Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Mon quyen luc chinh tri va cam quyen PHẠM TRÙ QUYỀN lực CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208 KB, 30 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền lực và quyền lực chính trị là những phạm trù khá mới mẻ, tuy đã
được triển khai nghiên cứu nhưng cho đến nay vẫn chưa có một công trình
nào nghiên cứu tương đối sâu sắc và toàn diện về nó. Nhiều vấn đề xung
quanh phạm trù quyền lực chính trị như: nguồn gốc, bản chất, xu thế vận
động… vẫn chưa được làm rõ, sâu sắc. Đây là vấn đề mà khoa học chính trị
phải giải quyết, lấy đó làm cơ sở để nghiên cứu chính trị ở cấp độ lý thuyết
cũng như vấn đề thực tiễn.
Vấn đề cơ bản nhất, quan trọng nhất của chính trị là nắm quyền lực
chính trị. Vấn đề này được nghiên cứu khá rộng rãi. Nó được đề cập tg các tư
tưởng, các học thuyết chính trị, các học thuyết quản lý và các công trình
nghiên cứu chính trị xã hội khác. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu nghiên
cứu về nó thực sự toàn diện sâu sắc lại quá ít. Trong tác phẩm “Bàn về khế
ước xã hội” – J. Rutxô đã có phần bàn về vấn đề này. Ông đã đặt ra và lý giải
các vấn đề như: “Công ước xã hội”, “Quyền lực tối cao”, “Chủ quyền tối
cao”… Đặc biệt ông đã tách bạch và phân biệt “quyền” và “lực” khi lý giải về
quyền lực. Tác giả Bertrand Russet có tác phẩm “Quyền lực” gây chấn động
trong giới đọc giả, đặc biệt là các nhà nghiên cứu chính trị, các nhà đương
quyền khi ông đưa ra ý kiến mới mẻ, táo bạo, vượt trước thời đại. Ông đề cập
tới nhiều dạng quyền lực trong xã hội nhưng chưa tập trung làm rõ quyền lực
chính trị. Alvin Toffler có tác phẩm “Thăng trầm quyền lực”, trong đó ông
nêu lên các phương thức cơ bản để đạt được quyền lực. Các nhà kinh điển
Mác, Ănghen, Lênin chưa có tác phẩm nào bàn riêng về quyền lực mặc dù các
tác phẩm của các ông đã ngầm chứa đầy tư tưởng quyền lực và sử dụng quyền
lực trong việc giải phóng con người, giải phóng giai cấp, quốc gia, dân tộc.
Chính trị ra đời khi loài người phân chia giai cấp và xuất hiện Nhà
nước. Nội dung cơ bản của chính trị là giành, giữ, sử dụng quyền lực Nhà


nước, quyền điều hành, tổ chức và quản lý xã hội, bảo vệ lợi ích giai cấp


mình. Chính vì vậy mà trong lịch sử nhân loại, quyền lực luôn là vấn đề trung
tâm. Đã từ lâu khi mà con người ý thức được tầm quan trọng của quyền lực,
loài người bỏ ra nhiều công sức phân tích, lý giải tìm hiểu về nó với mong
muốn là tìm ra phương thức kiểm soát và sử dụng nó một cách hiệu quả nhất.
Ở Việt Nam chính trị học là môn khoa học mới, nên các vấn đề về
quyền lực và quyền lực chính trị cũng chưa được bàn tới. Tuy nhiên đã có
một số công trình, bài viết về vấn đề này. Giáo sư Phạm Quang Ngọc có bài
“Quyền lực – pháp luật số 4/1992. Công trình này đã khái quát vấn đề quyền
lực và quyền lực chính trị cùng các nội dung nghiên cứu khác. Các tác giả
cuốn “chính trị học đại cương” – NXB Chính trị quốc gia – 1999 do GS, TS
Dương Xuân Ngọc chủ biên có bài về “Quyền lực” nhưng chủ yếu mổ xẻ
phân tích khía cạnh quyền lực chính trị. GS Bùi Thanh Quất có bài suy nghĩ
thêm về “quyền lực chính trị như một phạm trù khoa học” – Đăng trên Tạp trí
Triết học tháng 10/1996. Trong bài này tác giả đã làm rõ các khái niệm liên
quan tới quyền lực chính trị để từ đó làm rõ khái niệm quyền lực chính trị.
Đây là công trình bước đầu mổ xẻ, phân tích đi sâu nghiên cứu nội dung
phạm trù quyền lực chính trị.
Tóm lại, cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên
cứu toàn diện, sâu sắc về quyền lực chính trị. Nhiều vấn đề như: Nguồn gốc,
bản chất… vẫn còn nhiều điều phải bàn. Đây là những vấn đề mà khoa học
chính trị phải giải quyết. Vì những lý do trên, em chọn đề tài: “Phạm trù
quyền lực chính trị” làm đề tài tiểu luận kết thúc học phần môn “Quyền lực
chính trị” với mong muốn bước đầu tìm hiểu rõ nội dung xung quanh phạm
trù này, đồng thời tạo cơ sở lý thuyết phục vụ nhiệm vụ chuyên môn của
mình, nâng cao trình độ nhận thức.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
- Mục tiêu: Đề tài khái quát phạm trù quyền lực chính trị, làm rõ nội
dung cơ bản nhằm đưa kiến thức, hiểu biết tương đối toàn diện và cơ bản về
2



phạm trù này. Qua đó làm cơ sở nghiên cứu các lĩnh vực có liên quan hoặc
phân tích chỉ thực tiễn chính trị.
- Nhiệm vụ: Phân tích làm rõ một số khái niệm liên quan như chính trị,
quyền lực, quyền uy, từ đó làm rõ khái niệm quyền lực chính trị.
Xác định nguồn gốc, bản chất, tính chất, phương thức tổ chức và kiểm
soát của quyền lực chính trị.
Phân tích quyền lực chính trị trong thực tiễn và các yếu tố ảnh hưởng.
3. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Đề tài chủ yếu đi sâu phân tích các vấn đề lý luận lý thuyết, tập trung
nghiên cứu các vấn đề cơ bản của phạm trù chính trị học, không có điều kiện
đi rộng tới tất cả các yếu tố có liên quan.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, các phương pháp
khác: lôgíc – lịch sử; phân tích tổng hợp; quy nạp diễn dịch; trừu tượng hoá,
khái quát hoá. Trong đó là phương pháp trừu tượng và khái quát hoá.
5. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài sẽ bổ sung trí thức cho phạm trù quyền lực chính trị để đưa tới
sự nhận thức chuyên ngành. Tạo ra cơ sở lý thuyết cho việc giải quyết các vấn
đề thực tiễn.
Khắc sâu kiến thức cho sinh viên chuyên ngành chính trị.
6. Cấu trúc của đề tài
Đề tài gồm 3 chương, ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục
tài liệu tham khảo: tổng thể gồm ? trang.

3


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I:

QUYỀN LỰC VÀ QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ
1. Quan niệm về quyền lực và quyền lực chính trị
Một trong những vấn đề cơ bản nhất, quan trọng nhất của chính trị đó
là vấn đề quyền lực (tức xoay quanh vấn đề dành, giữ và sử dụng) từ rất sớm
con người đã ý thức được các vấn đề chính trị, họ cũng đã đề cập tới vấn đề
quyền lực.
Thời cổ đại Arixtốt đã nghiên cứu vấn đề quyền lực và xem xét những
đặc điểm của nó. Ông cho rằng: quyền lực tồn tại trong mọi sự vật hiện tượng,
không chỉ trong thế giới cảm giác mà cả trong thế giới vô cảm. Đối với Nhà
nước và quyền lực Nhà nước, ông coi đó là kết quả của sự thoả thuận giữa
mọi người với nhau dựa trên ý chí chung của họ. Còn theo Platon chính trị là
nghệ thuật các trị những con người với sự bằng lòng của họ. Cơ sở đảm bảo
cho sự cai trị là pháp quan, những nhà thông thái (giới tinh hoa chính trị).
Ông đề cao trí tuệ và coi đó là một thứ quyền lực trong chính trị. Ở phương
Đông (tiêu biểu là Trung Quốc), vấn đề quyền lực được đặt ra khá sớm. Khi
mà “thế quyền” chưa đủ để cai trị, người ta mượn uy lực tuyệt đối bao trùm
thiên hạ, Khổng Tử (một nhà tư tưởng lớn của Trung Quốc thời kỳ cổ đại)
cho rằng: Trong chính trị đạo đức là pháp luật tối thượng. Đạo đức là cái đã
tiềm ẩn trong những người quân tử - Nhà chính trị, nó như một thứ đặc ân trời
ban cho, chỉ cần tu thân là có thể đạt được, khi “tu” được “thân”, có được đạo
đức của người cai trị như gió, đạo đức của người cai trị như cỏ, gió thổi cỏ sẽ
ướt theo. Một cách thực tế hơn, Hàn Phi Tử cho rằng để có quyền lực “có thế”
thì bậc vua chúa cần nắm vững hai điều mà ông gọi là “nhị bính” (2 cái cán)
là thưởng và phạt (kinh tế và bạo lực) sẽ khống chế người khác, buộc người
khác theo ý mình.
Thời trung cổ ở phương Tây, các nhà thần học như: Oguyxtanh, Tomat
Đacanh đã phát triển tư tưởng về quyền lực. Con người do bản chất tự nhiên
4



