Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

TL QUYỀN LUC CHINH TRI và câm QUYỀN quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở việt nam hiện nay một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.14 KB, 60 trang )

MỤC LỤC
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền lực chính trị của nhân dân lao
động ở Việt Nam hiện nay
1.1. Quyền lực chính trị của nhân dân lao động
1.2. Phương thức thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động
1.3. Quá trình hình thành và phát triển quan điểm của Đảng Cộng

Sản Việt Nam về

quyền lực chính trị của nhân dân trong thời kì đổi mới
Chương 2:

Thực trạng thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở

Việt Nam hiện nay
2.1. Thực trạng chung về thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở Việt
Nam hiện nay
2.1.1. Thực thi phương thức dân chủ trực tiếp
2.1.2. Thực thi phương thức dân chủ đại diện
2.1.3. Kết hợp phương thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trong xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
2.2 . Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra về thực hiện thực thi quyền lực chính
trị của nhân dân lao động ở Việt Nam hiện nay
Chương 3:

Những giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm thực thi và phát huy

quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở Việt Nam hiện nay
3.1. Phương hướng cơ bản nhằm bảo đảm thực thi và phát huy quyền lực chính trị
của nhân dân lao động ở Việt Nam hiện nay
3.2. Giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm thực thi và phát huy quyền lực chính trị của


nhân dân lao động ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài.
Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn giữ vững quan điểm lấy dân làm
gốc, xây dựng nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân, không ngừng mở rộng
dân chủ để thực hiện tốt quyền lực thuộc về nhân dân. Nước ta đi theo con đường
Chủ nghĩa xã hội nên không thể không xây dựng thành công nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa. Không có dân chủ thì cũng không có Chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã
hội mà không thực hiện quyền dân chủ rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống thì chỉ là Chủ nghĩa xã hội hình thức. Cụ thể lý luận về quyền lực chính trị
của nhân dân được thể hiện tập trung nhất trong luận đề mở đầu qua tác phẩm
“Dân vận” của Hồ Chí Minh viết năm 1949 :
“ Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân
Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân cử ra
Đoàn thể từ trung ương tới xã đều do dân tổ chức nên
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân…”
Khẳng định tiến trình loài người có thể lâu dài và có những bước quanh co, gian
khổ nhưng định hướng tiến lên một xã hội, trong đó mọi quyền lực thuộc về nhân
dân là điều không thể đảo ngược.
Thực hiện quan điểm trong cương lĩnh của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh, tình hình

những năm qua trong khi lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, chúng ta cũng đã từng
bước đổi mới hệ thống chính trị. Đặc biệt vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản
lí của Nhà nước, tính tích cực chủ động của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị xã hội ngày càng được nâng cao, ý thức và quyền làm chủ của nhân


dân tham gia vào công việc quản lí nhà nước ngày càng phát triển và mở rộng. Nhờ
vậy, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, từ đó nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh,
chính trị ổn định, đời sống văn hóa- xã hội của nhân dân từng bước ổn định, xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, vì dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng dân chủ văn minh.
Song song với những bước đổi mới đáng tự hào, thực trạng chính trị Việt Nam còn
tồn tại nhiều hạn chế như lãnh đạo của Đảng chưa được nâng cao đúng mức; tổ
chức và hoạt động của Nhà nước còn quan liêu, cồng kềnh, chồng chéo, kém hiệu
quả; Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội còn kém năng động, đội ngũ
cán bộ đoàn thể vẫn chưa khắc phục được tình trạng mua chức, chạy chức. Nghiêm
trọng hơn là một bộ phận cán bộ trong hệ thống chính trị thái hóa về phẩm chất đạo
đức cách mạng; một bộ phận đuối về năng lực, trong khi cả thời cơ lẫn thách thức
lớn đang đặt ra trước hệ thống chính trị nước ta những vấn đề cấp bách cần giải
quyết. Những yếu kém trên đây đã dẫn tới tình trạng quyền làm chủ của nhân dân
nhiều nơi bị vi phạm nghiêm trọng. Chỉ bằng cách đổi mới cơ chế thực thi quyền
lực chính trị mới có thể nâng cao quyền làm chủ của nhân dân, với tư cách vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Xuất phát từ lí do đó, việc đưa ra một số phương hướng và giải pháp cho việc thực
hiện tốt hơn cơ chế thực thi quyền lực chính trị của nhân dân là một trong những
vấn đề cần thiết. Chính vì vậy, tôi luôn quan tâm và trăn trở đến vấn đề này nên tôi
chọn đề tài “Quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở Việt Nam hiện nay. Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài thi hết môn Chính trị học Việt Nam.
2.


Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài

Trước những yêu cầu bức thiết của công cuộc đổi mới đất nước, phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước gắn liền với tri thức, của hội nhập kinh tế quốc tế, thì quá trình phát
huy và xây dựng dân chủ đóng vai trò tích cực, đòi hỏi Đảng phải nâng cao năng


lực và sức chiến đấu của mình, đồng thời việc bảo đảm sao cho đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện, an sinh xã hội bền vững,
nhân dân mọi vùng, mọi miền đều được quan tâm, các dân tộc đều được bình đẳng.
Trình độ dân trí thể hiện ở sự hiểu biết, tôn trọng pháp luật, kỷ cương, hiểu biết về
quy luật phát triển của tự nhiên, xã hội, hiểu biết về thời cuộc và nhiệm vụ, trách
nhiệm của mình với xã hội. Hiện nay, có rất nhiều công trình khoa học, các bài
báo, các bài bình luận, nghiên cứu về vấn đề này dưới nhiều góc độ và nhiều khía
cạnh khác nhau. Trong đó có rất nhiều ý kiến, những lý giải , những kiến nghị sâu
sắc, thiết thực. Tại các kì họp của Quốc hội, vấn đề phát huy quyền làm chủ của
nhân dân lao động cũng được các đại biểu thường xuyên thảo luận, chất vấn.
Một số công trình khoa học và bài viết tiêu biểu đến đề tài:


Nguyễn Khắc Mai: “Dân chủ - di sản văn hóa Hồ Chí Mình”, NXB Lao
động, Hà Nội (1997). Trong công trình này, tác giả đã phân tích, đánh giá những
đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ, thực hiện dân chủ và coi đó là di
sản văn hóa của Người.



