Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận quản lý nguồn nhân lực phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.58 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN VỀ ĐỀ TÀI
1. Khái niệm cơng nghiêp hóa – hiện đại hóa.
2. Cơ sở lý luận của việc phát huy nguồn nhân lực
3. Quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
4. Yêu cầu đối với phát triển nguồn nhân lực
Việt Nam hiện nay
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT

NAM
1. Hạn chế
2. Ưu điểm

CHƯƠNG III: PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

1

CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN VỀ ĐỀ TÀI
1. Khái niệm cơng nghiêp hóa – hiện đại hóa.

Theo nghĩa hẹp,cơng nghiệp hóa được hiểu là q trình chuyển dịch từ nền
kinh tế trong đó nơng nghiệp giữ vai trị chủ đạo sang nền kinh tế cơng nghiệp là
chủ đạo. Theo nghĩa rộng , cơng nghiệp hóa là q trình chuyển dịch từ kinh tế
nơng nghiệp ( hay tiền công nghiệp) sang nền kinh tế công nghiệp, từ xã hội nông
nghiệp sang xã hội công nghiệp, từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công
nghiệp.

Theo cách hiểu phổ biến hiện nay, hiện đại hóa là q trình chuyển biến từ
tính chất truyền thống cũ sang trình độ tiên tiến, hiện đại. Về ý nghĩa kinh tế , hiện
đại hóa được giải thích là quá trình chuyển dịch căn bản từ xã hội truyền thống


sang xã hôi hiện đại, bắt đầu từ thế kỷ XVII đến nay và vẫn còn chưa kết thúc. Có
người chia q trình hiện đại hóa thành 2 giai đoạn: hiện đại hóa lần thứ nhất tương
ứng với thời kỳ cơng nghiệp hóa cổ điển và hiện đại hóa lần thứ hai tương ứng với
thời kỳ tri thức hóa.

Cơng nghiệp hóa ở nước ta có những đặc điểm là cơng nghiệp hóa gắn kết
với hiện đại hóa trong suốt các giai đoạn phát triển , vừa mang tính chất cơng
nghiệp hóa nền kinh tế - xã hội, vừa có tính chất hiện đại hóa về cơng nghệ ở mức
tương ứng. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện
công bằng xã hội, cân đối giữa phát triển kinh tế bền vững, ngồi chính sách xã hội
cịn quan tâm bảo vệ và cải thiện môi trường. Trong thực hiện cơng nghiệp hóa,
hiện đai hóa coi giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ là nền tảng và động lực
của sự phát triển; coi cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong lĩnh vực nơng nghiệp,
nơng thơn, nhất là trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển.

2. Cơ sở lý luận của việc phát huy nguồn nhân lực

a) Khái niệm ,vai trò ,phân loại nguồn lực .

2

 Khái niệm nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho

sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó, nguồn
nhân lực bao gồm tồn bộ dân cư có thể phát triển bình thường.

Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là
nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi

lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá
nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí
lực của họ được huy động vào q trình lao động.

Kinh tế phát triển cho rằng: nguồn nhân lực là một bộ phận dân số trong độ
tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. nguồn nhân lực được biểu hiện trên
hai mặt: về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm việc
theo quy định của Nhà nước và thời gian lao động có thể huy động được từ họ; về
chất lượng, đó là sức khoẻ và trình độ chun mơn, kiến thức và trình độ lành nghề
của người lao động. Nguồn lao động là tổng số những người trong độ tuổi lao động
quy định đang tham gia lao động hoặc đang tích cực tìm kiếm việc làm

Dưới góc độ của Kinh tế Chính trị có thể hiểu: nguồn nhân lực là tổng
hồ thể lực và trí lực tồn tại trong tồn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc
gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân
tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ
cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.