cần đến một xã hội và xã hội cần tới một quyền uy, nhưng quyền uy nơi trần
thế lại phụ thuộc quyền uy nơi thượng đế. Từ đó ông kết luận: Nhà nước của
trần gian phải của thượng đế, phải phụ thuộc vào nhà thờ. Như vậy quyền lực
của thượng đế là tối thượng, chi phối các hoạt động của con người.
Song thời kỳ khai sáng, các nhà tư tưởng như: Mongtexkia; J Rutxto
đưa ra quan niệm về “quyền tối cao” đó là ý chí chung của những thành viên
sống trong một quốc gia. Các thành viên đó phải phục tùng “ý chí chung”, để
đổi lại họ được tự do, và không bị xâm phạm. “Ý chí chung” - quyền tối cao
đó điều khiển các lực lượng Nhà nước nhằm phục vụ lợi ích chung.
Tuy đã có nhiều quan niệm về quyền lực nhưng cho tới nay vẫn chưa
có một định nghĩa thật chính xác, súc tích, khái quát được vấn đề để mọi
người chấp nhận. Nhà chính trị học Mỹ K Đantia cho rằng “nắm quyền lực có
nghĩa là buộc mọi người khác phải phục tùng”

(1)

. Còn nhà chính trị học Mỹ

khác là Lesbi Lipson xem quyền lực là khả năng đạt tới kết quả nhờ một hành
động phối hợp

(2)

. Nhà chính trị học A Gra – zia cho rằng “quyền lực là khả

năng ấn định những quyết định có ảnh hưởng đến thái độ của con người”.
Bertranh Russel cho rằng: “ta có thể cho rằng quyền lực là sản phẩm của
những hiệu quả có chú ý” (3). Theo từ điển Bách khoa triết học thì: “Quyền lực
là khả năng thể hiện ý chí của mình có tác động đến hành vi phẩm hạnh của
người khác nhờ một phương tiện nào đó như kinh tế, chính trị, Nhà nước, gia

đình, uy tín…”

(4)

. Gần đây nhà tương lai học Alvin Toffler – người Mỹ đã

cho rằng: Bạo lực, của cải và trí thức là ba dạng phổ biến và cũng là ba
phương thức cơ bản để đạt quyền lực. Trong ba loại đó thì tri thức được coi là
loại có phẩm chất cao nhất và là phương thức cơ bản để đạt quyền lực trong
tương lai. Bạo lực, của cải mang lại quyền lực cho kẻ mạnh, giàu có. Còn với
trí tuệ thì người nghèo cũng có thể dành được quyền lực. Cách luận giải đó
(1) (2)

, Chính trị học đại cương – NXB Chính trị quốc gia – 1999 – trang 105.
Berthranh Russel – Quyền lực – NXB Hiện đại – Sài Gòn 1972.
(4)
Từ điển Bách khoa triết học – NXB Xô Viết – Matxcova – 1989.
(3)

(
(

5


của Alvin Toffler nêu lên được tính toàn diện của vấn đề đó là những yếu tố
hợp lý. Song ông không nhận thấy tính chất quyết định của sở hữu tư liệu sản
xuất đối với quyền lực. Tuy không đi sâu vào nghiên cứu vấn đề quyền lực và
do đó chưa đưa ra được một định nghĩa có tính chất xác định, nhưng từ góc
độ duy vật lịch sử các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin đã đề cập tới vấn

đề quyền lực từ trong bản chất của nó. Đó là trong xã hội có giai cấp, giai cấp
nào nắm được quyền kiểm soát tư liệu sản xuất thì giai cấp đó nắm được
quyền điền khiển, chi phối các lĩnh vực cơ bản của xã hội từ kinh tế, chính trị
đến văn hoá, tư tưởng tinh thần. Cách tiếp cận này là chìa khoá cho ta nghiên
cứu các vấn đề quyền lực một cách khoa học và hữu hiệu.
2. Một số khái niệm liên quan tới quyền lực chính trị
2.1. Quyền lực
Hiện nay rất có nhiều cách định nghĩa khác nhau về quyền lực, tuỳ theo
giác độ nghiên cứu và tuỳ theo ý kiến chủ quan của nhà nghiên cứu. Nhưng
theo cuốn “Chính trị học đại cương” – Khoa chính trị học, Học viện Báo chí –
Tuyên truyền, xuất bản 1999 thì quyền lực được hiểu là khái niệm kép hay
còn được hiểu là sự thống nhất nghĩa gì, được ghép từ hai khái niệm đơn lẻ đó
là “quyền” và “lực”, có nghĩa là để hiểu được quyền lực chúng ta phải hiểu
được “quyền” và “lực”.
2.1.1. Quyền
“Quyền” là một khái niệm chỉ mối quan hệ có tính xã hội giữa người
với người, trong đó có người ý thức tới nhu cầu của mình rằng những nhu cầu
ấy phải được thoả mãn với sự thoả mãn của người khác. Như thế khi nói tới
quyền lực là phải nói tới mối quan hệ cộng đồng, xã hội, do đó quyền này
được tồn tại với các điều kiện xã hội xác định, nhất là phải nói tới sự thừa
nhận của con người trong cộng đồng đối với nó (ví dụ quyền bất khả xâm
phạm về mặt cơ thể…).
2.1.2. Lực

6


J. Rutxo cho rằng: “lực là sức mạnh vật lý. Tôi chẳng thấy chút đạo đức
nào ở trong lực. Chịu theo lực là một cử chỉ bắt buộc chứ đâu phải tự
nguyện”. Đúng vậy, chỉ lực là sức mạnh vật lý là khái niệm dùng để chỉ một

thuộc tính của bất kỳ một hệ vật chất nào xét trong tương tác với hệ vật chất
khác có khả năng duy trì sự tồn tại hoặc là khả năng tạo ra sự biến đổi. Như
thế lực là cái vốn có trong mỗi hệ vật chất nhưng lại được hiện hình trong
tương tác, dù hệ vật chất ấy có quy mô lớn nhỏ bất kỳ. Tuỳ ở hình thức của hệ
tương tác (vận động) mà người ta nói tới các loại lực khác nhau trong xã hội
cũng là những kết cấu vật chất xác định và do vậy cũng tiềm ẩn các lực (sức
mạnh) nhất định.
Từ những phân tích trên ta đi đến định nghĩa: Quyền lực là quyền của
một người hay một nhóm người nào đó trong xã hội được sử dụng sức mạnh
phục vụ cho việc thực hiện các nhu cầu của mình trên cơ sở được thừa nhận
của cộng đồng xã hội. Như vậy, khi nói tới quyền lực là phải nói tới hai yếu tố
“quyền” và “lực” bởi nhiều khi có lực lại không có quyền hoặc ngược lại, có
quyền nhưng lại không có lực tương ứng. Với ý nghĩa đó, trong xã hội vốn
tồn tại nhiều loại quyền lực khác nhau như quyền lực kinh tế, quyền lực chính
trị, quyền lực đạo đức, quân sự, trí tuệ… để có được quyền lực thì sự thừa
nhận của người khác là vô cùng quan trọng, thể hiện trong sự “phục tùng”.
Điều đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì vậy, một số yếu tố thuộc về quyền
uy nhưng vẫn được người ta thừa nhận phải phục tùng như quyền lực, ví dụ
như lực của tự nhiên, thần quyền, thế quyền…
2.2. Quyền uy
Như đã phân tích ở trên ta thấy quyền uy cũng có thể dẫn tới quyền lực
(ngoài của cải, bạo lực…), do đó quyền uy luôn đi liền với quyền lực, quyền
uy là cái mà nhờ đó con người phải tự nguyện phục tùng. Không chỉ ở người
mà cả thế giới tự nhiên cũng mang quyền uy. Ví dụ như núi lửa, sóng thần…
đều làm cho con người đều phục tùng “ông trời”. Thần thánh, chúa trời,
những lực lượng siêu nhân cũng là một dạng quyền uy mà con người phải
7