GS.TS. Lê Hữu Nghĩa: “Phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng cầm
quyền”, (Hội thảo khoa học Trung - Việt), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2002).

Tác giả nêu leent ầm quan trọng của vấn đề dân chủ không chỉ đối với sự phát triển
của quốc gia mà còn đối với việc giải quyết các vấn đề quốc tế.



Đại tá Phạm Quang Định; Đại tá Phạm Bá Toàn; Thượng tá Nguyễn Đức
Hùng (Đồng chủ biên): “Dân chủ và thiết chế dân chủ ở Việt nam”, NXB Quân
đội nhân dân, Hà Nôi 92006). Tác giả nêu một cách khái quát và cô đọng về xây
dựng một nền dân chủ thực sự của dân, do dân và vì dân trong quá trình xây dựng
CNXH ở Việt Nam.



T.S Hồ Bá Thâm, “Dân chủ hóa và phát huy nội lực”, nXB Phương Đông
(2007), nói về cách nhìn chủ yếu từ thực tiễn về thực hiện dân chủ và vi phạm dân
chủ ở cơ sở và trong mối liên hệ cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận, và gắn với thực tế


phát huy động lực dân chủ, động lực nhân văn, phát huy nội lực trong quá trình xây
dựng, phát triển xã hội.
GS.TS. Lê Minh Quân, “ Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt



Nam hiện nay”, NXB Chính trị quốc gia, (2011), nói về vấn đề dân chủ hoá từ góc
độ lý thuyết và thực tiễn.
Nhìn chung, các công trình khoa học trên cho thấy, chưa có một công trình độc lập
nào đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ thống cơ chế thực thi quyền lực chính trị
ở Việt nam. Tuy nhiên, trên đây là những tài liệu quý để tôi tham khảo trong
nghiên cứu.

3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của tiểu luận
Mục đích nghiên cứu

1.

Mục đích nghiên cứu của tiểu luận là trên cơ sở nghiên cứu về thực trạng thực hiện
phương thức thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động, tiểu luận đưa ra
một số phương hướng và giải pháp, kiến nghị để phát huy quyền lực chính trị của
nhân dân lao động ở Việt Nam hiện nay.
2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Hệ thống hóa các vấn đề lý luận để làm rõ các quan niệm về quyền lực, quyền lực
chính trị, phương thức, phương thức thực thi, hệ thống chính trị và quá trình hình
thành và phát triển quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về quyền lực chính trị
của nhân dân trong thời kì đổi mới
Phân tích, đánh giá thực trạng thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động
nói chung và thực trạng trạng thực hiện phương thức thực thi quyền lực chính trị
của nhân dân lao động nói riêng ở Việt Nam hiện nay để từ đó đánh giá những mặt
đã đạt được, những mặt còn tồn tại và nguyên nhân.
Đề xuất các phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm thực thi và phát huy
quyền lực của nhân dân lao động ở nước ta hiện nay.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu



Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận Quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở
Việt Nam hiện nay - Một số vấn đề luận và thực tiễn.
Phạm vi nghiên cứu của tiểu luận là ở Việt Nam từ năm 2006- 2015
5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1.Cơ sở lý luận
Tiểu luận nghiên cứu trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Leenin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, những quan điểm, đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam,
quan điểm của Đảng trong việc phát huy và nâng cao việc thực thi quyền lực chính
trị của nhân dân lao động thông qua việc thực hiện phương thức thực thi quyền lực
chính trị của nhân dân lao động ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Đặc biệt là quan
điểm của Đảng và Nhà nước về sự cần thiết thực hiện quyền dân chủ của nhân dân
lao động, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
đân.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khảo sát thực tiễn, so sánh, đánh giá,
quy nạp, diễn dịch, phân tích, thống kê, tổng hợp.
6.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

-

Tiểu luận góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận về dân chủ XHCN nói chung

-

và các phương thức thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động nói riêng.

Tiểu luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu cho giảng dạy chuyên đề
về dân chủ trong thời kì quá độ lên CNXH
7.

Kết cấu của tiểu luận

Ngoài phần Mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia
thành 3 chương, tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở
việt nam hiện nay


Chương 2: Thực trạng thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở Việt
Nam hiện nay
Chương 3: Những giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm thực thi và phát huy quyền lực
chính trị của nhân dân lao động ở Việt Nam hiện nay.


Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền lực chính trị của nhân dân lao
động ở việt nam hiện nay Quyền lực chính trị của nhân dân lao động
1.1. Quyền lực chính trị của nhân dân lao động
1.1.1. Quyền lực và quyền lực chính trị
- Quyền lực là quan hệ xã hội, ra đời và tồn tại cùng với xã hội loài người. Con
người sống trong cộng đồn, trong tổ chức cần phối hợp hoạt động với nhau, cần có
người chỉ huy và người phục tùng, nếu không xã hội sẽ hỗn loạn. Vì vậy trong bất
cứ cộng đồng nào cũng có hiện tượng người ( nhóm người ) khác, buộc họ phải
phục tùng ý chí của mình. Quyền lực trở thành mục tiêu và động lực của con
người. Lịch sư loài người gắn với các cuộc đấu tranh giành quyền lực trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do tầm quan trọng đặc biệt đó, quyền lực là đối
tượng của nhiều ngành trong đó có Chính trị học.

