MỞ ĐẦU
Với hai từ “hội nhập” và “toàn cầu hóa” dường như đã khái quát được
xu thế phát triển của thế giới từ giai đoạn 1980 đến nay. Xu thế này đã và
đang diễn ra một cách rõ ràng nhanh chóng. Với sự chấm dứt chiến tranh
lạnh, sự sụp đổ của hệ thống Xã Hội Chủ Nghĩa, sự bùng nổ của thị trường tài
chính toàn cầu và sự phát triển mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia…mà
nổi bật là các tổ chức kinh tế như tổ chức WTO…thì dường như toàn cầu hóa
đang là một xu hướng tất yếu và nó đang trở thành một trong những xu hướng
chủ yếu trong quan hệ kinh tế quốc tế hiện nay.
Có rất nhiều ý kiến khác nhau khi đánh giá về quá trình này. Có người
ủng hộ và cổ vũ cho quá trình toàn cầu hóa, xem nó như một giải pháp cứu
cánh của mọi quốc gia. Cũng có người chống lại toàn cầu hóa, xem nó là
nguy cơ đe dọa các quốc gia. Không chỉ ở những nước đang phát triển mới có
cách nhìn nhận như vậy mà ngay cả những nước phát triển như Mỹ và các
nước Châu Âu cũng có hai cách nhìn nhận ngược chiều nhau. Vấn đề là cần
phải nhận thức rõ về xu hướng toàn cầu hóa để từ đó lựa chọn cho mình con
đường đi tốt nhất.
Hiện nay xu hướng toàn cầu hóa ngày càng mở rộng, sự liên hệ phụ
thuộc và ràng buộc lẫn nhau trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế, chính trị,
văn hóa xã hội giữa các nước ngày càng tăng, thì bất cứ một sự đóng cửa,
khép kín của quốc gia, dân tộc nào cũng đều phải trả giá. Quá trình toàn cầu
hóa mang lại nhiều cơ hội và thách thức không thể xem thường đối với các
quốc gia phát triển hay không phát triển, chủ động hay không chủ động, tự
giác hay không tự giác tham gia hội nhập. Làm sao tận dụng được cơ hội,
vượt qua thách thức, thể hiện cất cánh kinh tế.
Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm tạo
ra cơ sở vật chất cho thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy việc nhìn
nhận một cách khách quan về thời cơ, thách thức do toàn cầu hóa mang lại là
rất cần thiết. Trong khuôn khổ bài tiểu luận này.
1
Nhận thức rõ tầm quan trọng đó, em xin mạnh dạn chọn đề tài: “Toàn
cầu hóa về kinh tế, vấn đề chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
và giải pháp chủ động hội nhập kinh tế Quốc tế của ngành Y,Dược” để
mong góp một phần nhỏ vào những cố gắng chung trong việc xây dựng hệ
thống lý luận kinh tế Việt Nam trong thời đại ngày nay.
2
NỘI DUNG
Chương I : TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ- XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG
TẤT YẾU CỦA LỊCH SỬ.
I. Cơ sở lí luận và thực tiễn của toàn cầu hóa.
a).Một nền công nghệ toàn cầu đang xuất hiện.
Nền công nghệ cơ khí về cơ bản vẫn là một nền công nghệ có tính
quốc gia, vì nó luôn phải lấy thị trường trong nước làm chính. Một khi chi phí
vận tải, liên lạc còn quá đắt đỏ, thì việc sản xuất, vận tải, tiêu thụ các hàng
hóa ở thị trường bên ngoài luôn có nhiều rủi ro bất trắc và có lợi thế so sánh
hạn chế. Giải pháp để giảm bớt những rủi ro bất trắc này và đảm bảo có lợi
thế so sánh là những nước sản xuất hàng hóa phải xâm chiếm và phân chia thị
trường thế giới, thị trường của ai, kẻ đó có độc quyền bán hàng. Nhưng sự
xâm chiếm thị trường này đã dẫn đến những xung đột giữa các nước thuộc địa
nơi bán hàng và các nước chính quốc, kẻ xâm chiếm. Các nước đế quốc xuất
hiện sau không có thị trường, đòi chia lại thị trường, chiến tranh bùng nổ.
Trong tình trạng xung đột nhs vậy thị trường thế giới đã bị xé nhỏ và chia cắt.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống thuộc địa đã tan rã, các nước đế
quốc không t hể xâm chiếm và chia nhau thị trường bằng chiến tranh như trước nữa, do sức mạnh của hệ thông xã hội chủ nghĩa thế giới và phong trào giải
phóng dân tộc. Nhưng thị trường thế giới lại bị chia cắt theo hướng khác: thị
trường của các nước XHCN đối lập với thị trường các nước TBCN; Các quốc
gia mới độc lập hầu như thi hành chính sách bảo hộ mậu dịch chặt chẽ, các
nước phát triển vừa thi hành chính sách bảo hộ mậu dịch, vừa mở cửa thị
trường theo các hiệp nghị song phương và khu vực. Hiệu năng của nền công
nghiệp cơ khí chưa cho phép các quan hệ kinh tế quốc tế có thể phát triển xa
hơn xét về mặt hiệu quả kinh tế.
Nhưng trong những thập kỷ gần đây, công nghệ thông tin và vận tải đã
có những tiến bộ vượt bực, đã làm giảm chi phí vận tải quốc tế xuống cả chục
lần và giảm chi phí liên lạc viễn thông xuống tới vài trăm lần ( Năm 1930 một
3
cú điện thoại từ London đến Newyord trong 3 phút mất 300 USD, nay chỉ còn
không đáng kể). Tiến bộ công nghệ này đã có tác động cực kỳ quan trọng đến
toàn bộ các quan hệ kinh tế quốc tế, nó đã biến các công nghệ có tính quốc
gia thành công nghệ toàn cầu. Chính công nghệ toàn cầu này là cơ sở quan
trọng đầu tiên, đặt nền móng cho sự đẩy mạnh quá trình toàn cầu hóa. Nhờ có
công nghệ toàn cầu phát triển, sự hợp tác giữa các quốc gia, các tập đoàn
kinh doanh có thể mở rộng từ sản xuất đến phân phối dịch vụ trên phạm vi
toàn cầu, những quan hệ tùy thuộc lẫn nhau cùng có ích phát triển. Đó là cơ
sở đầu tiên của nền kinh tế toàn cầu thống nhất.
b).Các quan hệ kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển.
