Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP TÍCH CỰC CỦA SINH VIÊN KHOA NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA NHẬT BẢN, TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ, ĐẠI HỌC HUẾ - Full 10 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 11 trang )

HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC TÍCH CỰC CỦA SINH VIÊN KHOA NGƠN
NGỮ VÀ VĂN HĨA NHẬT BẢN, TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ,

ĐẠI HỌC HUẾ

31Nguyễn Thị Hƣơng Trà, Trần Diễm Hà, Nguyễn Xuân Nguyên Hạnh

Trƣờng Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế

Tóm tắt

Phƣơng pháp giảng dạy luôn là đề tài đƣợc rất nhiều ngƣời nghiên cứu, nó đóng một
vai trò định hƣớng trong việc nâng cao chất lƣợng học tập. Nhất là ở bậc đại học, giáo
viên phải là ngƣời hƣớng dẫn, khơi gợi cho sinh viên niềm đam mê học tập, nghiên
cứu. Đặc biệt, hiện nay số lƣợng ngƣời học trong một lớp khá đông, lƣợng kiến thức
lớn hơn rất nhiều so với bậc phổ thông nên ngƣời dạy phải thƣờng xuyên thay đổi
phƣơng pháp dạy cho phù hợp với thời đại công nghệ thông tin bùng nổ nhƣ hiện nay.
Phƣơng pháp giảng dạy lấy ngƣời học làm trung tâm, hoạt động dạy học tích cực đã
đƣợc rất nhiều nghiên cứu đề cập. Mặc dù kết quả điều tra trong bài viết lần này về
hoạt động dạy học tích cực là rất cần thiết, tuy nhiên cần kết hợp với nhiều phƣơng
pháp dạy học khác để nâng cao hơn nữa hiệu quả trong dạy và học ngoại ngữ nói
chung và tiếng Nhật nói riêng.

Từ khóa: Hoạt động học tích cực, phƣơng pháp giảng dạy, mục tiêu, hoạt động nhóm.

1. Mở đầu

Tiếng Nhật đƣợc dạy tại khoa Ngơn ngữ và Văn hóa Nhật Bản từ năm 2005, cho đến
nay đã đƣợc 14 năm. Số lƣợng sinh viên học tiếng Nhật ngày càng đơng và đã đóng góp
một phần cho nguồn nhân lực biết tiếng Nhật trên toàn quốc nói chung và các tỉnh miền
Trung nói riêng. Tuy nhiên, do số lƣợng sinh viên trong một lớp khá đơng nên sinh viên có


rất ít cơ hội để trau dồi những kiến thức, kỹ năng đã đƣợc học trên lớp. Trong thời đại công
nghệ 4.0, thời đại thế giới phẳng, sinh viên có thể tự mình thu thập thơng tin, trau dồi kiến
thức ở bất cứ nơi nào, chứ không nhất thiết phải là trong lớp học. Để vận dụng và khai thác
năng lực, tiềm năng của mỗi cá nhân sinh viên, hoạt động dạy học tích cực là cần thiết và
phù hợp với xu thế ngày nay và vai trò của ngƣời giáo viên cần phải đƣợc thay đổi nhƣ thế
nào đang là một thách thức không nhỏ đối với ngƣời giảng dạy tiếng Nhật nói riêng và
giảng dạy ngoại ngữ nói chung. Nghiên cứu nhằm nắm rõ tình hình giảng dạy của giáo
viên tại khoa Ngơn ngữ và Văn hóa Nhật Bản và việc sử dụng hoạt động dạy học tích cực
có ảnh hƣởng theo chiều hƣớng nào đến việc học của sinh viên, với nội dung cụ thể nhƣ sau:

- Giáo viên khoa Ngơn ngữ và Văn hóa Nhật Bản áp dụng hoạt động dạy học tích
cực nhƣ thế nào?

- Sinh viên có thái độ nhƣ thế nào khi tham gia hoạt động học tích cực?

31 Email:

254

Kỷ yếu Hội thảo quốc gia nghiên cứu liên ngành về ngôn ngữ và giảng dạy ngôn ngữ lần thứ V

2. Cơ sở lý luận

Học tập tích cực là một khái niệm rộng, bao gồm rất nhiều hoạt động nhƣng chung
quy lại là dùng phƣơng pháp học tập lấy ngƣời học làm trung tâm, thay cho phƣơng pháp
truyền thống là giáo viên là ngƣời truyền đạt kiến thức, sinh viên là ngƣời nghe và ghi chép
lại, nhằm kích thích tính tích cực, phát huy khả năng tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và nâng
cao tính sáng tạo của ngƣời học tốt hơn. Theo Mizogami thì tất cả các hoạt động mà ngƣời
học chủ động tham gia đều gọi là học tập tích cực (active learning). Trong giới hạn bài viết
này, chúng tôi đề cập đến các khái niệm hoạt động nhóm hay là hoạt động hợp tác.


