Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

SỰ HỘI NHẬP CỦA VIỆT NAM VÀO ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.15 KB, 38 trang )

Chuyên đề 4
SỰ HỘI NHẬP CỦA VIỆT NAM VÀO ASEAN

MỤC TIÊU
- Kiến thức:Trang bị cho học viên những kiến thức cơ bản về lịch sử
hình thành và quan hệ hợp tác giữa các nước trong tổ chức ASEAN, trọng
tâm là tiến trình Việt Nam hội nhập vào ASEAN; có cách nhìn đầy đủ về mối
quan hệ giữa đường lối đối nội với đối ngoại, dân tộc và quốc tế.
- Kỹ năng:Chun đề góp phần hình thành cho học viên phương pháp tư
duy khoa học trong nhận thức, đánh giá về quan điểm, đường lối đối ngoại
của Đảng trong tiến trình Việt Nam hội nhập vào ASEAN; biết vận dụng kiến
thức được trang bị để phân tích, đánh giá những vấn đề liên quan đến quan hệ
Việt Nam - ASEAN hiện nay.
-Về tư tưởng: Giúp học viên củng cố niềm tin với những căn cứ khoa
học vào sự đúng đắn về chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà
nướctrong tiến trình Việt Nam hội nhập vào ASEAN ; tích cực đấu tranh
chống lại các quan điểm, nhận thức sai trái.

NỘI DUNG
4.1. Sơ lược quan hệViệt Nam - ASEAN từ năm 1967
đến trước 7/ 1995
4.1.1 Quan hệ Việt Nam - ASEAN từ năm 1967 đến 1991
- Từ khi ASEAN ra đời (1967) đến khi Hiệp định Paris về Việt Nam
được ký kết (1973), Đơng Nam Á ln là điểm nóng của sự tranh giành
quyền lực và ảnh hưởng giữa các cường quốc.
Do mới được thành lập, ASEAN chưa có hoạt động gì đáng kể về
mặt chính trị cũng như kinh tế, với tư cách là một tổ chức hợp tác khu vực
(mà thực ra mới là tiểu khu vực). Vào thời điểm thành lập (1967), một số
nước thành viên ASEAN như Philippin, Thái Lan, Malaixia, Singapo (trực
tiếp hay gián tiếp) đều có dính líu vào cuộc chiến tranh của Mỹ chống nhân
dân Việt Nam với tư cách là những đồng minh của Mỹ.


Trong giai đoạn này, cuộc chiến tranh ở Việt Nam do Mỹ tiến hành ngày
càng ác liệt và bị quốc tế hóa, lơi kéo sự tham gia của một số nước ASEAN.

4

Do vậy, quan hệ Việt Nam – ASEAN bị chi phối nặng nề bởi tư duy thời chiến
tranh lạnh. Lúc đó, Việt Nam nhìn nhận ASEAN như là tổ chức thay thế
SEATO làm công cụ của Mỹ ở khu vực. Xuất phát từ quan điểm đó, Việt Nam
hạn chế quan hệ với từng nước ASEAN cũng như đối với tổ chức này.

Đến cuối những năm 60, đầu những năm 70, tình hình khu vực có
những biến đổi quan trọng, nhất là việc Mỹ ở vào thế thua và buộc phải giảm
bớt cam kết của mình ở châu Á, thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh”, chuẩn bị rút dần quân khỏi Việt Nam và Đông Nam Á (11-1971). Trong
khi ảnh hưởng của Anh và Mỹ bị suy giảm ở khu vực thì ảnh hưởng của Liên
Xơ, Trung Quốc lại tăng lên mạnh. Trung Quốc thơng qua lực lượng có xu
hướng thân với Đảng Cộng sản Trung Quốc ở các nước Đơng Nam Á đẩy
mạnh ảnh hưởng đối với ASEAN. Cịn Liên Xô bắt đầu triển khai chiến lược
châu Á của mình để đối phó với việc Trung Quốc và Mỹ bắt tay với nhau trên
một số vấn đề có lợi cho hai nước, cũng như mở rộng ảnh hưởng ở Đông Nam
Á. Những nhân tố này đã tác động sâu sắc đến cục diện Đông Nam Á. Do vậy,
các nước ASEAN tiến hành điều chỉnh chiến lược, giảm dần sự dính líu với
Mỹ vào chiến tranh Việt Nam. Ngày 27-11-1971, các nước ASEAN đưa ra
Tuyên bố thành lập Khu vực hịa bình, tự do và trung lập ở Đơng Nam Á
(ZOPFAN), đánh dấu sự thay đổi trong thái độ của các nước ASEAN đối với
cuộc chiến tranh ở Việt Nam, manh nha ý tưởng tiến tới một sự hòa giải ở khu
vực. Từ chỗ đứng về phía Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam, các nước
ASEAN muốn tách ra và chấm dứt dính líu vào chiến tranh Việt Nam. Từ năm
1972, một số nước ASEAN như Philippin, Malaixia và Singapo đã bắt đầu
thăm dò khả năng phát triển quan hệ với Việt Nam. Riêng Inđônêxia là nước

duy nhất trong số các nước sáng lập ASEAN đã có quan hệ ngoại giao chính
thức đối với Việt Nam từ năm 1964 và nâng cấp quan hệ lên hàm đại sứ năm
1973. Tuy nhiên, quan hệ giữa hai bên vẫn chưa có chuyển biến đáng kể.

- Từ sau khi ký Hiệp định Paris năm 1973 về Việt Nam tới năm 1978,
xu thế hịa bình, tự do và trung lập ở khu vực phát triển mạnh, cán cân lực
lượng ở khu vực có những chuyển biến sâu sắc, buộc các nước ASEAN phải
tiến hành điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình và có những bước đi thân

5

thiện hơn trong quan hệ với Việt Nam. Ngày 15-2-1973, Hội nghị Bộ trưởng
Ngoại giao các nước ASEAN kêu gọi có chương trình viện trợ kinh tế cho các
nước Đơng Dương và thành lập Ủy ban phối hợp các nước ASEAN về việc
tái thiết và khôi phục lại các nước Đông Dương. Đến tháng 3- 1973, Philippin
và Thái Lan rút hết quân khỏi Việt Nam. Tháng 7 – 1974, Thái Lan thỏa
thuận xong với Mỹ việc hạn chế Mỹ sử dụng các căn cứ quân sự ở Thái Lan
chống lại các nước Đông Dương.

