Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận chính trị học quyền lực chính trị, đặc điểm của quyền lực chính trị và kiểm soát quyền lực chính trị ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.69 KB, 23 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN CHÍNH TRỊ HỌC
Đề tài: QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ, ĐẶC ĐIỂM CỦA QUYỀN
LỰC CHÍNH TRỊ VÀ KIỂM SỐT QUYỀN LỰC CHÍNH
TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Quyền lực chính trị là nội dung quan trọng và phức tạp hàng đầu của
chính trị. Trong thời kì đổi mới, quyền lực chính trị hay quyền làm chủ của
nhân dân trở thành mục tiêu và động lực của công cuộc đổi mới. Vấn đề
quyền làm chủ của nhân dân có tầm quan trọng to lớn trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế. Trong những thành tựu của công cuộc đổi mới có sự đóng góp to lớn
của q trình xây dựng và thực thi quyền lực chính trị của nhân dân, trong
những khó khăn, thách thức của cơng cuộc đổi mới có những khó khăn, thách
thức từ q trình xây dựng và thực thi quyền lực chính trị của nhân dân.
Ngoài ra, trong lĩnh vực chính trị, vấn đề kiểm sốt quyền lực có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, liên quan đến lợi ích sống còn của một dân tộc, sự
bền vững của một quốc gia, sự tồn vong của một chế độ. Quyền lực chính trị
được thực hiện bằng bộ máy nhà nước là cơ quan, là cơng cụ của quyền lực
chính trị. Nhà nước thể hiện một cách tập trung quyền lực chính trị. Thơng
qua nhà nước, quyền lực chính trị vốn thuộc một bộ phận dân cư trở thành
một quyền lực cơng đối với tồn xã hội, vì nhà nước là người đại diện chính
thức của tồn xã hội, nhân danh xã hội để điều hành, quản lý, sai khiến toàn
xã hội.
Đảng và Nhà nước đã lập ra một bộ máy chuyên nghiệp quản lí mọi
mặt đười sống xã hội, có đường lối phát triển nhất định, sử dụng công cụ và
cưỡng chế như tòa án, pháp luật,... nhằm bảo đảm thực hiện các chính sách,
pháp luật của mình; nhân danh tồn xã hội ban hành một hệ thống các quy tắc
xử sự để cả xã hội làm theo, đưa hoạt động của toàn xã hội vận hành theo một


hướng nhất định. Nhà nước có khả năng huy động bằng chính sách thuế, sự
đóng góp của tồn xã hội tạo ra cơ sở tài chính cho tổ chức, hoạt động của bộ
máy nhà nước trong thực hiện sách lược, chủ trương của Nhà nước

1

Hiện nay ở Việt Nam, vấn đề quyền lực và quyền lực chính trị vẫn
chưa được nghiên cứu một cách có chiều sâu và bên cạnh đó cịn tồn tại
những vấn đề, hạn chế cần được làm rõ và khắc phục. Vì vậy, em đã chọn và
tìm hiểu về đề tài “Quyền lực chính trị, đặc điểm của quyền lực chính trị
và kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay” để tiến hành nghiên
cứu một cách khách quan và hệ thống hơn về vấn đề quyền lực chính trị.

2. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu về cơ sở lí luận và thực tiễn về quyền lực chính trị, những
đặc điểm cơ bản của quyền lực chính trị và việc kiểm sốt về quyền lực chính
trị ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
Đưa ra các vấn đề chung cần làm rõ, thành cơng cũng như những mặt
hạn chế trong kiểm sốt quyền lực chính trị ở nước ta. Kiến nghị giải pháp,
phương hướng phù hợp trong giai đoạn phát triển trong tương lai
4. Phương pháp nghiên cứu:
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, các
phương pháp chung, phương pháp chuyên ngành và liên ngành: Chính trị học,
lịch sử, logic, thu thập, thống kê, xử lý, phân tích, so sánh, tổng hợp thơng tin.