2.1. Hoạt động học tích cực

Hoạt động học tích cực là gì? Theo Mizogami (2014), tất cả các hoạt động chủ động,
tích cực trong học tập đều gọi là hoạt động tích cực. Việc học thơng qua quá trình nhận
thức để xảy ra hoạt động nhƣ viết, nói, trình bày,… đều gọi là hoạt động học tích cực. Nếu
chỉ đơn thuần viết, nói thì khơng phải là hoạt động học tích cực, bởi vì thơng qua hoạt
động học tích cực sẽ hình thành, ni dƣỡng cho ngƣời học những kỹ năng truyền tải kiến
thức, hình thành thái độ, năng lực cần thiết để xử lý các tình huống. Nói tóm lại, hoạt động
học tích cực là một thuật ngữ mơ tả hình thức học tập của ngƣời học, tạo ra cho ngƣời học
biết cách học tập một cách tích cực, chủ động.

Yasui Go (2015) cho rằng hoạt động học tích cực bao gồm rất nhiều hoạt động nhƣ
hoạt động nhóm, hoạt động học tập hợp tác… Và vai trò của ngƣời giáo viên rất quan
trọng trong hoạt động này. Giáo viên phải chú trọng đến quá trình học, chú ý đến nhu cầu
của ngƣời học, hƣớng dẫn cho ngƣời học biết tự đề ra mục tiêu học tập và tự đánh giá kết
quả mình đạt đƣợc… Theo mơ hình hình chóp của Edgar Dale (1969), so sánh mức độ ghi
nhớ của ngƣời học với hai hình thức học chủ động và thụ động, thì với hình thức học thụ
động ngƣời học chỉ nhớ 10% những gì đã đọc, 20% những gì đã nghe, 30% những gì đã
thấy, 50% những gì đã thấy và nghe, nếu tham gia thảo luận, phát biểu một cách chủ động
thì nhớ 70% những gì đã nói, làm theo một kinh nghiệm hay thực hiện một việc thật thì
nhớ 90%. Nhƣ vậy, hình thức học tập tích cực sẽ có hiệu quả cao hơn rất nhiều so với hình
thức thụ động.

2.2. Học tập hợp tác

Theo Johnson (2010), học tập hợp tác là cùng làm việc với nhau để đạt đƣợc mục
tiêu đề ra. Học tập hợp tác là hoạt động làm nhóm để phát huy tối đa việc học của mỗi cá
nhân của các thành viên trong nhóm. Học tập hợp tác là một hoạt động bao gồm 5 yếu tố
nhƣ sau:


1. Các thành viên tin tƣởng trao đổi với nhau.

2. Tích cực chia sẻ cho nhau, cùng nhau giao lƣu học hỏi.

3. Phải có trách nhiệm trong việc học của các thành viên khác nhƣ chính của bản
thân mình.

255

4. Sử dụng những kỹ năng xã hội cần thiết khi học tập với nhau, cùng nhau học hỏi
những điều chƣa biết.

5. Đánh giá nhìn nhận quá trình học tập.

Trong bài viết lần này, chúng tôi chủ yếu điều tra khảo sát hoạt động học tích cực
theo hƣớng học tập hợp tác làm nhóm để nắm bắt thực trạng giảng dạy khi đƣa hoạt động
học tích cực vào các giờ dạy ở khoa.

3. Phƣơng pháp nghiên cứu

Chúng tôi đã tiến hành phát phiếu điều tra cho sinh viên từ năm 1 đến năm 4. Tuy
nhiên, trong bài viết lần này chúng tôi chỉ chú trọng phân tích kết quả của sinh viên năm
thứ 2 và năm thứ 3, bởi vì bắt đầu từ khóa học của sinh viên năm 3 đã học nhiều môn học
và bắt đầu đƣợc chú trọng đến phƣơng pháp dạy học chủ động hơn năm thứ 4. Sinh viên
năm 1 do mới vào trƣờng gần 2 tháng nên việc khảo sát chủ yếu để nắm tình hình sinh viên
có biết về hoạt động học tích cực hay khơng và để đánh giá xem thái độ của sinh viên đối
với hoạt động này nhƣ thế nào.