Trong lịch sử tư tưởng chính trị của nhân loại, ngay từ thời cổ đại, ở cả phương
Đông và phương Tây, ‘quyền lực’ đã được lưu ý đề cập. Trong tác phẩm “ Chính trị
Aten”, -Arixtot (384 -322 TCN): Xem quyền lực là kết quả của sự thoả thuận giữa
mọi người dựa trên ý chí của họ.
Thời kì trung cổ, các nhà than học đưa” quyền lực thượng đế” lên vị trí hàng đầu.
Họ xem loài người chỉ là cái phát sinh từ quyền lực thượng đế. Song bên trong cái
vô thần đó, -Oguytxtanh (357 – 430): Cho rằng, con người về bản chất tự nhiên cần
đến một xã hội và một xã hội luôn cần phải có quyền uy. Ông còn nhấn mạnh:
Quyền lực là sở hữu chung của cộng đồng và sứ mệnh quyền lực là làm cho công
bằng ngự trị.
Thời Phục hưng và khai sáng, các nhà không tưởng và các nhà Bách khoa toàn thư
chủ trương đánh đổ quyền lực phong kiến để xác lập quyền tư sản, nhưng chỉ nhấn
mạnh Nhà nước là “ Vương quốc của lý trí”.
Thời Hiện đại, nhà chính trị học Mỹ K.Đan cho rằng : Quyền lực là buộc người
khác phải phục tùng. - Trong Từ điển Bách khoa Triết học Liên Xô (cũ): Quyền lực


là khả năng thực hiện ý chí của mình, có tác động đến hành vi, phẩm hạnh của
người khác nhờ một phương tiện nào đó như uy tín, quyền hành, sức mạnh…
Với nghĩa chung nhất, có thể xem:- “Quyền lực là khả năng thực hiện ý chí của
mình, có tác động đến hành vi, phẩm hạnh của người khác nhờ một ưu thế nào đó
như sức mạnh, địa vị xã hội.
-

Quyền lực chính trị
Trong xã hội có vô vàn quyền lực khác nhau, trong đó quyền lực chính trị chỉ hình
thành trong xã hội có giai cấp và nhà nước. Xã hội ngày càng phát triển, quyền lực
chính trị ngày càng phong phú, phức tạp và ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của
mỗi người và mỗi cộng đồng người.
Theo chủ nghĩa Mác - Lê nin, quyền lực chính trị là quyền của một hay hay liên

minh giai cấp, tập đoàn xã hội hay của nhân dân( trong điều kiện CNXH); nó nói
lên khả năng của một giai cấp nhằm thực hiện lợi ích khách quan của mình. Quyền
lực chính trị theo đúng nghĩa của nó, là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn
áp giai cấp khác.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, quyền lực chính trị là quyền quyết định, định
đoạt những vấn đề, công việc quan trọng về chính trị, tổ chức và hoạt động để đảm
bảo sức mạnh thực hiện quyền lực ấy của một giai cấp, một chính đảng, tập đoàn
xã hội nhằm giành hoặc duy trì quyền lãnh đạo; định đoạt điều khiển bộ máy nhà
nước; xây dựng, phát triển kinh tế- xã hội trong một quốc gia và quan hệ chính trị kinh tế- ngoại giao với các nhà nước khác và tổ chức quốc tế khu vực và thế giới,
bảo đảm chiều hướng phát triển quốc gia phù hợp với lý tưởng giai cấp.
Từ những cách tiếp cận nêu trên có thể hiểu một cách chung nhất: Quyền lực chính
trị là quyền sử dụng sức mạnh của một hay liên minh giai cấp, tạp đoàn xã hội
nhằm thực hiện sự thống trị chính trị; là năng lực áp đặt và thực thi các giải pháp
phân bổ giá trị xã hội có lợi cho giai cấp mình - chủ yếu thông qua đấu tranh,
giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.


Là bộ phận quan trọng nhất của quyền lực chính trị, sự thay đổi căn bản của quyền
lực Nhà nước bằng việc chuyển chính quyền nhà nước từ tay giai cấp này sang tay
giai cấp khác sẽ trực tiếp thay đổi căn bản tính chất chế độ chính trị. Bất kì quyên
lực nhà nước nào cũng mang tính chính trị, nhưng không phải mọi quyền lực chính
trị đều mang tính nhà nước. So với quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị rộng
hơn về dung lượng, đa dạng hơn về phương pháp và phương thức thể hiện.
Xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể ở nước ta và phù hợp với yêu cầu cơ bản của
nền dân chủ XHCN: “ Mọi quyền lực thuộc về nhân dân”. Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kì quá độ được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII thông qua
và Hiến pháp 1992 đã khẳng định sự thống
nhất của quyền lực nhà nước đối với sự phân công và phối hợp chặt chẽ các cơ
quan nhà nước khác nhau để thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
1.1.2.



Hệ thống chính trị XHCN
Khái niệm hệ thống chính trị : Hệ thống chính trị là khái niệm dùng để chỉ
một chỉnh thể bao gồm các tổ chức như đảng chính trị, nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội (hợp pháp); với những quan hệ tác động qua lại giữa các nhân tố
đó trong việc tham gia vào các quá trình hoạch định và thực thi các quyết sách
chính trị nhằm bảo đảm quyền thống trị của giai cấp, lực lượng cầm quyền, đồng



thời đáp ứng nhu cầu ổn định và phát triển xã hội
Khái niệm hệ thống chính trị XHCN : Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là
một cơ cấu xã hội bao gồm Đảng cộng sản, nhà nước, các đoàn thể và các tổ chức
xã hội – chính trị hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, nhằm thực hiện
quyền lực của nhân dân để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa bắt đầu được hình thành ngay sau thắng lợi của
cách mạng xã hội chủ nghĩa và nó dần dần phát triển, hoàn thiện trên cơ sở hình
thành và phát triển phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa.


Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là khái niệm rộng hơn “hệ thống chuyên chính
vô sản”. Hệ thống chuyên chính vô sản chỉ bao gồm những tổ chức cơ bản nhất của
hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Nội dung, vai trò quyền lực chính trị của nhân
dân lao động ở nước ta hiện nay
NATO đã từng tuyên bố rằng : “ Nhân quyền lớn hơn Chủ quyền”, cho thấy quyền
dân chủ nói riêng và vai trò của quyền lực chính trị của nhân dân vô cùng to lớn.
Hiện nay ở Việt Nam, toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân lao động, và ủy quyền
cho Nhà nước thực hiện quyền lực của mình. Từ đó mọi đường lối, chủ trương của
Đảng thể hiện và phản ánh sinh động nhu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân.