2

NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUYỀN LỰC

CHÍNH TRỊ
1.1. Quyền lực
Quyền lực là quyền lực đoạt một công việc quan trọng về mặt chính trị
và sức mạnh để bảo đảm việc thực hiện quyền ấy. Quyền lực được hình thành
với hai yếu tố là quyền và lực.
Con người có được quyền là khi nhu cầu của họ được thừa nhận. Điều
đó có thể được luật hóa thành pháp luật hoặc xã hội cơng nhận dưới dạng quy
phạm đạo đức. Lực là thuộc tính vốn có của sự vật hiện tượng nhưng nó được
thể hiện ra, được bộc lộ trong tương tác với cái khác ở khả năng gây ra sự
biến đổi, hoặc giữ cho sự vật khơng đổi. Lực có trong các sự vật, hiện tượng
tự nhiên, trong mỗi cá thể con người. Nhắc đến lực là nói tới sức mạnh, là khả
năng chi phối sự vật hiện tượng khác chi phối người khác hoặc giữ cho bản
thân mình khơng biến đổi trong tương tác với người khác sự vật khác.
Như vậy, quyền lực đó là sức mạnh được thừa nhận của chủ thể này đối
với chủ thể khác phải thực hiện theo ý chí của mình. Hay nói cách khác quyền
lực là khả năng áp đặt ý chí của một cá nhân, tổ chức, cơng động lên một cá
nhân, tổ chức, công đồng khác. Trong bất kỳ hình thái kinh tế – xã hội nào
cũng có quyền lực.
Quyền lực được hình thành từ những bản năng mang tính sinh vật trong
quá trình đấu tranh để sinh tồn và phát triển. Sau này, do nhu cầu của việc
quản lý và kiểm soát các hoạt động chung để phối hợp các thành viên trong xã
hội với nhau mà quyền lực tiếp tục nảy sinh theo những cách khác nhau.
Trong các quan hệ xã hội, quyền và lực của sự chuyển hóa cho nhau. Quyền
đạt được ở chừng mực nhất định thì sẽ tạo ra sức mạnh để chủ thể nắm giữ
quyền đó. Ngược lại lực ở chừng mực nhất định sẽ lại địi quyền, và sẽ tạo ra
quyền cho họ. Ví dụ như một vị phó giám đốc trong cơng ty cùng được các

3

nhân viên cấp dưới hay giám đốc, tổng giám đốc cơng nhận năng lực bao

nhiêu thì cơ hội thăng chức lại càng lớn bấy nhiêu.

1.2. Chính trị
Chính trị là tồn bộ những hoạt động liên quan đến các mối quan hệ
giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội mà cốt lõi của nó là
vấn đề giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia
vào công việc của Nhà nước; sự xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội
dung hoạt động của Nhà nước.
Chính trị liên quan đến quyền lợi của giai cấp và nhà nước. Chính trị
thuộc kiến trúc thượng tầng, bao gồm hệ tư tưởng chính trị, nhà nước, đảng
phái chính trị xuất hiện khi xã hội phân chia giai cấp dựa trên cơ sở hạ tầng
kinh tế nhất định. Chính trị cịn tồn tại khi nào còn giai cấp, còn nhà nước.
Trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chính trị trước hết là
bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hiệu lực quản lí của Nhà nước,
quyền làm chủ của nhân dân lao động trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội.
Cấu trúc chính trị bao gồm các chủ thể chính trị (cá nhân, tổ chức chính
trị), khách thể chính trị (cá nhân, tổ chức chính trị và tồn xã hội), các quan hệ
chính trị và các hoạt động chính trị. Chủ thể và khách thể chính trị tham gia
vào các hoạt động chính trị trong khn khổ các quan hệ chính trị. Quan hệ
này là quan hệ trong việc tổ chức tồn bộ xã hội trong tính chất chính trị của
nó. Do đó, nó quy định chi phối các loại hình quan hệ và hoạt động khác
trong tổng thể đời sống xã hội như kinh tế, văn hoá, tôn giáo.
1.3. Quyền lực chính trị
1.3.1. Khái niệm quyền lực chính trị
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, quyền lực chính trị là
quyền lực của một hay liên minh giai cấp, tập đoàn xã hội hoặc nhân dân
(trong điều kiện chủ nghĩa xã hội); nó nói lên khả năng của một giai cấp nhằm

4


thực hiện lợi ích khách quan của mình. Quyền lực chính trị theo đúng nghĩa
của nó, là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp giai cấp khác.

Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, quyền lực chính trị là quyền quyết
định, định đoạt những vấn đề, công việc quan trọng về chính trị, tổ chức và
hoạt động để bảo đảm sức mạnh thực hiện quyền lực ấy của một giai cấp, một
chính đảng, tập đồn xã hội nhằm giành hoặc duy trì quyền lãnh đạo; định
đoạt, điều khiển bộ máy nhà nước; xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội trong
một quốc gia và quan hệ chính trị - kinh tế - ngoại giao với các nhà nước khác
cũng như tổ chức quốc tế khu vực và thế giới, bảo đảm chiều hướng phát triển
quốc gia phù hợp với lý tưởng giai cấp. Quyền lực chính trị cũng được hiểu là
quyền sử dụng sức mạnh cho mục đích chính trị; là quyền lực xã hội nhằm
giải quyết lợi ích giai cấp, dân tộc, nhân loại; là quyền lực của một hay liên
minh giai cấp; là quyền lực của các giai cấp, các nhóm xã hội, các lực lượng
xã hội dùng để chi phối, tác động đến quá trình tổ chức và thực thi quyền lực
nhà nước nhằm tối đa hóa lợi ích của mình; là quyền lực của nhà nước, các
đảng chỉnh trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức bầu cử, các cơ quan
tự quản địa phương.