Sinh viên sẽ trả lời vào phiếu điều tra là bảng hỏi với hình thức chọn câu hỏi thích

hợp và câu hỏi mở. Sau đó sẽ tổng hợp kết quả và so sánh nhận xét. Chúng tôi chú trọng
đến hình thức, mục tiêu của từng giờ học và tổng thể mơn học. Sinh viên có thái độ nhƣ thế
nào với hoạt động học tích cực này và hoạt động này có ảnh hƣởng đến kết quả học cũng
nhƣ sự thay đổi về nhận thức cách học của mỗi bản thân sinh viên hay không.

Phỏng vấn giáo viên trong khoa. Giáo viên nhận xét về giờ học và cho ý kiến về
những khó khăn và thuận lợi khi sử dụng hoạt động dạy học tích cực.

Phân tích kết quả, đánh giá và đƣa ra đề xuất kiến nghị.

4. Kết quả nghiên cứu

Chúng tôi tiến hành điều tra 117 sinh viên năm thứ 2 và 156 sinh viên năm thứ 3, phỏng
vấn 6 giáo viên tham gia giảng dạy trực tiếp năm 2 và năm 3. Nội dung câu hỏi bao gồm:

1. Khối đầu vào (thi bằng tiếng Anh là khối D1, thi bằng tiếng Nhật là khối D6)

2. Bạn đã có chứng chỉ năng lực tiếng Nhật chƣa?

3. Dành cho khối D6: Phải học lại từ đầu với khối D1, bạn cảm thấy nhƣ thế nào?

4. Dành cho khối D6: Có nên tổ chức lớp học riêng cho khối D6 hay không?

5. Dành cho khối D6: Nếu học chung thì nên có những hoạt động gì?

6. Bạn đã từng nghe đến khái niệm Hoạt động học tích cực chƣa?

7. Bạn có thƣờng xun hoạt động nhóm, trình bày không?

8. Môn học nào thƣờng xuyên sử dụng hoạt động nhóm?

9. Đánh giá về hoạt động học tích cực, hoạt động nhóm?

256

Kỷ yếu Hội thảo quốc gia nghiên cứu liên ngành về ngôn ngữ và giảng dạy ngôn ngữ lần thứ V

10. Khi tham gia hoạt động nhóm, bạn có cảm nhận nhƣ thế nào?

11. Bạn có đạt đƣợc mục tiêu của từng giờ học khơng?

12. Tính chủ động của bạn trong khi tham gia hoạt động nhóm, hoạt động học tích cực?

13. Sau thời gian tham gia hoạt động nhóm, bạn đánh giá bản thân nhƣ thế nào?

14. Theo bạn hoạt động học tích cực, hoạt động nhóm có ích khơng? (nên theo
phƣơng pháp nào?)

15. Theo bạn giáo viên nên hỗ trợ thêm phần nào trong giờ dạy?

Tổng số điều tra là 273 sinh viên, trong đó có 244 sinh viên khối D1, 29 sinh viên
khối D6. Tỷ lệ khối D6 chỉ chiếm 10,6%, nhƣng luôn là nỗi trăn trở của giáo viên, làm thế
nào để sinh viên khối D6 phát huy đƣợc những kiến thức đã học trong một lớp chủ yếu là
sinh viên khối D1, phải học lại từ đầu. Chính vì thế, Khoa Ngơn ngữ và Văn hóa Nhật Bản
đã tiến hành đổi mới phƣơng pháp giảng dạy theo xu hƣớng lấy ngƣời học làm trung tâm,
sử dụng những hoạt động học tích cực trong các giờ dạy một cách có hệ thống hơn. Phần
lớn sinh viên khối D6 cho rằng, học lại từ đầu cũng tốt vì có thể củng cố lại kiến thức, lên
đại học học khối lƣợng kiến thức khổng lồ,… cũng có ý kiến cho rằng, hơi chán nhƣng
đƣợc ơn lại kiến thức, nhƣng nên mở lớp riêng… Đối với những sinh viên khối D1 thì hơn
một nửa cho rằng, nên tổ chức học riêng cho các bạn khối D6 bởi vì nếu học chung với
sinh viên khối D6, sinh viên khối D1 sẽ mất tự tin, thấy chới với vì các bạn D6 quá giỏi,

