là trích nguyên văn
câu từ trong sách, rồi bỏ đi một vài từ.

Phạm vi kiểm tra của loại câu hỏi này thường chỉ giới hạn vào chi tiết vụn
vặt. Việc chấm bài mất nhiều thời gian và thiếu khách quan hơn loại câu hỏi
nhiều lựa chọn.
1.1.3.4. Trắc nghiệm ghép đôi

TN ghép đôi là một loại của câu lựa chọn, cấu kết của nó bao gồm hai
phần: một là, nhóm vấn đề; hai là, nhóm phương án lựa chọn đã chuẩn bị. Khi trả
lời yêu cầu HS chọn ra một phương án thích hợp nhất từ trong các lựa chọn trong
mỗi vấn đề. Mỗi lựa chọn có thể sử dụng một lần, cũng có thể sử dụng nhiều lần
và cũng có thể khơng sử dụng.
Ví dụ 7: Mỗi số trong hình trịn là kết quả của phép tính nào?

9450 : 35 2448 : 24 12288 : 48 57646 : 19 7668 : 54

270 256 3040 102 142

14

• Ưu điểm
Thích hợp sử dụng nhất cho đo lường tri thức mang tính sự kiện và tính

tương quan giữa các sự kiện.
Hiệu suất TN khá cao, diện kiến thức phủ khắp tương đối rộng trong thời

gian TN.
Câu hỏi ghép đơi dễ viết, dễ dùng. Có thể dùng loại câu hỏi này để đo các


mức trí năng khác nhau. Nó đặc biệt hữu hiệu trong việc đánh giá khả năng nhận
biết các hệ thức hay lập các mối tương quan.
• Nhược điểm

Vẫn tồn tại những nhân tố đoán mò.
Loại câu hỏi TN ghép đơi khơng thích hợp cho việc thẩm định các khả
năng như sắp đặt và vận dụng các kiến thức. Muốn soạn loại câu hỏi này để đo
mức trí năng cao địi hỏi nhiều cơng phu. Ngồi ra nếu danh sách mỗi cột dài thì
tốn nhiều thời gian cho HS đọc nội dung mỗi cột trước khi ghép đơi.
1.1.3.5.Trắc nghiệm mơ hình
Có thể gọi TN mơ hình là TN tranh ảnh hay sơ đồ.
Trắc nghiệm mơ hình là loại TN sử dụng hình thức và kĩ thật xây dựng
của các loại câu TN trên, đặc biệt là TN nhiều lựa chọn và TN điền khuyết vào ơ
trống. Song có sự hỗ trợ và thể hiện bằng các mơ hình dạy học (tranh ảnh, hình
vẽ, sơ đồ, bản đồ, biểu đồ...)
Ví dụ: Hãy nối nội dung đã cho với hình vẽ thích hợp và điền vào chỗ trống cho
đúng:

3cm Hình bình hành
2cm Chu vi là: (3 + 4) 2 = 14cm
Diện tích là: ................ = ....... cm2

4cm Hình chữ nhật
Chu vi là: (2 + 3) 2 = 10cm
2cm 3cm Diện tích là: ................ = ....... cm2

15

• Ưu điểm

Hệ thống hóa được hệ thống kiến thức, khái quát hóa nội dung bài học,

phát triển tư duy cho người học.
Phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của HS tiểu học

• Nhược điểm
Trong mơn Tốn học khơng có nhiều bài tập để thiết kế ở dạng TN mơ

hình. Vì thế, những bài tập TN mơ hình này thường khó xây dựng.
1.1.4. Ưu điểm và hạn chế của trắc nghiệm khách quan
1.1.4.1. Ưu điểm

Bài tập có nhiều câu hỏi TNKQ sẽ bao phủ được nội dung chương trình,
do đó HS khơng thể xem nhẹ chương nào, phần nào để tự bỏ bớt trong quá trình
học tập.

Nhiều câu hỏi thường có phạm vi rộng để kiểm tra kiến thức của HS nên
buộc HS phải học kỹ, nắm được kiến thức mới có thể làm bài tốt.

TNKQ nếu được thực hiện tốt có thể gây được hứng thú, lịng say mê mơn
học, tránh học tủ để đối phó và phát huy được tính tích cực học tập của HS. Các
em có thể tự học, tự đánh giá cho bản thân và đánh giá chéo cho bạn bè.