 Phân loại nguồn nhân lực
Sự phân loại nguồn nhân lực theo ngành nghề, lĩnh vực hoạt động

( công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ) đang rất phổ biến ở Việt Nam hiện nay,
nhưng khi chuyển sang nền kinh tế tri thức phân loại lao động theo tiếp cận công
việc nghề nghiệp của người lao động sẽ phù hợp hơn. Lực lượng lao động được

3

chia ra lao động thông tin và lao động phi thông tin. Lao động thông tin được chia
làm 2 loại : Lao động trí thức và lao động dữ liệu ( thư kí, kĩ thuật viên… làm việc
chủ yếu với thơng tin đã được mã hóa). Lao động quản lý nằm giữa 2 loại này. Lao

động phi thông tin được chia làm lao động sản xuất hàng hóa và lao động cung cấp
dịch vụ. Lao động phi thông tin dễ được mã hóa và thay thế bằng kỹ thuật, cơng
nghệ. Như vậy, có thể phân loại lực lượng lao động ra làm 5 loại: lao động trí thức,
lao động quản lý, lao động dữ liệu, lao động cung cấp dịch vụ và lao động sản xuất
hàng hóa.

 Vai trò nguồn nhân lực
Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới vì cơng nghiệp hố, hiện đại

hố là vấn đề quan trọng bậc nhất trong "kết cấu hạ tầng xã hội, kinh tế" tức là một
trong những tiền đề cơ bản để phát triển xã hội, đi vào cơng nghiệp hố, hiện đại
hoá.

Nguồn nhân lực đóng vai trị quan trọng đối với sự nghiệp CNH vì:
Trước hết các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa
lý… tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, chịu sự tác động của con người. Nếu
con người biết sử dụng, khai thác chúng thì những nguồn lực này mới phát huy
được tác dụng, phục vụ nhu cầu, lợi ích của con người, tham gia tích cực vào q
trình CNH. Vì thế trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là
yếu tố quan trọng nhất. Hơn nữa, các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị cạn kiệt
khi khai thác.
Trong khi đó nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực
vơ tận, con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, khám phá ra những tài nguyên
mới và sáng tạo ra những tài ngun vốn khơng có sẵn trong tự nhiên, tạo ra những
hệ thống công cụ sản xuất mới. Điều đó nói lên trình độ vơ tận của con người, của
sức mạnh nguồn nhân lực.Ngoài ra, kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của
chính nước ta cho thấy sự thành công của CNH phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch

4


định đường lối chính sách cũng như tổ chức thực hiện, tức là phụ thuộc vào năng
lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người, của nguồn nhân lực.

Nói tóm lại, yếu tố con người là yếu tố tiên quyết quyết định sự thành
bại của q trình CNH, đồng thời đó cũng là mục tiêu hướng tới của quá trình này.
Để thực hiện hiệu quả CNH đất nước, chúng ta phải lấy việc phát huy nguồn lực
con người Việt Nam đặc biệt là con người hiện đại làm yếu tố cơ bản cho việc phát
triển nhanh, bền vững. Nguồn nhân lực ở vai trò chủ thể tham gia vào q trình
CNH - HĐH khơng chỉ cần sự cần cù, trung thành, nhiệt tình quyết tâm, mà điều
quan trọng hơn là có trí tuệ khoa học, ý chí chiến thắng cái nghèo nàn lạc hậu, tính
năng động ln thích ứng với hồn cảnh, ý thức kỷ luật, …

b) Nội dung phát huy nguồn nhân lực.
Quan điểm cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta sau những năm

Đổi mới có nhiều bước phát triển, cụ thể đã được thể hiện bằng nhiều chủ chương,
chính sách. Những quan điểm này được nêu ra trong Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương khóa VII, được phát triển và bổ sung qua các Đại hội VIII,
IX, X, XI của Đảng. Trong đó, quan điểm thứ ba, đó là phát huy nguồn lực con
người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.

Như vậy, thông qua đó, ta khơng chỉ thấy được tầm quan trọng của
nguồn nhân lực, là điều kiện cơ bản, đối với sự phát triển của kinh tế-xã hội. Chính
vì thế, các nguồn lực đầu tư cho sự phát triển nguồn nhân lực được đẩy mạnh, và đã
tăng lên theo số lượng và cả chất lượng.