phục tùng tự nguyện. Tuy nhiên, phổ biến nhất trong đời sống xã hội vẫn là

các dạng quyền uy do con người tạo nên và không ai có thể thoát khỏi sự chi
phối của nó, bởi lẽ trong xã hội con người không đứng đơn lẻ mà luôn đứng
trong mối quan hệ xác định. Ví dụ như ở cơ quan phải tuân thủ các quy định
của tổ chức, ở nhà thì chấp hành về nề nếp, đi học thì phải chấp hành nội quy
của nhà trường… Tóm lại, quyền uy là dạng uy lực phổ biến trong tự nhiên
cũng như trong xã hội. Mỗi cá nhân trong xã hội có thể chịu ít nhiều mối quan
hệ với quyền uy nhưng không thể là không có. Đặc điểm của quyền uy là sự
phục tùng tự nguyện, tự giác, không có sự cưỡng bức bắt buộc. Chính vì vậy,
Anghen cho rằng quyền uy lấy sự phục tùng làm tiền đề.
2.3. Quyền lực chính trị
2.3.1. Chính trị
Chính trị là một khái niệm mà chúng ta thường gặp nhưng lại có nhiều
cách định nghĩa khác nhau. Theo cuốn “Chính trị học đại cương” – Khoa
Chính trị học, Học viện Báo chí – Tuyên truyền, NXB chính trị quốc gia 1999
thì “chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia, các
lực lượng xã hội trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị mà tập
trung ở quyền lực Nhà nước (1). Theo Từ điển Anh - Việt (NXB chính trị quốc
gia 1993) thì Politic được dịch là chính trị với các nghĩa: 1.a – Hoạt động
chính trị, vấn đề chính trị; b – quan điểm chính trị, chính kiến; c - cuộc đấu đá
giữa các đảng phái; 2 - Nắm quyền hành hay lợi thế một nhóm trong tổ chức (2).
Còn theo tiếng Hán cổ, thì chính trị không trực tiếp liên quan đến Nhà nước,
quan hệ giai cấp, đảng phái… Nhưng nó cho ta một nghĩa bao hàm rộng lớn:
chính trị là điều hành, quản lý xã hội ổn định.
Tuy đã có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chung quy lại các định
nghĩa đã đề cập đến Nhà nước, đảng phái giai cấp, xã hội do đó chúng ta có
thể hiểu. Chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, đảng phái, các nhóm lợi ích
trong việc giành, giữ và thực thu quyền lực Nhà nước để điều hành, quản lý
(1)
(2)


Chính trị học đại cương – NXB Chính trị quốc gia 1999.
Trang 1258 - Từ điển Anh - Việt - NXB Chính trị quốc gia 1993.

8


xã hội, các giai cấp, các nhóm lợi ích mới thực hiện được mục tiêu và lợi ích
giai cấp đó. Do vậy, thực chất của chính trị là đấu tranh giữa các giai cấp, các
nhóm lợi ích trong xã hội để giành, giữ và sử dụng quyền lực Nhà nước.
2.3.2. Quyền chính trị
Quyền chính trị là quyền của những thành viên trong xã hội được tham
dự vào việc tổ chức, điều hành, quản lý xã hội theo ý của mình. Trong một
Nhà nước cụ thể, quyền chính trị được Nhà nước quy định hoặc thừa nhận về
mặt Nhà nước. Tuy vậy, có những Nhà nước độc quyền, độc tài không thừa
nhận hoặc phủ quyết những quyền đó vẫn tiềm ẩn trong mỗi thành viên như
một “đặc quyền” của con người.
Trong lịch sử hình thành và phát triển của lịch sử loài người thì mỗi
một quốc gia dân tộc được xác định bởi nhiều yếu tố: ngôn ngữ, lãnh thổ, dân
cư, văn hoá nhưng hai yếu tố cốt lõi là lãnh thổ và dân cư sống trên lãnh thổ
đó. Chính những con người sống trên lãnh thổ mới tạo nên quý tộc gia với các
quan hệ xã hội, kinh tế, chính trị như vậy khi nói tới chính trị là phải nói tới
các thành viên của quốc gia (tức các chủ thể của quyền chính trị). Họ là chủ
nhân của xã hội nên họ có quyền được sống, quyền tự do, quyền được quyết
định các công việc của mình, trong đó quan trọng nhất là quyền chính trị
(quyền tổ chức, điều hành, quản lý xã hội). Nếu được thừa nhận thì người ta
có quyền thực hiện quyền chính trị một cách hợp pháp. Còn không được thừa
nhận thì người ta tiến hành đấu tranh để đến khi quyền chính trị được thừa
nhận. Đây là một cuộc đấu tranh lâu dài, bền bỉ, gian khổ của nhân loại. Cho
tới nay thì cuộc đấu tranh đó đã giành được những thắng lợi nhất định.
2.3.3. Lực chính trị

Trong cuộc sống hiện thực, giai cấp thống trị thường phải sử dụng biện
pháp cưỡng chế, ép buộc đối với các giai cấp khác để đạt được mục đích
chính trị (tức là buộc giai cấp khác phải phục tùng theo ý chí của mình). Đó
chính là sức mạnh chính trị, ngoài sức mạnh vốn có tự nó, còn có sức mạnh
được tổng hợp từ các lực khác nhau như sức mạnh kinh tế, bạo lực, trí thức để
9


phục vụ mục tiêu chính trị cụ thể. Ví dụ như các nước lớn: Mỹ, Nhật…
thường gây sức ép với các nước khác.
Qua các ý kiến đã trình bày ở trên chúng ta có thể tổng kết lại như sau
“quyền lực chính trị là quyền sử dụng sức mạnh của một hay liên minh giai
cấp, tập đoàn xã hội để đạt mục đích thống trị xã hội”

(1)

. Chủ thể của quyền

lực ở đây có thể là một cá nhân, một nhóm xã hội, một đảng phái hay một giai
cấp khi một chủ thể có lực (sức mạnh) nhưng không có quyền về mặt chính trị
thì chủ thể đó hoặc ngầm ngầm hoặc công khai dùng sức mạnh này trong các
mối quan hệ và hoạt động của mình trong các đời sống xã hội có liên quan tới
lĩnh vực chính trị. Kết cục hoặc là sức mạnh chính trị ấy bị lực lượng chính trị
đối lập ấy phải thừa nhận nó về mặt Nhà nước. Như vậy, trong một Nhà nước
có thể đối lập nhau hai loại quyền lực: quyền lực chính trị của giai cấp thống
trị (giai cấp cầm quyền) và quyền lực chính trị của các giai cấp ấy hay các
nhóm không cầm quyền. Giai cấp thống trị tổ chức ra bộ máy Nhà nước và
dùng bộ máy này thực thi quyền lực chính trị của mình. Khi ấy, quyền lực
chính trị trở thành quyền lực Nhà nước và do vậy, quyền lực Nhà nước đương
nhiên trở thành công cụ của giai cấp thống trị. Ngược lại giai cấp không thống

trị thì dùng quyền lực chính trị của mình để chống lại sự áp đặt của giai cấp
thống trị bằng các hình thức như bãi công, biểu tình, gây áp lực chính trị, bạo
lực đòi giai cấp thống trị phải thay đổi trật tự xã hội, tổ chức và quản lý xã hội
cho phù hợp với lợi ích của giai cấp mình. Trong trường hợp giai cấp bị trị là
giai cấp đối kháng với giai cấp thống trị, có lợi ích cơ bản là đối kháng và
không dung hoà với lợi ích của giai cấp thống trị thì giai cấp bị trị dùng sức
mạnh chính trị, quyền lực chính trị của giai cấp mình để đấu tranh lật đổ sự
thống trị của giai cấp thống trị, giai cấp cầm quyền, thiết lập Nhà nước của
mình và dùng sức mạnh đó để tổ chức xã hội phù hợp với lợi ích của họ. Khi
ấy quyền lực chính trị của giai cấp thống trị mới lên trở thành quyền lực Nhà
nước mới.
(1)

Tìm hiểu môn học chính trị học – NXB lý luận, chính trị - GS Dương Ngọc Xuân – TS Lưu Văn An.