Từ đó, ta có thể định nghĩa “Quyền lực chính trị là quyền sử dụng sức
mạnh của một hay liên minh giai cấp, tập đoàn xã hội để đạt mục đích thống
trị xã hội, thoả mãn lợi ích giai cấp mình”. Quyền lực chính trị là bước phát
triển cao của quyền lực xã hội. Nếu như trong xã hội, quyền lực xã hội biểu
hiện rất đa dạng, phong phú như quyền lực gia đình, quyền lực kinh tế, quyền
lực tơn giáo, thì quyền lực chính trị chiếm vai trị trung tâm.

Trong một xã hội có giai cấp đối kháng tồn tại hai loại quyền lực chính
trị thuộc về hai chủ thể chính trị đối lập nhau:


Thứ nhất, đó là quyền lực chính trị của giai cấp thống trị (giai cấp cầm
quyền). Giai cấp thống trị tổ chức ra bộ máy nhà nước và dùng bộ máy này để
thực thi quyền lực chính trị của mình. Khi ấy quyền lực chính trị của giai cấp
thống trị trở thành quyền lực nhà nước. Vì vậy, nhà nước nào cũng là công cụ

5

của giai cấp thống trị, được giai cấp ấy sử dụng để áp đặt ý chí của mình đối
với các giai cấp và nhóm xã hội khác trong việc tổ chức xã hội như một chỉnh
thể, và để trấn áp các giai cấp, các nhóm xã hội ấy khi các giai cấp và các
nhóm xã hội này chống lại sự áp đặt đó.

Thứ hai, đó là quyền lực chính trị của giai cấp nhóm xã hội khơng
thống trị. Các giai cấp, nhóm xã hội khơng thống trị dùng quyền lực chính trị
(hoặc sức mạnh chính trị) của giai cấp mình để chống lại hoặc cưỡng lại sự áp
đặt của giai cấp thống trị, đấu tranh thay đổi cách tổ chức xã hội cho phù hợp
với lợi ích của giai cấp mình. Trong trường hợp giai cấp bị trị là giai cấp đối
kháng với giai cấp thống trị, có lợi ích cơ bản khơng dung hịa với lợi ích của
giai cấp thống trị thì giai cấp bị trị ấy dùng sức mạnh chính trị và quyền lực
chính trị của mình để đấu tranh lật đổ sự thống trị chính trị của giai cấp cầm
quyền, thiết lập nhà nước của mình và dùng nhà nước đó để tổ chức lại xã hội
theo một trật tự khác và duy trì trật tự ấy phù hợp với lợi ích của mình. Khi ấy
quyền lực chính trị của giai cấp thống trị mới lên đã trở thành quyền lực của
nhà nước mới.

1.3.2. Cấu trúc quyền lực chính trị
Cấu trúc của quyền lực chính trị tiếp cận theo cấu trúc:
Gồm có chủ thể và đối tượng, mục tiêu, nội dung, công cụ và phương
tiện thực hiện.
Chủ thể quyền lực chính trị là nhóm xã hội, giai cấp hay tập đồn người

được tổ chức để tạo dựng và có được quyền sử dụng sức mạnh cho mục đích
chính trị của mình. Đối tượng của quyền lực chính trị là vế đối lập với chủ thể
trong quan hệ chính trị. Đó là nhóm xã hội, giai cấp hay tập đoàn người mà sự
phục tùng của nó đối với chủ thể là cách mà quyền lực chính trị được thể hiện
trong việc thực thi.
Mục tiêu của quyền lực chính trị là nhằm đạt tới sự áp đặt ý chí của chủ
thể đối với đối tượng và thơng qua đó mà lợi ích của chủ thể được thực hiện.

6

Nội dung của việc thực thi quyền lực chính trị là việc sử dụng mọi sức mạnh
mà chủ thể có được để đạt tới mục tiêu chính trị.

Cơng cụ của quyền lực chính trị là những tổ chức chính trị và các tổ
chức khác nhưng có nội dung chính trị, được chủ thể thiết lập và dựa vào hoạt
động để thực thi quyền lực chính trị ở những mức độ nhất định. Phương thức
thực hiện quyền lực chính trị là hình thức tổ chức công cụ và cách thức chủ
thể sử dụng cho hoạt động của công cụ theo mục tiêu và nội dung của quyền
lực chính trị.

Cấu trúc của quyền lực chính trị tiếp cận theo chủ thể:
Quyền lực chính trị được chia thanh quyền lực chính trị cá nhân

và quyền lực chính trị tổ chức
Trong đó, quyền lực chính trị cá nhân bao gồm quyền lực chính

trị của thủ lĩnh chính trị, chính khách, cơng dân. Quyền lực chính trị của tổ
chức có quyền lực chính trị giai cấp, dân tộc, quốc gia, các tổ chức quốc
tế,....tập trung nhất vào quyền lực nhà nước, đảng chính trị và các tổ chức
chính trị - xã hội.