Một nền công nghệ toàn cầu xuất hiện đã là cơ sở cho các quan hệ kinh
tế toàn cầu phát triển. Đầu tiên là các quan hệ thương mại. Chi phí vận tải
liên lạc càng giảm đi thì khả năng bán hàng đi các thị trường xa càng tăng lên,
thương mại toàn cầu càng có khả năng phát triển. Đồng thời quá trình phân
công, chuyên môn hóa sản xuất càng có thể diễn ra giữa các quốc gia và châu
lục. Các linh kiện của máy bay Boing, của ô tô, của máy tính… đã có thể sản
xuất ở hàng chục nước khác nhau. Các quan hệ sản xuất, thương mại có tính
toàn cầu đã kéo theo các dòng tiền tệ, vốn, dịch vụ… vận động trên phạm vi
toàn cầu. Công nghệ thông tin đã làm cho các dòng vận động này thêm náo
nhiệt và nhanh nhạy. Ngày nay, lượng buôn bán tiền tệ toàn cầu mỗi ngày đã
vượt quá 2000 tỷ USD. Thương mại điện tử xuất hiện với kim ngạch ngày
càng tăng và đang trở thành một loại hình buôn bán toàn cầu không biên giới
đầy triển vọng.
Sự phát triển của công nghệ toàn cầu và các quan hệ kinh tế toàn cầu
đang ngày càng xung đột với các thể chế quốc gia, với các rào cản quốc gia.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và các quan hệ kinh tế toàn cầu đang
công phá các bức tường thành quốc gia. Bước vào thập kỉ 90 các bức tường
thành quốc gia này đã bị phá vỡ ở các quốc gia trong liên minh Châu Âu, ở
các quốc gia Bắc Mỹ với mức độ thấp hơn, các quốc gia ASEAN đã cam kết
4
giảm bớt rào cản quốc gia. Các thành viên của tổ chức thương mại thế giói
cũng đã cam kết một lộ trình giảm bỏ hàng rào này. Nhưng phải thừa nhận là
những bức tường thành quốc gia này vẫn còn rất mạnh ở nhiều nước và ở
ngay cả liên minh Châu Âu hay Bắc Mỹ với những hình thúc biến tướng đa
dạng. Chính chúng đang cản trở quá trình toàn cầu hóa.
c).Những vấn đề kinh tế toàn cầu ngày càng xuất hiện nhiều và trở
nên bức xúc, và ngày càng đòi hỏi phải có sự phối hợp toàn cầu của các
quốc gia.
Người ta có thể kể ra ngày càng nhiều các vấn đề kinh tế toàn cầu như
thương mại , đầu tư, tiền tệ, dân số, lương thực, năng lượng, môi trường…
Môi trường toàn cầu ngày càng bị phá hoại, các nguồn tài nguyên thiên nhiên
ngày càng bị cạn kiệt, dân số thế giới đang gia tăng nhanh chóng trở thành
một thách thức toàn cầu; Các dòng vốn toàn cầu vận động tự do không có sự
phối hợp điều tiết đã làm nảy sinh các cuộc khủng hoảng liên tiếp ở Châu Âu,
Châu Mỹ, và Châu á trong thập kỷ 1990… Cần có sự phối hợp toàn cầu để
đối phó với các thách thức đó. “Bàn tay hữu hình” của các chính phủ đã chỉ ra
hữu hiệu ở các quốc gia, còn trên phạm vi toàn cầu hiện đang có quá nhiều
“bàn tay hữu hình” vỗ đập vào nhau, chứ chưa có “một bàn tay hữu hình”
chung làm chức năng điều tiết toàn cầu. Ngoài ba căn cứ chính trên đây thúc
đẩy quá trình toàn cầu hóa phát triển, còn có thể có những căn cứ khác như:
chiến tranh lạnh chấm dứt vào đầu thập lỷ 1990 đã chấm dứt sự đối đầu giữa
các siêu cường, tạo ra một thời kì hòa bình, hợp tác và phát triển mới.
II.Toàn cầu hóa kinh tế và tính hai mặt của nó.
1.Khái niệm.
Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về toàn cầu hóa. Theo định nghĩa
của ủy ban Châu Âu năm 1997 thì : “Toàn cầu hóa có thể được định nghĩa
như là một quá trình mà thông qua đó thị trường và sản xuất ở nhiều nước
khác nhau đang trở nên ngày càng phụ thuộc lẫn nhau”. Hay một định nghĩa
khác lại cho rằng: “Toàn cầu hóa kinh tế phản ánh một mức độ phụ thuộc lẫn
5
nhau toàn diện hơn so với quá khứ, cho thấy một sự khác biệt với thuật ngữ
“quốc tế hóa”. Nó ngụ ý tầm quan trọng ngày càng giảm của các đường biên
giới của quốc gia và sự tăng cường những đặc tính lan tỏa ra ngoài biên giới
bắt nguồn từ một nước, hoặc một khu vực nhất định…”.
Tuy nhiên, gần đây, tại hội thảo “ hội nhập kinh tế quốc tế- những vấn
đề lý luận và thực tiễn diễn ra tại Hà nội vào ngày 11-03-2004 thì các đại biểu
đã đồng thuận ý kiến với một khái niệm mới được tập hợp từ các khái niệm
khác nhau về toàn cầu hóa như sau :
“Toàn cầu hóa về kinh tế là một quá trình phát triển kinh tế của các
nước trên thế giới và các quan hệ kinh tế quốc tế vượt khỏi biên giới một
quốc gia, hướng tới phạm vi toàn cầu, trong đó, hàng hóa, vốn, tiền tệ, thông
tin, lao động… vận động thông thoáng. Mối quan hệ giữa các quốc gia và
khu vực được vận hành theo “luật chơi” chung được xác lập giữa các thành
viên trong cộng đồng quốc tế; sự phân công hợp tác quốc tế ngày càng sâu
rộng, tính xã hội hóa của sản xuất ngày càng tăng, các nền kinh tế ngày càng
có mối quan hệ mật thiết với nhau và tùy thuộc lẫn nhau”.
2. Nguyên nhân dẫn đến toàn cầu hóa toàn cầu về kinh tế.
Có thể khái quát nguyên nhân dẫn đến toàn cầu hóa qua bốn nguyên
nhân cơ bản sau:
- Thứ nhất là sự tiến bộ vượt bực về công nghệ, thông tin liên lạc đã
xóa đi mọi giới hạn về khoảng cách trong mối quan hệ kinh tế-văn hóa-xã
hội; sự gia tăng lực lượng sản xuất do nhu cầu của thị trường , do cạnh trạnh
buộc có sự liên kết, phụ thuộc lẫn nhau. Mọi vấn đề giờ không chỉ đơn thuần
là của một quốc gia, một dân tộc.
-Thứ hai, đó là việc tự do hóa thương mại và các hình thức tự do kinh
tế khác đã khiến phải hạn chế chính sách bảo hộ mậu dịch làm cho mậu dịch
thế giới phát triển tự do hơn. Kết quả là nhiều rào cản thuế quan trong buôn
bán hàng hóa và dịch vụ bị loại bỏ, các luồng vốn chu chuyển cùng các yếu tố
sản xuất ngày càng tăng.
6
- Thứ ba là sự mở rộng đáng kể phạm vi hoạt động của các tổ chức.
Trước kia nhiều công ty chỉ định hướng tới các thị trường địa phương, nay đã
mở rộng khả năng sản xuất và tiêu thụ của mình, bước lên cấp độ quốc gia, đa
quốc gia, thậm chí là toàn cầu.