10


Thực tế lịch sử xã hội đã chứng minh điều đó một cách hết sức sinh
động. Trong suốt chiều dài lịch sử là cuộc đấu tranh không ngừng giữa các
lực lượng chính trị của các giai cấp khác nhau, đối kháng nhau nhằm xác lập
quyền lực chính trị của mình trong Nhà nước hiện hữu và cao hơn là chuyển
hoá quyền lực chính trị ấy thành quyền lực Nhà nước nhằm xác lập duy trì và
thực hiện một kiểu tổ chức xã hội sao cho phù hợp nhất với lợi ích của giai
cấp mình, buộc các giai cấp khác phải chấp nhận. K. Mác và Anghen đã chỉ
rõ “quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó là bạo lực có tổ chức của một
giai cấp để trấn áp một giai cấp khác” (1).
Tóm lại, những phân tích trên đây về quyền uy, quyền lực và quyền lực
chính trị (chính trị, quyền chính trị và lực chính trị) đã có tác dụng làm rõ khái
niệm về quyền lực chính trị - là chìa khoá để nghiên cứu phạm trù này một

cách tương đối đầy, đủ rõ nét.
CHƯƠNG II:
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHẠM TRÙ QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ
1. Nguồn gốc của quyền lực chính trị
Quyền lực là mối quan hệ xã hội đặc biệt giữa các chủ thể của đời sống
xã hội. Mà chủ thể của xã hội lại chính là con người. Điều này có nghĩa là
quyền lực chính trị hầu như chi phối các mặt của đời sống xã hội bởi ở đâu có
con người thì ở đó có mối quan hệ chi phối (tức là quyền chính trị, quan hệ
chính trị). Tuy nhiên, quyền lực không phải là cái hiện hình tinh bạch để
chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy như các sự vật mà quyền lực chính trị chỉ
hiện hữu trong các mối quan hệ giữa con người. Và tất nhiên, con người mới
là chủ thể của quyền lực chính trị và tạo ra quyền lực chính trị. Nhưng trong
các mối quan hệ chính trị ấy thì quyền lực xuất phát từ phía nào, từ chính phủ,
bộ máy Nhà nước hay từ nhân dân? Nếu là từ nhân dân thì sao tất cả các
quyết định, chính sách đều xuất phát từ chính phủ mà nhân dân chỉ là người bị
động, phục tùng, có khi còn bị khống chế, bóp nghẹt trong một số chính phủ
(1)

Tìm hiểu môn chính trị học – NXB Lý luận chính trị - Tr 27 (GS. Dương Xuân Ngọc – TS Lưu Văn An).

11


độc tài, phát xít. Còn nếu là từ chính phủ thì tại sao nhân dân lại có thể thay
thế, lật đổ chính phủ khi chính phủ đó không còn đảm nhận được chức trách
của mình. Ngày nay ở các nước thường nêu cao khẩu hiệu dân quyền, dân
chủ, đòi quyền lực chính trị cho nhân dân điều đó có đúng không? Để làm
sáng tỏ vấn đề chúng ta cần tìm hiểu nguồn gốc của quyền lực chính trị.
Chúng ta không ai có thể phủ nhận “con người – sinh vật có tính xã
hội” (1). Đây là mệnh đề xuất phát khi nghiên cứu con người và các vấn đề con

người. Cho dù xã hội loài người có phát triển đến đâu đi chăng nữa thì con
người vẫn mang bản chất đó. Phần sinh vật thì đã rõ. Con người là một động
vật bậc cao, nhưng phần xã hội không phải ngay từ đầu đã có mà trải qua một
quá trình lâu dài của sự phát triển. Do đó, có thể nói phần xã hội là phần tiến
hoá của con người về mặt xã hội. Theo thời gian, sự phát triển, chất xã hội
càng được khẳng định. Vì vậy có thể nói chất “người” của con người được
khẳng định bằng chất xã hội của nó.
Lúc đầu cũng như thú vật, bản năng sinh tồn của mình con người phải
sống thành từng bầy đàn, bởi khi mà trước giới tự nhiên con người còn nhỏ
bé, còn như những loài vật khác con người cũng không hơn gì chúng, thậm
chí còn có thể bị các loài thú khác lấn át, tấn công. Do vậy theo bản năng, để
bảo tồn nòi giống và phát triển con người phải sống thành từng bầy đàn (xã
hội). Xã hội dù đã tạo cho con người sức mạnh bởi nó là sức mạnh tổng hợp
của những cá nhân. Nếu loài vật chỉ biết săn mồi hay tự vệ đơn lẻ thì loài
người đã biết kết hợp nhiều người thành tổ, nhóm để kiếm sống hay tự vệ một
cách có hiệu quả hơn. Quá trình phát triển của con người, vì vậy được phản
ánh bằng trình độ, tổ chức bầy đàn (hay trình độ tổ chức xã hội). Theo sự phát
triển tự nhiên, quá trình thoát thai từ loài vật sang loài người là quá trình con
người bước từ cái đơn lẻ (tự nhiên) sang cái tập đoàn (xã hội). Với ý nghĩa đó,
Anghen cho rằng: “con người ta lúc bước ra khỏi loài động vật như thế nào
thì họ cũng bước vào lịch sử như thế ấy” (1). Như vậy cho dù cầu sinh tồn mà
(1)
(1)

Từ điển triết học. NXB Tiến bộ Matxcova 1986.
C, Mác – Anghen, toàn tập - Tập 20 – NXB CTQG – 1994.

12



con người tạo ra xã hội hay nói cách khác xã hội là một kết quả tự nhiên của
sự phát triển loài người. Khi tạo ra xã hội con người không ý thức được rằng
mình tạo ra cái khác mình để rồi nương thân vào đó. Mà tạo ra xã hội là con
người tạo ra chính mình. Con người không đi vào xã hội khi đã tạo ra xã hội
mà ngay từ đầu con người đã thuộc về xã hội. Xã hội như là môi trường thứ
hai của con người ngoài môi trường tự nhiên. Chính vì vậy trình độ tổ chức xã
hội của con người đánh dâu sự phát triển của con người, và sức mạnh của con
người càng được nhân lên cùng với sự phát triển của xã hội. Sự phát triển của
xã hội vừa chứng tỏ sự tiến bộ của con người mà xã hội là kết quả tự nhiên
của sự tiến bộ đó, nhưng mặt khác nó cũng nói lên rằng con người cần có tổ
chức, cần có xã hội. Theo sự phát triển tự nhiên đó thì thị tộc, bộ lạc là những
hình thức tổ chức xã hội đầu tiên của loài người trước khi có Nhà nước. Con
người chinh phục tự nhiên là nhờ ý thức cộng đồng đó, tạo nên một khối
thống nhất. Sức mạnh cộng đồng là sức mạnh của tổ chức hay sức mạnh được
tổ chức – đây mới là yếu tố nói lên sức mạnh của cộng đồng xã hội loài
người. Trong thời kỳ này cơ quan quyền lực cao nhất đó là hội đồng. Hội
đồng là đại hội dân chủ các thành viên. Thành viên, trai cũng như gái đều có
quyền bầu cử như nhau, hội đồng bầu ra bãi miễn các tù trưởng, thủ lĩnh quân
sự hay các chức sắc của thị tộc. Hội đồng cũng là nơi quyết định các việc hệ
trọng của thị tộc như bảo vệ thị tộc, giải quyết các xung đột nội bộ, chăm lo
bảo vệ nguồn nước hay tổ chức “trị thuỷ” như các công xã phương Đông.
Tóm lại hội đồng là cơ quan quyền lực công cộng của cộng đồng được tổ
chức để thực hiện các chức năng xã hội vì lợi ích của cộng đồng thị tộc. Cơ sỏ
để bảo đảm quyền lực và sự tồn của cộng đồng, là sự đóng góp xây dựng và
sự phục tùng tự nguyện của mỗi thành viên, tuyệt nhiên không có sự cưỡng
bức hay áp đặt nào cả. Được sự thống nhất của ý chí chung, cộng đồng thị tộc
chỉ có một thứ quyền lực ngự trị đó là quyền lực công cộng chia đều cho mỗi
thành viên xã hội.