Về phía mình, Việt Nam bắt đầu tích cực triển khai chính sách khu vực,
mở rộng quan hệ song phương với các nước thành viên ASEAN. Việt Nam
lập quan hệ ngoại giao với Malaixia tháng 30-3-1973, với Singapo tháng 01-
8-1973. Tháng 6-1976, Việt Nam đưa ra chính sách 4 điểm đối với khu vực,
khẳng định mong muốn mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả các
nước Đông Nam Á, dựa trên các nguyên tắc cơ bản như tơn trọng độc lập, chủ
quyền, tồn vẹn lãnh thổ của nhau, cùng tồn tại hịa bình, khơng để lãnh thổ
của mình cho nước ngồi sử dụng hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của bất
cứ nước nào, giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng, phát triển hợp tác
khu vực. Điểm thống nhất giữa Chính sách 4 điểm của Việt Nam và Hiệp ước
Bali là nguyện vọng hòa bình và hữu nghị trong khu vực, tơn trọng nền độc

lập và chủ quyền quốc gia, thiết lập sự hợp tác phát triển giữa các nước nhằm
làm cho Đông Nam Á ngày càng ổn định, phồn vinh. Chính sách 4 điểm đã có
tác động tích cực đến tình hình khu vực và quan hệ Việt Nam với các nước
ASEAN. Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với Philipin (12-7-1976), với
Thái Lan (06-8-1976). Như vậy, đến tháng 8-1976, Việt Nam có quan hệ
ngoại giao đầy đủ với tất cả các nước thành viên ASEAN.

Trong 2 năm (1977- 1978), quan hệ song phương giữa Việt Nam với
từng nước ASEAN phát triển mạnh mẽ. Tháng 9, 10-1978, Thủ tướng Phạm
Văn Đồng đi thăm 5 nước ASEAN. Tháng 12-1977 và tháng 1-1978, Bộ
trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh thăm 5 nước ASEAN. Trong các chuyến
đi, Việt Nam và các nước ASEAN ký được nhiều hiệp định về hợp tác kinh tế,
thương mại, khoa học kỹ thuật, hàng không, hàng hải. Đặc biệt, trong chuyến
thăm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, ở các nước đều ra các thông cáo chung

6

nêu lên các nguyên tắc chỉ đạo quan hệ chung sống hịa bình. Việt Nam lần
lượt lập Đại sứ qn tại Manila (11-1976), Kua la Lăm pơ (7-1977), Băng Cốc
(2-1978). Các nước Malaixia, Philippin, Thái Lan lập Đại sứ quán Việt Nam
vào các thời điểm tương ứng. Các cuộc đàm phán với Inđônêxia về thềm lục
địa chồng lấn ở cấp chuyên viên bắt đầu được xúc tiến.

Đây là giai đoạn nồng ấm nhất trong quan hệ Việt Nam – ASEAN
trong chiến tranh lạnh.

- Thời kỳ 1979 – 1990
+ Giai đoạn1979-1987
Từ năm 1979, do xuất hiện “ Vấn đề Campuchia”, quan hệ giữa ASEAN
với Việt Nam lại chuyển sang giai đoạn đối đầu. Quan hệ song phương với

từng nước thành viên ASEAN ở mức rất thấp. Lo ngại cái gọi là “nguy cơ đe
dọa của Việt Nam” đối với an ninh khu vực theo học thuyết “domino”, các
nước ASEAN cùng Trung Quốc và các nước phương Tây bao vây, cô lập Việt
Nam và đưa ra nguyên tắc nhất quán đòi Việt Nam phải rút quân khỏi
Campuchia. Trên mặt trận ngoại giao, Việt Nam đấu tranh với ASEAN về vấn
đề Campuchia, gắn việc giải quyết vấn đề Campuchia với việc xây dựng khu
vực hòa bình, ổn định ở Đơng Nam Á, thúc đẩy đối thoại để đẩy lùi đối đầu,
phân hóa liên minh chống Việt Nam. Trên tinh thần đó, cùng với việc đưa ra
nhiều đề nghị giải quyết vấn đề Campuchia, Việt Nam đã đưa ra nhiều đề nghị
về hịa bình và hợp tác ở Đông Nam Á nhưng đều không được ASEAN chấp
nhận. ASEAN cho rằng sự có mặt của Việt Nam ở Campuchia là nguyên nhân
chủ yếu gây mất ổn định khu vực, phải giải quyết vấn đề Campuchia trước rồi
mới giải quyết vấn đề hịa bình, hợp tác ở khu vực.
Tuy nhiên, ngay trong nội bộ ASEAN cũng có những nước nhận thức
được thực chất vấn đề Campuchia và tìm cách thăm dị khả năng thương lượng
với Việt Nam để tìm ra giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia. Tại AMM
25 (2-1985), các nước ASEAN đồng ý cử Inđônêxia làm đại diện đối thoại với
các nước Đông Dương. Thông cáo chung Việt Nam – Inđơnêxia (29-7-1987)
tại Thành phố Hồ Chí Minh đánh dấu sự mở đầu q trình thương lượng giữa
hai nhóm nước nhằm giải quyết hịa bình vấn đề Campuchia.

7

+ Giai đoạn 1988-1991: Quan hệ Việt Nam – ASEAN được cải thiện,
qua việc giải quyết vấn đề Campuchia, hai bên tăng cường hiểu biết lẫn nhau,
bước đầu chia sẻ các công việc chung trong khu vực.

Chủ trương của Đảng và Nhà nước từng bước giải quyết vấn đề
Campuchia, đưa Việt Nam gia nhập ASEAN


Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI (12-1986) đề ra đường
lối đổi mới tồn diện, trong đó có đối ngoại. Đại hội nhận định: “xu thế mở
rộng phân công hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế - xã
hội khác nhau, cũng là những điều kiện rất quan trọng với công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”1. Do đó, Đại hội xác định nhiệm vụ của đối
ngoại là tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.

Đối với các nước ASEAN, Đại hội nêu rõ: “ra sức kết hợp sức mạnh của
dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hồ bình ở Đơng Dương, góp
phần tích cực giữ vững hồ bình ở Đơng Nam Á và trên thế giới”2, “Chính phủ
và nhân dân Việt Nam không ngừng phấn đấu nhằm phát triển mối quan hệ
hữu nghị và hợp tác với Inđônêxia và các nước Đông Nam Á khác”3. Vào thời
điểm diễn ra Đại hội, vấn đề Campuchia là trở ngại chính cho việc phát triển
quan hệ Việt Nam – ASEAN. Vì vậy, Đại hội nhấn mạnh: “Chúng ta mong
muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải quyết các
vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hồ bình, xây dựng Đơng
Nam Á thành khu vực hồ bình, ổn định và hợp tác”4.