- Thứ tư là : Những vấn đề của thế giới tăng mang tính chất toàn cầu
đòi hỏi nhiều quốc gia phải cùng nhau đưa ra các quyết định để cùng tồn tại
và phát triển như các vấn đề môi sinh môi trường, hòa bình, khủng bố…
3.Đặc trưng của toàn cầu hóa.
Dù có thể phân chia theo cách nào, thì giai đoạn từ cuối thập kỉ 1980
đến nay vẫn là một giai đoạn toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế nổi rõ
nhất với những đặc trưng sau:
- Sự chấm dứt chiến tranh lạnh và sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới đã kết thúc thời kì thế giới hai cực, chấm dứt sự đối đầu giữa
hai hệ thống kinh tế xã hội, và mở ra một thời kì hội nhập kinh tế toàn cầu
thực sự với chuyển đổi của hầu hết các quốc gia đã từng là XHCN, các quốc
gia đang phát triển sang kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế;
xu thế hòa bình, hợp tác phát triển đã trở thành xu thế chính của thời đại. Đây
là một đặc trưng cực kì quan trọng, vì nếu chiến tranh đối đầu nhau vẫn là xu
thế chính thì các quốc gia sẽ khó có thể hợp tác, hội nhập với nhau được.
- Sự bùng nổ của thị trường tài chính toàn cầu.
Bước vào nửa cuối thập kỉ 1980, tốc độ và quy mô giao dịch tài chính
toàn cầu đạt mức độ cao hơn chưa từng thấy. Trong thời kì này các giao dịch
ngoại tệ đã lớn hơn 100 lần giá trị của những lần trao đổi hàng hóa và dịch vụ
trên thị trường thế giới. Tính trung bình mỗi ngày doanh số trao đổi ngoại hối
đạt hơn 20 tỷ USD/ ngày năm 1973, tăng lên 60 tỷ USD/ ngày năm 1983, 590
tỷ USD/ ngày năm 1989, 1500 tỷ USD/ ngày năm 1998 và hiện nay trên
khoảng 2000 tỷ USD/ ngày. Tổng giá trị tài chính được trao đổi trên thị
trường toàn cầu năm 1980 là 5000 tỷ USD, đến năm 1996 đã tăng vọt lên
35.000 tỷ USD, năm 2000 83.000 tỷ USD, nghĩa là gấp lần 3 lần GDP của các
nươc OECD.
7
Sự bùng nổ của thị trường tài chính toàn cầu đã đi liền với xu hướng
tập trung các nguồn tài chính bằng hình thức sát nhập các tổ chức tài chính
tạo ra những siêu tập đoàn tài chính toàn cầu chưa từng có. Những vụ sát
nhập tiêu biểu là : Bank of America với Nations Bank có tổng tài sản 570 tỷ
USD; Citicorp traveller Group có tổng tài sản 7000 tỷ USD, Royal Bank of
Canada và Bank of Montreal với tài sản 311 tỷ USD… Những vụ sát nhập
này đã phổ biến ở các Châu Âu và Châu á với quy mô từ 1 tỷ USD đến 800 tỷ
USD.
-Sự phát triển của các công ty xuyên quốc gia kinh doanh toàn cầu đã
tăng nhanh chóng và ngày càng trở thành chủ thể cơ bản chi phối nền kinh tế
toàn cầu. Nếu năm 1914, tại 14 nước đứng đầu thế giới có 7,3 ngàn công ty
xuyên quốc gia với 27 300 chi nhánh tại nước ngoài, thì đến năm 1995, con số
các công ty xuyên quốc gia đã lên tới gần 40 ngàn với 250 ngàn chi nhánh ở
nước ngoài, và năm 2005 đã tăng lên 70 ngàn với 690 ngàn chi nhánh và tập
trung chủ yếu ở các nước phát triển (UNCTAD, 2005). Ngày nay ác nước
đang phát triển cũng có các công ty này. Theo báo cáo đầu tư thế giới năm
1998 cua liên hợp quốc thì các nước đang phát triển đã có 10.165 công ty
xuyên quốc gia, trong đó Châu Phi co 32, Châu Mĩ Latinh và Carribe co
1.109, các nước Nam, Đông Nam và Đông Nam á có 6.242, Trung Quốc có
379 công ty (1997), Hồng Kông 500, Hàn Quốc 480 công ty, Tây và Tây á co
458 công ty, Trung và Đông Âu co 842 công ty. 500 công ty xuyên quốc gia
lớn nhất thế giới đều tập trung ở các nước phát triển, nhiều nhất ở Mĩ và Nhật
Bản. Ngày nay không chỉ có các đại công ty mới hoạt động xuyên quốc gia,
mà ngày càng xuất hiện các công ty nhỏ và vừa cũng hoat động kinh doanh
xuyên quốc gia. Các công ty xuyên quốc gia tuy chiếm một tỷ trọng về sản
phẩm không lớn (khoảng 25%), nhưng các công ty quốc gia đã có vai trò chi
phối các quan hệ toàn cầu về thương mại, đầu tư, tài chín, tiền tệ và công
nghệ với tỷ trọng vào khoảng 60-90% tổng giá trị toàn cầu.
Nếu một nền kinh tế quốc gia đã dựa chủ yếu vào các công ty quốc gia,
thì một nền kinh tế toàn cầu sẽ phải dựa chủ yếu vào các công ty xuyên quốc
8
doanh toàn cầu, tuy nó không loại trừ các công ty chỉ hoạt động trong một
quốc gia.
- Các nhà nước quốc gia với chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế
đang ngày càng trở thành những chủ thể quan trọng của toàn cầu hóa.
Từ cuối thập kỉ 1980, đặc biệt là từ thập niên 1990, từ sau chiến tranh
lạnh kết thúc, hầu hết các nhà nước quốc gia theo nền kinh tế kế hoạch từ chối
mở cửa hội nhập quốc tế đã bắt đầu thời kì chuyển đổi sang kinh tế thị trường
mở cửa hội nhập quốc tế. Các nhà nước quốc gia nói chung cho đến nay đã
chấp nhận toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, do vậy đã tham gia IMF,
WB, WTO và các tổ chức kinh tế khu vực. Số nước đứng ngoài các tổ chức
này ngày càng ít.
-Các tổ chức dân sự ngày càng có vai trò lớn hơn trong nền kinh tế
toàn cầu.
Các tổ chức xã hội dân sự gồm các hiệp hội tự nguyện, các quỹ từ
thiện, các thể chế tôn giáo… hoạt đông đa dạng bên ngoài các phạm vi chức
năng của gia đình và nhà nước, nghĩa là các tổ chức này làm những gì mà nhà
nước và các gia đình không lam và có ích cho con người. Những tổ chức nay
đang hoạt động trên phạm vi toàn cầu.
Trong quá trình toàn cầu hóa phát triển đã có quá nhiều vấn đề, mà các
nhà nước quốc gia và gia đình không thể quan tâm hết như: sự thoái hóa của
môi sinh, nạn ngheo đói, bệnh tật, những bất công, những mặt trái của toàn
cầu hóa… Các tổ chức này cũng trực tiếp tham gia giải quyết các vấn đề đó.