ngƣợc lại khi học chung với các sinh viên khối D1 thì khối D6 sẽ thấy nhàm chán vì đã
biết rồi… Trong tình hình hiện nay do Khoa chƣa đủ điều kiện về nhân lực nên không thể
mở một lớp riêng dành cho khối D6 đƣợc thì những ngƣời giáo viên phải có phƣơng pháp
dạy học phù hợp để dung hòa đƣợc khối D1 và D6, hơn bao giờ hết hoạt động học tích cực
là cần thiết cho những lớp học có đặc thù trình độ đầu vào của sinh viên không giống nhau.
Trong một lớp có sự chênh lệch về đầu vào, chúng tơi tiến hành chia nhóm để sinh viên
khối D6 có thể hỗ trợ thêm cho các sinh viên khối D1, và hƣớng dẫn các sinh viên khóa
trƣớc phụ đạo thêm cho các khóa sau. Tuy nhiên, trong bài viết lần này chúng tôi chƣa đề
cập sâu về vấn dề này.

Khi đƣợc hỏi về “Bạn đã từng nghe đến khái niệm Hoạt động học tích cực chƣa?”,
thì có hơn một nửa trả lời chƣa, chiếm gần 53,3%. Trong khi 100% trả lời có tham gia hoạt
động làm nhóm. Tuy giáo viên đang sử dụng hoạt động học tích cực nhƣng có thể khơng
giải thích cho sinh viên rõ đây là phƣơng pháp gì hoặc sinh viên hầu nhƣ cũng không quan
tâm đến phƣơng pháp mà thầy cô đang sử dụng nên phần lớn không biết đến khái niệm học
tập tích cực. Nhƣng kết quả điều tra khi hỏi về mức độ sử dụng hoạt động nhóm trong giờ
học thì có đến 94,2% trả lời thƣờng xun, khá thƣờng xuyên và thỉnh thoảng sử dụng hoạt
động này. Chỉ có 5,8% trả lời là ít và rất ít. Tuy là con số không nhiều nhƣng cho thấy sự
không đồng nhất về nhận thức của sinh viên về các hoạt động mà giáo viên sử dụng trong
giờ học.

257

Biểu đồ 1: Mức độ sử dụng hoạt động nhóm
Nhƣ kết quả biểu thị ở biểu đồ 2, khi đƣợc hỏi về đánh giá hiệu quả của hoạt động
học tích cực hay hoạt động nhóm thì đánh giá của sinh viên năm 2 và năm 3 có sự chênh
lệch về mức độ. Sinh viên năm 2 có đánh giá rất hiệu quả cao hơn so với sinh viên năm thứ 3,
nhƣng đánh giá hiệu quả lại thấp hơn khá nhiều. Khi đƣợc hỏi cụ thể thì sinh viên năm 2 có
xu hƣớng muốn tự học cao chiếm 54,7% so với năm 3 là 49,7%, trong khi chỉ có 8,5% cho
rằng học nhóm có hiệu quả so với 13,4% của sinh viên năm 3. Sinh viên năm 2 có xu

hƣớng thích đƣợc học theo cách truyền thống là giáo viên dạy kỹ phần ngữ pháp, từ vựng
hoặc có sử dụng tiếng Việt khi giải thích nhiều hơn so với sinh viên năm 3. Điều này cho
thấy, sinh viên năm 2 chƣa quen với cách học chủ động, còn gặp nhiều bỡ ngỡ trong các
hoạt động hợp tác.

Biểu đồ 2-1: Đánh giá hiệu quả
của SV năm 2

Biểu đồ 2-2: Đánh giá hiệu quả
của SV năm 3

Những môn học thƣờng xuyên sử dụng hoạt động nhóm, sinh viên tự tìm tài liệu để
trình bày báo cáo đó là các mơn Nói, Nghe - Nói, Đọc - Nói,… chiếm tỷ lệ cao nhất. Các
mơn ít sử dụng các hoạt động học tích cực là các mơn Viết, Nghe, Đọc… Kết quả điều tra
258

Kỷ yếu Hội thảo quốc gia nghiên cứu liên ngành về ngôn ngữ và giảng dạy ngôn ngữ lần thứ V

cho thấy với những môn liên quan đến giải thích ngữ pháp, đọc,… chủ yếu vẫn đƣợc dạy
theo phƣơng pháp truyền thống là giáo viên giải thích cặn kẽ từng điểm ngữ pháp cho sinh
viên, những hoạt động học tích cực hầu nhƣ chƣa đƣợc chú trọng nhiều đối với những mơn
học này, cần phải có những hoạt động học tích cực phù hợp với đặc thù của các môn này.