Thực hiện và cụ thể hoá đường lối đối ngoại với các nước ASEAN mà
Đại hội VI đề ra, tháng 5-1988, Bộ Chính trị khố VI họp Hội nghị lần thứ 13
bàn về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới. Bộ Chính trị
chủ trương rút tồn bộ qn tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia, coi đây
là giải pháp phá bỏ những rào cản và sự bao vây cơ lập về chính trị của thế
giới đối với Việt Nam. Bộ Chính trị nhấn mạnh ngoài việc tăng cường quan
hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, Lào và Campuchia, mở rộng quan hệ kinh

1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, HN 1987, trang 31
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, HN 1987, trang 99
3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, HN 1987, trang 108

4 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, HN 1987, trang 108

8

tế với các nước phương Tây và các nước ASEAN là một yêu cầu khách quan.
Để mở rộng quan hệ đối ngoại Việt Nam – ASEAN, Bộ Chính trị cho rằng:
Cần có chính sách tồn diện đối với Đơng Nam Á, trước hết là tăng cường
quan hệ hợp tác nhiều mặt với Inđônêxia, phá vỡ thế bế tắc trong quan hệ với
Thái Lan, mở rộng quan hệ hợp tác về kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hoá với
các nước trong khu vực, giải quyết những vấn đề tồn tại bằng thương lượng,
thúc đẩy việc xây dựng khu vực hoà bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác.

Chủ trương đúng đắn của Đảng nhằm tăng cường quan hệ với các nước
láng giềng khu vực tiếp tục được thể hiện ở Hội nghị Trung ương lần thứ sáu
(khố VI), Hội nghị chỉ rõ: “Góp phần tích cực giải quyết vấn đề Campuchia
bằng chính trị, đồng thời chuẩn bị rút hết quân sớm trong trường hợp chưa có
giải pháp về Campuchia. Xây dựng mối quan hệ mới với các nước ASEAN,
tham gia tích cực vào việc biến khu vực Đông Nam Á thành khu vực hịa
bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác”5.

Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa VI (3/1990)
nhấn mạnh: “Tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại theo phương châm thêm
bạn, bớt thù, giữ vững hịa bình để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”6; “Kiên trì
phấn đấu cho một giải pháp chính trị về vấn đề Campuchia phù hợp với lợi
ích cơ bản của cách mạng Campuchia, và hồ bình, ổn định trong khu vực”7

Để giải quyết vấn đề Campuchia, Việt Nam giữ đúng cam kết rút hết
quân khỏi Campuchia. Ngày 26-5- 1988, theo sự thoả thuận giữa Bộ Chính trị
hai Đảng, Chính phủ hai nước Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Campuchia,
Bộ Quốc phòng Việt Nam tuyên bố rút thêm 5 vạn quân tình nguyện Việt

Nam ở Campuchia về nước trong năm 1988 (từ tháng 6 đến tháng 12-1988),
Bộ tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam cũng được rút trong năm 1988, bộ
phận qn tình nguyện Việt Nam cịn lại được đặt dưới sự chỉ đạo của Cộng
hoà nhân dân Campuchia và sẽ rút hết về nước trong năm 1990. Tháng 1-
1989, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh cơng bố: Việt Nam hồn tồn
nhất trí với Cộng hồ nhân dân Campuchia về việc Việt Nam rút hết quân tình

5 Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu BCH Trung ương Đảng khóa VI, trang 40
6 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 50, Nxb CTQG, Hà Nội, 2007, tr. 78
7 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 50, Nxb CTQG, Hà Nội, 2007, tr. 78

9

nguyện Việt Nam còn lại ở Campuchia về nước vào tháng 9-1989 (trước thời
hạn dự định một năm). Ngày 5-9-1989, Chính phủ Việt Nam ra Thơng cáo về
kế hoạch rút tồn bộ qn tình nguyện Việt Nam ở Campuchia. Đợt rút quân
cuối cùng được tiến hành từ ngày 21 đến ngày 26-9-1989 với số quân là 26.000
người, cùng toàn bộ phương tiện, vũ khí theo ba đường bộ, sơng và biển, dưới
sự giám sát của các tổ chức và phóng viên quốc tế. Việc Việt Nam rút tồn bộ
qn tình nguyện về nước trong lúc các nước ASEAN chưa đưa ra được giải
pháp chính trị về Campuchia, đã tạo dựng được lịng tin vào thiện chí của Việt
Nam trong chính sách tăng cường hợp tác khu vực.

Từ ngày 19 đến ngày 21/11/1990, Tổng thống Inđônêxia Xuhacto thăm
Việt Nam và trở thành nguyên thủ đầu tiên của ASEAN thăm Việt Nam kể từ
năm 1975. Tiếp theo là chuyến thăm của Thủ tướng Xingapo và Thái Lan.
Trong các cuộc tiếp xúc cấp cao Việt Nam – ASEAN từ cuối năm 1990 trở đi,
vấn đề Việt Nam tham gia Hiệp ước Bali đều được đề cập.

Tháng 10/1991, Hiệp định Paris về Campuchia được ký kết, đánh dấu sự

chấm dứt của “thời kỳ Campuchia” trong quan hệ Việt Nam – ASEAN, mở ra
thời kỳ mới, thời kỳ của hợp tác hai bên.

Như vậy, quan hệ Việt Nam – ASEAN trong giai đoạn này mang tính
vừa đấu tranh, vừa hợp tác; đấu tranh để giải quyết vấn đề Campuchia và hợp
tác để cùng phát triển và cùng có một tiếng nói chung ở khu vực, chấm dứt thời
kỳ băng giá trong quan hệ Việt Nam – ASEAN.

4.1.2. Quan hệ Việt Nam - ASEAN từ năm 1991 đến 1995
Chiến tranh lạnh kết thúc, tình hình thế giới chuyển biến nhanh chóng.
Việc ký kết Hiệp định Pari về Campuchia mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ
hợp tác và xu thế liên kết khu vực. Để thích ứng với hình hình mới, việc phát
triển quan hệ với Việt Nam và các nước Đơng Dương khác trở thành một chính
sách quan trọng của ASEAN. Về phía Việt Nam, lợi ích lớn nhất đặt ra là duy
trì hịa bình, ổn định khu vực, tạo dựng môi trường thuận lợi cho công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước. Vì vậy, Việt Nam tích cực tiến hành các bước
ngoại giao để gia nhập ASEAN, được ASEAN và cộng đồng quốc tế ủng hộ.
Trước những diễn biến mới của tình hình quốc tế, đường lối đối ngoại

10

của Đảng tại Đại hội lần thứ VII của Đảng tiếp tục thể hiện tư duy đổi mới
của Đảng. Đảng khẳng định chủ trương “hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi
với tất cả các nước, khơng phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trên
cơ sở các ngun tắc cùng tồn tại hịa bình”8. Chính sách đối ngoại rộng mở
của Đảng được thể hiện bằng tuyên bố: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển”9.
Đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước láng giềng và các nước
trong khu vực tiếp tục được Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định: “Phát triển quan hệ hữu nghị với các nước ở Đông Nam Á và

châu Á – Thái Bình Dương, phấn đấu cho một Đơng Nam Á hồ bình, hữu
nghị và hợp tác”10.