- Các tổ chức kinh tế toàn cầu gia tăng hoạt động.
Tháng 12/1945 Hiệp định chính thức thành lập các tổ chức: Quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF), ngân hàng quốc tế tái thiết và phát triển(IBRD), tiền thân của
ngân hàng thế giới (WB), hiệp định chung về thuế quan và thương mại
(GATT), tiền thân của tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã kí kết.IBRD đã
chính thức đi vào hoạt động vào tháng 6/ 1946. IMF chính thức hoạt động vào
tháng 3 năm 1947. GATT cũng chính thức hoạt động vào 1947 và chuyển
dịch thành WTO vào năm 1995. những tổ chức này là những tổ chức kinh tế
toàn cầu đã thu hút hầu hết các quốc gia và các nền kinh tế lớn nhỏ tham gia,
9
có chức năng điều tiết các hoạt động tiền tệ, tài chính, thương mại toàn cầu
theo các nguyên tắc đã được thỏa thuận.
4.Tính chất hai mặt của toàn cầu hóa.
a. Những mặt tích cực.
-Nhìn tổng thể, tự do hóa thương mại và toàn cầu hóa kinh tế đã thúc đẩy
phát triển sản xuất và tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
Hội nghị UNCTADX cho rằng “ toàn cầu hóa và sự phụ thuộc vào nhau,
nhờ sự mở rộng tự do hóa thương mại và tiến bộ về công nghệ, đã mở ra
những triển vọng mới cho sự tăng trưởng kinh tế thế giới và cho sự phát triển.
Với sự tăng tốc của toàn cầu hóa đầu thập niên 90, người ta dự kiến rằng sự
tăng trưởng và phát triển, với động lực của thị trường thế giới, sẽ nhanh hơn,
bền vững hơn, và được chia sẻ rộng rãi hơn trong quá khứ.”
-Tự do hóa thương mại và toàn cầu hóa kinh tế đã đáp ứng và tạo ra nhu
cầu ngày càng đa dạng và thúc đẩy tiêu dùng và qua đó mà thúc đẩy sản xuất
phát triển.
Tự do hóa thương mại và toàn cầu hóa kinh tế đã vận dụng triệt để quy
luật cung cầu của cơ chế thị trường, lấy kích cầu (kích thích tiêu dùng) để
tăng cung ( phát triển sản xuất) và cung phải nhằm mục tiêu đáp ứng và tạo ra
những nhu cầu tiêu dùng mới, ngày càng cao.
Sự đa dang và phong phú của các mặt hàng tiêu dùng và các dịch vụ,
những tiện nghi trong sinh hoạt đối với những người có điều kiện mua sắm là
điều không thể phủ nhận.
- Dưới tác động của các tiến bộ khoa học và công nghệ, tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất, phương thức tổ c hức sản xuất đã có nhiều
thay đổi cơ bản.
- Tính chất của lao động, phương thức tổ chức các doanh nghiệp cũng
thế. Điều này đúng nhìn trên quy mô toàn cầu, cũng như đối với nền kinh tế
của các nước đã phát triển.
-
Tự do hóa thương mại và toàn cầu hóa kinh tế đã thúc đẩy đầu tư cho
khoa học, công nghệ và khai thác triệt để lĩnh vực này.
10
Công nghệ luôn là lá bài chủ lực của các tập đoàn xuyên quốc gia trong việc
tìm kiếm lợi nhuận, cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường.
-Tự do hóa thương mại và toàn cầu hóa kinh tế đã tạo ra một cuộc tập
hợp lực lượng rộng rãi trên phạm vi toàn cầu, đấu tranh cho công bằng và tiến
bộ xã hội.
-Sự tập hợp này đã âm ỉ nhiều năm nay và đã bộc phát khắp thế giới
trong hai năm qua, như chúng ta đã thấy.
Trong báo cáo của tổng thư kí UNCTAD tại hội nghị lần thứ X của tổ
chức này, tại Bangkok tháng 2 năm 2000, có nêu :
“ Việc xem xét lại này phải đề cập trực diện vấn đề gắn nội tại của các
quá trình tự do hóa và toàn cầu hóa để làm cho các quá trình này trở nên
công bằng hơn. Một hệ thống kinh tế thế giới bất lực trong việc tạo cho
những nước nghèo và cho những nhóm người nghèo của các nước, những
khả năng đủ và k hả thi để nâng cao mức sống, chắc chắn sẽ đánh mất tính
chính đáng của nó đối với các nước đang phát triển. Và không có tính chính
đáng đó, không có một hệ thống kinh tế thế giới nào tồn tại lâu dài được.”
Tuyên bố cuối cùng của các cuộc họp của các nghị sỹ các nước G7 tại La
Habana (Cuba) vào tháng 3 năm 2000 cũng cho rằng phải đưa toàn cầu hóa
vào một quỹ đạo công bằng, đích thực vì hạnh phúc của toàn nhân loại.
b. Những mặt trái.
-Tự do thương mại, trên thực tế hầu như chỉ diễn ra một chiều từ các
nước phát triển đến cá nước đang phát triển.
Các quy định về tự do thương mại hiện nay như nguyên tắc đối xử quốc
gia, tối huệ quốc, gần như chỉ có các nước đang phát triển đơn phương phải
thực hiện.
Các nước đã phát triển, dưới nhiều hình thức và viện dẫn khác nhau,
trên thực tế đã và đang áp dụng chủ nghĩa bảo hộ và phân biệt đối xử đối với
hàng hóa của các nước đang phát triển ( phương Nam), tạo nên những bức rào
ngăn chặn hàng hóa của các nước này thâm nhập thị trường của mình.
Các nước đang phát triển đang đấu tranh ngày càng mạnh mẽ chống
lại các hình thức bảo hộ, các rào cản, trực tiếp và gián tiếp, bởi vì chúng đi
ngược lại với chính nguyên tắc tự do hóa thương mại.
11
-Cánh kéo giá giữa hàng nông sản, nguyên vật liệu và hàng công nghệ
phẩm, dịch vụ rất xa, là một bất lợi lớn cho các nước đang phát triển.
Giá các mặt hàng nông sản và nguyên liệu, khoáng sản trên thị trường
thế giới bấp bênh và nhìn chung có xu hướng giảm trên biểu đồ nhiều năm.
Đây lại là các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của các nước đang phát triển.
Trong khi đó hàng công nghệ phẩm và dịch vụ được định giá theo một thang
bậc cao hơn rất nhiều lần.
Việc tự do hóa tuyệt đối chu chuyển tư bản tiền tệ và thị trường tài
chính, khôngcó sự kiểm soát cần thiết, là một nguy cơ cho sự ổn định của nền
kinh tế thế giới.