Nhƣ biểu đồ 3 bên dƣới, sinh viên đánh giá về hoạt động học tích cực hay hoạt động
nhóm với kết quả rất tích cực khá thấp chỉ với 5,9% với sinh viên năm 2 và 3,2% với sinh
viên năm 3. Nhƣng với tỷ lệ cho rằng hiệu quả là 68,4% và 78,7%. Tỷ lệ không hiệu quả là
7,6% của sinh viên năm 2 và 5,7% của sinh viên năm 3. Số sinh viên trả lời không biết của
năm 2 cũng nhiều hơn của sinh viên năm thứ 3. Kết quả này cho thấy, sinh viên năm thứ 3
có thời gian trải nghiệm và dùng phƣơng pháp học chủ động nhiều hơn nên có thái độ tích
cực hơn với hoạt động học tích cực. Qua kết quả này, giáo viên cần chú trọng nhiều hơn

nữa đến phƣơng pháp lấy ngƣời học làm trung tâm để nâng cao hiệu quả cho sinh viên,
nhất là đối với những sinh viên năm thứ nhất và năm thứ 2, còn chƣa quen với những
phƣơng pháp giảng dạy và học tập mới.

Biểu đồ 3-1: Đánh giá về hiệu quả
SV năm 2

Biểu đồ 3-2: Đánh giá về hiệu quả
SV năm 3

Khi tham gia hoạt động nhóm thì phần lớn sinh viên năm thứ 2 cho rằng, có thể học
hỏi lẫn nhau chiếm 68,6%, hiệu quả nhƣng mất thời gian là 23,7%, 6,8% cho rằng mất thời
gian mà khơng hiệu quả, 0,8% lại có ý kiến có hiệu quả nhƣng khơng nhiều và mất nhiều
thời gian vì bản thân muốn học một mình, khơng muốn tƣơng tác. Đối với sinh viên năm
thứ 3, phần lớn trả lời có thể học hỏi lẫn nhau, chiếm tỷ lệ 65%, hoạt động nhóm hiệu quả
nhƣng mất nhiều thời gian chiếm tỷ lệ 29,9%, và 5,1% cho rằng, mất thời gian mà không
hiệu quả.

259

Kết quả của sinh viên năm 2 trả lời về có biết mục tiêu của từng mơn học khơng thì
có 80,3% trả lời biết và 19,7% trả lời không rõ lắm. Đối với sinh viên năm 3, tỷ lệ sinh
viên biết mục tiêu môn học là 81,9%, câu trả lời không rõ lắm là 17,4% và 0,7% trả lời
không biết. So với mục tiêu của từng mơn học thì mục tiêu của từng tiết học có tỷ lệ biết
thấp hơn, và tỷ lệ của sinh viên năm 2 và 3 hầu nhƣ không có sự khác biệt là 64,1% và 65,8%.

Khi đƣợc hỏi bạn có đạt mục tiêu của từng mơn học khơng, thì sinh viên năm thứ 2
có tỷ lệ đạt là 4,3%, năm 3 là 2,6%, khá đạt lần lƣợt là 73,5% và 8,9%, tỷ lệ trả lời không
đạt là 22,2% và 15,5% nhƣ biểu đồ 4.


Biểu đồ 4-1: Mục tiêu từng môn học
SV năm 2

Biểu đồ 4-2: Mục tiêu từng môn học
SV năm 3

Tính chủ động trong việc tham gia hoạt động học tích cực nhƣ thế nào? Sinh viên
năm thứ 2 có tỷ lệ tích cực và khá tích cực là 82,9%, của năm 3 là 84,5%, tỷ lệ ngại là
9,4% và 8,4%. Tỷ lệ của cả 2 năm tuy chênh lệnh không nhiều nhƣng kết quả cho thấy,
sinh viên năm thứ 2 còn nhiều e ngại hơn trong các hoạt động hợp tác.