Toàn bộ hệ thống hiến pháp, pháp luật của Nhà nước thực chất là thể chế hóa
quyền lực của nhân dân. Khẳng định vai trò quyết định của nhân dân lao động là
chủ thể của quyền lực nhà nước và tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhà
nước là một trong những yếu tố của hệ thống chính trị Việt Nam hình thành nên cơ
chế chủ yếu bảo đảm quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở nước ta hiện nay.
Trên lĩnh vực chính trị : Nhân dân có quyền lựa chọn chế độ chính trị , lựa chọn
con đường phát triển của đất nước; quyền và nghĩa vụ tham gia xây dựng đường lối
chính trị, xây dựng thể chế chính trị, xây dựng, hoàn thiện hệ thống tổ chức quyền
lực chính trị. Nhân dân có quyền và nghĩa vụ bầu và bãi miễn những người đại
diện vào cơ quan quyền lực Nhà nước, có quyền thực thi quyền lực dân chủ, thể
hiện ở việc bảo đảm quyền công dân, quyền con người.
Nhân dân là người tổ chức và trực tiếp quản lí nhà nước, thông qua đó tham gia
vào quá trình quản lí xã hội, điều phối mọi công việc trong xã hội; thực hiện chức
năng chuyên chế nhà nước đối với những lực lượng chống đối nhằm bảo vệ lợi ích
của chính mình trong quan hệ lợi ích với các nhóm xã hội khác.
Trên lĩnh vực kinh tế : Hoàn thiện thể chế kinh tế bảo đảm sự hài hòa giữa lợi ích
cá nhân, tập thể, cộng đồng, giai cấp, dân tộc, quốc gia… Quyền được phát triển
các thành phần kinh tế, hoạt động sản xuất – kinh doanh theo đúng pháp luật;


quyền tham gia quyết định chế độ sở hữu, quản lý dưới nhiều hình thức trực tiếp và
gián tiếp khác nhau; quyền chủ động hội nhập kinh tế quốc tế…
Trên lĩnh vực xã hội, văn hóa : Trước hết đó là quyền được đảm bảo về mặt xã hội,
quyền được bảo đảm về giáo dục, y tế, thông tin những vấn đề cần thiết cho hoạt
động của mình; quyền tham gia quá trình khắc phục dần sự khác biệt giữa các giai
tầng trong xã hội, giữa các vùng, miền của đất nước; từng bước giải phóng con
người khỏi những quan hệ phi nhân tính; quyền tự do ngôn luận, nghiên cứu, tự do
trong sáng tạo khoa học và văn hóa; tự do tín ngưỡng trong khuôn khổ pháp luật;
cũng như quyền bảo vệ các giá trị văn hóa riêng của mỗi dân tộc…
Tùy theo những bước tiến đạt trong quá trình đổi mới, nội dung và mức độ thể hiện

quyền lực của nhân dân lao động cũng không ngừng được mở rộng và ngày càng
hoàn thiện hơn.
1.1.3.

Cơ chế thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động
“Cơ chế” là chuyển ngữ của từ “mécanisme” trong tiếng Pháp. Từ điển Le Petit
Larousse (1999) giảng nghĩa “mécanisme” là “cách thức hoạt động của một tập
hợp các yếu tố phụ thuộc vào nhau”.
Còn Từ điển Tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học 1996) giảng nghĩa cơ chế là “cách
thức theo đó một quá trình thực hiện”.
Theo C.Mác, trong chế độ dân chủ, nhà nước, luật pháp là sự tự quy định của nhân
dân, dân chủ vô sản không chỉ là công cụ, phương tiện để phát huy tính sáng tạo
của quần chúng, mà còn là bản chất tồn tại của nhà nước XHCN.
Kế thừa tư tưởng của C.Mác về dân chủ, V.I.Lênin cho rằng: “Cần xây dựng ngay
chế độ dân chủ, bắt đầu từ cơ sở, dựa và ý kiến bản thân quần chúng, với sự tham
gia thực sự của quần chúng vào tất cả đời sống của nhà nước” (1). Trong điều kiện
của chế độ dân chủ mới thì điều quan trọng nhất là toàn bộ công việc nhà nước từ
dưới lên phải do bản thân quần chúng tổ chức, quần chúng thực sự tham gia. Muốn


phát triển lên CNXH một cách có kế hoạch, vững chắc và kiên quyết phải nhờ vào
việc xây dựng được một nhà nước thực sự dân chủ của nhân dân, trong đó quần
chúng ngày càng nắm vững nghệ thuật quản lý nhà nước và điều khiển toàn bộ
chính quyền nhà nước. Đồng thời, theo V.I.Lênin, các yêu cầu và nội dung dân chủ
của nhà nước vô sản phải được quy định trong Hiến pháp và pháp luật.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã sớm nhận thức được những quyền lợi căn
bản mà một con người, một công dân trong xã hội cần phải có, thể hiện trong
Tuyên ngôn độc lập: “ những quyền không ai xâm phạm được”, hay tại Đại hôi
Tour năm 1920 củ Đảng xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã phát biểu như sau : “
Người Việt Nam bị phân biệt đối xử, họ không có những sự đảm bảo như người

Châu Âu hoặc có quốc tịch Châu Âu. Chúng tôi không có quyền tự do, báo chí và
tự do ngôn luận, ngay cả quyền tự do hội họp và lập hội cũng không có”.
1.2.