Sự trao đổi mậu dịch của các nước nghèo, vốn đã không ổn định, sự
không ổn định tài chính càng làm cho các nước này hết sức dễ bị tổn
thương.Hệ quả của các cuộc khủng hoảng này rất khắc nghiệt đối với các
nước nghèo, tầng lớp lao động nghèo. Trong phút chốc, chúng làm tiêu tan
một phần quan trọng những gì mà nền kinh tế nghèo và mong manh của
những nước đang phát triển đã tích lũy được trong nhiều chục năm, làm cho
các nước này lâm vào những khó khăn kinh tế- xã hội trầm trọng.Trong khi
đó, các công ty xuyên quốc gia và tầng lớp giàu của các nước bị khủng hoảng
lại thu được những món kếch xù nhờ vào phương sách giải quyết khủng
hoảng do IMF đề ra.
-Sự phân hóa giàu nghèo giữa các nước và trong mỗi nước là mặt trái
mang tính tổng hợp nhất của tự do hóa thương mại và toàn cầu hóa kinh tế
hiện nay.
Các số liệu về tăng trưởng trung bình của GDP toàn thế giới, của GDP
bình quân đầu người trên thế giới trong thời gian qua chỉ có một ý nghĩa
tương đối, tự chúng không nói lên thu nhập thực sự của các nước và của các
tầng lớp nhân dân các nước. Thật ra, sự phân hóa giàu nghèo giữa các nước
và trong mỗi nước, nghiêm trọng chưa từng thấy, là vấn đề nổi cộm nhất hiện
nay và là biểu hiện tiêu cực tổng hợp của xu hướng toàn cầu hóa hiện nay.
12
CHƯƠNG II. TOÀN CẦU HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ ĐỐI
VỚI NGÀNH Y, DƯỢC VIỆT NAM
1. Tác động toàn cầu hóa đối với ngành y tế.
Là hiệu ứng của toàn cầu hóa trên lĩnh vực y tế, là những tác động đến
sức khỏe của phát triển thương mại quốc tế, cải thiện thông tin liên lạc toàn
cầu, tăng dòng chảy của hàng hóa, dịch vụ và người dân, và biểu hiện khác
của toàn cầu hóa.
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đặt ra cho sự
nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân những thách thức to lớn.
Toàn cầu hoá vừa đem lại những cơ hội thuận lợi, đồng thời phải đối mặt
với những nguy cơ lây truyền các bệnh dịch nguy hiểm, những thách thức
về khả năng cạnh tranh, nhất là trong lĩnh vực dược và công nghệ cao
trong y tế, xu hướng phân hoá giàu nghèo ngày càng gia tăng, trong khi vẫn
phải bảo đảm công bằng trong khám chữa bệnh; nhu cầu chăm sóc sức
khoẻ của nhân dân ngày càng cao và đa dạng trong khi khả năng đáp ứng
của hệ thống y tế còn hạn chế.
Y tế Việt Nam cũng chịu tác động của xu thế toàn cầu hóa
- AIDS/HIV đã lây lan nhanh chóng. Theo UNAIDS, năm 2008 đã có
khoảng:
+ 33.400.000 người sống chung với HIV
+ 2.700.000 người mới nhiễm HIV
+ 2.000.000 người tử vong do AIDS
- Có 8.800.000 trường hợp mới của bệnh lao và 1.750.000 trường hợp tử
vong do bệnh lao mỗi năm
Tại Việt Nam, từ khi tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế đến nay, tình
hình đầu tư trực tiếp của nước ngoài và thương mại quốc tế đã và đang phát
triển nhanh chóng. Việt Nam, cũng như các nước chậm phát triển, đang phát
triển khác đã phải đối mặt với việc giải quyết vấn đề tăng trưởng kinh tế đi
đôi với việc giải quyết các vấn đề công bằng xã hội, trong đó có y tế.
13
2. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã có những tác động đến hệ
thống y tế, đến sức khoẻ của nhân dân:
Toàn cầu hoá tác động đến sức khoẻ thông qua tốc độ phát triển kinh tế,
tăng trưởng kinh tế, ví dụ như tốc độ tăng GDP (Tổng sản phẩm quốc nội) sẽ
làm tăng thu nhập của quốc gia và đó là một trong những yếu tố quyết định
đến sức khoẻ. Thu nhập bình quân của một quốc gia càng cao, thì khả năng
của người dân được tiếp cận với các dịch vụ y tế ngày càng tốt hơn. Các chỉ
số về sức khỏe như tuổi thọ tăng, tỷ lệ suy dinh dương, tỷ lệ trẻ em dưới 1
tuổi và dưới 5 tuổi chết giảm nếu như quốc gia đó có hệ thống chính trị ổn
định, hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh, việc quản lý nhà nước được
vận hành có hiệu lực, hiệu quả, có tiếp cận với hệ thống y tế công cộng một
cách phổ cập và rộng khắp.
Các số liệu sau ở Việt Nam sẽ chứng minh cho nhận định đó: Theo Niên
giám thống kê y tế hàng năm thì Tổng sản phẩm quốc nội năm 1996 là
272.000 tỷ đồng đã tăng lên 536.098 tỷ đồng năm 2002, trong đó, ngân sách y
tế tuyệt đối năm 1996 là 3.610 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 4,76% trong tổng chi ngân
sách nhà nước thì năm 2002 là 7.266 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 5,2% trong tổng chi
ngân sách nhà nước.
Rõ ràng là khi GDP tăng thì ngân sách chi cho y tế cũng ngày càng tăng,
đồng thời thu nhập dân cư tăng tạo điều kiện cho người dân tiếp cận các dịch
vụ y tế tốt hơn và điều đó đã tác động tích cực đến sự nghiệp chăm sóc và bảo
vệ sức khoẻ nhân dân.
Sự chênh lệch giàu nghèo đã tác động cả tích cực và tiêu cực đến sức
khoẻ. Để thực hiện công bằng trong khám chữa bệnh, trong khi nhu cầu và
khả năng chi trả của người dân lại khác nhau dẫn đến nhu cầu cung ứng các
dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cũng khác nhau, đặc biệt là giải quyết vấn đề
khám chữa bệnh cho người nghèo đòi hỏi phải chuyển đổi chính sách y tế cho
phù hợp với thực tế đó.
14
3. Toàn cầu hoá và các tác động không mong muốn đến sức khoẻ:
Toàn cầu hoá có thể tác động không mong muốn đến sức khoẻ. Việc mở
cửa, hội nhập sẽ là xuất hiện các nguy cơ sức khoẻ khác nhau trong cộng
đồng. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã làm cho việc đi lại, trao đổi hàng
hoá tăng nhanh dẫn đến nguy cơ lan truyền dịch bệnh, bệnh tật cũng tăng
nhanh. Các bệnh dịch hạch, hội chứng viêm đường hô hấp cấp tính nặng
(SARS), cúm, HIV/AIDS, một số bệnh lây truyền qua đường tình dục ... có
thể lan truyền qua du lịch, đi lại và nhập cư.