Người lao động có trình độ cao tăng lên, sản xuất những sản phẩm hàm
chứa nhiều nội dung tri thức, tăng năng suất lao động, cải thiện kinh tế, đời sống
vật chất và tinh thần. Muốn đạt được điều ấy, cần phải có những điều kiện tiền đề,
thuận lợi, nhất là trong thời kỳ mà Đảng ta đã xác định “Năm 2020, về căn bản

nước ra trở thành một nước công nghiệp”. Để đạt được mục tiêu ấy, và ngay tại
thời đại CNH-HĐH hiện nay của đất nước ta, địi hỏi phải có sự cân đối về số

5

lượng, cơ cấu giữa các ngành cụ thể và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng
các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến thế giới và khả năng sáng tạo công
nghệ mới. Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ, sự nghiệp CNH-HĐH là của tồn
dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó, lực lượng cán bộ khoa học và công
nghệ, khoa học quản lý cũng như đội ngũ công nhân lành nghề giữ vai trò đặc biệt
quan trọng.

Chỉ với những điều trên, việc phát huy nguồn nhân lực là hết sức quan
trọng. Tuy nhiên, cũng cần phải nhắc tới những yếu tố tiên quyết, tác động đến sự
phát triển của nguồn nhân lực.

c) Các nhân tố tác động đến sự phát triển của nguồn nhân lực.
 Đường lối CNH- HĐH của Đảng.

Điều này đã được thể hiện qua nhiều văn bản, luận cương chính trị của
Đảng- Bộ Chính trị, cụ thể:Tùy vào chủ chương chính sách của Đảng vào từng giai
đoạn thời kỳ lịch sử thì có những hướng đi phát triển nguồn nhân lực riêng.

- Nghị quyết IV Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII nêu rõ:
Cùng với khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động
lực thúc đẩy. Như vậy, giáo dục là một dạng đầu tư cho sự phát triển vì nó là động
lực thúc đẩy kinh tế phát triển.Sự nghiệp giáo dục đao tạo có tính xã hội hóa cao.
Nền giáo dục và đào tạo tốt sẽ cho chúng ta nguồn nhân lực với đủ sức mạnh, đáp
ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài. Do vậy sự nghiệp giáo dục phải là sự nghiệp của
toàn Đảng, toàn dân, đồng thời phải tranh thủ sự hợp tác, ủng hộ của các nước trên

thế giới thông qua việc hợp tác giáo dục.

Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã quán triệt một trong những quan điểm
về cơng nghiệp hố, hiện đại hố là “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm
xây dựng đất nước, khơng ngừng tăng tích lũy cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng

6

kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.”

Tiếp theo đến đại hội thứ IX đảng ta đã xác định: Phát triển giáo dục và
đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để
phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Tiếp tục nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống
trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện "chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội
hoá", thực hiện "giáo dục cho mọi người", "cả nước trở thành một xã hội học tập".
Thực hiện phương châm "học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản
xuất, nhà trường gắn với xã hội.”

Đại hôi X xác định: Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ
mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ
chế quản lý để tạo được chuyển biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước
nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và thế giới; Xây dựng nền giáo dục
của dân, do dân và vì dân. Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo; từng
bước xây dựng nền giáo dục hiện đại, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hố, hiện đại
hoá đất nước.


 Tình hình phát triển kinh tế, xã hội.
Không thể phủ nhận việc gắn liền đào tạo phải đi đôi cùng với sự phát

triển của thời đại, cũng giống như việc “Học đi đôi với hành” vậy. Một môi trường
kinh tế xã hội tốt, ổn định, mang đến cho người lao động nói riêng, hay nguồn nhân
lực nói chung, sự phát triển. Nguồn nhân lực trình độ cao, ứng dụng khoa học kỹ
thuật vào sản xuất và đời sống, tăng năng suất lao động, cải thiện cuộc sống, từ đó,
quay ngược trở lại, thúc đẩy các lĩnh vực khác của xã hội như giáo dục, y tế,...

Trong vài năm gần đây, xu hướng đào tạo theo nhu cầu xã hội nổi lên
với việc bắt đầu có sự hợp tác giữa doanh nghiệp và nhà trường trong công tác đào

7

tạo nhân lực. Điều này đã cho thấy xu hướng chuyển biến tích cực trong tư duy
giáo dục, tuy nhiên nhìn ở tầm vĩ mơ thì sự hợp tác này cịn manh mún, các thơng
tin về nhu cầu nguồn nhân lực quốc gia chưa được thu thập đầy đủ.