Biểu đồ 5-1: Tính chủ động của SV
năm 2

260

Kỷ yếu Hội thảo quốc gia nghiên cứu liên ngành về ngôn ngữ và giảng dạy ngôn ngữ lần thứ V

Biểu đồ 5-2: Tính chủ động của SV
năm 3

Về câu hỏi sau khi tham gia hoạt động học tích cực hay hoạt động nhóm bạn đánh
giá về bản thân nhƣ thế nào? Phần này sinh viên có thể chọn nhiều phƣơng án và có thể tự
trả lời theo cách của mình. Sinh viên năm thứ 2 và 3 đều cho rằng, chủ động hơn trong học
tập, biết cách tìm tài liệu, biết cách tƣơng tác khi làm nhóm, biết cách trình bày trƣớc đám
đông, học đƣợc tiếng Nhật nhiều hơn, học đƣợc các kỹ năng khác nhiều hơn…

Với câu hỏi hoạt động học tích cực có ích khơng và nên sử dụng phƣơng pháp nào?
Có 15,3% sinh viên năm thứ 2 cho rằng, rất có ích so với 8,3% của sinh viên năm 3. Tỷ lệ
trả lời có ích của sinh viên năm 2 là 61,9% và năm 3 là 79%, không thay đổi lần lƣợt là

21,2% và 12,7%, khơng có ích là 1,7% và 0%. Sinh viên năm thứ 2 có 9,3% mong muốn
đƣợc dạy theo phƣơng pháp truyền thống, sinh viên năm thứ 3 là 5,8%, kết hợp các
phƣơng pháp cả truyền thống và phƣơng pháp học chủ động là 84,7% và 84,5%, chỉ có 6%
và 9,7% sinh viên của năm 2 và năm 3 chọn phƣơng pháp học chủ động.

Kết quả của câu hỏi theo bạn giáo viên nên hỗ trợ phần nào trong giờ học thì phần
lớn cho rằng giáo viên nên giải thích ngữ pháp với tỷ lệ của sinh viên năm 2 và 3 lần lƣợt là
88,9% và 77,7%, giải thích từ vựng là 47% và 52,9%, hƣớng dẫn tìm tài liệu là 65% và 62,4%.

Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn giáo viên về những khó khăn khi áp dụng hoạt
động học tích cực và đã áp dụng hoạt động này nhƣ thế nào? Sinh viên có thái độ nhƣ thế
nào và những ý kiến đề xuất. Phần lớn giáo viên đều cho rằng, áp dụng hoạt động học tích
cực rất mất thời gian chuẩn bị và do giáo viên chƣa đƣợc huấn luyện kỹ về phƣơng pháp
này nên vừa phải tự tìm hiểu vừa áp dụng nên rất lúng túng. Có giáo viên cho rằng không
nhất thiết phải sử dụng hoạt động học tích cực, vì sinh viên có thể khơng hiểu đƣợc cách sử
dụng ngữ pháp, từ vựng… Ngoài ra, sinh viên chƣa thật sự biết cách làm nhóm, hoặc có
nhiều sinh viên cịn thiếu chủ động, trơng chờ vào các thành viên khác trong nhóm…

Giáo viên trong khoa Ngơn ngữ và Văn hóa Nhật Bản đã xây dựng kế hoạch chi tiết
cụ thể cho từng tiết học, thiết kế các hoạt động hỗ trợ để sinh viên có thể tự tìm hiểu và học
đƣợc những kiến thức mới mà không cần giáo viên phải giải thích cặn kẽ từng điểm ngữ
pháp, từng từ vựng... Chẳng hạn nhƣ giáo viên hƣớng dẫn sinh viên tự đọc tài liệu, trao đổi
với các thành viên khác trong nhóm,… sau đó trình bày những suy nghĩ của mình trƣớc
lớp. Bên cạnh đó, giáo viên cũng nhờ các sinh viên khóa trƣớc làm trợ giảng, phụ đạo thêm
cho sinh viên sau giờ học… Tuy nhiên, do sinh viên đều bận nên hoạt động này khơng thể
thƣờng xun duy trì đều đặn.

261

5. Thảo luận và Đề xuất


5.1. Thảo luận

Trong bài viết lần này chúng tôi chỉ tập trung vào sinh viên năm thứ 2 và năm thứ 3,
nhƣng kết quả phần nào phản ánh đƣợc thực trạng của việc giảng dạy tiếng Nhật tại khoa
Ngơn ngữ và Văn hóa Nhật Bản hiện nay. Sinh viên năm thứ 2 chỉ mới làm quen với
phƣơng pháp học chủ động trong một thời gian ngắn nên còn nhiều bỡ ngỡ trong hoạt động
học hợp tác. Hơn nữa, tâm lý e ngại chƣa dám nói lên ý kiến của mình cịn tồn tại ở một số
sinh viên. Nhiều ý kiến cho rằng, làm nhóm mất thời gian, nhiều thành viên khơng hợp tác
để làm nhóm, khơng sắp xếp đƣợc thời gian làm chung, gọi là học chủ động nhƣng đôi khi
sinh viên không biết bắt đầu từ đâu và nên làm cái gì, nhiều thành viên khơng có ý thức
làm nhóm, khơng nghe đƣợc hết ý kiến của mọi thành viên trong nhóm, khơng nắm chắc
kiến thức nên nhiều khi sửa sai lại càng sai hơn…