Quá trình tự do hoá thương mại đã và sẽ xuất hiện các khủng hoảng
kinh tế đột ngột, không bảo đảm việc làm, thất nghiệp, mất công bằng trong
thu nhập... và các sự kiện này đã trở thành nguyên nhân chính gây trầm cảm,
rối loạn tâm thần, rối loạn hành vi, nghiện rượu, bạo lực gia đình, tự tử, xung
đột. Ví dụ như ở Việt Nam, số lượng người nhiễm HIV/AIDS tăng nhanh với
nguồn lây nhiễm chủ yếu là tiêm chích ma tuý và mại dâm hay tai nạn giao
thông cũng gia tăng, từ năm 1994 đến 2002, số lượng mắc tai nạn giao thông
tăng từ 14.174 lên 29.827, số chết tăng từ 4.907 lên 12.956 trường hợp.
Toàn cầu hoá cũng có thể ảnh hưởng tới sức khoẻ phụ nữ và trẻ em do
việc phụ nữ ngày càng phải tham gia vào lực lượng lao động. Tăng thu nhập
gia đình chưa hẳn đồng nghĩa với việc chăm sóc sức khoẻ trẻ em tốt hơn thể
hiện ở tình trạng suy dinh dưỡng, không được học hành và giáo dục đầy đủ
đang là các vấn đề xã hội cần phải giải quyết.
Mặt khác, tự do hoá thương mại đã làm cho giá các sản phẩm thuốc lá
sẽ rẻ hơn, làm cho nhiều người hút thuốc hơn và tất yếu sẽ xuất hiện nhiều
bệnh tật liên quan tới thuốc lá hơn.
4. Toàn cầu hoá tác động đến các dịch vụ y tế.
Quá trình toàn cầu hóa đã tác động đến các dịch vụ y tế ở Việt Nam,
thể hiện ở 4 loại hình sau:
- Kinh doanh dịch vụ y tế xuyên biên giới;
15
- Tiêu thụ dịch vụ y tế ở ngoài nước (thường xảy ra với những người
giàu trong xã hội muốn được chữa bệnh chất lượng cao ở nước ngoài);
- Sự hiện diện của dịch vụ và thương mại nước ngoài ở trong nước (ví dụ
qua hình thức đầu tư trực tiếp vào hệ thống bệnh viện, vào sản xuất dược
phẩm);
- Sự chuyển dịch của nhân lực y tế (thông qua việc các chuyên gia giỏi ra
nước ngoài làm việc hoặc nhân viên y tế nước ngoài làm việc tại trong nước).
Hiện nay, theo số liệu thống kê của Bộ Y tế, trong lĩnh vực y tế, cả
nước có 16 cơ sở khám chữa bệnh có vốn đầu tư nước ngoài (4 bệnh viện, 6
phòng khám đa khoa, 5 phòng khám chuyên khoa và 1 phòng xét nghiệm);
trong lĩnh vực dược có 28 Dự án đầu tư liên doanh sản xuất dược đã được cấp
phép, 213 công ty nước ngoài có giấy phép kinh doanh thuốc; trong lĩnh vực
y dược học cổ truyền có 46 người nước ngoài hành nghề tại 30 phòng khám
chữa bệnh (KCB) bằng y học cổ truyền (YHCT).
5. Toàn cầu hoá tác động đến tình trạng sức khoẻ nhân dân thông qua
các điều ước quốc tế.
Các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập cũng tác động
đến việc tiếp cận các loại thuốc chữa bệnh mới, thuốc đặc trị. Nhu cầu về các
thuốc chữa bệnh đặc trị của các nước đang phát triển và nước nghèo, trong đó
có Việt Nam là rất lớn tuy nhiên giá thuốc lại quá cao. Việc tiếp cận các loại
thuốc chữa bệnh mới, thuốc đặc trị cũng gặp khó khăn vì các rào cản pháp lý
quốc tế. Ví dụ như Hiệp định TRIPS (Trade-Related Aspects of Intellectual
Property Rights - Các khía cạnh thương mại của Quyền sở hữu trí tuệ) đã bảo
hộ cho các phát minh mới tới 20 năm. Vì thế, TRIPS có thể làm cho các nước
đang phát triển khó khăn trong việc tiếp cận với các thuốc đặc trị liên quan
đến tính mạng con người do Hiệp định này đã hạn chế khả năng sản xuất đang
trong thời gian bảo hộ sáng chế hoặc nhập khẩu các thuốc mới.
Thuốc điều trị HIV/AIDS là một ví dụ điển hình. Chúng ta đều thấy rõ,
trị liệu kháng Retrovirus hoạt tính cao (HAART) có tác dụng rất tốt để kéo
16
dài tuổi thọ và giảm các nhiễm trùng cơ hội của bệnh nhân HIV/AIDS. Song
ở nước giàu, giá của trị liệu này là trên 10.000 đô la Mỹ/năm . Với chi phí đó,
các nước nghèo như Việt Nam không thể tiếp cận với thuốc chống Retrovirus
kể cả trường hợp TRIPS cho phép nhập khẩu song song các thuốc generic rẻ
tiền.
6. Tác động của việc gia nhập WTO đối với ngành công nghiệp dược
Việt Nam.
Việc gia nhập WTO đòi hỏi Việt Nam phải điều chỉnh môi trường
chính sách pháp luật trên cơ sở thực thi những chuẩn mực, quy định của quốc
tế, quản lý phải minh bạch hơn, thực hiện đối xử bình đẳng với các công ty
nước ngoài và dỡ bỏ các rào cản thương mại cũng như rào cản hành chính.
Việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ cũng là một khó khăn khi mà ngành
công nghiệp dược Việt Nam đang chủ yếu sản xuất các thuốc generic, có cả
những thuốc đang trong thời gian bảo hộ bản quyền phát minh. Việc chi trả
cho các bằng phát minh để được phép sản xuất là nằm ngoài tầm với của các
doanh nghiệp dược Việt Nam.
Lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu đồng nghĩa với việc cạnh tranh ngày
càng khốc liệt giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các công ty đa quốc gia.
Những rào cản hiện tại trong thương mại là lợi thế của các doanh
nghiệp Việt Nam như sự bảo hộ của Chính phủ, chính sách hạn chế phân phối
đối với các công ty nước ngoài sẽ từng bước được dỡ bỏ là những thuận lợi
cho các công ty nước ngoài và là khó khăn đối với các doanh nghiệp dược
Việt Nam.
7. Toàn cầu hoá tác động đến việc tiếp cận thuốc điều trị do tình trạng
độc quyền, cạnh tranh không lãnh mạnh của các công ty kinh doanh thuốc
nước ngoài tại Việt Nam.
Trong thời điểm cuối năm 2003, đầu năm 2004, trên thị trường Việt
Nam có một số biến động về giá thuốc chữa bệnh, đặc biệt là giá các thuốc
chuyên khoa đặc trị tăng gây ảnh hưởng đến khả năng điều trị của người
bệnh, nhất là người nghèo.