7

II. ĐẶC ĐIỂM CỦA QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ VÀ CHỨC
NĂNG

2.1. Đặc điểm của quyền lực chính trị
Một là, quyền lực chính trị chỉ ra đời và tồn tại trong xã hội có giai
cấp. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, tư liệu sản xuất tập trung
trong tay một nhóm thiểu số người, hình thành những tầng lớp, giai cấp đầu
tiên trong xã hội. Quyền lực công cộng bị phá vỡ, được thay thế bằng quyền
lực của các tầng lớp, giai cấp khác nhau: giai cấp chủ nô chiếm ưu thế về kinh
tế, giữ địa vị thống trị xã hội; giai cấp nô lệ, những tầng lớp dân tự do đã mất
hết quyền, trở nên phụ thuộc hồn tồn vào giai cấp chủ nơ. Nhà nước chủ nô
ra đời chủ yếu dùng bạo lực để thống trị xã hội. Nhà nước ra đời chính là sự
đánh dấu cuộc đấu tranh chính trị chuyển sang giai đoạn mới chứ không làm
mất đi mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp. Cuộc đấu tranh đó xoay
quanh vấn đề giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước, đòi hỏi các giai cấp
phải tổ chức ra sức mạnh của mình là quyền lực chính trị. Ngay từ ban đầu,
yếu tố giai cấp đã quyết định nội dung của quyền lực chính trị.
Lợi ích của giai cấp thống trị thường mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp
bị trị. Quyền lực chính trị tồn tại trong mối liên hệ lợi ích khi đặt nó trong
quan hệ với giai cấp khác. Tùy thuộc vào tương quan, so sánh lực lượng mà
các giai cấp ở vào vị thế khác nhau trong quan hệ với việc sử dụng quyền lực
chính trị. Do đó, mỗi giai cấp khác nhau có quyền lực chính trị khác nhau.

Hai là, quyền lực chính trị hình thành và phát triển trong một xã
hội cụ thể. Đó là sản phẩm của xã hội phân chia giai cấp. Xã hội chính là cơ
sở tồn tại của các giai cấp nên quyền lực chính trị khơng thể tách rời hay vượt
ra ngồi xã hội mà nó đang tồn tại. Chủ thể và khách thể quyền lực chính trị

đều là những thành phần tạo nên chính thể xã hội và cùng nằm trong một điều
kiện tồn tại xã hội. Trong sự phát triển của xã hội, một phương thức sản xuất
lỗi thời sẽ bị thay thế bằng một phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại hơn
để phù hợp với điều kiện tồn tại của xã hội mới. Cùng với nó, các giai cấp

8

mới xác lâp hệ thống tổ chức quyền lực chính trị để bảo vệ lợi ích giai cấp và
đấu tranh giai cấp trong hoàn cảnh mới.

Qua đó ta thấy được rằng, các giai cấp và hệ thống quyền lực của giai
cấp chỉ được xác lập trong điều kiện tồn tại cụ thể của xã hội. Các điều kiện
xã hội đó quy định hình thức, nội dung, bản chất của các giai cấp cũng như hệ
thống quyền lực mà các giai cấp đã xác lập trên nền tảng của xã hội đó.

Ba là, quyền lực chính trị mang tính lịch sử. Sự ra đời, tồn tại, phát
triển và tiêu vong của quyền lực chính trị mang tính khách quan trong một
giai đoạn lịch sử nhất định, đó là giai đoạn lịch sử có giai cấp. Sự tồn tại một
cách khách quan của giai cấp quy định tính khách quan của quyền lực chính
trị. Các giai cấp, lực lượng xã hội chỉ có quyền lực chính trị khi nó giành và
giữ được quyền lực cơng, mà biểu hiện tập trung nhất là ở quyền lực nhà
nước. Quyền lực chính trị tồn tại cùng với giai cấp và nhà nước.

Bốn là, quyền lực chính trị mang tính tập trung, thống nhất. Trong xã
hội dân chủ, một cá nhân hay tổ chức được bầu ra, đại diện cho quyền lực của
tập thể, cộng đồng. Quyền lực có được do các thành viên thừa nhận, họ bầu ra
để lãnh đạo chính bản thân họ, làm cho hoạt động của họ được phối hợp chặt
chẽ, tạo nên sức mạnh lớn hơn. Quá trình hình thành quyền lực là q trình
tập trung, tập hợp ý chí chung, tạo nên sự đồng lịng nhất trí trong tổ chức,
cộng đồng. Đây là hình thức phổ biến của con đường hình thành quyền lực.

Khơng thể tạo ra quyền lực nếu khơng có tính tập trung, mức độ tập trung
càng cao, tổ chức càng chặt chẽ, gắn bó thì quyền lực của tổ chức đó càng
mạnh.

Quyền lực chính trị là quyền lực của giai cấp, được thiết lập và duy trì
để bảo vệ lợi ích giai cấp. Vì vậy, xét về ngun tắc và xét từ trong chính bản
chất của nó, quyền lực chính trị là thống nhất. Mặc dù sự thống nhất thường
chỉ biểu hiện ở lợi ích cơ bản, bởi vì trong các phe, nhóm của một giai cấp
vẫn có thể tồn tại những lợi ích cục bộ, thậm chí là những mâu thuẫn gay gắt.
Nhưng những mâu thuẫn đó giữa các phe đó chỉ mang tính chất mâu thuẫn

9

nội bộ. Xét về nguyên tắc, tổng thể chúng vẫn thống nhất bởi lợi ích cơ bản
của chúng là như nhau.