13



Khi sản xuất tăng nhanh, của cải có dư thừa, một bộ phận những người
có chức sắc trong thị tộc chiếm số của cải dư thừa đó làm của riêng, bộ phận
đó trở thành phần quý tộc bị thu hẹp, mở rộng phạm vi đó là nhu cầu của sự
phát triển, điều đó dẫn tới chiến tranh giữa các thị tộc, bộ lạc với nhau. Lúc
đầu chỉ là bảo vệ hay là mở rộng đất đai, dần dần nó trở thành cướp bóc. Vai
trò của thủ lĩnh quân sự ngày một tăng lên, uy thế, quyền lực ngày càng lớn.
Tập quán bầu hay chọn những người thừa kế chức vụ đó dần dần trở thành
nguyên tắc kế thừa cha truyền con nối. Tù trưởng hay các chức sắc trong thị
tộc cũng được chuyển tiếp theo nguyên tắc đó. Tập quán giao chức vụ của thị
tộc cho một số gia đình có uy tín nay đã biến thành cái “quyền” phải có đối
với họ. Những gia đình ấy cộng với sự giàu có của họ đã tập hợp thành một
tầng lớp riêng biệt đứng đối lập với tầng lớp còn lại của thị tộc. Một tầng lớp
mới đã xuất hiện đồng nghĩa với sự thay đổi về chất đã diễn ra ngay trong
lòng thị tộc. Những cơ quan của tổ chức thị tộc dần dần tách khỏi gốc rễ của
chúng trong nhân dân, trong thị tộc. Toàn bộ tổ chức của thị tộc trở thành,
chuyển hoá thành các đối lập với nó, từ chỗ là một tổ chức nhằm giải quyết tự
do những công việc của mình trở thành một tổ chức để áp bức láng giềng. Do
đó các cơ quan độc lập lúc đầu là công cụ của ý chí nhân dân, đã trở thành
những cơ quan độc lập, nhằm thống trị và áp bức chính ngay nhân dân. Sự
chuyển hoá và biến chất đó đã đánh dấu bước tan rã của thị tộc, mầm mống
Nhà nước xuất hiện và nó đã xuất hiện để thay thế thị tộc. Hội đồng thị tộc
cùng với các chức vụ của nó từ chỗ được bầu ra một cách dân chủ đã trở
thành cái được chiếm đoạt. Cơ quan quyền lực tối cao của thị tộc - một cơ
quan quyền lực công cộng của cộng đồng đã biến thành cơ quan quyền lực
chính trị - một cơ quan quyền lực đặc biệt của một số ít người dùng để áp bức
số đông còn lại. Sự phục tùng tự nguyện của các thành viên đối với quyền lực
công cộng không còn nữa và thay thế vào đó là sự cưỡng chế, tuân theo của
quyền lực chính trị nhờ có sự hỗ trợ của quân đội, cảnh sát và nhà tù. Nhà

nước – cơ quan thống trị giai cấp đã xuất hiện với đúng nghĩa của nó.
14


Đến đây chúng ta có thể khẳng định: Quyền lực chính trị có nguồn gốc
từ quyền lực công cộng – là quyền lực của đại đa số nhân dân và do đó quyền
lực chính trị là của nhân dân. Nên ngẫu nhiên không thể một nhóm người nào
đó muốn mình có quyền lực là tự đứng lên cầm quyền được. Bởi thực họ
không có quyền mà quyền chỉ có được khi có sự thừa nhận của người khác.
Tuy nhiên theo sự lôgic của sự phát triển tiến bộ của con người, mặc dù
quyền lực đó nằm trong tay giai cấp thống trị đã trở thành nỗi thống khổ cho
các giai cấp thống trị. Nó chứng tỏ càng ngày trình độ tổ chức xã hội con
người ngày càng cao và sự xuất hiện là một yếu tố của sự phát triển. Xã hội
cần có tổ chức quyền lực mạnh để ổn định và phát triển, tức là xã hội cần có
Nhà nước. Nhưng thật trớ trêu là khi xã hội phân chia thành giai cấp thì quyền
lực đó bị một số ít người chiếm đoạt và dùng nó làm công cụ để thống trị số
đông người còn lại. Điều đó tạo nên một bi kịch chính trị cho loài người. Con
người cần có quyền lực để ổn định và phát triển nhưng khi quyền lực được
thiết lập thì lại bị quyền lực đó áp bức, bóc lột. Quá trình đấu tranh của con
người trải qua các chế độ xã hội từ chiếm hữu nô lệ đến tư bản chủ nghĩa là
một cuộc đấu tranh lâu dài của con người mà cụ thể của giai cấp bị trị nhằm
thoát khỏi cái xiềng xích đó; và quá trình đó không có gì khác hơn là cuộc
đấu tranh giành lại quyền lực chính trị, trả lại cho chủ nhân đích thực của nó đa số nhân dân lao động.
2. Bản chất của quyền lực chính trị
Bản chất là yếu tố cốt lõi quy định quyền lực chính trị, để “nó” là “nó”
chứ không phải là cái khác. Xuất phát từ việc nghiên cứu nguồn gốc quyền
lực chính trị chúng ta có thể xác định các yếu tố quy định nêu bản chất của
quyền lực chính trị, hay nói cách khác quyền lực chính trị mang bản chất sau:
2.1. Bản chất giai cấp
Từ khi thành phần trong xã hội không còn đồng nhất nữa (tức có sự

phân chia giai cấp) thì sự khác nhau về: sở hữu tư liệu sản xuất và phân phối;
hưởng thụ của cải vật chất đã làm cho xã hội khác xa so với thời kỳ nguyên
15


thuỷ. Do sự khác nhau về thành phần dân cư mà quyền lực cũng không còn sự
thống nhất. Cái khối chung của quyền lực cộng đồng dựa trên ý chí chung
thống nhất lại phá vỡ và thay vào đó là các mảng quyền lực của tầng lớp dân
cư khác nhau, của các giai cấp khác nhau. Các mảng quyền lực đó được xác
lập bởi địa vị kinh tế của từng giai cấp, trong đó giai cấp nào chiếm ưu thế về
kinh tế, nắm giữ hầu hết tư liệu sản xuất của xã hội thì giai cấp đó giữ được
địa vị thống trị xã hội. Như vậy, khi quyền lực công cộng lại phá vỡ thì quyền
lực giai cấp xuất hiện, yếu tố giai cấp đã quyết định nội dung của quyền lực
chính trị, nêu ngay từ khi mới xuất hiện quyền lực chính trị đã mang bản chất
giai cấp.
Mặc khác, bằng chiều dài của lịch sử nhân loại, thông qua các nội cuộc
đấu tranh giai cấp thì bản chất giai cấp của quyền lực chính trị được biểu hiện
rõ nét. Sự vận động của các giai cấp (trong xã hội có giai cấp) đều hướng tới
giành, giữ và sử dụng quyền lực chính trị (cụ thể là quyền lực Nhà nước). Đây
là một xu thế khách quan vì đằng sau sự vận động đó là lợi ích giai cấp. Trong
xã hội có giai cấp thì thường lợi ích của các giai cấp là mâu thuẫn lẫn nhau,
đặc biệt là các giai cấp có lợi ích đối lập (trong trường hợp giai cấp này thực
hiện lợi ích của mình thì đồng thời xâm phạm, chiếm đoạt lợi ích của giai cấp
khác). Đấu tranh giữa các giai cấp để bảo vệ lợi ích giai cấp là một nhu cầu
khách quan, đó là một nét đặc trưng của xã hội có giai cấp, phân chia giai cấp.
Trong cuộc đấu tranh đó giai cấp thống trị bằng mọi cách bảo vệ, củng cố địa
vị chính trị của mình nhằm áp bức, bóc lột các giai cấp khác. Ngược lại, các
giai cấp khác cũng vươn lên để chiếm ưu thế, cải thiện địa vị chính trị của
mình; bảo vệ lợi ích giai cấp của mình. Quyền lực chính trị trở thành trung
tâm của các cuộc đấu tranh giai cấp với nội dung là giành, giữ và sử dụng nó