Rèn luyện cho HS kỹ năng làm bài và có tác phong nhanh nhẹn.
Rất có ưu thế khi chấm bài với số lượng lớn, chấm nhanh, chính xác,
khách quan hoặc khi cần so sánh trình độ các lớp HS khác nhau.
1.1.4.2. Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm nổi bật trên, TNKQ cũng khơng tránh khỏi
những hạn chế tất yếu của nó. Do vậy, khi sử dụng cần lưu ý một số nhược điểm sau:
Việc soạn thảo câu hỏi TNKQ rất công phu, phải theo quy trình. Do đề bài

tập có sẵn các phương án trả lời nên khó đánh giá được q trình suy nghĩ của
HS, có thể khuyến khích HS đốn mị.
Nếu số lượng bài tập khơng đủ lớn thì sẽ khơng thể bảo mật được HS sẽ
dựa vào các bài tập cũ để chuẩn bị các phương án trả lời.
Nếu lạm dụng nhiều loại hình bài tập này sẽ khiến HS phát triển trí nhớ
một cách máy móc, ít phát triển tư duy. Đây là nhược điểm lớn nhất của TNKQ.

16

Qua những nhược điểm trên, ta thấy TN không phải là vạn năng nhưng nó
có nhiều ưu điểm hơn những phương pháp khác, những hạn chế trên của mỗi câu
TNKQ có thể khắc phục được nếu chúng ta soạn thảo hệ thống ngân hàng câu
hỏi TNKQ theo đúng quy trình kĩ thuật và đủ lớn để dự trữ và phải thường xuyên
thay đổi, bổ sung làm cho hệ thống bài tập luôn phong phú, đáp ứng yêu cầu
kiểm tra đánh giá KQHT của HS.
1.1.5. Kĩ thuật xây dựng từng loại câu trắc nghiệm khách quan
 Kĩ thuật biên soạn câu hỏi đúng – sai

Để sử dụng có hiệu quả các câu hỏi đúng – sai chúng ta cần chú ý: Không
nên viết những câu hỏi về những chi tiết vụn vặt của chương trình, trình tự các
câu đúng/sai khơng nên theo quy luật để tránh học sinh đốn mị.

Khi soạn thảo câu hỏi đúng – sai , GV cần thực hiện theo các bước:
Bước 1: Chọn nội dung cần xây dựng câu TN.
Bước 2: Đưa ra các mệnh đề (câu hỏi) và yêu cầu HS chọn mệnh đề nào
đúng, mệnh đề nào sai.
Bước 3: Hoàn thiện câu hỏi TN.
 Kĩ thuật biên soạn câu hỏi nhiều lựa chọn
Khi soạn thảo câu hỏi nhiều lựa chọn, GV cần thực hiện theo các bước:
Bước 1: Chọn nội dung cần xây dựng câu TN.

Bước 2: Soạn câu dẫn (câu hỏi).
Bước 3: Xây dựng một phương án đúng súc tích.
Bước 4: Xây dựng các phương án nhiễu hợp lý.
Bước 5: Hoàn thiện câu hỏi TN.
* Quy tắc biên soạn câu dẫn (câu hỏi):
+ Câu hỏi cần phải tuân thủ đúng qui tắc cho trước.
+ Cần phải đưa ra các mệnh đề chính xác về mặt cú pháp.
+ Không được đưa ra các thuật ngữ không rõ ràng.
+ Tránh các hình thức câu phủ định và việc đặt ra nhiều mệnh đề phủ
định trong câu hỏi.
+ Cần tách biệt rõ phần dữ kiện và phần hỏi trong câu dẫn.