Năm là, quyền lực chính trị mang tính tha hóa. Tha hóa là một
sự vật, hiện tượng bị biến đổi, trở thành cái khác, thậm chí đối lập với cái ban
đầu đã tạo ra nó. Do tính tập trung của quyền lực nên nó dễ bị tha hóa. Từ chỗ
quyền lực của số đơng được tập trung lại vào tay một người hay một nhóm
người nắm giữ và điều khiển nên càng tập trung, càng thống nhất ý chí thì
quyền lực càng mạnh. Nhưng mức độ tập trung càng cao thì quyền lực lại
càng xa với cái gốc rễ ban đầu và thậm chí trở thành cái đối lập với nền tảng
đó.

2.2. Chức năng của quyền lực chính trị
Một là thiết lập hệ thống tổ chức quyền lực chính trị. Để thực thi quyền
lực chính trị của mình, giai cấp cầm quyền thiết lập hệ thống chính trị để
thống trị xã hội, bảo đảm sự ổn định về chính trị, tạo ra môi trường thuận lợi
để phát triển kinh tế - xã hội. Trong xã hội hiện đại, hệ thống chính trị bao

gồm nhà nước, các đảng chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các nhóm lợi
ích. Đây cũng là cách để giai cấp cầm quyền phân bổ, chia sẻ quyền lực giữa
các nhóm, các lực lượng trong xã hội.
Hai là thiết lập một hình thức cầm quyền phù hợp. Thơng qua quyền
lực nhà nước, giai cấp cầm quyền lập ra mơ hình thể chế chính trị tương ứng
với phương thức sử dụng quyền lực chính trị của mình. Trong thời kỳ cổ đại,
giai cấp chủ nô thiết lập thể chế chính trị qn chủ chủ nơ; trong thời kỳ trung
đại, giai cấp địa chủ lập ra thể chế chính trị quân chủ chuyên chế phong kiến;
trong thời kỳ cận – hiện đại, giai cấp tư sản lập ra thể chế chính trị qn chủ
lập hiến, cộng hịa tổng thống, cộng hịa đại nghị; trong thời kỳ hiện đại, giai
cấp cơng nhân lập ra thể chế chính trị cộng hịa dân chủ nhân dân.
Ba là, quản lý công việc nhà nước, xã hội. Chỉ trên cơ sở quản lý tốt
công việc nhà nước và xã hội, giai cấp cầm quyền mới thực thi được quyền
lực chính trị của mình. Chủ thể quyền lực chính trị hoạch định, xây dựng các

10

thể chế, chính sách để đời sống chính trị phát triển theo hướng có lợi cho giai
cấp 10 cầm quyền. Trên cơ sở vị trí, vai trị của các chủ thể mà hình thành các
quan hệ chính trị: quan hệ giữa các giai cấp, giữ các dân tộc, giữa các đảng
phái, giữa các tổ chức chính trị - xã hội… Thông qua nhà nước, giai cấp cầm
quyền quản lý, điều hành mọi mặt hoạt động của đời sống xã hội, quản lý các
mối quan hệ chính trị - xã hội để xã hội tồn tại và phát triển theo định hướng
của mình.

Bốn là, lãnh đạo, giám sát các cơ quan quyền lực, các tổ chức kinh tế,
chính trị - xã hội. Trong xã hội dân chủ, lãnh đạo, giám sát các cơ quan quyền
lực, đặc biệt là các cơ quan nhà nước là nguyên tắc nhằm bảo vệ pháp luật,
buộc các cá nhân, tổ chức thực thi quyền lực phải thực hiện đúng thẩm quyền.
Đây cũng là cơ chế để ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực, kiểm soát quan hệ

giữa các chủ thể, hạn chế được những hiện tượng tiêu cực trong đời sống
chính trị - xã hội.

11

III. KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

3.1. Khái niệm kiểm soát quyền lực chính trị
Ngày nay, khái niệm kiểm soát được hiểu là một chức năng hiến định
nhằm mục đích đảm bảo rằng các cơ quan quyền lực công đều bị đặt trong
những giới hạn đã được hiến pháp và pháp luật quy định. Chức năng kiểm
sốt được thể hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức đa dạng: uỷ quyền, chấp
thuận, xác minh, kiểm tra, thanh tra, xử phạt, phê bình. Các thiết chế kiểm
sốt được tổ chức theo hệ thống gồm nhiều cấp nhằm đảm bảo sự minh bạch,
chính xác của hành động kiểm soát.
Như vậy, kiểm sốt quyền lực chính trị là một khái niệm chính trị -
pháp lý và thể chế, bao hàm sự hạn chế nhất định đối với quyền lực chính trị;
là một trong những nguyên tắc cơ bản của nhà nước pháp quyền. Kiểm sốt
quyền lực chính trị, theo nghĩa rộng, là việc thiết kế tổ chức và thực thi quyền
lực đúng mục đích và có hiệu quả. Kiểm sốt quyền lực chính trị, theo nghĩa
hẹp, là cách thức, quy trình, quy định nhằm ngăn chặn, loại bỏ những hành
động sai trái, phát hiện và điều chỉnh việc thực thi quyền lực đảm bảo mục
đích và có hiều quả.
3.2. Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về kiểm sốt quyền
lực chính trị
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, cơng tác xây dựng Đảng và
chính quyền nhà nước, trong đó có vấn đề kiểm sốt quyền lực ln được Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam chú trọng. Đặc biệt, từ sau khi
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa ra đời, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, vấn đề kiểm soát quyền
lực nhằm xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh, bảo đảm cho sự bền vững của chế độ và sự thắng lợi của công cuộc xây
dựng, phát triển đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội càng được chú trọng