Phương thức thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động
1.2.1. Khái niệm về dân chủ
*Khái niệm về dân chủ :
Tư tưởng về dân chủ xuất hiện khá sớm trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Thuật ngữ
“Dân chủ” ra đời từ thời Hy Lạp cổ đại, khoảng thế kỉ thứ VII - VI trước công
nguyên. Dân chủ bắt đầu từ chữ Hy Lạp “Demoskratos”.
Trong đó:
“Demos” : Nhân dân
“Kratos”: Quyền ( hay: quyền lực”.
Như vậy “Demoskratos” có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân. Nhưng nhân dân
lại là khái niệm mang tính lịch sử do địa vị kinh tế của giai cấp thống trị quy định.
Thực chất của dân chủ là quyền lực thuộc về bộ phận dân cư nắm tư liệu sản xuất
chủ yếu của xã hội.
*Khái niệm dân chủ xã hội chủ nghĩa:


Một số quan niệm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ xã hội chủ nghĩa
Kế thừa các tư tưởng dân chủ của nhân loại, Chủ nghĩa Mac- Leenin đã nêu ra
những đặc trưng chung về dân chủ:
1.

Dân chủ là quyền lực thuộc về giai cấp xã hội, mà giai cấp này sở hữu tư
liệu sản xuất chủ yếu của xã hội mà do đó nó có quyền phân chia quyền lực cho
các giai tầng khác trong khuôn khổ phù hợp với lợi ích của nó.


2.

Dân chủ là hình thức tổ chức của các xã hội có giai cấp và đấu tranh giai
cấp, một hình thức nhà nước của giai cấp thống trị (giai cấp nắm tư liệu sản xuất
chủ yếu của xã hội).

3.

Với tính cách là một thể chế chính trị, một hình thái nhà nước, dân chủ là sự
thống nhất biện chứng giữa hai mặt: Thứ nhất, nó đảm bảo quyền dân chủ mà cho
giai cấp mà nó đại diện. Thứ hai, thực hiện chuyên chính với các lực lượng chống
đối. Dân chủ và chuyên chính là hai mặt thống nhất bản chất trong bất kì một chế
độ dân chủ nào khác.
Dân chủ XHCN là một phạm trù chính trị biểu thị một hình thức chính trị ‐ nhà
nước mà ở đó quyền con người, các quyền tự do, bình đẳng của công dân được
thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ; Trong chế độ đó, nhân dân phải là chủ thể đích
thực và cao nhất của quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước. Ở đó, mọi thiết chế
quyền lực đều được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát, trước hết là của nhân dân.

1.2.2.

Phương thức dân chủ
Quyền lực chính trị của nhân dân lao động gồm 2 hình thức : Dân chủ trực tiếp và
Dân chủ đại diện

1.2.2.1. Phương

thức dân chủ trực tiếp (Direct Democrazy) là sự tham gia trực tiếp của

người dân vào chính sách và quản lý. Qua đó, người dân được trực tiếp thể hiện ý

chí của mình đối với việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, từ đó mà
chủ động, tích cực tham gia vào hoạt động, quản ký Nhà nước.Là hình thức sơ khai


nhất, rộng rãi nhất để quyền lực thuộc về nhân dân lao động là tất cả những người
lao động đều nắm quyền. Nghĩa là bản thân họ đều trực tiếp giải quyết các vấn đề
của đời sống xã hội. Các thành viên trong xã hội trực tiếp thể hiện ý chí của mình
trong việc quyết định thực hiện những vấn đề quan trọng của đất nước. Đây là hình
thức dân chủ mới ở nước ta, nhưng là hình thức dân chủ đầu tiên mà con người đã
sử dụng với nội dung và hình thức sơ khai trong xã hội nguyên thủy.
Trong Chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động vừa là chủ thể vừa là khách thể của
quyền lực chính trị. Lợi ích của các thành viên, của các tổ chức, các giai tầng cũng
nằm trong lợi ích chung của toàn xã hội. Xã hội cần tạo mọi điều kiện để các cá
nhân phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của mình, để thực hiện đầy đủ
quyền và nghĩa vụ với tư cách vừa là chủ thể vừa là khách thể của quyền lực chính
trị. Đối với nước ta, đề cao dân chủ trực tiếp được xuất phát từ bản chất của chế độ
Xã hội chủ nghĩa, là mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
Thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của dân chính là phát huy sức mạnh của nhân
dân tham gia vào tổ chức, quản lý và hoạt động đối với chế độ mới. Lênin chỉ rõ: “
Đối với chúng ta một sức mạnh là nhờ ở sự giác ngộ của quần chúng, nước mạnh
khi nào quần chúng biết rõ…tất cả mọi cái, quần chúng có thể phán đoán về mọi
cái”. Tư tưởng dân chủ trực tiếp còn được thể hiện rất rõ trong phong cách của Hồ
Chí Minh: “ Phải để cho nhân dân bàn bạc kỹ và tự mình quyết định mọi công
việc.
Tại Đại hội VI, Đảng ta đã nêu rõ bài học lấy dân làm gốc, xây dựng và phát huy
tốt hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân lao động, thực hiện phương châm: “ Dân
biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra”. Nghị quyết Đại hội nêu rõ: “ Đối với những
chủ trương có quan hệ trực tiếp với đời sống nhân dân trên phạm vi cả nước cũng
như ở các địa phương và đơn vị cơ sở, cấp ủy Đảng hoặc cơ quan chính quyền phải
trưng cầu ý kiến nhân dân trước khi có quyết định”. Điều 8, Hiến pháp 1992 quy



định: “Các cơ quan, cán bộ, viên chức Nhà nước phải coi trọng nhân dân, phục vụ
tận tụy nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân.”
Để phát huy tốt hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân lao động. Đại hội VIII của
Đảng ta đã đề ra phương hướng : “ Xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương
châm “ Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước, thực hiện tốt cơ chế làm chủ của nhân dân
Để cụ thể hóa phương hướng đó thành pháp luật, tháng 2 năm 1998, Bộ chính trị ra
chỉ thị: “ Về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ cấp cơ sở”, trong đó có đoạn
viết: “ Khâu quan trọng và cấp bách nhất trước mắt là phát huy quyền làm chủ của
nhân dân cấp cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, là nơi thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và
rộng rãi nhất”.
∙ Đặc trưng của dân chủ trực tiếp :


Người dân trực tiếp tham gia bỏ phiếu bầu chọn người thay mình vào các cơ
quan nhà nước, để họ gánh vác những công việc chung;



Gặp gỡ trực tiếp hay có đơn thư trao đổi với các cơ quan, công chức nhà
nước, yêu cầu giải quyết những vấn đề mà mình quan tâm;