Mấu chốt của vấn đề là chúng ta phải thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ
giữa các chiến lược phát triển nhân lực với các chiến lược phát triển kinh tế. Mối
quan hệ này thể hiện ở chỗ, các chiến lược phát triển kinh tế phải chỉ rất rõ về nhu
cầu nguồn nhân lực (số lượng, kỹ năng cụ thể), và đối với các cơ quan lập chiến
lược phát triển nhân lực phải coi đây là những thông tin đầu vào cơ bản để xây
dựng các chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Và qua đây cũng đã nhắc tới tầm
quan trọng của việc xây dựng chiến lược phát triển một cách dài hạn đối với nước
ta.

 Quy hoạch phát triển kinh tế.
Việc chuyển đổi cơ cấu, mơ hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh


quan trọng nhất, bảo đảm cho sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Xây dựng
một môi trường kinh tế bền vững, mang lợi lợi ích to lớn không chỉ cho mỗi thành
phần kinh tế mà là tồn xã hội. Một nền kinh tế có sự ổn định, người lao động sẽ
không bị nỗi lo thật nghiệp, được đáp ứng nhu cầu học tập và sáng tạo một cách có
định hướng với bàn tay của Nhà nước, nguồn nhân lực sẽ phát huy tối đa hiệu quả
lao động. Sự quy hoạch phát triển sẽ được Chính phủ ban hành thơng qua các luật
kinh tế, các chính sách phát triển Cơng-Nơng-Thương-Dịch vụ, cân đối giữa đầu tư
cho các ngành, giảm thiểu sự xô bồ, chạy theo phong trào, đổ xơ vào những lợi ích
trước mắt mà quên mất lợi ích lâu dài, hao tổn tiền bạc của xã hội.

5. Yêu cầu đối với phát triển nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay
Nhằm đáp ứng u cầu đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất

nước và hội nhập quốc tế, từ bối cảnh trong nước, phát triển nguồn nhân lực đang
đứng trước những yêu cầu:

8

Thứ nhất, bảo đảm nguồn nhân lực là một trong ba khâu đột phá cho
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã được đề ra trong
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020: chuyển đổi mơ hình tăng trưởng
từ chủ yếu theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu; tăng
cường ứng dụng khoa học và công nghệ; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện tái
cấu trúc nền kinh tế; tăng nhanh hàm lượng nội địa hóa, giá trị gia tăng và sức cạnh
tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của nền kinh tế; tăng năng suất lao động, tiết
kiệm trong sử dụng mọi nguồn lực;…

Thứ hai, Việt Nam có lực lượng lao động lớn (khoảng 52.207.000
người; hàng năm trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao
động), một mặt, tạo cơ hội cho nền kinh tế có bước phát triển mạnh mẽ, mặt khác,

tạo sức ép lớn về giải quyết việc làm và đào tạo nghề nghiệp.

Thứ ba, nhu cầu đào tạo nghề nghiệp của người lao động ngày càng cao
hơn cả về số lượng và chất lượng do mức thu nhập ngày càng cao, do chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, do q trình đơ thị hoá ngày càng mạnh mẽ, do sự xuất hiện của
những ngành, nghề mới,…

Thứ tư, sự phát triển nguồn nhân lực cần đáp ứng yêu cầu phát triển cân
bằng hơn giữa các vùng miền, xuất phát từ yêu cầu giữ vững ổn định chính trị, bảo
đảm an ninh, quốc phòng để phát triển đất nước.

Từ bối cảnh quốc tế, phát triển nguồn nhân lực đang đứng trước những
yêu cầu:

Thứ nhất, Việt Nam phải có đủ nhân lực để có khả năng tham gia vào
q trình vận hành của các chuỗi giá trị toàn cầu trong xu thế các tập đồn xun
quốc gia có ảnh hưởng ngày càng lớn.

Thứ hai, nguồn nhân lực phải có năng lực thích ứng với tình trạng
nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng khan hiếm và sự sụt giảm các nguồn đầu tư
tài chính (do tác động và hậu quả của khủng hoảng kinh tế thế giới); có khả năng đề

9

ra các giải pháp gia tăng cơ hội phát triển trong điều kiện thay đổi nhanh chóng của
các thế hệ công nghệ, tương quan sức mạnh kinh tế giữa các khu vực.