12

hơn, bắt đầu từ nhận thức về sự cần thiết, ý nghĩa, yêu cầu và phương pháp,
cách tiếp cận vấn đề kiểm sốt quyền lực chính trị.

Ngay từ thời điểm đất nước mới được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã cảnh báo và phê bình nghiêm khắc tình trạng quân phiệt quan liêu, óc địa
vị, tính kiêu ngạo trong hàng ngũ cán bộ Đảng, Nhà nước ở một số địa
phương. Trong hai bức thư gửi các đồng chí Bắc Bộ và gửi các đồng chí
Trung Bộ, Người thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm, những biểu hiện tiêu
cực trong hàng ngũ cán bộ, bao gồm: “Khi phụ trách ở một vùng nào thì như
một ơng vua con ở đấy, tha hồ hách dịch, hoạnh họe. Đối với cấp trên thì xem
thường, đối với cấp dưới thì cậy quyền lấn áp. Đối với quần chúng ra vẻ quan
cách làm cho quần chúng sợ hãi. Cái đầu óc ơng tướng, bà tướng ấy đã gây ra
bao ác cảm, bao chia rẽ, làm cho cấp trên xa cấp dưới, đồn thể xa nhân dân.
Cịn có những đồng chí chỉ lo ăn ngon, mặc đẹp, lo phát tài, lo chiếm của
công làm của tư, đạo đức cách mệnh thế nào, dư luận chê bai thế nào cũng
mặc”. Đó là biểu hiện của thói quan liêu, đồng thời cũng phản ánh tình trạng
bng lỏng, chưa có cơ chế, giải pháp kiểm soát quyền lực trong các cơ quan
của chính quyền cách mạng lúc đó. Nhận thấy những biểu hiện tiêu cực ấy sẽ
ảnh hưởng xấu đến sự đoàn kết nội bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân, làm cho tổ chức đảng và chính quyền suy yếu, Chủ tịch Hồ Chí
Minh yêu cầu các tổ chức đảng và chính quyền ở các địa phương trong cả
nước phải mang toàn bộ tinh thần cách mạng mà sửa chữa, khắc phục những
khuyết điểm, hạn chế đó. Người chỉ rõ, một trong những nội dung phải thực

hiện nhằm khắc phục những khuyết điểm, hạn chế đó là: “Trong các cơ quan
chỉ huy, chọn người phải đích đáng, quyền hạn phải phân minh, liên lạc phải
mật thiết, hợp tác phải chặt chẽ, phải tuyệt đối tránh cái lối lạm quyền, bao
biện, xung đột, phù diện và suy tỵ, không phụ trách”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh một cách cụ thể yêu cầu về công tác
kiểm tra đối với cán bộ và kiểm soát trong lãnh đạo trong tác phẩm “Sửa đổi
lối làm việc” vào tháng 10-1947. Theo Người, việc kiểm tra công tác đối với

13

cán bộ là một trong năm cách đối với cán bộ, tức là 5 phương pháp bồi
dưỡng, quản lý cán bộ của Đảng. Người viết rằng: “Kiểm tra - Không phải
ngày nào cũng kiểm tra. Nhưng thường thường kiểm tra để giúp họ rút kinh
nghiệm, sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm”. Đó là cơng việc nội bộ
trong tổ chức, hàng ngũ của Đảng. Với trách nhiệm là người lãnh đạo xã hội,
lãnh đạo nhân dân tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, thì phải dựa
vào nhân dân để làm tốt cơng việc kiểm sốt hiệu quả lãnh đạo, đồng thời
cũng là kiểm soát quyền lực của tổ chức đảng và các cán bộ, đảng viên. Do
đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, lãnh đạo đúng là cùng với việc phải
quyết định mọi vấn đề cho đúng, phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm
soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được. Điều đó có nghĩa là
phải dựa vào dân, lấy dân làm lực lượng để thực hiện cơng việc kiểm sốt mới
có thể mang lại hiệu quả như mong muốn.