17
Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là vấn đề độc quyền
của các công ty dược nước ngoài tại Việt Nam: Một số công ty nước ngoài
như công ty Zuellig Pharma Việt Nam, Công ty Diethelm, Công ty Mega độc
quyền phân phối thuốc, đặc biệt là những thuốc chuyên khoa đặc trị, thuốc
đang trong thời gian bảo hộ bằng phát minh, sáng chế (Patent), thuốc biệt
dược của các công ty đa quốc gia trên thế giới. Một số Công ty TNHH
Việt Nam độc quyền một số mặt hàng thuốc của công ty nước ngoài sau khi
trả phí nhập khẩu uỷ thác đã định giá bán buôn, bán lẻ thuốc rất cao nhằm
mục đích thu nhiều lợi nhuận.
Để hạn chế độc quyền, góp phần bình ổn giá thuốc chữa bệnh cần thiết
phải nghiên cứu để có các chính sách chống độc quyền, cạnh tranh lành mạnh
của các công ty dược nước ngoài trên thị trường Việt Nam.
Như các phân tích trên đây cho thấy toàn cầu hoá có thể có tác dụng vừa
tích cực vừa tiêu cực đến tình trạng sức khoẻ của Việt Nam khi tham gia vào
quá trình này. Toàn cầu hoá kinh tế có thể là một công cụ góp phần làm tăng
thu nhập và qua đó gián tiếp làm tăng sức khoẻ và phúc lợi xã hội khác nhưng
các tác động có lợi đó sẽ phụ thuộc vào các điều kiện nội tại về sự phát triển
của nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội, các chính sách đối
ngoại và hợp tác với quốc tế. Mặt khác, toàn cầu hoá cũng có tác động không
tốt đến sức khoẻ nên cần phải có sự quản lý, điều tiết có hiệu quả của Nhà
nước trên cơ sở các chính sách y tế của Việt Nam và các yếu tố quan trọng
khác như điều kiện xã hội, chính trị, kinh tế, mức độ mất công bằng về thu
nhập, giáo dục và sự vận hành của hệ thốngy tế quốc gia.
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đặt ra cho sự nghiệp
chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân những thách thức to lớn. Toàn cầu hoá vừa
đem lại những cơ hội thuận lợi, đồng thời phải đối mặt với những nguy cơ lây
truyền các bệnh dịch nguy hiểm, những thách thức về khả năng cạnh tranh, nhất là
trong lĩnh vực dược và công nghệ cao trong y tế, xu hướng phân hoá giàu nghèo
ngày càng gia tăng, trong khi vẫn phải bảo đảm công bằng trong khám chữa bệnh;
nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của nhân dân ngày càng cao và đa dạng trong khi khả
năng đáp ứng của hệ thống y tế còn hạn chế.
18
CHƯƠNG III. VAI TRÒ QUẢN LÝ CỦA BỘ Y TẾ ĐỐI VỚI
NGÀNH Y DƯỢC TRƯỚC XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA
Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa tự do hóa thương mại với vấn đề y
tế công cộng, đòi hỏi Bộ Y tế phải hướng việc quản lý, điều tiết vào những
vấn đề chủ yếu sau:
1. Quản lý, điều tiết việc phát triển ngành y tế.
Việc tăng trưởng kinh tế liên tục trong thời qua đã tạo điều kiện thuận lợi
để Nhà nước có thêm nguồn ngân sách chi cho y tế. Tuy nhiên, so với nhu cầu
thực tế thì đòi hỏi phải có nguồn ngân sách chi cho y tế cao hơn.
Bộ Y tế đang đề xuất Nhà nước từng bước tăng đầu tư ngân sách nhà
nước cho y tế, bảo đảm đến năm 2010 chi cho y tế đạt 12,5% tổng chi ngân
sách nhà nước.Đồng thời phải đổi mới phân bổ ngân sách, ưu tiên đầu tư
cho y tế dự phòng, y tế cơ sở, các chương trình mục tiêu y tếquốc gia và các
trung tâm y tế chuyên sâu. Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn đầu tư
của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cho lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc
và nâng cao sức khỏe nhân dân.
Chuyển dần hình thức Nhà nước cấp kinh phí cho các hoạt động khám,
chữa bệnh tại các cơ sở y tế công lập sang hình thức hỗ trợ cho người sử dụng
dịch vụ y tế.
2.Khám, chữa bệnh cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã
hội.
Mặt trái của phát triển kinh tế thị trường là việc phân bổ thu nhập không
đều dẫn đến khoảng cách giàu nghèo ngày càng xa nên một bộ phận nhân dân
trở nên nghèo khó. Do đó, bên cạnh việc triển khai chương trình "Xoá đói,
giảm nghèo", Chính phủ đã và đang triển khai chính sách về khám chữa bệnh
cho người nghèo trên cơ sở thành lập Quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo.
Đến nay, Quỹ đã huy động được 522.460 triệu đồng để chi cho việc mua thẻ
bảo hiểm y tế và thực thanh thực chi trong khám, chữa bệnh cho 13.532.050
người thuộc đối tượng nghèo.
19
Hiện nay, Chính phủ đang sửa đổi chính sách thu viện phí, trong đó có
chính sách miễn giảm đối với một số đối tượng thuộc diện chính sách xã hội,
đồng thời thực hiện chính sách trợ cấp cho người thuộc đối tượng chính sách,
người nghèo, đồng bào dân tộc và người sống tại các vùng sâu, vùng xa.
Để giải quyết việc khám chữa bệnh cho người nghèo một cách cơ bản,
Nhà nước đang phấn đấu thực hiện các lộ trình để tiến tới bảo hiểm y tế toàn
dân vào năm 2010.
3. Giảm các tác động không mong muốn đến sức khoẻ.
Để giảm tác động không mong muốn đến sức khoẻ, Nhà nước đã và
đang áp dụng các biện pháp kiểm soát vệ sinh, an toàn thực phẩm; kịp thời dự
báo và có biện pháp ngăn ngừa để hạn chế tối đa những tác động tiêu cực đối
với sức khoẻ do sự thay đổi lối sống, điều kiện lao động, môi trường trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; nâng cao năng lực giám sát, phát
hiện và khống chế dịch bệnh, đặc biệt là HIV/AIDS và các dịch bệnh mới
phát sinh; đẩy mạnh phòng chống các bệnh không lây nhiễm, phòng chống tai
nạn, thương tích, bệnh nghề nghiệp, phục hồi chức năng.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Luật phòng chống nhiễm vi rút
gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) năm
2006 và đang chỉ đạo việc xây dựng và sẽ ban hành Dự án Luật phòng, chống
bệnh truyền nhiễm vào giữa năm 2007, trong đó có kiểm dịchy tế quốc tế.
4. Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ y tế.
Bên cạnh hệ thống y tế công, Việt Nam đã phát triển hệ thống y tếtư
nhân. Nhà nước coi hệ thống y tế tư nhân là bộ phận cấu thành của hệ thống y
tế cả nước. Nhà nước đã và đang triển khai các chính sách khuyến khích, tạo
điều kiện thuận lợi và môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các nhà đầu tư
trong nước và nước ngoài phát triển các loại hình dịch vụ chăm sóc sức khoẻ.