Được sinh hoạt tập thể theo hệ thống tổ chức, được quyền chất vấn, phát
biểu về xây dưng kế hoạch, tổ chức thực hiện, giám sát, kiểm tra các chương trình
hoạt động, các chính sách liên quan trực tiếp tới người dân;




Được thực hiện chất vấn các cơ quan, nhân viên thừa hành thực hiện nhiệm
vụ được nhân dân giao phó, đồng thời được quyền góp ý, phê bình và đề nghị các
cấp có thẩm quyền miễn nhiệm, bãi chức công chức vi phạm pháp luật;



Quyết định những vấn đề liên quan tới quyền lợi, cuộc sống thông qua bàn
bạc dân chủ không trái với những quy định của pháp luật
* Ưu điểm của dân chủ trực tiếp là mọi công việc của đời sống cộng đồng đều do
toàn thể các thành viên cùng nhau bàn bạc, cùng nhau quyết định. Do đó, quyền


lực, ý chí của nhân dân sẽ được thể hiện trực tiếp trong tiến trình đạt tới lợi ích
khách quan của mình.
* Bên cạnh đó còn tồn tại một số hạn chế :
Một là, không phải mọi công việc đều có thể lấy được ý kiến của số đông
Hai là, không phải bao giờ quyết định trực tiếp của số đông cũng đều là đúng
Ba là, để mọi người có quyết định chính xác, phải có thông tin đầy đủ, mọi người
đều có khả năng xử lý thông tin một cách khoa học – điều mà không phải bất kì
công dân nào cũng làm được và không phải bất kỳ một xã hội nào cũng thỏa mãn
được
1.2.2.2. Phương

thức dân chủ đại diện : là phương thức thực hiện quyền lực nhà nước cơ

bản và phổ biến nhất của nhân dân. Theo đó, nhân dân thông qua các cơ quan đại
biểu do mình bầu ra và ủy thác quyền lực như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các

cấp; rồi đến lượt mình Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp tiếp tục lập ra các cơ
quan khác của Nhà nước để thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Như vậy,
hiểu một cách đầy đủ, cơ quan nhà nước được nhân dân ủy quyền không chỉ là các
cơ quan dân cử như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp mà còn bao gồm cả các
cơ quan trong hệ thống hành pháp và tư pháp; các cơ quan này thay mặt nhân dân
sử dụng quyền lực nhà nước để điều hành, quản lý xã hội và chịu sự giám sát của
nhân dân.
Biểu hiện rõ nét và tập trung nhất của hình thức dân chủ đại diện ở nước ta là việc
tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Điều 69 Hiến pháp năm 2013, với quy định:
"Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" đã nhấn mạnh vai
trò của nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, tất cả quyền lực nhà
nước đều thuộc về nhân dân và do nhân dân ủy thác cho Quốc hội. Tính chất đại
diện thể hiện ở sự hình thành của Quốc hội - cơ quan duy nhất ở nước ta bao gồm
những người thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước do cử tri cả nước


bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Tính chất
đại diện cao nhất của Quốc hội còn thể hiện ở chỗ Quốc hội bao gồm những đại
biểu đại diện cho các thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo và các nhóm xã hội
khác; đồng thời là đại diện cho khối đại đoàn kết toàn dân trong cả nước.
* Ưu điểm : Nhờ thông qua những phần tử ưu tú đứng đầu các cơ quan đại diện
mà có được sự sáng suốt trong việc quyết định những vấn đề quan trọng trong đời
sống cộng đồng, giải quyết nhanh chóng và kịp thời những vấn đề cấp bách
* Nhược điểm : Quyền lực nhà nước được giao cho một số người đảm nhận và họ
có thể lợi dụng quyền lực đó, thoát ly khỏi đối tượng phục vụ là nhân dân, trở
thành những kẻ đặc quyền, đặc lợi, mưu lợi ích riêng cho mình, vi phạm đến lợi
ích của nhân dân và lợi ích của dân tộc, khiến cho nhân dân không được sử dụng
sức mạnh của Nhà nước để thực hiện lợi ích khách quan của mình, khiến bộ máy
cồng kềnh; chức năng của các tổ chức, cơ quan không rõ dẫn đến chồng chéo, lấn

sân nhau, không hiệu quả…
1.3. Quá trình hình thành và phát triển quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về
quyền lực chính trị của nhân dân trong thời kì đổi mới
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trước đây cũng như giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay, Đảng
ta luôn xác định dân chủ là một trong những mục tiêu và động lực cơ bản của cách
mạng Việt Nam. Bước vào công cuộc đổi mới, Đảng ta quyết định và thực hiện
phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là yêu cầu khách quan của công cuộc đổi
mới và phát triển đất nước.
Đại hội VI của Đảng (12/1986), đã nêu ra bài học lấy dân làm gốc là xuất phát từ ý
chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân, dựa vào lực lượng và sáng kiến của nhân
dân. Từ đây, cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ trở thành
cơ chế quản lý xã hội theo hướng dân chủ. Với phương châm “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra”.


Hội nghị Trung ương 6 (khóa VI), năm 1989 nêu 6 nguyên tắc cho quá trình đổi
mới và cũng chính là 6 nguyên tắc cho quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa.
Đại hội VII của Đảng (1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó xác định dân chủ hoa là một trong sáu đặc
trưng và bảy phương hướng cơ bản trong qúa trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta hiện nay
Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (1994), lần đầu tiên đặt vấn
đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do dân và vì
dân.
Hội nghị Trung ương 8 khóa VII, năm 1995 xác định tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện nhà nước mà trọng tâm là cải cách hành chính. Hội nghị nêu năm quan điểm
cho quá trình xây dựng, tăng cường pháp chế và quản lý xã hộ bằng pháp luật.
Đại hội VIII của Đảng (1996), lần đầu tiên đề ra cơ chế cụ thể thực hiện phương
châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra đối với chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước. Thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân thông qua các cơ quan
dân cử, các tổ chức chính trị - xã hội và các hình thức nhân dân tự quản, bằng các
quy ước, hương ước ở cơ sở trong khuôn khổ pháp luật.
Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII năm 1997, ra nghị quyết về phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh. Hội nghị
nhấn mạnh ba yêu cầu tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của
nhân dân thông qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
Đại hội IX của Đảng (2001), xác định dân chủ là một trong những nội dung của
cuộc đổi mới trong mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn
minh.
Hội nghị Trung ương 5 (Khóa IX) năm 2002 xác định đổi mới và nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị ở co sở xã, phường, thị trấn.
Hội nghị Trung ương 9, khóa XI, 2004, xác định đổi mới công tác tổ chức và hoạt
động của Quốc hội, cải cách hành chính nhà nước, tổ chức và hoạt động của cơ
quan tư pháp theo hướng ngày càng dân chủ hơn.