17

+ Trước khi đưa ra các giải pháp trả lời, ta phải nhóm các yếu tố chung
của câu trả lời.
* Quy tắc trong biên soạn các phương án trả lời:

+ Độc lập về mặt cú pháp.
+ Các phương án đưa ra phải độc lập nhau về mặt ngữ nghĩa.
+ Tránh dùng các từ chung cho phần câu hỏi và phần các phương án trả lời.
+ Không được đưa vào các từ khơng có khái niệm để đánh lạc hướng HS.
+ Không được biên soạn câu trả lời đúng với phần giải thích được mô tả
chi tiết hơn so với các phương án trả lời khác.
+ Các phương án trả lời phải có mức độ phức tạp như nhau.
+ Nếu phải đưa ra các từ kỹ thuật hoặc từ chun mơn vào các phương án
trả lời thì mức độ chuyên môn phải đồng đều trong các phương án đó.
 Kĩ thuật biên soạn câu hỏi dạng điền khuyết
Khi soạn thảo câu hỏi điền khuyết, GV cần thực hiện theo các bước:
Bước 1: Chọn nội dung cần xây dựng câu TN.

Bước 2: Đưa ra yêu cầu cho câu TN.
Bước 3: Soạn nội dung và xác định vị trí cịn thiếu mà HS cần điền vào.
Bước 4: Hoàn thiện câu hỏi TN.
* Một số điểm cần lưu ý khi viết câu hỏi TN điền khuyết:
Nếu câu hỏi được viết ra dưới dạng điền từ hoặc cụm từ thì GV cần chọn
từ hoặc cụm từ đặc hiệu cho trường hợp đó, tránh điền những từ mang nghĩa
chung chung, tránh lấy một câu bất kỳ trong sách giáo khoa, giáo trình rồi bỏ đi
một vài từ và yêu cầu học HS điền vào.
Nếu câu hỏi được viết dưới dạng sơ đồ và hình vẽ thì cần ghi chú ở dưới
tên sơ đồ hoặc tên hình vẽ để HS định hướng được chính xác là GV đang yêu cầu
họ trả lời cái gì và thuộc phần nào? Nhất là với hình vẽ, nhiều khi HS khơng
nhận được dạng do hình vẽ khơng rõ.
Những sơ đồ hoặc hình vẽ quá phức tạp, chỉ nên yêu cầu HS điền vào
những chỗ quan trọng.

18

 Kĩ thuật biên soạn câu hỏi dạng ghép đôi
Các câu TN ghép đôi cần được xây dựng một cách cẩn trọng để sử dụng vào

việc đánh giá kiến thức HS. Khi soạn thảo câu hỏi điền khuyết, GV cần thực hiện
theo các bước:

Bước 1: Chọn nội dung cần xây dựng câu TN.
Bước 2: Đưa ra yêu cầu cho câu TN.
Bước 3: Xây dựng câu dẫn và câu đáp (cột A và cột B).
Bước 4: Hoàn thiện câu hỏi TN.
Những nguyên tắc sau đây sẽ giúp GV xây dựng đúng đắn các câu TN
ghép đôi:
Sử dụng một số lượng hợp lý các tiền đề và các ý trả lời, đa số các chuyên gia

tán thành với con số tối thiểu là 5 câu cho mỗi danh mục, ít câu quá làm cho HS
dễ đốn ra, nhiều câu q địi hỏi HS phải đọc bản danh mục nhiều lần mới có
thể trả lời được.
Các tiền đề hoặc các ý trả lời trong một danh mục phải đồng nhất với
nhau. Tất cả các câu TN ghép đôi phải được viết trong một trang giấy đơn lẻ. (HS
không cần lật các trang để hoàn thành bài TN)
Số ý trả lời có thể nhiều hơn số tiền đề. Một cách khác có hiệu quả là cho
phép một ý trả lời được sử dụng nhiều hơn một lần. Liệt kê các câu trả lời theo
một trình tự logic.
Các tiền đề có thể dài, nhưng câu trả lời phải ngắn gọn. Thường thì HS
đọc tiền đề trước và sau đó mới xem đến danh mục các câu trả lời, các câu trả lời
quá dài thì HS có thể bị lẫn lộn.
 Kĩ thuật biên soạn câu hỏi dạng mơ hình
Kĩ thuật xây dựng loại TN mô hình cũng mang đặc điểm của loại TN điền
khuyết. Bên cạnh đó, khi xây dựng bài tập này GV cần chú ý đưa ra câu dẫn rõ
ràng, việc sử dụng mơ hình sao cho phù hợp với nội dung kiến thức HS đã được
học và phù hợp với đặc điểm nhận thức của HS. Tránh việc sử dụng những câu
TN mơ hình q khó khiến HS khơng tìm ra đáp án.

19


×