Thực hiện đường lối đối ngoại Đại hội VII đề ra, tháng 6-1992, tại Hội
nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VII phân tích, đánh giá và
thơng qua nghị quyết về đối ngoại. Đây là lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung
ương Đảng thảo luận và ra nghị quyết về đối ngoại. Tại hội nghị, Tổng Bí thư
Đỗ Mười trình bày bản báo cáo Thời cuộc hiện nay và nhiệm vụ của chúng ta.
Bản báo cáo nêu rõ: trong thời đại ngày nay, bất cứ nước nào, dù phát triển
đến đâu cũng khơng thể khép kín được. Vì vậy, phải mở rộng quan hệ quốc
tế, trước hết là: “Xây dựng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong
khu vực, tạo mơi trường hồ bình, ổn định lâu dài chung quanh nước ta và
phù hợp với xu thế các nước, tăng cường liên kết khu vực vì hồ bình và phát
triển. Đồng thời mở rộng quan hệ với các nước tư bản phát triển, với các nước
khác và tổ chức quốc tế”11.

Với ASEAN, Hội nghị Trung ương 3 (khoá VII) nhấn mạnh: cần tạo
được quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước trong khu vực và một mơi
trường hịa bình, ổn định lâu dài xung quanh nước ta.

Đông Nam Á liên quan mật thiết tới yêu cầu tạo môi trường quốc tế
thuận lợi cho an ninh và phát triển của Việt Nam. Các nước ASEAN phát triển
kinh tế khá nhanh, đang đi tới quá trình nhất thể hoá về kinh tế với việc lập

8 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, HN 1991, tr. 88
9 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, HN 1991, tr. 147
10 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, HN 1991, trang 90
11 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 52, Nxb CTQG, Hà Nội, 2007, trang 66

11


khối mậu dịch tự do AFTA. Vì lợi ích an ninh và phát triển của Việt Nam, Hội
nghị đề ra: Tiếp tục cải thiện và mở rộng quan hệ với từng nước và với các
nhóm nước ASEAN trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi, cùng tồn tại hồ bình.
Chú ý mở rộng hợp tác về kinh tế, thương mại, khoa học cơng nghệ trên các
lĩnh vực mà ASEAN có trình độ cao, từng bước tham gia hợp tác khu vực với
khẩu hiệu biến Đông Nam Á thành khu vực hồ bình, hợp tác và phát triển.

Tại chuyến thăm Philippin, trong lời đáp của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng Võ Văn Kiệt (26-2-1992) đã nêu rõ chủ trương đối ngoại với các nước
khu vực của Đảng Cộng sản Việt Nam: “…Chúng tôi chủ trương thực hiện
một chính sách đối ngoại rộng mở, sẵn sàng hợp tác với các nước trong cộng
đồng thế giới nhằm phục vụ cho sự nghiệp hịa bình và phát triển. Một hướng
ưu tiên của chính sách đối ngoại đó là không ngừng tăng cường sự hợp tác với
các nước trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt các nước láng
giềng Đông Nam Á”12

Tiếp đó, năm 1993 Chính phủ Việt Nam cơng bố chính sách bốn điểm
mới của Việt Nam với khu vực, thể hiện thiện chí, nguyên tắc của Đảng và
Nhà nước trong việc đẩy mạnh quan hệ với các nước trong khu vực, trong đó
nêu rõ: “Việt Nam chủ trương tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với từng
nước láng giềng cũng như với Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) với
tư cách là một tổ chức khu vực”13

Chủ trương đối ngoại của Đảng và Nhà nước với thế giới nói chung và
với các nước ASEAN nói riêng được đề ra qua các Đại hội VI, VII, Hội nghị
lần thứ 13 của Bộ Chính trị (khóa VI và các hội nghị Trung ương (khóa VI,
VII), thể hiện sự đổi mới trong tư duy đối ngoại, phù hợp với xu thế phát triển
của thế giới, mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam và
các nước ASEAN, chủ trương đó được các nước Đơng Nam Á và quốc tế

đánh giá cao, thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình hội nhập Việt Nam – ASEAN.

Thực hiện chủ trương đó, ngày 16/9/1991, Bộ trưởng Ngoại giao Việt
Nam chính thức gửi thư cho các ngoại trưởng các nước ASEAN xin gia nhập
Hiệp ước Bali.

12 Vì hịa bình, độc lập và phát triển, , Nxb CTQG, HN 1994, trang 74
13 Đào Huy Ngọc (chủ biên), ASEAN và sự hội nhập của Việt Nam, , Nxb CTQG, HN 1997, tr.199

12

Từ 24/10 đến 01/11/1991, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Võ Văn Kiệt lần
lượt đi thăm Inđônêxia, Thái Lan và Xingapo để thúc đẩy quan hệ song phương.
Đầu năm 1992, Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm Malaixia, Philippin, Bru nây. Tiếp
sau đó, là những chuyến thăm cấp cao của lãnh đạo các nước Thái Lan,
Malaixia, Xingapo… tới Việt Nam. Quan hệ Việt Nam với từng nước ASEAN
phát triển nhanh chóng. Trong 2 năm (1991-1992), Việt Nam ký được với các
nước này gần 40 hiệp định các loại (Hiệp định khung về hợp tác kinh tế, khoa
học kỹ thuật; Hiệp định bảo hộ đầu tư; Hiệp định tránh đánh thuế hai lần…) làm
cơ sở pháp lý cho các mối quan hệ hợp tác đang ngày càng mở rộng.

Ngày 11/7/1992, tại Hội nghị lần thứ 25 Bộ trưởng Ngoại giao các nước
ASEAN, Việt Nam và Lào chính thức tham gia Hiệp ước Bali và trở thành
Quan sát viên của tổ chức ASEAN và được mời tham dự các Hội nghị Bộ
trưởng Ngoại giao ASEAN. Ngoài ra, Việt Nam còn được mời tham gia một số
cuộc họp khác hoặc hoạt động của ASEAN.

Từ năm 1993, ASEAN đã lập cơ chế Họp hiệp thương giữa ASEAN và
Việt Nam nhân dịp Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN. Cuộc họp hiệp
thương đầu tiên được tổ chức tại AMM 26 ở Singapo (năm 1993). Trong dịp

này, Việt Nam được mời tham dự cuộc họp đầu tiên của Diễn đàn khu vực
ASEAN (ARF) và được coi là một trong những nước sáng lập Diễn đàn này.

Trong khoảng thời gian từ năm 1992 đến năm 1994, quan hệ ngoại giao
giữa Việt Nam với các nước ASEAN được đẩy mạnh bằng các chuyến thăm
của các nhà lãnh đạo Việt Nam tới các nước ASEAN và ngược lại. Tháng
9/1994, Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký quyết định thành lập Vụ ASEAN (Bộ
Ngoại giao) để phối hợp hoạt động giữa Việt Nam với ASEAN.

Tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 27 ở Băng Cốc, các
nước ASEAN nhất trí tuyên bố sẵn sàng chấp nhận Việt Nam làm thành viên
chính thức của ASEAN và quyết định thành lập một nhóm làm việc chuẩn bị
cho việc Việt Nam gia nhập ASEAN. Ngày 28/7/1995, tại Thủ đơ Ban-đa
Xê-ri Bê-ga-oan (Brunây), Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7
của ASEAN, mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ Việt Nam – ASEAN,
quan hệ giữa các nước thành viên trong cùng một tổ chức hợp tác khu vực.

13

Sau khi trở thành thành viên của ASEAN, Đảng coi tăng cường phát triển
quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước ASEAN là một chính sách nhất quán
của Đảng, nhằm tạo mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển đất nước,
đồng thời, góp phần tạo lập, duy trì và phát triển mơi trường hịa bình, ổn
định lâu dài ở khu vực.

Quan hệ Việt Nam – ASEAN trước tháng 7/1995 phát triển qua nhiều
giai đoạn khác nhau và chịu tác động của sự phát triển của tình hình khu vực và
quốc tế, thể hiện sự thay đổi về nhận thức của các nước ASEAN đối với vấn đề
mà họ cho là “mối đe dọa từ phía Việt Nam”. Sự phát triển của quan hệ Việt
Nam – ASEAN cũng tùy thuộc vào quan hệ của Việt Nam với các nước thành

viên của Hiệp hội và chịu tác động của quan hệ giữa các nước lớn tại khu vực.
Chính sách và thái độ của Việt Nam đối với ASEAN trong thời gian này cũng
được điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tế và lợi ích của Việt Nam trong
việc tập hợp lực lượng khu vực và tùy theo sự điều chỉnh của ASEAN từ đối
đầu sang hợp tác. Từ chỗ phê phán ASEAN là tổ chức thay thế SEATO và
khơng có quan hệ gì, Việt Nam dần chuyển sang đối thoại trực tiếp và tăng
cường quan hệ với từng nước ASEAN, bắt đầu quan hệ với cả tổ chức và chủ
động gia nhập Hiệp hội khi điều kiện đã chín muồi. Gia nhập ASEAN, Việt
Nam tạo ra những bước đi đầu tiên trong tiến trình hội nhập quốc tế.

4.2.Quan hệ Việt Nam - ASEAN TỪ 1995 đếnnay
4.2.1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước tăng
cường hợp tác với ASEAN
Trên cơ sở đánh giá tình hình thế giới và trong nước, Đại hội đại biểu
toàn quốc của Đảng lần thứ VIII một lần nữa khẳng định: “Tiếp tục thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá
các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển”14. Trên
cơ sở đó, Đại hội cũng đề ra phương hướng đối ngoại cụ thể trong quan hệ
với ASEAN là: “ra sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các
nước trong tổ chức ASEAN”15.

14 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, HN 1996, tr. 120
15 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, HN 1996, tr. 121

14

Bước sang thế kỷ XXI, trên cơ sở đánh giá các đặc điểm, xu thế phát
triển của thế giới và từ thực tiễn Việt Nam, Đại hội IX của Đảng (2001) xác
định tăng cường quan hệ với các nước Đông Nam Á là một ưu tiên hàng đầu

trong quan hệ đối ngoại. Đại hội chỉ rõ: “Nâng cao hiệu quả và chất lượng
hợp tác với các nước ASEAN, cùng xây dựng Đông Nam Á thành khu vực
hồ bình, khơng có vũ khí hạt nhân, ổn định, hợp tác cùng phát triển”16.

Ngày 23-7-2001, trong diễn văn khai mạc Hội nghị Bộ trưởng Ngoại
giao các nước ASEAN lần thứ 34 (AMM 34) diễn ra tại Hà Nội, Thủ tướng
Phan Văn Khải khẳng định: “Chính sách ASEAN là một bộ phận cấu thành
quan trọng trong chính sách đối ngoại và hợp tác quốc tế của Nhà nước Việt
Nam mà định hướng đã được khẳng định là hội nhập kinh tế quốc tế, sẵn sàng
là bạn và đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đầu vì
hịa bình, độc lập dân tộc và phát triển”17.

Đẩy mạnh hơn nữa quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, ngày
27-11-2001, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm cụ
thể hoá một chủ trương lớn được nêu ra tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng là: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần
phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự
chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia,
giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc, bảo vệ mơi trường”18. Nghị quyết đề ra 9
nhiệm vụ cụ thể và 6 biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế nhằm phát huy cao độ nội lực, khai thác tối đa các nguồn lực bên
ngoài để tạo thế và lực mới cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội.

Tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 23 (tháng 12-2001) được tổ chức tại
Hà Nội, Tổng Bí thư Nơng Đức Mạnh có bài phát biểu trong đó nêu rõ ngoại
giao có “nhiệm vụ quan trọng là giữ được ổn định chính trị, bảo đảm được an
ninh quốc phịng và thúc đẩy cơng tác đối ngoại, nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế, tranh thủ nâng cao hợp tác quốc tế để phục vụ cho

16 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, HN 2001, trang 121

17 Trung tâm thông tin – thư viện, Học viện quan hệ quốc tế: Tình hình quốc tế và chính sách đối ngoại của
Việt Nam, quyển 3, tài liệu lưu hành nội bộ 2002, tr. 191
18 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, HN 2001, trang 121

15

sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”19. Tổng Bí thư nhấn mạnh trong
quan hệ quốc tế tiếp tục mở rộng quan hệ song phương và đa phương, vai trị
của đa phương để đảm bảo việc tơn trọng độc lập chủ quyền và tồn vẹn lãnh
thổ, khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Tại Hội nghị này, Chủ tịch nước Trần Đức Lương chỉ rõ: “Nêu cao tinh thần
độc lập tự chủ, tự cường, đồng thời tăng cường đoàn kết quốc tế, mở rộng hợp
tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”20, “Để đảm bảo
mơi trường an ninh, ngồi tình hình thế giới chung phải coi trọng đến những
đối tác và những nước láng giềng trong khu vực của chúng ta”21.