Thứ ba, nhân lực nước ta phải được đào tạo để có khả năng tham gia lao
động ở nước ngồi do tình trạng thiếu lao động ở nhiều quốc gia phát triển để phát
huy lợi thế của thời kỳ dân số vàng; đồng thời có đủ năng lực để tham gia với cộng

đồng quốc tế giải quyết những vấn đề mang tính tồn cầu và khu vực.

6. Quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

Xuất phát từ nhận thức khách quan, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin: Dù ở thời đại nào, hay hình thái kinh tế - xã hội nào thì con người cũng
ln giữ vai trị quyết định, tác động trực tiếp đến tiến trình phát triển của lịch sử
xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời tới nay luôn chăm lo phát triển
nguồn nhân lực, nhất là trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh.

Trước khi bước vào thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996), tại
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua, một lần nữa Đảng ta khẳng định:
“phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm cơng bằng, bình đẳng về quyền lợi
và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời
sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm
lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”

Sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa được Đại hội VIII của Đảng
khẳng định với tính chất là chiến lược thì vấn đề phát triển nguồn nhân lực càng

10

được chú trọng. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp phát triển mang tính
cách mạng sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nó khơng phải do
bất kỳ lực lượng siêu nhiên nào mang lại mà là sự nghiệp của quảng đại quần
chúng với tư cách là nguồn lực quyết định. Nguồn lực cơ bản, to lớn, quyết định
này phải có hàm lượng trí tuệ, phẩm chất ngày một cao mới có thể đáp ứng được sự

nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa to lớn này. Đại hội VIII của Đảng khẳng
định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người
Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa”

Nhân lực lại càng là yếu tố số một, là nguồn cội, động lực chính tạo nên
lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định tốc độ và sự phát triển bền vững của
phương thức sản xuất mới ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế. Vì thế, muốn
đẩy nhanh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách bền vững khơng thể
khơng chăm lo phát triển con người. Cho thấy, Đảng ta xác định rất rõ rằng, con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.

Phát triển trí tuệ của người Việt Nam được thể hiện qua các chiến lược
phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Giáo dục đào tạo được xác định là “quốc sách”
hàng đầu với nhiều hình thức đa dạng để mọi người được học, nhất là người nghèo,
con em diện chính sách. Ngành giáo dục đào tạo, nơi trực tiếp đào tạo nguồn nhân
lực từng bước khắc phục những yếu kém để chất lượng nguồn nhân lực ngày một
nâng lên. Cùng với đổi mới về nội dung giáo dục theo hướng cơ bản, hiện đại,
ngành giáo dục và đào tạo đã tăng cường giáo dục công dân, giáo dục thế giới quan
khoa học, lịng u nước, ý chí vươn lên của người học. Bên cạnh đó việc chăm lo
cho con người về thể chất cũng được quan tâm và xác định là trách nhiệm của toàn

11

xã hội, đồng thời chỉ đạo các ngành y tế, thể dục, thể thao, dân số và kế hoạch hóa
gia đình làm tốt nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Từ sau Đại hội VIII, thực hiện chiến lược cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết về nhiều lĩnh vực liên quan trực tiếp

đến việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Nghị quyết Trung
ương 2 khóa VIII (12-1996) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo
trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 đã thể hiện
rõ quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực. Nghị quyết nêu: “Lấy việc
phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững”. Mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục là xây dựng những thế hệ con người
thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết xác
định: Giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu; Giáo dục, đào tạo là sự nghiệp của
toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân; Phát triển giáo dục, đào tạo gắn với nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ khoa họ - công nghệ và củng cố quốc
phịng, an ninh; Thực hiện cơng bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo; Giữ vai trò
nòng cốt của nhà trường cơng lập đi đơi với đa dạng hóa các loại hình giáo dục, đào
tạo, trên cơ sở Nhà nước thống nhất quản lý. Phát triển nguồn lực con người một
cách tồn diện về cả trí tuệ, sức khỏe, đạo đức, thái độ…; Phát triển nguồn nhân lực
phải là sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và tồn xã hội bằng nhiều
biện pháp, trong đó giáo dục và đào tạo là then chốt; Mọi kế hoạch xây dựng, phát
triển kinh tế - xã hội phải được đặt trong mối quan hệ không thể tách rời với kế
hoạch đầu tư cho chính sự phát triển về nhân cách, trí tuệ, tình cảm, niềm vui và
hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình và cả cộng đồng Việt Nam, cho xây dựng
và phát triển nguồn nhân lực nhiều về số lượng, mạnh về chất lượng.