Nhất quán với nhận thức về những tác hại của chủ nghĩa cá nhân dẫn
đến phạm nhiều sai lầm, trong đó có sai lầm, khuyết điểm về lạm dụng quyền
lực, mưu lợi cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, cùng với giáo dục đạo
đức cho cán bộ, đảng viên: “Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm
chỉnh trong Đảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê

bình cán bộ, đảng viên. Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc. Kỷ luật
Đảng phải nghiêm minh. Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ”. Những
yêu cầu trên đây thuộc trong số các giải pháp, nguyên tắc xây dựng Đảng,
kiểm soát những biểu hiện lạm dụng quyền lực trong tổ chức đảng và đảng
viên.

Báo cáo chính trị tại Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) chỉ ra:
“Chúng ta đã xác định mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà
nước quản lý thành cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội”. Đồng thời
nhấn mạnh, yêu cầu mọi người bình đẳng trước pháp luật, phải tơn trọng và
chấp hành pháp luật nghiêm chỉnh: “Trong điều kiện đảng cầm quyền, mọi
cán bộ, bất cứ ở cương vị nào, đều phải sống và làm việc theo pháp luật,

14

gương mẫu trong việc tôn trọng pháp luật. Không cho phép bất cứ ai dựa vào
quyền thế để làm trái pháp luật. Mọi vi phạm đều phải được xử lý. Bất cứ ai
phạm pháp đều phải đưa ra xét xử theo pháp luật, không được giữ lại để xử lý
nội bộ. Khơng làm theo kiểu phong kiến: dân thì chịu hình pháp, quan thì xử
theo lễ. Hiến pháp quy định: “Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Những yêu cầu này đã làm rõ nhận thức
của Đảng về vấn đề tôn trọng, thực thi pháp luật trong xã hội - nội dung cốt
lõi của nhà nước pháp quyền, lấy pháp luật là cơ sở tối cao trong quản lý và
điều chỉnh mọi hoạt động trong xã hội. Mặt khác, còn thể hiện thái độ không
khoan nhượng đối với những hành vi vi phạm pháp luật nói chung và kiên
quyết đấu tranh nhằm loại bỏ sự lạm dụng quyền lực trong bộ máy, tổ chức
Đảng và Nhà nước nói riêng, vì mục đích cá nhân vụ lợi, góp phần xây dựng
tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân.


Đến Cương lĩnh năm 1991, trong nhận thức lý luận, Đảng ta đã
đề cập trực tiếp nhiều vấn đề liên quan đến yêu cầu, nội dung, phương thức
kiểm soát quyền lực trong Đảng, trong hệ thống tổ chức bộ máy của Nhà
nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác định mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là một trong số những mối quan hệ lớn
cần phải nắm vững và giải quyết trong quá trình thực hiện phương hướng xây
dựng, phát triển đất nước. Việc giải quyết mối quan hệ này, thực chất cũng là
thực hiện cơ chế tổng thể về quản lý xã hội, giám sát quyền lực chính trị,
nhằm mục đích bảo đảm sự phát triển bền vững của chế độ xã hội. Đặc biệt,
khái niệm kiểm soát lần đầu tiên được đưa vào Cương lĩnh năm 2011 với ý
nghĩa là kiểm soát lẫn nhau giữa các quyền lực trong cơ chế vận hành của bộ
máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quyền lực Nhà nước
là thống nhất; có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành

15

pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, mối quan hệ giữa các cơ quan thực hiện
ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trong bộ máy tổ chức Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không chỉ là thống nhất, phân công và phối
hợp thực hiện, mà cịn phải kiểm sốt lẫn nhau.

Việc chính thức hóa u cầu kiểm sốt lẫn nhau giữa các cơ quan thực
thi các quyền lực cơ bản của Nhà nước khơng chỉ nhận thức rõ hơn đặc trưng
của mơ hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà cịn mở
đường cho việc tăng cường kiểm sốt quyền lực nhà nước, thể hiện rõ hơn
tính chất Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.


3.3. Cơ chế, thể chế thực hiện kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt
Nam hiện nay

Sự kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp được chế định trong Hiến pháp và hệ thống
các văn bản quy phạm pháp luật. Tại Điều 70, Hiến pháp năm 2013 quy định,
Quốc hội “Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và
nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tịa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan
khác do Quốc hội thành lập”.

Kiểm soát quyền lực bằng Hiến pháp, hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật và chế độ tư pháp, bảo đảm cho các tổ chức, cá nhân hoạt động theo đúng
các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Một khi các chế định trong Hiến
pháp, pháp luật và pháp chế nói chung đúng đắn, cơng bằng, thì việc thực thi
nghiêm chỉnh Hiến pháp, pháp luật và các chế độ tư pháp cũng chính là điều
kiện để bảo đảm quyền lực chính trị được sử dụng đúng đắn, không bị lạm
dụng hoặc sử dụng sai mục đích.

Kiểm sốt quyền lực bằng các chế định về bầu cử, bổ nhiệm, miễn
nhiệm theo nhiệm kỳ hoặc không theo nhiệm kỳ theo quy định của pháp luật.