Một trong những nhiệm vụ của đối ngoại là giữ vững an ninh, bảo vệ Tổ
quốc, phát triển đường lối đối ngoại của Đại hội IX, Hội nghị Trung ương 8
(khóa IX) tháng 7-2003 ra Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới. Hội nghị nhận định: Sau cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ trầm
trọng năm 1997, nhiều nước rơi vào khó khăn, khủng hoảng bị các nước chi
phối, sự gắn kết giữa các nước trong khu vực lỏng lẻo hơn. Hội nghị khẳng
định khu vực Đông Nam Á vẫn tiềm ẩn nhiều nhân tố mất ổn định. Trước tình
hình đó, sự gắn kết trong ASEAN và vị trí của Hiệp hội trên trường quốc tế sẽ
gặp nhiều thách thức. Vì vậy, Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 9 (10-2003)
thông qua Tuyên bố hòa hợp Bali II, tuyên bố nêu rõ: Một cộng đồng ASEAN
sẽ được thiết lập với 3 trụ cột chính là hợp tác an ninh chính trị, hợp tác kinh tế
và hợp tác văn hóa - xã hội đan xen, hỗ trợ chặt chẽ cho nhau vì mục đích đảm
bảo hịa bình, ổn định và thịnh vượng chung trong khu vực, thông qua việc
thiết lập cộng đồng an ninh ASEAN, cộng đồng kinh tế ASEAN và cộng đồng

văn hóa xã hội ASEAN.

Tiếp sau Hội nghị Trung ương 8 (khoá IX), Hội nghị Trung ương 9,
khoá IX (01-2004) đã kiểm điểm hoạt động đối ngoại trong nửa nhiệm kỳ của
Đại hội IX, trên cơ sở kiên định đường lối độc lập tự chủ, chính sách đối
ngoại rộng mở, đa phương hố, đa dạng hố cơng tác đối ngoại, Hội nghị chỉ

19 Trung tâm thông tin – thư viện, Học viện quan hệ quốc tế: Tình hình quốc tế và chính sách đối ngoại của
Việt Nam, quyển 3, tài liệu lưu hành nội bộ 2002, tr. 50.
20,3 Trung tâm thông tin – thư viện, Học viện quan hệ quốc tế: Tình hình quốc tế và chính sách đối ngoại của
Việt Nam, quyển 3, tài liệu lưu hành nội bộ 2002, tr. 156, 157.

21

16

rõ đóng góp của Việt Nam trong quan hệ với ASEAN là: “Tích cực góp phần
củng cố sự gắn kết, giữ vững những nguyên tắc cơ bản của ASEAN, thúc đẩy
quan hệ hợp tác nội khối và với bên ngoài”22.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) khẳng định chủ
trương đối ngoại: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hồ bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hố,
đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế, đồng thời, mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là
bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực
vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”23. So với Đại hội IX, Đại hội X bổ
sung, khẳng định rõ nội dung mang tính tiêu chí trong đường lối đối ngoại của
Đảng là “hồ bình, hợp tác và phát triển”.


Thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng, Việt Nam từng bước mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế về “chiều rộng”, Đại hội lần thứ X của Đảng nhấn
mạnh yêu cầu: “Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn
định, bền vững”24, “Hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế
toàn cầu, khu vực và song phương”25. Đối với các nước ở khu vực Đông Nam
Á, Đại hội X nhấn mạnh: “Thúc đẩy quan hệ hợp tác tồn diện và có hiệu quả
với các nước ASEAN”26.

Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa X (tháng
01/2009), tiến hành kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng
trong nửa đầu nhiệm kỳ. Hội nghị đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp để thực
hiện Nghị quyết Đại hội X trong nửa nhiệm kỳ tiếp theo. Về đối ngoại, Nghị
quyết hội nghị nêu rõ: “Tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà
nước, các đoàn thể nhân dân, đưa các mối quan hệ quốc tế đã được thiết lập
vào chiều sâu, ổn định, bền vững. Đặc biệt coi trọng quan hệ với các nước

22 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín BCH Trung ương khóa IX, Nxb CTQG, HN
2004, trang 55-56
23 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội
2006, tr.112
24 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, HN 2006, trang 112
25 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, HN 2006, trang 113,114
26Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, HN 2006, trang 114

17

láng giềng, các nước lớn, các nước bạn bè truyền thống và đối tác quan trọng,
các tổ chức quốc tế và khu vực mà ta là thành viên”27.

Nhân ngày thành lập ASEAN 8-8-2009, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng

khẳng định: “Việt Nam luôn coi hợp tác trong khu vực Đông Nam Á và
ASEAN là một bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại độc lập, tự
chủ, đa dạng hóa và láng giềng hữu nghị của mình”28. Ngày 25-10-2009,
trong bài phát biểu tại phiên bế mạc Hội nghị cấp cao ASEAN 15 tại Thái
Lan, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng một lần nữa nhấn mạnh: “Hợp tác ASEAN
có tầm quan trọng chiến lược đối với Việt Nam”29.

Kế thừa đường lối đối ngoại của 25 năm Đổi mới, Đại hội XI bổ sung,
phát triển đường lối đối ngoại cho phù hợp với tình hình mới. Đại hội XI tiếp
tục khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cơng đồng quốc tế”30. Về định hướng tham gia trong ASEAN, Đại hội XI
chỉ rõ: “Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng
đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, tiếp tục giữ vai
trị quan trọng trong các khn khổ hợp tác ở khu vực châu Á-Thái Bình
Dương”31. Với định hướng này, việc tham gia trong ASEAN trở thành một
trong những trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.

Thực hiện chủ trương của Đảng, quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với
các nước ASEAN được đẩy mạnh. Việt Nam tích cực, chủ động góp phần giữ
vững các nguyên tắc cơ bản của ASEAN, tăng cường đoàn kết trong Hiệp hội,
hạn chế tác động từ bên ngoài, đẩy mạnh hợp tác kinh tế, xây dựng Đơng
Nam Á thành khu vực hịa bình, khơng có vũ khí hạt nhân, ổn định, hợp tác
cùng phát triển, nâng cao vị thế của khu vực trên trường quốc tế.

4.2.2. Việt Nam tham gia các lĩnh vực hợp tác của ASEAN

27Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín BCH Trung ương khóa X, Nxb CTQG, HN 2009, tr. 120
28 Báo Nhân Dân, ngày 8-8-2009, trang 3

29 Báo Nhân Dân, ngày 26-10-2009, trang 4
30 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội
2011, tr.235 - 236
31 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội
2011, tr. 237