Những quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển nguồn nhân lực
thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đã

12

nhanh chóng được cụ thể hóa bằng các cơ chế, chính sách, chương trình, dự án, kế
hoạch hằng năm và kế hoạch 5 năm nhằm thực hiện các mục tiêu nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực.


Đại hội IX (2001) của Đảng nêu rõ nhận thức “đáp ứng yêu cầu về con
người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa”, đồng thời khẳng định phương hướng: “Tiếp tục đổi mới,
tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý; triển khai thực
hiện chương trình phổ cập trung học cơ sở; ứng dụng nhanh các công nghệ tiên
tiến, hiện đại; từng bước phát triển kinh tế tri thức”. Phương hướng này đã được cụ
thể hóa bằng một hệ thống giải pháp khả thi đi vào cơng cuộc đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Chăm lo phát triển nguồn lực con người là một định hướng lớn trong
chiến lược phát triển đất nước thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội X thể
hiện rõ quyết tâm phấn đấu để giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ
thực sự là quốc sách hàng đầu. Tập trung đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo,
chấn hưng giáo dục Việt Nam để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao. Các
giải pháp thực thi được tập trung hơn khá cụ thể: Quản lý quá trình phát triển dân
số và nguồn nhân lực trong mối quan hệ với phát triển kinh tế - xã hội; đổi mới
phương thức đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; phát triển nguồn nhân lực gắn với
tạo việc làm, tạo việc làm tại chỗ thông qua phát triển sản xuất, tập trung vào các
sản phẩm có giá trị kinh tế cao, xuất khẩu...

Đại hội XI (2011) kế thừa và phát triển quan điểm phát triển nguồn
nhân lực từ các đại hội trước, đã nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “đến năm 2020 nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được mục tiêu
đó Đảng đã xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó “Phát triển nhanh nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” được khẳng định là khâu đột phá

13

thứ hai. Đây được xem là khâu đột phá đúng và trúng với hoàn cảnh nguồn nhân

lực nước ta hiện nay khi hội nhập quốc tế, cạnh tranh quyết liệt và địi hỏi của thời
đại khoa học, cơng nghệ. Khâu đột phá trúng và đúng này đã và đang tập trung
nâng cao sức mạnh nội sinh - nguồn nhân lực, để tồn tại và phát triển trong một thế
giới năng động, thế giới của khoa học và cơng nghệ. Vì thế, Đại hội XI của Đảng
đồng thời cũng xác định rõ phải “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực
với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Đây chính là nội dung quan
trọng thể hiện tính thực tế của chiến lược phát triển nhanh và bền vững của nước ta
trong điều kiện hiện nay. Để thực hiện chiến lược này, Đại hội XI cũng nêu rõ
những giải pháp trực tiếp cho chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đó là: “xây
dựng và hồn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam”; “đổi mới căn bản và
toàn diện nền giáo dục quốc dân theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa,
dân chủ và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển
đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”; “Xây dựng và thực hiện
chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam”.

Có thể thấy rõ những định hướng chiến lược của Đảng về phát triển nguồn
nhân lực trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa:

Trước hết, gắn phát triển nguồn nhân lực với việc đẩy nhanh tốc độ phát
triển kinh tế - xã hội.