để kiểm soát xã hội, phục vụ lợi ích giai cấp. Vì vậy, hướng tới quyền lực
chính trị không phải là sự đam mê đơn thuần của một cá nhân hay giai cấp
nào đó, cũng không phải là sự vận động của quyền lực một cách tự thân mà
hướng tới quyền lực là vì lợi ích giai cấp. Nên không có một thứ quyền lực
16


chính trị nào chung cho tất cả các giai cấp, vì lợi ích của tất cả các giai cấp
hay một thứ quyền lực siêu giai cấp mà quyền lực chính trị là một giai cấp
nhất định. Quyền lực đó được quy định bởi bản chất của giai cấp lại mang bản
chất của giai cấp bị trị. Chính trị đó đã tạo nên tính đa dạng tư tưởng chính trị
của thực tiễn chính trị trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại. Ngoài ra, quyền
lực còn mang bản chất xã hội.
2.2. Bản chất xã hội của quyền lực chính trị
Như ở trên chúng ta đã phân tích luận điểm: Quyền lực chính trị không
phải là một lực lượng siêu nhiên bên ngoài tác động vào xã hội mà chính
quyền lực được nảy sinh và tồn tại trong lòng xã hội. Nó là siêu phẩm của
một xã hội phân chia giai cấp, do đó chỉ có trong lòng xã hội có giai cấp và
đấu tranh giai cấp thì mới tồn tại quyền lực chính trị. Xã hội là cơ sở để tồn
tại của giai cấp, các giai cấp tồn tại vận động trong khuôn khổ xã hội nên
quyền lực chính trị cũng không thể tồn tại tách rời ngoài xã hội được. Do đó,
nó phải mang trong mình bản chất xã hội. Trong một chỉnh thể xã hội thì
quyền lực chính trị của giai cấp tác động lẫn nhau tạo nên mối quan hệ chính
trị giữa các giai cấp. Do vậy, nếu xét về quan hệ quyền lực thì cả chủ thể và
khách thể, cả yếu tố tác động lẫn yếu tố lại tác động đều là những thành phần
tạo nên chỉnh thể xã hội đó, tức là đều nằm trong một điều kiện tồn tại xã hội.
Xã hội là cơ sở tồn tại của quyền lực chính trị.
Cho đến nay, xã hội loài người đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển
khác nhau, mỗi giai đoạn lịch sử được xác định bởi một phương thức sản xuất
nhất định. Do đó, các giai đoạn lịch sử khác nhau thì cơ sở tồn tại của xã hội

cũng khác nhau. Sự vận động và phát triển của quyền lực chính trị. Và do vậy,
các giai cấp cũng biến đổi theo. Trong sự vận động và biến đổi đó, một số
phương thức sản xuất lại lỗi thời nên một số giai cấp, tập đoàn xã hội cũng lại
lỗi thời nên một số giai cấp, tập đoàn xã hội cũng lại lỗi thời và triệt tiêu.
Thay vào đó là một giai cấp mới đại diện cho lực lượng sản xuất mời ra đời
phù hợp với điều kiện tòn tại của xã hội mới. Các giai cấp mới ra đời lại xác
17


lập hệ thống quyền lực mới để bảo vệ lợi ích gai cấp và đấu tranh giai cấp
trong điều kiện mới. Như vậy trong lịch sử loài người không có một giai cấp
nào tồn tại vĩnh hằng, không có một hệ thống quyền lực nào tồn tại một cách
vĩnh viễn. Các giai cấp và hệ thống quyền lực của giai cấp chỉ được xác lập
trên những điều kiện tồn tại xã hội cụ thể. Các được tồn tại đó quy nội dung,
hình thức, bản chất của giai cấp cũng như hệ thống quyền lực mà các giai cấp
đã xác lập trên nền tảng của xã hội đó, do đó quyền lực chính trị mang bản
chất xã hội sâu sắc.
3. Tính chất của quyền lực chính trị
3.1. Tính tập trung
Trong thực tiễn, ứng với chiều tác động là mệnh lệnh là thủ trưởng hay
tổ chức (Đảng, Nhà nước…) đối với các thành viên còn chiều tổng hợp các
quyền lực là các cuộc bầu cử hay biểu quyết nhất trì để đưa lựa chọn tổ chức
hay người lãnh đạo mình. Quá trình đó chính là quá trình tham gia quyền lực.
Kết quả của quá trình đó là cá nhân hay tổ chức được bầu ra, nên họ chỉ là
người hay tổ chức đại diện cho quyền lực tập thể, cộng đồng chứ không phải
là người có quyền lực; họ chỉ là người có quyền trong trường hợp được các
thành viên thừa nhận, các thành viên bầu nên để điều khiển chính họ, làm cho
các hoạt động của họ được nhịp nhàng, sức mạnh của họ được phối hợp, được
tổ chức để sức mạnh đó nâng lên. Với ý nghĩa đó I. Rút xô cho rưàng: “Con
người không thể tạo ra lực mới mà chỉ kết hợp và điều khiển những lực có

sẵn, cho nên phương pháp duy nhất để con người tự bảo vệ là họ phải kết hợp
lại với nhau thành một lực chung, được điều khiển bằng một động cơ chung,
được điều khiển bằng một động cơ chung, khiến cho mọi người đều hành
động một cách hài hoà” (1)
Trong xã hội, quyền lực chỉ nảy sinh giữa con người với con người
(đây là mối quan hệ đặc biệt) và được thiết lập trên cơ sở quan hệ xã hội.
Quyền lực không nảy sinh từ thế giới vô cảm và cũng không tác động lên thế
(1)

J.Rutxo – Bàn về khế ước xã hội – NXB TP HCM - 1992

18


giới vô cảm. Trong quan hệ quyền lực, chủ thể tác động và khách thể chịu sự
tác động đều phải có khẳ năng nhận và cảm nhận tác động của quyền lực. Nếu
không có khả năng đó thì con nhiều không thể thực hiện quyền lực. Vì vậy,
xét trong một chủ thể quyền lực (nhóm, tổ chức, đảng phái, giai cấp…)
Quyền lực phải có quan hệ hai chiều: Một chiều phát ra tác động (mệnh lệnh,
chỉ thị…) và một chiều là tổng hợp quyền lực - chiều ngược lại của tác động.
Như vậy, quyền lực chính trị không phải là có sẵn trong xã hội mà nó
được sinh ra do con người để đáp ứng các nhu càu quyền lực của con người.
Quá trình hình thành quyền lực là quá trình tập trung tập hợp ý chí chung tạo
nên sự đồng lòng nhất trí trong tổ chức, cộng đồng. Đây là hình thức phổ biến
của con đường hình thành quyền lực xét từ tổ chức quyền lực đơn giản sơ
khai đầu tiên của xã hội loài người là tổ chức thị tộc đến các hình thức tổ chức
phức tạp hơn như các tổ chức chính trị - xã hội, các đảng phái, Nhà nước. Nếu
không tập trung thì không thể tạo ra quyền lực và không thể có quyền lực,
mức độ tập trung càng cao, tổ chức càng chặt chẽ, gắn bó thì quyền lực của
tổ chức càng mạnh. Nếu tổ chức lỏng lẻo, không tập trung ý chí và sự tập

trung bất đồng lòng nhất trí của các thành viên tổ chức đó sẽ yếu, vì vậy tập
trung là một tính chất cơ bản của quyền lực. Tuy nhiên, để tập trung quyền
lực thì các thành viên đều phải có quyền chính trị. Trong xã hội hiện nay
quyền lực chính trị thường được biểu hiện bằng những lá phiếu. Tập hợp của
những lá phiếu là sức mạnh chính trị, là quyền lực chính trị trong đấu tranh
chính trị. Tuy nhiên chính trị là một lĩnh vực phức tạp của đời sống xã hội nên
không phải ai có quyền quyết định là có thể tập hợp được quyền lực chính trị.
Ở đó quan hệ giữa các giai cấp là qun hệ đấu tranh, chiếm đoạt vì lợi ích giai
cấp. Do vậy, ngoài sự tập trung, thống nhất ý trí của các thành viên trong một
chủ thể quyền lực chính trị còn được tổ chức hết sức chăt chẽ, với cấu trúc
phức tạp nhằm thiết lập giai cấp vững chắc, có một sức mạnh to lớn cho cuộc
đấu tranh giai cấp. Ngoài ra trong cuộc đấu tranh chính trị của các giai cấp,
lực lượng chính trị không chỉ đơn thuần dựa vào một chủ thể quyền lực, mà
19