18

- Hợp tác chính trị - an ninh:
Đối với mỗi quốc gia, sự ổn định về chính trị - an ninh ln có vị trí quyết
định để xây dựng và phát triển đất nước. Trong bối cảnh tình hình thế giới có
nhiều diễn biến nhanh chóng và phức tạp, ASEAN càng đẩy mạnh hợp tác chính
trị - an ninh, đây luôn là lĩnh vực hợp tác quan trọng và nhạy cảm của ASEAN.
Gia nhập ASEAN, Việt Nam trở thành thành viên thứ bảy trong gia đình
ASEAN đã làm cho hợp tác ASEAN về chính trị - an ninh có nhiều chuyển
biến quan trọng.
Trước khi trở thành thành viên chính thức của ASEAN, tháng 7/1992 tại
AMM 25 ở Manila (Philippin), Việt Nam đã tham gia Hiệp ước Thân thiện và
Hợp tác (TAC hoặc Hiệp ước Bali). Hiệp ước Bali được coi là “Bộ luật ứng
xử” giữa các nước Đông Nam Á với nhau.
Gia nhập ASEAN, Việt Nam trở thành thành viên thứ bảy trong gia đình
ASEAN đã làm cho hợp tác ASEAN về chính trị - an ninh có nhiều chuyển
biến quan trọng. Việt Nam tham gia đầy đủ vào các cơ chế hợp tác chính trị -
an ninh và các hoạt động hợp tác của ASEAN, Việt Nam tham gia các cơ chế
về chính trị như các hội nghị cấp cao chính thức và khơng chính thức của
ASEAN, các Hội nghị Ngoại trưởng và Bộ trưởng Kinh tế ASEAN, các cuộc
họp quan chức cao cấp (cấp thứ trưởng-SOM và SEOM).
Về lĩnh vực an ninh, Việt Nam là một trong những thành viên sáng lập
Diễn đàn khu vực ARF. Việt Nam tham gia hầu hết các cơ chế đối thoại trong
ASEAN và giữa ASEAN với bên ngoài như ASEM, PMC, ASEAN+3, ASEAN

+1. Khi các nước ASEAN khác lâm vào cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ,
mặc dù có chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng này, nhưng Việt Nam vẫn
giữ được tình hình chính trị, kinh tế, xã hội ổn định, từng bước nâng cao vai
trị của mình trong ASEAN bằng việc tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao
ASEAN VI (16 đến 17/12/1998). Hội nghị đã thông qua các văn kiện quan
trọng như Tuyên bố Hà Nội, Chương trình hành động Hà Nội, Tuyên bố về
các biện pháp mạnh mẽ (để cải thiện môi trường đầu tư ASEAN), và ký 4
Hiệp định hợp tác trên các lĩnh vực cụ thể. Hội nghị còn quyết định kết nạp
Campuchia làm thành viên thứ 10 của ASEAN và giao cho các Ngoại trưởng

19

ASEAN tiến hành lễ kết nạp đặc biệt tại Hà Nội. Bên cạnh đó, Việt Nam đã
tiếp nhận vai trị Chủ tịch Uỷ ban Thường trực ASEAN (ASC) và Diễn đàn
khu vực ASEAN (ARF) nhiệm kỳ từ 7/2000 đến 7/2001.

Sau khi trở thành thành viên ASEAN, Việt nam cùng các nước
ASEAN soạn thảo văn kiện Hiệp ước Đông Nam Á không có vũ khí hạt
nhân (SEANWFZ).

Ngoài các cuộc họp ARF cấp Bộ trưởng tiến hành ngay sau Hội nghị
AMM hàng năm, Việt Nam còn tham gia vào một loạt các cuộc họp, hội thảo
lớn về an ninh quốc tế và khu vực trong khuôn khổ kênh 1 (chính thức) và
kênh 2 (khơng chính thức) của ARF. Việt Nam cũng tham gia các nhóm làm
việc của ARF như nhóm xây dựng lịng tin, nhóm cơng tác nhằm giảm nhẹ
thiên tai. Bên cạnh đó, Việt Nam tham gia rất nhiều hội thảo quốc tế trong
khuôn khổ ARF, hội thảo về an ninh khu vực. Việt Nam đã tổ chức thành
công Hội nghị Tư vấn ASEAN - Nhật bản về thực hiện Chương trình hành
động Hà Nơị và Tầm nhìn 2020.


Từ năm 1998 đến 2000, Việt Nam đã cùng các nước ASEAN soạn thảo
quy chế hoạt động của Hội đồng tối cao của Hiệp ước Hiệp ước Thân thiện và
Hợp tác trên cơ sở giữ vững những nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội. Nội dung
chính của quy chế là Hội đồng chỉ tiếp nhận giải quyết những tranh chấp có
thể ảnh hưởng đến hồ bình và ổn định khu vực, được các bên liên quan trực
tiếp đồng ý, chỉ đóng vai trị trung gian hồ giải giúp các bên tranh chấp giải
quyết (khơng có biện pháp cưỡng chế), mọi quyết định dựa trên nguyên tắc
nhất trí. Hội đồng tối cao của Hiệp ước TAC được coi là cơ chế đầu tiên của
ASEAN để giải quyết tranh chấp thông qua cơ chế khu vực, tránh để bên
ngoài can thiệp. Trong hoạt động của Hội đồng tối cao, Việt Nam luôn chú ý
tới việc đảm bảo tơn trọng và duy trì các nguyên tắc cơ bản và truyền thống
của ASEAN, nhất là nguyên tắc “đồng thuận” và “không can thiệp vào cơng
việc nội bộ”, duy trì được vai trị chủ đạo của ASEAN, tránh biến hội đồng
thành một toà án tiểu khu vực, với vai trò của một vài nước khống chế các
quyết định của hội đồng.

20

Nhờ sự kiên trì của ASEAN và do những tác động tích cực của ARF,
Trung Quốc và ASEAN đã ký Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông
(DOC) tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 8 tổ chức tại Phnôm-pênh
(Campuchia), ngày 4/11/2002. Đây là một bước quan trọng nhằm tiến tới hoàn
thiện Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông. Dự thảo Bộ Quy tắc này dựa trên cơ sở
của những thỏa thuận quan trọng mà Việt Nam đã đạt được với một số nước
ASEAN, như: Thỏa thuận hợp tác cùng khai thác nguồn tài nguyên vùng chồng
lấn giữa Việt Nam – Malaixia (5/6/1992); Thỏa thuận giữa Việt Nam – Thái
Lan – Malaixia về hợp tác cùng khai thác dầu khí ở vùng chồng lấn giữa ba
nước trên thềm lục địa; Thỏa thuận Việt Nam – Philippin (7/11/1995) về 9
nguyên tắc ứng xử cơ bản giữa hai nước ở vùng biển Đông; Hiệp định phân
định vùng chồng lấn giữa Việt Nam – Thái Lan trong vịnh Thái Lan (9/8/1997)

… Đặc biệt, những nỗ lực của Việt Nam cùng Philippin soạn thảo dự thảo Bộ
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (7/1999) chứa đựng nhiều nội dung được các
nước hữu quan đánh giá với thái độ tích cực.

Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) là một thành tựu
quan trọng trong hoạt động đối ngoại của ASEAN. DOC nhấn mạnh các bên
liên quan trong khi chưa đi đến giải pháp cuối cùng thì cần tránh làm cho tình
hình phức tạp và căng thẳng hơn, và cố gắng thông qua con đường thương
lượng hịa bình để giải quyết vấn đề. Điều này có ý nghĩa tích cực đối với Việt
Nam trong việc tăng cường đảm bảo chủ quyền lãnh thổ, giải quyết tranh chấp
với các bên liên quan.