Chúng ta nhận thức rõ rằng, để có được những con người phát triển toàn
diện, đủ khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước thì việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội để ngày
càng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động phải được coi là
nhiệm vụ cấp bách và mang tính quyết định. Vì thế, để có nguồn nhân lực có chất
lượng Đảng và Nhà nước ta đã và đang quan tâm đồng bộ tới những vấn đề sau:

- Chăm lo đời sống vật chất đi đôi với đời sống tinh thần của người lao
động. “Đối với con người hưởng thụ không thể tách rời với cống hiến, phần cống


14

hiến phải nhiều hơn phần hưởng thụ, bên cạnh nhu cầu vật chất cịn có nhu cầu tinh
thần” Nâng cao đời sống vật chất cho người lao động trước hết thơng qua đường
lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Điều này được thể
hiện rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Cương lĩnh 1991): “Chính sách xây dựng đúng đắn vì hạnh phúc con người là
động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội”

- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với cơng bằng xã
hơi. Tình trạng phân hóa giàu nghèo nhanh chóng cùng với việc phát triển kinh tế
thị trường những năm đổi mới đã tạo ra những hệ lụy về mặt xã hội sâu sắc. Giải
quyết tình trạng này phải giữ vững nguyên tắc vừa bảo đảm kích thích sản xuất
phát triển vừa có chính sách xã hội để tạo nên sự công bằng trong xã hội ở thời kỳ
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Phát triển kinh tế thị trường với đặc trưng là cạnh tranh sẽ tạo được động lực
to lớn thúc đẩy sự vươn lên của nguồn nhân lực. Không vươn lên sẽ khơng có khả
năng cạnh tranh, sẽ bị chính đòi hỏi của nền kinh tế đào thải. Định hướng xã hội
chủ nghĩa là thể hiện tính nhân văn đối với nguồn nhân lực. Đây là quá trình đào
tạo nên những con người Việt Nam mới thời kỳ hội nhập để phát triển.

- Phải giữ vững tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế trong hội nhập quốc
tế. Điều này giúp người lao động nước ta một mặt phát huy được tính tự tơn dân
tộc, quyết tâm phấn đấu cho nền kinh tế nước nhà phát triển sánh vai với các cường
quốc năm châu, mặt khác cũng tạo cơ hội để người lao động Việt Nam có thể tiếp
thu cơng nghệ tiên tiến của thế giới, bồi bổ nguồn nhân lực trong nước, đáp ứng

yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của đất nước.

- Tạo thêm việc làm là trực tiếp phát triển nguồn nhân lực. Vấn đề hết
sức áp lực này phải được giải quyết theo “Phương hướng quan trọng nhất là Nhà

15

nước cùng toàn dân ra sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt kế hoạch và các chương
trình kinh tế - xã hội. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi người dân, mọi
nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động… Giảm đáng kể
tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn”

- Tăng cường công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể chất
cho người lao động và mọi người dân, đẩy mạnh kế hoạch dân số - kế hoạch hóa
gia đình là bảo đảm thể chất và tính ổn định của nguồn nhân lực. Vấn đề này được
Đảng xác định: “Sự nghiệp chăm sóc sức khỏe là trách nhiệm của cộng đồng và
mỗi người dân, là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, các đồn thể nhân
dân và các tổ chức xã hội, trong đó ngành y tế giữ vai trị nịng cốt” đồng thời đã có
chương trình về kế hoạch hóa gia đình, ổn định tỷ lệ tăng dân số.

- Ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn xã hội vừa trực tiếp bảo đảm thể chất cho
nguồn nhân lực của đất nước, vừa hướng tới mục tiêu phát triển con người Việt
Nam.

Thứ hai, gắn việc phát triển nguồn nhân lực với q trình dân chủ hóa,
nhân văn hóa đời sống xã hội, khai thác có hiệu quả các giá trị văn hóa truyền
thống và hiện đại. Đó là quan điểm tạo môi trường lành mạnh cho các giá trị sống
của nguồn nhân lực phát triển. Để có được mơi trường đó, trước hết phải coi trọng
giáo dục đạo lý làm người, ý thức, trách nhiệm công dân, tinh thần yêu nước, yêu
chủ nghĩa xã hội, đạo đức, lối sống văn hóa, lịch sử dân tộc và bản sắc dân tộc, ý

chí vươn lên vì tương lai của mỗi người và tiền đồ của đất nước.