Đại hội X của Đảng 2006, tiếp tục phát triển nhận thức về dân chủ hóa theo hướng
ngày càng cụ thể, thiết thực và đầy đủ.
Đại hội XI của Đảng 91/2011), trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội xác định dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là một trong tám đặc trưng của xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Ngoài ra, Đại hội xác định dân chủ xã hội chủ
nghĩa là bản chất của dân tộc ta.
Những phương hướng, quan điểm và nhiệm vụ trên của Đảng về dân chủ và dân
chủ hóa ngày càng được bổ sung và phát triển, ngày càng được cụ thể hóa, thực thi
hóa.


Chương 2: Thực trạng thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở

Việt Nam hiện nay.

2.1. Thực trạng chung về thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở Việt
Nam hiện nay
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhân dân ta bị đắm chìm trong ách áp bức
của bọn phong kiến và thực dân, “một cổ hai tròng”, bị tước đoạt đến “trần trụi”
quyền con người và vì vậy, “dân chủ” là một cái gì đó thật xa vời đối với mỗi
người dân Việt Nam. Cách mạng tháng Tám thành công và sự ra đời của Đảng
Cộng Sản Việt Namđã thật sự làm thay đổi địa vị của dân tộc Việt Nam nói chung
và thân phận của mỗi người dân Việt Nam nói riêng. Lần đầu tiên trong lịch sử,
người dân Việt Nam đã được làm chủ đất nước và thực hiện quyền làm chủ thông
qua việc tự tay bỏ lá phiếu bầu ra những đại biểu tham gia Quốc hội. Đây là một
dấu mốc quan trọng trong việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Từ đó đến nay, nền dân chủ ở Việt Nam ngày càng được củng cố, hoàn thiện và
phát triển, đặc biệt từ khi Đảng ta khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước đến nay.
Đánh giá về những thành tựu trong việc thực hành dân chủ ở nước ta hiện nay, Đại
hội XI của Đảng đã khẳng định: “Đảng và Nhà nước tiếp tục đề ra nhiều chủ
trương, chính sách nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ, bảo đảm lợi ích của
nhân dân... Các cấp ủy đảng, chính quyền lắng nghe, tăng cường đối thoại với các
tầng lớp nhân dân, tôn trọng các loại ý kiến khác nhau. Dân chủ trong Đảng, trong
các tổ chức và xã hội được mở rộng, nâng cao; quyền làm chủ của nhân dân được
phát huy tốt hơn. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý các
hành vi vi phạm pháp luật được coi trọng”.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ một trong những nguyên tắc
cơ bản để chỉ đạo đổi mới là xây dựng nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa để phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã


hội không ngừng tiến lên. Trong những năm qua, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ
trương mới, không ngừng mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, từng

bước xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, từng bước xây dựng và
hoàn thiện nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng (12/1986) đã khẳng định: “ Dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra, đó là
nền nếp hằng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý
nhà nước của mình”. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước ở thời kì quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII thông qua năm 1991 đã
ghi: “ Dân chủ Xã hội chủ nghĩa là bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân”.
Đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã có những bổ sung, phát triển quan trọng về
dân chủ Xã hội chủ nghĩa. Đảng ta khẳng định: “ Dân chủ Xã hội chủ nghĩa vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn
thiện nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa, đảm bảo dân chủ được thực hiện trong thực tế
cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ
cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm. Nhà
nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người. Quyền và nghĩa vụ công dân do
Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ
công dân.
Ngày nay, quyền làm chủ của người dân Việt Nam đang được thực thi ngày càng
rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị đến kinh tế, văn hóa, tư tưởng.
- Thứ nhất, về chính trị: Người dân Việt Nam đã và đang được Đảng, Nhà nước tạo
mọi điều kiện để thực hiện quyền làm chủ về chính trị, đó là quyền bầu cử, ứng cử
đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; quyền giám sát, phản biện xã
hội; quyền khiếu nại, tố cáo; quyền được tham gia đóng góp ý kiến vào các công
việc trọng đại của đất nước... Tất cả các quyền dân chủ này đều được quy định
trong Hiến pháp và pháp luật. Chúng ta đang từng bước xây dựng và hoàn thiện


“Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, người dân tham gia ngày càng
nhiều, càng sâu vào các công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội thông qua hai
hình thức “dân chủ trực tiếp” và “dân chủ đại diện”. Quốc hội là cơ quan quyền lực