Việt Nam cùng các nước nỗ lực xây dựng bản Hiến chương ASEAN –
một văn kiện quan trọng nhằm tạo khuôn khổ pháp lý và khung thể chế cho
việc thực hiện mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN.

Ngày 6/3/2008, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký phê chuẩn Hiến
chương, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình Việt Nam gia nhập
ASEAN cũng như quá trình hội nhập khu vực và quốc tế chung. Qua đó, Việt
Nam chính thức cam kết thực hiện một văn kiện pháp lý quan trọng nhất và toàn
diện nhất của ASEAN, làm cơ sở cho mọi hoạt động và ứng xử trong ASEAN.
Sự kiện Việt Nam là một trong 5 nước (4 nước đầu tiên là Xingapo, Brunây,

21

Lào, Malaixia) sớm phê chuẩn Hiến chương ASEAN thể hiện cam kết mạnh mẽ
và tích cực của Việt Nam đối với ASEAN và một minh chứng quan trọng về
chính sách tích cực, chủ động hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam.

Năm 2010, Việt Nam hồn thành tốt vai trị Chủ tịch ASEAN, đúng

vào giai đoạn có ý nghĩa quan trọng đối với tiến trình xây dựng Cộng đồng
của ASEAN, để ASEAN hoàn thành mục tiêu xây dựng Cộng đồng, là năm
ASEAN bắt đầu chính thức ổn định hoạt động theo bộ máy tổ chức và khung
pháp lý do Hiến chương quy định. Vì vậy, Việt Nam cùng các nước thành
viên đề ra ưu tiên xuyên suốt cho hợp tác ASEAN trong giai đoạn này là: Đẩy
mạnh hành động nhằm hiện thực hóa mục tiêu hình thành Cộng đồng
ASEAN, được thể hiện qua Chủ đề “Hướng tới Cộng đồng ASEAN: Từ tầm
nhìn tới hành động”. Với Chủ đề này, trong vai trò Chủ tịch, Việt Nam đề
xuất 3 trọng tâm hành động của ASEAN là:

Thứ nhất, đẩy mạnh nỗ lực triển khai các chương trình, kế hoạch trong
Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN, đồng thời, thiết thực đưa Hiến chương
ASEAN vào cuộc sống.

Thứ hai, thúc đẩy hợp tác nhằm nâng cao năng lực của ASEAN trong
việc ứng phó hữu hiệu hơn với các thách thức tồn cầu mà khu vực đang phải
đối mặt.

Thứ ba, tăng cường quan hệ hợp tác giữa ASEAN với các bên Đối tác,
tiếp tục củng cố vai trị và vị trí trung tâm của ASEAN trong các tiến trình đối
thoại và hợp tác vì hịa bình, ổn định và phát triển ở khu vực.

Việt Nam tham gia đầy đủ vào các quan hệ đối thoại của ASEAN. Ngoài
ra, Việt Nam cũng đã tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo của kênh 2, đây là kênh
đối thoại, tham khảo ý kiến, tư vấn, nghiên cứu, xây dựng lòng tin, thông tin
liên lạc…nhằm nâng cao ý thức hợp tác, tăng sự phụ thuộc lẫn nhau, xây dựng
lợi ích cộng đồng, nhờ đó có thể kiềm chế, dẫn tới loại trừ giải pháp dùng vũ
lực giải quyết xung đột và giảm thiểu các nguy cơ gây xung đột.

Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN, tham gia ngày càng chủ

động, tích cực, có trách nhiệm trong việc củng cố, nâng cao hiệu quả hợp tác
trong ASEAN.

22

- Hợp tác kinh tế, thương mại Việt Nam - ASEAN
Hợp tác kinh tế của ASEAN rất phong phú, bao gồm nhiều lĩnh vực
khác nhau, vì vậy liên quan đến nhiều ngành, nhiều cơ quan kinh tế của Việt
Nam. Sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, Phịng
thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam cũng gia nhập Phịng Thương mại và
Cơng nghiệp ASEAN, góp phần tăng cường hợp tác kinh tế trong ASEAN
Là một thành viên chính thức của ASEAN, Việt Nam cam kết thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ của một nước thành viên, trong đó có việc thực hiện Chương
trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT/AFTA) - nội dung quan trọng
nhất về lĩnh vực hợp tác kinh tế.
Như vậy, Việt Nam phải hoàn thành cơ bản chương trình CEPT/ AFTA
vào 01/01/2006 (trong đó phải tối đa hố số dịng thuế 0 - 5% vào năm 2003),
Việt Nam tích cực thực hiện lộ trình cắt giảm thuế, cơng bố các danh mục hàng
hố thực hiện CEPT, công bố danh mục giảm thuế (IL) và mức giảm thuế hàng
năm, thành lập cơ quan AFTA quốc gia do Bộ Tài chính chỉ đạo để làm đầu
mối của Việt Nam trong việc triển khai thực hiện những vấn đề liên quan đến
AFTA. Từ 01/01/1996, Việt Nam bắt đầu thực hiện chương trình CEPT/AFTA.
Cụ thể, năm 1996 Việt Nam công bố đưa 875 mặt hàng; năm 1997 đưa thêm
621 mặt hàng vốn có thuế suất bằng 0 - 5% hoặc nhỏ hơn 20% vào thực hiện
CEPT/AFTA, đưa tổng số lên 1496 mặt hàng; năm 1998 tăng thêm 223 mặt
hàng, năm 1999 cơng bố danh mục hàng hố thực hiện CEPT gồm 3591 mặt
hàng tăng 1872 dòng so với năm 1998; năm 2000, số dịng thuế thực hiện CEPT
được cơng bố là 4234 dòng, tăng 643 dòng so với năm 1999. Việt Nam cũng
cơng bố lịch trình cắt giảm thuế cho tồn bộ giai đoạn 10 năm; chuyển một số
nhóm mặt hàng từ danh mục tạm thời chưa giảm thuế (TEL) sang danh mục

giảm thuế (IL), từ danh mục không giảm thuế (GEL) sang danh mục tạm thời
chưa giảm thuế (TEL). Thực hiện đúng cam kết, đến năm 2003, Việt Nam cơ
bản hoàn thành việc thực hiện CEPT với 97% tổng số dòng thuế giảm xuống
mức thuế suất tối đa là 20%, đến năm 2006, mức thuế suất tiếp tục được cắt
giảm xuống 0 – 5% với hơn 5000 dòng thuế32. Đến năm 2010, Việt Nam giảm
thuế nhập khẩu cho gần 10.000 dòng thuế xuống mức 0 – 5% theo CEPT/AFTA,

32 Nguyễn Hoàng Giáp – Nguyễn Hữu Cát – Nguyễn Thị Quế, Hợp tác liên kết ASEAN hiện nay và sự tham gia của Việt

Nam. Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội 2008, tr. 169.

23


×