lực lượng đó còn được sự hỗ trợ của bạo lực, của tiềm thức kinh tế, tư
tưởng… Do vây, trong cuộc đấu tranh chính trị của các giai cấp, lực lượng
chính trị thường là sức mạnh tổng hợp để buộc các giai cấp khác phải phục
tùng theo ý chí của giai cấp mình. Chính vì tính đa dạng và phức tạp của cuộc
đấu tranh chính trị mà hình thức tổ chức quyền lực chính trị cũng đa dạng và
phức tạp. Cấu trúc của mỗi dạng thường khác nhau để phù hợp điều kiện đấu
tranh như nhóm lợi ích, đảng phái chính trị đến tổ chức Nhà nước. Ở mỗi kiểu
dạng của tổ chức hình thức tập trung khác nhau, mức độ tập trung cũng khác
nhau nhưng chúng vẫn là tính chất chung của quyền lực chính trị. Do đó,
quyền lực chính trị sẽ tập trung vào tay một người hay một nhóm người nắm
giữ. Đúng như K. Mác – Anghen đã từng nêu trong “Tuyên ngôn Đảng cộng
sản” – 1948.
(1)


“Quyền lực chính trị theo đúng nghĩa của nó là bạo lực có tổ chức

của một giai cấp để trấn áp giai cấp khác” hoặc “Quyền lực chính trị là quyền
lực chính trị một giai cấp hay một liên minh giai cấp, một tập đoàn xã hội
(hoặc của nhân dân lao động trong điều kiện chủ nghĩa xã hội)…” – K. Mác.
Ý chí tập trung của tập thể được một người hay một nhóm người nắm
giữ, điều khiển nên họ dễ dàng sử dụng cho mục đích riêng dẫn đến tha hoá
quyền lực. Mặt khác, do ý chí của tập thể được tập trung vào người hay một
nhóm người nên trong chính trị thì yếu tố lãnh tụ chính trị là rất quan trọng.
Sự nghiệp chính trị của nhóm thành hay bại phụ thuộc nhiều vào yếu tố cá
nhân, nên trong chính trị dường như có cả yếu tố nghệ thuật chính trị. Sự khéo
léo của cá nhân mang tính chất quyết định trước những tình huống phức tạp.
Họ có thể lái con thuyền vững bước đi lên nhưng cũng có thể nhấn chìm nó
trong cùng một hoàn cảnh. Chính vì vậy mà trong chính trị vai trò của cá
nhân, lãnh tụ được đề cao. Người thủ lĩnh chính trị phải có những phẩm chất
cơ bản sau:
- Có trình độ hiểu biết sâu rộng các lĩnh vực, có trí tuệ…
(1) (2)

,

– Tuyên ngôn Đảng cộng sản – 1848.

20


- Là người giác ngộ sâu sắc lợi ích giai cấp, thể hiện tập trung tiêu biểu
cho lợi ích giai cấp, trung thành với ý tưởng, mục tiêu đã chọn…
- Có khả năng tổ chức, biết đề ra mục tiêu đúng, giao đúng người đúng
việc, biết tổ chức thực hiện chính trị… (1)

3.2. Tính tha hoá
Trong đời sống chính trị chúng ta thường bắt gặp thuật ngữ “tha hoá”.
“Tha hoá” là một thuật ngữ thường dùng để chỉ một sự vật hiện tượng nào đó
đã bị biến đổi, đối lập với cái đã sinh ra nó ban đầu.
Dưới xã hội cộng sản nguyên thuỷ mặc dù quyền lực công cộng được
giao cho hội đồng thị tộc và tù trưởng nắm giữ mà nó vẫn không bị tha hoá,
biến dạng, vẫn duy trì được sự ổn định của xã hội. Vì vậy, quyền lực không tự
vận động để đi đến sự tha hoá mà phải có cơ sở nguyên nhân của nó. Đó là
khi lực lượng sản xuất phát triển, làm cho của cải dư thừa, một bộ phận nắm
giữ quyền lực trong thị tộc đã chiếm lấy số dư thừa đó làm của riêng – tư hữu
xuất hiện. Nó kéo theo sự phân hoá xã hội. Quyền lực công được một số ít
người sử dụng vào việc tư (chiếm đoạt của cải và tư liệu sản xuất) của số
đông còn lại, như vậy quyền lực công đã bị tha hoá thành quyền lực chính trị,
nó trở thành phương tiện để áp bức bóc lột chính chủ nhân của nó. Vậy cơ sở
của sự tha hoá là chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, đây là điều kiện
quyết định, “điều kiện đủ” cho sự tha hoá của quyền lực. Thế còn điều kiện
cần cho sự tha hoá là gì?
Như ở mục 3.1 đã phân tích thì chính sự tập trung của quyền lực chính
trị là điều kiện để dẫn tới sự tha hoá, nó giống như một hệ quả tất yếu. Từ chỗ
là quyền lực của số đông đem tập trung lại cho một người hay một nhóm
người nắm giữ, điều khiển nên càng tập trung, càng thống nhất ý chí thì quyền
lực càng mạnh. Nhưng mức độ tập trung càng cao thì quyền lực càng xa với
cái mốc ban đầu sinh ra nó, tạo cho nó điều kiện dễ dàng tách khỏi gốc rễ ban
đầu và trở thành một bộ phận đứng trên nền tảng đã sinh ra nó, trở thành cái
(1)

Chính trị học đại cương – NXB CTQG – HN 1999 Khoa chính trị học – HVBC - TT

21



đối lập với nền tảng đó. Đây là mâu thuẫn cơ bản trong tập trung quyền lực,
quyền lực càng tập trung càng mạnh, nhưng khi mức độ tập trung càng cao thì
nó càng biến dạng và tha hoá, đi ngược với mục tiêu ban đầu của quyền lực.
Tóm lại, đây là “điều kiện cần” cho sự tha hoá quyền lực chính trị.
Nếu chúng ta xem xét một cách kỹ lưỡng thì ngay khi quyền lực chính
trị xuất hiện nó đã chìm trong mình cả điều kiện cần là đủ cho sự tha hoá, đó
chính là chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất mà nó đúng ra bảo vệ và
quyền lực công cộng - chức năng xã hội của nó. Tuy hai điều kiện đó mâu
thuẫn lẫn nhau nhưng lại không loại trừ nhau, chúng thống nhất trong quyền
lực chính trị. Nếu coi lợi ích kinh tế là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự tha
hoá thì mâu thuẫn giữa chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và quyền lực
công cộng là nguyên nhân sâu sa, tiềm ẩn trong quyền lực chính trị. Chính sự
mâu thuẫn trong thống nhất đó tạo ra sự tha hoá chính trị quyền lực chính trị.
Tính chất này tồn tại với quyền lực chính trị, nó chỉ bị triệt tiêu khi có cơ sở
sinh ra nó bị triệt tiêu, tức là khi và chỉ khi con người thiết lập chế độ công
hữu, xoá bỏ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, khi đó quyền lực chính trị
cũng không còn nữa, Nhà nước tiêu vong và con người bước sang một chế độ
mới: chế độ cộng sản chủ nghĩa – lý tưởng, ước mơ của cả nhân loại, đặc biệt
là nhân dân lao động và các giai tầng bị áp bức bóc lột.
3.3. Tính thống nhất
Ngoài hai tính chất trên, quyền lực chính trị còn có sự thống nhất,
quyền lực chính trị là quyền lực của các giai cấp trong xã hội được thiết lập
để bảo vệ lợi ích giai cấp nên nó khác về chất so với quyền lực công cộng. Cơ
sở của nó chính là chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Trong xã hội có
sự phân chia giai cấp, các giai cấp đó khác nhau về địa vị kinh tế, cách thức
hưởng thụ của cải vật chất của xã hội nên khác nhau về lợi ích giai cấp (cơ
bản là lợi ích kinh tế). Do đó, dẫn tới sự đấu tranh của các giai cấp cũng là vì
lợi ích và lợi ích. Vì vậy, cơ sở kinh tế của giai cấp là cơ sở để xác định nội
dung, hình thức, bản chất của một giai cấp. Lợi ích giai cấp là nền tảng, và