16

Bầu cử, bổ nhiệm, miễn nhiệm vừa là phương thức tổ chức bộ máy nhà nước,
bảo đảm việc lựa chọn đúng người, đúng việc, vừa là uy tín của cán bộ, tổ
chức và ý chí, nguyện vọng của nhân dân và tập thể tổ chức. Đồng thời, đó
cũng là phương thức để kiểm sốt quyền lực chính trị, bảo đảm quyền lực
được thực thi đúng đắn, hiệu quả, ngăn chặn, đề phịng sự lạm dụng quyền lực

vì mục đích cá nhân hoặc hạn chế hiệu quả sử dụng quyền lực vì hạn chế về
năng lực.

Kiểm sốt quyền lực chính trị bằng việc thực hiện vai trò làm chủ, sự
giám sát, phản biện của nhân dân một cách trực tiếp hoặc thông qua Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Cũng như đối với tổ chức đảng và
đảng viên, các cơ quan, tổ chức nhà nước và các cá nhân nắm giữ các trọng
trách trong bộ máy nhà nước phải chịu sự giám sát, kiểm soát của nhân dân.
Theo các quy định của pháp luật, người dân có quyền kiểm soát, giám sát,
phản ánh tâm tư, nguyện vọng của mình đối với các cơ quan, tổ chức và các
cán bộ, công chức, viên chức nhà nước trong việc thi hành công vụ.

Có thể thấy được thể chế kiểm sốt quyền lực chính trị trong nội bộ
Đảng, Nhà nước hay trong tồn xã hội đều gắn liền, đan xen hoặc bao hàm
trong các nguyên tắc, chế độ tổ chức hoạt động của các thành tố tạo thành hệ
thống chính trị ở nước ta. Trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ, các cơ chế, thể chế kiểm soát quyền lực của mỗi thành
tố trong hệ thống chính trị của nước ta phần lớn đều liên quan hoặc đồng thời
tác động đến các thành tố khác. Trong quá trình xây dựng và phát triển đất
nước, nhất là trong thời kỳ đổi mới, các cơ chế, thể chế về kiểm sốt quyền
lực chính trị ở nước ta khơng ngừng được hoàn thiện, được chế định ngày
càng đầy đủ trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và có tác động
tích cực đến q trình xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh.

3.4. Thành tựu và hạn chế cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà
nước ở Việt Nam hiện nay

17


Thành tựu:
- “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được
đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt” đã tạo ra những
chuyển biến tích cực trong kiểm sốt quyền lực của Đảng và hệ thống chính
trị nói chung. Cơng tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức đã
nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về ý thức, trách nhiệm chính trị
trong việc thực thi các nhiệm vụ công tác của Đảng. Công tác cán bộ được đổi
mới theo Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Hội nghị lần thứ
bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, về tập trung xây dựng đội ngũ cán
bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đã tạo được những chuyển biến tích cực.
Cơng tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng được tăng cường, có nhiều đổi mới,
có hiệu quả, nhất là ở cấp Trung ương. Cơng tác phịng, chống tham nhũng
được lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện quyết liệt với quyết tâm chính trị rất cao.
- Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới theo
hướng giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đề cao nguyên tắc pháp quyền,
phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
- “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến
bộ, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục
được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, bảo đảm thực hiện đồng
bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Vai trò của pháp luật được đề
cao, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rành mạch. Tổ
chức bộ máy của chính quyền địa phương được sắp xếp lại, tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả.
Hạn chế:
- “Cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả chưa cao; việc cơng khai,
minh bạch và trách nhiệm giải trình còn hạn chế”.

18


- “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị cịn
chậm đổi mới, có mặt cịn lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng
và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa cao”.

Những hạn chế, khuyết điểm trên là một trong những nguyên nhân làm
hạn chế hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; dẫn đến
tình trạng “tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn còn nghiêm
trọng, phức tạp, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã
hội. Tham nhũng vẫn còn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của
Đảng và chế độ ta”.

3.5. Giải pháp tiếp tục hồn thiện cơ chế kiểm sốt quyền lực chính
trị ở Việt Nam hiện nay

Một số giải pháp kiến nghị được đề xuất trong việc tục hoàn thiện cơ
chế kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam

- Bảo đảm sự thống nhất trong nhận thức của đảng viên, cán bộ,
công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân về mục đích, u cầu của việc
hồn thiện cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước

Cần nâng cao nhận thức cho đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức
và các tầng lớp nhân dân nhằm tạo ra sự đồng thuận trong xã hội về sự cần
thiết, khách quan phải hồn thiện cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước trong
điều kiện mới.

- Nâng cao năng lực thể chế hóa quan điểm của Đảng về kiểm
soát quyền lực nhà nước trong hoạt động xây dựng pháp luật


Hoạt động xây dựng pháp luật phải thể chế hóa phải kịp thời, đồng bộ;
chương trình xây dựng pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước phải bảo
đảm tính khả thi, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng về kiểm sốt
quyền lực nhà nước và phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của đất
nước.

19


×