cao nhất và là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp, cơ quan đó là do nhân dân bầu
ra, đại biểu cho ý chí và nguyện vọng của toàn thể nhân dân.
Ý kiến của người dân đang ngày càng được xem trọng, các cuộc tiếp xúc cử tri
ngày càng tăng về số lượng và nâng cao về chất lượng, các cuộc chất vấn của đại
biểu Quốc hội với những người đứng đầu các cơ quan nhà nước ngày càng được
chú trọng và thu hút được sự quan tâm của đông đảo nhân dân thông qua các buổi
truyền hình, đối thoại trực tiếp, quy chế dân chủ ở cơ sở đang ngày càng được coi
trọng... Gần đây nhất, tại Hội nghị Trung ương 4 và Hội nghị Trung ương 6 khóa
XI, Đảng ta đã đặt ra yêu cầu thực hiện nghiêm túc đợt kiểm điểm phê và tự phê
trong các tổ chức đảng và bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở, đồng thời
thực hiện việc “lấy phiếu tín nhiệm” và “bỏ phiếu tín nhiệm” đối với những chức
danh được Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Đây là một biểu hiện rõ nét chứng tỏ
quyền làm chủ của nhân dân đang ngày càng được coi trọng và phát huy nhằm xây
dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Vì vậy, không thể nói hiện
nay người dân Việt Nam không được thực thi quyền dân chủ về chính trị được.
- Thứ hai, về kinh tế: Trong thời kỳ bao cấp, do mắc một số sai lầm mang tính chủ
quan, duy ý chí về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, nên một
số chủ trương, chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước đã làm hạn chế quyền làm
chủ về kinh tế của nhân dân. Khi đó, quyền làm chủ của người dân về tư liệu sản
xuất còn mang tính hình thức dẫn đến tình trạng “cha chung không ai khóc”, tư liệu
sản xuất về danh nghĩa là của toàn dân nhưng thực tế người dân lại không được
làm chủ thực sự những tư liệu sản xuất đó.
Tuy nhiên, từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã đưa lại cho
người dân ngày càng nhiều quyền dân chủ trong lĩnh vực kinh tế. Với chính sách


phát triển kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, tổ chức
quản lý và phân phối sản phẩm, người dân Việt Nam được tự do lựa chọn tham gia
vào các thành phần kinh tế phù hợp với điều kiện của bản thân, tự do sản xuất và
kinh doanh theo pháp luật. Người dân, một mặt, được làm chủ những tư liệu sản

xuất thuộc sở hữu nhà nước thông qua người đại diện của mình; mặt khác, được
Nhà nước thừa nhận quyền sở hữu hợp pháp những tư liệu sản xuất và tài sản từ
thu nhập chính đáng của cá nhân. Nhà nước thực hiện nhiều hình thức phân phối,
trong đó lấy phân phối theo lao động làm hình thức cơ bản; nhờ vậy, đã khắc phục
dần sự bất bình đẳng trong phân phối sản phẩm xã hội. Người dân được Nhà nước
tạo mọi điều kiện về pháp lý để làm giàu hợp pháp, được hỗ trợ về vốn, khoa học công nghệ, thị trường, đào tạo nghề, xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển
kinh tế, chú trọng giải quyết vấn đề an sinh xã hội, tích cực trong xóa đói giảm
nghèo... – Thứ ba, về văn hóa, tư tưởng: Trước đổi mới, cũng đã có lúc Đảng và
Nhà nước ta đã mắc phải một số sai lầm, nóng vội trong việc cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới nên đã vi phạm quyền làm chủ của nhân dân về văn hóa, tư tưởng.
Chẳng hạn, thái độ ứng xử mang tính cực đoan đối với tôn giáo, tín ngưỡng, áp đặt
“chủ nghĩa vô thần”, cực đoan trong hành xử đối với một số xu hướng văn hóa, lối
sống, thẩm mỹ mang tính khác biệt với các giá trị truyền thống... Điều đó đã ảnh
hưởng không tốt đến việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và đã gặp phải sự
phản ứng trái chiều từ phía người dân. Từ khi đổi mới đến nay, việc thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng thật sự được coi trọng
và đã có những thay đổi căn bản. Người dân Việt Nam hiện nay được bảo đảm
những quyền tự do căn bản về văn hóa, tư tưởng, như tự do tín ngưỡng và không
tín ngưỡng; tự do ngôn luận, tự do báo chí; tự do hội họp, tự do đi lại, học hành,
chữa bệnh, tự do sinh hoạt văn hóa, tinh thần lành mạnh; tự do phát huy những nét
văn hóa truyền thống của dân tộc mình... Đây chính là cơ sở để xây dựng một nền


văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Như vậy, không thể nói người dân Việt
Nam hiện nay không được thực thi quyền dân chủ về văn hóa, tư tưởng được.
Tựu trung lại, trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, và xã hội,
người dân Việt Nam đang được đảm bảo và thực thi quyền làm chủ của mình.
Chính điều đó đã và đang phát huy cao độ sức mạnh nội sinh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc nhằm nắm lấy thời cơ, vượt qua thách thức trong quá trình hội nhập,
xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Những kết quả đạt được trong việc thực thi quyền lực của nhân dân thông qua hai
phương thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện là không thể phủ nhận, đánh giá
bước tiến lớn trong công cuộc xây dựng đất nước “ dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh”.
2.1.1. Thực thi phương thức dân chủ trực tiếp (Direct Democrazy)
Dân chủ hóa trở thành mục tiêu và điều kiện của việc xây dựng nhà nước pháp
quyền ở nước ta. Với nhà nước pháp quyền, phương châm dân biết, dân làm, dân
bàn, dân kiểm tra, được thể chế hóa thành những quy định có tính pháp lý, quy
định nghĩa vụ của nhà nước trước nhân dân và của nhân dân trước nhà nước, xã
hội.
Việc thực thi dân chủ trực tiếp của Nhân dân Việt Nam được cụ thể hóa thông qua
bốn nội dung cơ bản: Thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao đông trong
việc trưng cầu dân ý, trong sáng kiến của công dân, sáng kiến tham gia hoạch định
thể chế, pháp luật và chính sách và thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao
động trong bãi nhiệm. Hiện nay, các cuộc đối thoại trực tiếp của nhân dân với cơ
quan Nhà nước cũng là hình thức biểu hiện của dân chủ trực tiếp như các cuộc đối
thoại trực tuyến giữa lãnh đạo đảng, nhà nước với nhân dân…….
- Trưng cầu dân ý là lấy ý kiến nhân dân và trưng cầu ý dân trong bầu cử: Trường
hợp tổng tuyển cử toàn quốc bầu Quốc hội hoặc bầu cử đại biểu Hội đồng địa
pương, nhân dân trực tiếp quyết định lựa chọn người đại diện cho mình tham gia


×