22


cũng là chất keo chính tạo nên tính bền vững và ổn định của các giai cấp. Khi
lợi ích giai cấp lại phân chia thành những mặt đối lập thì cơ sở để cấu kết giai
cấp cũng không còn, giai cấp tất yếu bị phân chia. Vì vậy giai cấp thống trị ở
tính lợi ích của nó. Quyền lực chính trị là quyền lực của giai cấp, được thiết
lập và duy trì để bảo vệ lợi ích giai cấp nên về nguyên tắc và từ trong bản chất
của nó, quyền lực chính trị là thống nhất - thống nhất ở lợi ích giai cấp của nó.
Tuy nhiên sự thống nhất đó chỉ ở lợi ích cơ bản, còn lợi ích bộ phận, lợi ích
cục bộ thì chưa chắc, thậm chí còn mâu thuẫn. Điều này được minh chứng ở
các nước tư bản phương tây hiện nay. Chúng ta tưởng chừng như sự đấu đá
tranh giành của các nhóm, đảng phái là sự mâu thuẫn về lợi ích căn bản,
nhưng thực chất lại không phải. Vì nó chỉ có tính đấu đá, tranh giành lợi ích
cục bộ của các nhóm, đảng phái, còn nó đều thống nhất trong lợi ích của giai
cấp tư sản – giai cấp thống trị xã hội. Do đó, đảng phái nào, phe nhóm nào
cần quyền cũng chỉ là sự thay đổi và hình thức, còn bản chất vẫn là bóc lột
nhân dân lao động và các tầng lớp khác của xã hội.
CHƯƠNG III:
QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ TRONG THỰC TIỄN VÀ
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
1. Quyền lực chính trị trong thực tiễn
Quyền lực chính trị chỉ xuất hiện khi xã hội có giai cấp, và phân chia
giai cấp. Do vậy, nghiên cứu quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền
thống trị chính là nghiên cứu tổ chức quyền lực Nhà nước của các giai cấp
qua các thời lỳ lịch sử.
1.1. Quyền lực chính trị của giai cấp chủ nô
Xã hội đầu tiên trong lịch sử có giai cấp là xã hội chiếm nô, do đó giai
cấp nắm quyền thống trị đầu tiên là chủ nô quý tộc. Đây là lực lượng nắm giữ
tư liệu sản xuất cơ bản trong xã hội cho nên họ là người quyết định những vấn


23


đề cơ bản (nô lệ là lực lượng lao động chính tạo ra của cải vật chất chỉ được
coi là công cụ biết nói). Quyền lực chính trị của giai cấp chủ nô được tổ chức
thành Nhà nước – Nhà nước sơ khai, đơn giản. Có nhiều hình thức Nhà nước
được vận dụng như quân chủ, chủ nô, cộng hoà quý tộc… Song chưa tối ưu
trong việc thống trị. Công cụ điều hành chính của Nhà nước là bạo lực để đàn
áp nô lệ. Pháp luật mới chỉ manh nha ra đời, phạm vi điều chỉnh còn hạn chế.
Các phong tục tập quán, giá trị đạo đức vẫn còn tác dụng trong việc điều hành
và quản lý xã hội chiếm nô.
Vào thời kỳ này, do trình độ sản xuất còn chưa phát triển, các mối quan
hệ xã hội còn đơn giản nên nhìn chung, hình thức tổ chức Nhà nước còn lỏng
lẻo, phạm vi tác động và điều chỉnh còn hạn hẹp, tính tập trung của quyền lực
chính trị chưa cao, chưa tạo được sức mạnh tổng hợp của xã hội. Điểm đáng
chú ý là trong tổ chức quyền lực đã có cơ chế phân quyền và kiểm soát quyền
lực, mặc dù còn sơ khai (tiêu biểu như Nhà nước thành bang Aten - thế kỷ V
TCN).
1.2. Quyền lực chính trị của giai cấp phong kiến
Kế tiếp là xã hội phong kiến, với trình độ sản xuất phát triển cao hơn,
các quan hệ sản xuất phức tạp hơn, cấu trúc xã hội cũng vậy: ngoài hai giai
cấp chính là địa chủ và nông dân còn có thương nhân, thợ thủ công và tầng
lớp quý tộc sa sút. Đặc trưng của nền sản xuất là nông nghiệp, với nền kinh tế
tự cung tự cấp nên tư liệu sản xuất chính ruộng đất. Người nắm giữ là địa chủ
cho nên họ trở thành giai cấp thống trị xã hội. Họ tổ chức ra Nhà nước quân
chủ với mức độ tập trung quyền lực cao, tổ chức chặt chẽ. Người đứng đầu là
vua – có quyền lực tối cao (vô biên, không bị hạn chế). Các cơ quan hành
chính được thiết lập chặt chẽ, thống nhất từ trung ương tới địa phương. Tuy
nhiên ở phương Tây giai đoạn đầu, quyền lực chủ yếu tập trung vào các lãnh

chúa phong kiến, điều đó làm cho các lãnh chúa lớn mạnh dần lên và sự phát
triển của lực lượng sản xuất, suy yếu quyền lực trung ương. Ở giai đoạn sau
thì tình trạng đó được khắc phục, quyền lực được tập trung thống nhất, chế độ
24


phong kiến trung ương tập quyền được thiết lập với quyền lực mạnh. Bộ máy
thống trị đứng đầu là vua trở nên chuyên quyền độc đoán. Để khắc phục tình
trạng chuyên quyền độc đoán của vua, giai cấp địa chủ phong kiến đã biết sử
dụng pháp luật bên cạnh các quy phạm đạo đức và uy quyền tuyệt đối của
vua. Tuy nhiên, pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội là thể hiện ý chí
của giai cấp thống trị, nhưng dù sao giai cấp bị trị cũng ít nhiều thể hiện được
quyền lực của mình. Những quyền đó chưa nhiều và chưa thực sự giải phóng
lực lượng sản xuất xã hội, nhưng so với giai cấp bị trị dưới xã hội chiếm nô
thì giai cấp bị trị dưới xã hội phong kiến đã được giải phóng một phần. Điểm
nổi bật của thời kỳ này là sự tồn tại song song giữa “thần quyền” và “thế
quyền”, trong đó thần quyền được sử dụng như một công cụ đắc lực cho
quyền lực Nhà nước phong kiến. Như vậy, sự thống trị về tinh thần đã được
xác lập bên cạnh sự thống trị về thể xác. Điều này chứng tỏ là thiết chế đã tiến
bộ hơn, tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp phong kiến đã cao hơn so với
thời kỳ trước.
1.3. Quyền lực chính trị của giai cấp tư sản
Khi phương thức sản xuất TBCN được thiết lập thì đồng thời giai cấp
tư sản thay thế giai cấp phong kiến địa chủ lên nắm quyền lãnh đạo xã hội.
Đặc điểm của nền sản xuất TBCN là nền sản xuất đại công nghiệp cơ khí với
các công xưởng, các khu công nghiệp lớn và sự tập trung dân cư, đi đôi với
nó là nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh khối liệt. Tồn tại nhiều nhóm
người lợi ích khác nhau, nhiều tầng lớp, giai cấp và nhiều mối quan hệ đan
xem phức tạp. Trong đó có hai giai cấp có lợi ích cơ bản đối lập nhau là giai
cấp tư sản và giai cấp vô sản. Nhằm đảm bảo sự thống trị chính trị của mình

và quản lý, điều hành xã hội, giai cấp tư sản đã thiết lập một hệ thống quyền
lực mới để phù hợp với đặc điểm và yêu cầu của sự phát triển xã hội, đó là hệ
thống tổ chức quyền lực mạnh, chặt chẽ, tập trung cao. Điều đó tạo cho Nhà
nước tư sản có đủ sức mạnh quản lý xã hội, điều hoà các mâu thuẫn giai cấp,
khống chế sự phản kháng của các lực lượng đối lập, đặc biệt là giai cấp vô
25


×