Sinh viên năm thứ 2 có xu hƣớng muốn đƣợc giáo viên giải thích ngữ pháp, từ vựng
nhiều hơn sinh viên năm thứ 3. Sinh viên năm thứ 2 cho rằng, hoạt động học chủ động có
hiệu quả thấp hơn so với sinh viên năm thứ 3, cho thấy sinh viên năm thứ 3 đã quen với
hoạt động học tích cực, thƣờng xun hoạt động nhóm hơn so với sinh viên năm thứ 2.
Đánh giá về hoạt động học tích cực thì sinh viên năm thứ 3 cũng đánh giá cao hơn sinh
viên năm thứ 2. Tính chủ động trong học tập cũng tăng dần từ năm 2 lên lăm 3.

Khoa Ngơn ngữ và Văn hóa Nhật Bản đã áp dụng phƣơng pháp dạy học tích cực chủ
động tuy nhiên vẫn cịn gặp phải nhiều khó khăn do chƣa đƣợc tập huấn kỹ, chủ yếu do
giáo viên tự tìm tịi học hỏi lẫn nhau, để từng bƣớc tìm ra phƣơng pháp phù hợp với mỗi
môn học, với đặc thù của mỗi lớp.

5.2. Đề xuất

5.2.1. Về phía giáo viên


- Giáo viên nên lập kế hoạch cụ thể cho từng tiết học, hƣớng dẫn cho sinh viên một
cách rõ ràng những hoạt động sinh viên cần thực hiện. Phân bố thời gian hợp lý cho sinh
viên để tránh gây áp lực cho sinh viên khi làm quá nhiều hoạt động nhóm.

- Đƣa ra mục tiêu của từng tiết học, từng môn học cho tất cả sinh viên nắm rõ và
hƣớng dẫn sinh viên tự đánh giá các mục tiêu đã đạt đƣợc hay chƣa để sinh viên có thái độ
hợp tác tích cực hơn trong giờ học.

- Cần có đánh giá cho mỗi tiết học để sinh viên có thể nhận thấy đƣợc những kết quả
của mình sau mỗi giờ học. Tuy nhiên, do số lƣợng sinh viên trong một lớp khá đông nên
việc đánh giá cho từng sinh viên là điều khơng thể, nên giáo viên có thể đánh giá mẫu hoặc
theo nhóm, hoặc cho các nhóm, các cá nhân tự đánh giá lẫn nhau.

- Khơi gợi tính sáng tạo, năng động, chủ động của sinh viên một cách đúng lúc, kịp thời.

- Tùy vào từng nội dung mơn học, từng lớp, thậm chí từng sinh viên để có phƣơng
pháp dạy học thích hợp, nhƣ kết hợp nhiều phƣơng pháp bao gồm cả phƣơng pháp truyền
thống và phƣơng pháp lấy ngƣời học làm trung tâm để sinh viên có thể tự tin trong các
hoạt động hợp tác.

262

Kỷ yếu Hội thảo quốc gia nghiên cứu liên ngành về ngôn ngữ và giảng dạy ngôn ngữ lần thứ V

- Đối với những nhóm học hay lớp học có cả sinh viên khối D1 và D6 nên phân
nhóm nhỏ cho sinh viên khối D6 vào các nhóm D1 để sinh viên tự chia sẻ, học hỏi lẫn
nhau. Nhƣ vậy sinh viên khối D6 sẽ thấy bớt nhàm chán, sinh viên khối D1 sẽ bớt cảm
giác bị áp lực khi học chung với những sinh viên đã học trƣớc đó.

5.2.2. Về phía sinh viên


- Sinh viên cần chủ động tích cực làm quen với hoạt động học tích cực bằng cách nêu
lên ý kiến của mình trƣớc hết là với cặp, với nhóm và trƣớc lớp.

- Lập kế hoạch của riêng mình, tự đánh giá sau mỗi giờ học xem mình đã đạt đƣợc
mục tiêu đề ra hay chƣa.

- Học cách nêu lên ý kiến, học cách lắng nghe ý kiến của ngƣời khác để cùng nhau
xây dựng một hoạt động có ý nghĩa.