Từng bước hoàn thiện hệ thống các tiêu chuẩn liên quan đến thực phẩm
nhập khẩu, xuất khẩu, thuốc, vắc xin, sinh phẩm y tế, trang thiết bị y tế như
20
GMP, GSP, GLP, ISO... và các điều kiện hành nghề y, dược tư nhân cho phù
hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh hành nghề y, dược tư
nhân, Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm và Luật đầu tư tạo môi trường
pháp luật thuận lợi cho việc đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực y tế tại Việt Nam.
5. Xử lý các xung đột pháp luật giữa các điều ước quốc tế với pháp luật Việt
Nam về thương mại, sở hữu trí tuệ liên quan đến y tế.
Trên cơ sở Hiệp định thương mại thế giới 1994, đặc biệt là TRIPS
(Trade-Related Aspects of Intellectual Property Rights = Các khía cạnh
thương mại của Quyền sở hữu trí tuệ), Việt Nam đã ban hành Bộ luật Dân sự
(Sửa đổi) năm 2005, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 để phù hợp với pháp luật
thương mại quốc tế khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
(WTO).
Hiện nay, để gia nhập WTO vào cuối năm 2006, Nhà nước Việt Nam đã
đề ra Chương trình hành động lập pháp, tức là đẩy nhanh tốc độ xây dựng
pháp luật phục vụ cho hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó có cả các văn bản
quy phạm pháp luật về y tế bao gồm:
- Rà soát các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để điều chỉnh cho
phù hợp với các cam kết quốc tế;
- Rà soát, điều chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để phù
hợp với các nghĩa vụ thành viên của WTO.
6. Cải thiện môi trường kinh doanh dược phẩm.
Để hạn chế chế tình trạng độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh của
các công ty kinh doanh thuốc nước ngoài tại Việt Nam, Bộ Y tế đã đề ra 7
giải pháp cấp bách và hiện đang triển khai thực hiện. Đó là các giải pháp về
quản lý nhập khẩu thuốc,chấn chỉnh phân phối và cung ứng thuốc cho bệnh
viện, quản lý giá thuốc, chống độc quyền, tài chính, tuyên truyền giáo dục và
tăng cường kiểm tra, thanh tra và xử lý các vi phạm.
21
Hiện nay, Quốc hội Việt Nam ban hành Luật Cạnh tranh năm 2004 và Luật
Dược năm 2005. Đồng thời Bộ Y tế đang chuẩn bị Đề án “Phát triển công nghiệp
dược Việt Nam giai đoạn đến năm 2010” trình Chính phủ phê duyệt để đáp ứng nhu
cầu thuốc khám, chữa bệnh sản xuất trong nước đạt 60% vào năm 2010.
7. Tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài
Các nguồn lực bên ngoài:
- WHO
- Các dự án đầu tư cho lĩnh vực y tế từ nước ngoài
- Các quỹ, viện trợ nước ngoài cho bệnh nhân
22
KẾT LUẬN
Toàn cầu hoávề kinh tế đó chính là quá trình liên kết khu vực, liên kết
toàn cầu về kinh tế, là tăng sự phụ thuộc của các nước vào nhau. Nói như thế
không có nghĩa là các nước khi tham gia hội nhập thì sẽ bị lệ thuộc hoàn toàn
vào nền kinh tế khu vực, nền kinh tế thế giới. Mà khi hội nhập mỗi nước đều
có quyền chủ động, tự do trong việc đàm phán, thoả thuận vào những luật lệ
đã được xác lập sẵn. Trên thế giới hiện nay nhiều tổ chức kinh tế khu vực đã
được xác lập, như tổ chức: EU, tổ chức :APEC… Việt Nam cũng đã tham gia
vào các tổ chức kinh tế quốc tế trên thế giới và khu vực như: APEC, ASEAN,
ASEAM, và sự kiện gần đây nhất đánh dấu bước hội nhập củachúng ta đó là
chúng ta chính thức gia nhập tổ chức WTO, tổ chức thương mại có qui mô
lớn nhất thếgiới hiện nay.
Có nhiều ý kiến tỏ rõ sự lo ngại khi chúng ta gia nhập WTO, rằng tham
gia hội nhập kinh tế thế giới sẽ đưa nền kinh tế kém phát triển của nước ta bị
“ đánh bại” bởi nền kinh tế phả ttiển của thế giới. Cũng có ý kiến lại quá chủ
quan vào cơ hội có thể đạt được, rằng chi cần gia nhập được vào WTO thì cơ
hội sẽ tự đến. Cả hái ý kiến trên đều là những ý kiến chủ quan mà nếu chúng
ta nghiêng vào một trong hai ý kiến đó thì sẽ làm chệch hướng đi đúng đắn
mà chúng ta có khả năng đạt được. Nhìn nhận sự kiện một cách khách quan,
đúng đắn là một diều quan trọng để dành thắng lợi khi tham gia hội nhập.
Sự nắm bắt thời cơ là vô cùng quan trọng, vậy liêu Việt Nam có thể
tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức để bước vào hội nhập hay không ?
điều đó tuỳ thuộc rất lớn vàp sự lãnh đạo của Đảng, của Nhà nước và vào
sự nhận thức và đổi mới tư duy, đổi mới tác phong làm việc của tất của
người dân Việt Nam. Đặc biệt là trong thời đại nền kinh tế tri thức hoá thì
trình độ và khả năng sáng tạo, học hỏi.. của những người làm chủ đất
nước là vô cùng quan trọng.
23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình triết học Mác – Lênin / NXB Chính Trị Quốc Gia
- Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin / NXB Chính Trị Quốc Gia
- Văn kiện đại hội đảng VI, VII,VIII, IX, X
- Bài tham luận: “đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế - vấn đề
giải pháp” – Thứ trưởng bộ thương mại: Lương Văn Tư
- Bài tham luận: “Hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam” – PGS.TS Trần
Nguyễn Tuyên.
- “Tác động của việc gia nhập các tổ chức thương mại thế giới và hội
nhập kinh tế quốc tế đến phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam – Một năm
nhìn lại” – Bộ trưởng bộ thương mại: Trương Đình Tuyển
- “Hội nhập kinh tế quốc tế với phát triển bền vững” – Lê Thế Giới, Võ
Xuân Tiến, Trương Bá Thanh / NXB hành chínhh quốc gia
- “Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam” – Ngô Văn
Điểm / NXB Chính Trị Quốc Gia
- “Toàn cầu hoá, tăng trưởng và nghèo đói: Xây dựng một nền kinh tế
thế giới hội nhập” : sách tham khảo/ Vũ Hoàng Linh dịch / NXB Văn Hoá
Thông Tin
- Tạp chí cộng sản số 34/2002, 65/2002, 12/2007, 785/2008
- Tổng cục thống kê Việt Nam
24
MỤC LỤC
25