6. Kết luận

Sinh viên Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Nhật Bản đang dần quen với phƣơng pháp học
chủ động, tham gia nhiều các hoạt động hợp tác, làm nhóm. Tuy nhiên, vẫn cịn rất nhiều
sinh viên thấy e ngại khi nói lên ý kiến của mình, có nhiều sinh viên khơng hợp tác khi làm
nhóm do thích tự học, khơng thích tƣơng tác.

Sinh viên cảm thấy chƣa đạt đƣợc mục tiêu của từng mơn học cịn khá nhiều, cần cho
sinh viên hiểu rõ và tự mình xây dựng kế hoạch để đạt đƣợc mục tiêu đề ra.

Phần lớn sinh viên có thái độ tích cực khi tham gia các hoạt động học tích cực, mong
muốn đƣợc hƣớng dẫn để có thể hợp tác với cácthành viên khác trong nhóm hiệu quả hơn.

Giáo viên trong khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Nhật Bản đã tích cực chuyển dần qua
phƣơng pháp dạy mới, lấy ngƣời học làm trung tâm, sử dụng thƣờng xuyên các hoạt động
học tích cực, tuy nhiên vẫn cịn gặp nhiều khó khăn vì chƣa đƣợc chuẩn bị kỹ về phƣơng
pháp mới này và sinh viên chƣa quen, chƣa thực sự tích cực, chủ động trong học tập.

Phƣơng pháp giảng dạy đóng vai trị rất quan trọng trong cơng tác giảng dạy. Đổi
mới phƣơng pháp giảng dạy ngày càng đƣợc chú trọng nhất là trong giai đoạn hiện nay.

Qua kết quả điều tra, có thể thấy hoạt động học tích cực là một hoạt động có ích cho việc
học của sinh viên. Tuy nhiên, với bất kỳ phƣơng pháp, hoạt động nào cũng có điểm mạnh
và điểm yếu. Nếu sử dụng quá nhiều hoạt động hợp tác hay hoạt động nhóm thì cũng có
thể gây áp lực và mất nhiều thời gian cho ngƣời học. Nhất là đối với sinh viên mới vào bậc
đại học chƣa quen với hoạt động nhóm, học tập hợp tác nên cịn lúng túng, còn khá nhiều
sinh viên vẫn muốn theo cách học truyền thống một cách bị động. Cho đến nay phƣơng
pháp lấy ngƣời học làm trung tâm đƣợc đánh giá có nhiều ƣu điểm hơn, nhƣng chƣa có
nghiên cứu nào phủ nhận hồn tồn phƣơng pháp giảng dạy truyền thống. Vì vậy, nên kết
hợp các phƣơng pháp giảng dạy, xây dựng cho mình phƣơng pháp phù hợp vào từng mơn
học, từng đối tƣợng, từng hồn cảnh cụ thể khác nhau để có kết quả cao nhất, hiệu quả nhất
trong công tác giảng dạy nói chung và giảng dạy tiếng Nhật nói riêng.

263

Tài liệu tham khảo
Edgar Dale (1969). Audiovisual Methods in Teaching. New York, Dryden Press.
Johnson, D.W (2010). Nhập môn học tập hợp tác. Ishida Hirohisa dịch. NXB Niheisha
Mizogami Shinichi (2014). Hoạt động học tích cực và mơ hình chuyển đổi mơ hình học tập. Toshindo.
Yasui Go (2015). Học tập hợp tác và sự trưởng thành của người học. Keisoshobo.

ACTIVE LEARNING FOR STUDENTS IN DEPARTMENT
OF JAPANESE LANGUAGES AND CULTURE,
UNIVERSITY OF FOREIGN LANGUAGES, HUE
UNIVERSITY

Nguyen Thi Huong Tra, Tran Diem Ha, Nguyen Xuan Nguyen Hanh
University of Foreign Languages, Hue University

Abstract
The teaching method has always been the most researched topic. It plays an important role

to aim for higher quality of education. Especially at University level, teacher has to play as
instructor, inspire student to have passion in studying & researching. Nowadays, with a
large number of students per class, the amount of knowledge is much larger compare to
high school level. Therefore, teachers must change their teaching style more often in order
to fit with the age of technological boom. With the method of putting students at the
center, active learning is mentioned in many researches. In this article, according to the
survey, active learing is a necessary teaching method, but need to be combined with others
teaching methods to improve the effectiveness in teaching and learning foreign languages
in general and specifically in Japanese.
Key words: Active learning, teaching method, goals, teamwork.

264


×