Thứ ba,nâng cao chất lượng sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học, cơng
nghệ. Đảng ta đã chỉ rõ: “Đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ trí thức,
trọng dụng và tôn vinh nhân tài, kể cả người Việt nam ở nước ngoài” Giải quyết tốt
vấn đề này là tạo được yếu tố nội sinh của nguồn nhân lực, cơ sở bền vững cho
phát triển và hội nhập.

16

Thứ tư, để có nguồn nhân lực tốt trước hết phải có chiến lược phát triển
con người .Trên cơ sở một hệ thống chính sách đồng bộ hướng tới con người vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.

Sự nghiệp đổi mới càng đi vào chiều sâu, thành tựu thu được ngày càng
to lớn và được khẳng định. Quan điểm về xây dựng nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực của thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập
quốc tế được Đảng thể hiện sâu sắc với quyết tâm chính trị cao và sự đồng thuận
rộng lớn của tồn xã hội. Đó là những định hướng để nguồn nhân lực của đất nước
phát triển nhanh, lành mạnh, đúng hướng.

17

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT
NAM.

Dân số: Việt Nam có quy mơ dân số trên 90 triệu người, đứng thứ 13
thế giới, thứ 7 châu Á và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Dân số phân bố khơng
đều và có sự khác biệt lớn theo vùng. Dân cư Việt Nam phần đông vẫn cịn là cư
dân nơng thơn (khoảng 68 % - năm 2013). Trình độ học vấn của dân cư ở mức khá;

tuổi thọ trung bình tăng khá nhanh (năm 2013 đạt 73,1 tuổi).

Lao động: Lực lượng lao động nước ta hiện nay khoảng 52.207.000
người; hàng năm trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao
động. Thể lực và tầm vóc của nguồn nhân lực đã được cải thiện và từng bước được
nâng cao, tuy nhiên so với các nước trong khu vực (Nhật Bản, Thái Lan, Xinh-ga-
po, Trung Quốc,..) nói chung thấp hơn cả về chiều cao trung bình, sức bền, sức dẻo
dai. Lao động Việt Nam được đánh giá là thông minh, khéo léo, cần cù, tuy nhiên ý
thức kỷ luật, năng lực làm việc theo nhóm,… cịn nhiều hạn chế.

Đào tạo: Số lượng nhân lực được tuyển để đào tạo ở các cấp tăng
nhanh. Điều này có thể được xem như là một thành tựu quan trọng trong lĩnh vực
đào tạo nhân lực. Theo số liệu thống kê sơ bộ năm 2013, số sinh viên đại học và
cao đẳng là 2.058.922 người, số tốt nghiệp là 405.900 người; số học sinh các
trường trung cấp chuyên nghiệp là 421.705 người. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo,
cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương,… chưa
đồng nhất, chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí
nguồn lực của Nhà nước và xã hội.

Về trình độ chuyên môn kỹ thuật, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong
toàn bộ lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 17,9%, trong đó ở thành thị là
33,7%, gấp 3 lần tỷ lệ này ở khu vực nông thơn là 11,2%, phân theo giới tính tỷ lệ

18

này là 20,3% đối với nam và 15,4% đối với nữ; tỷ lệ nhân lực được đào tạo trình độ
cao (từ đại học trở lên) trong tổng số lao động qua đào tạo ngày càng tăng (năm
2010 là 5,7%, năm 2012 là 6,4%, sơ bộ năm 2013 là 6,9% ).

Sử dụng nhân lực: Lực lượng lao động đã được thu hút vào làm việc

trong nền kinh tế là khá cao. Theo báo cáo của Chính phủ tại Kỳ họp thứ 8 của
Quốc hội khoá XIII, nền kinh tế đã tạo ra trong năm 2013 khoảng 1,58-1,6 triệu
việc làm mới; tỷ lệ thất nghiệp là 2,18% (trong đó thành thị là 3,59%, nơng thơn là
1,54%), tỷ lệ thiếu việc làm là 2,75% (trong đó thành thị là 1,48%, nông thôn là
3,31%).

Năng suất lao động có xu hướng ngày càng tăng: Theo cách tính năng
suất lao động đo bằng tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá hiện hành chia
cho tổng số người làm việc bình quân trong 01 năm, năng suất lao động năm 2005
là 21,4 triệu đồng/người, năm 2010 là 44,0 triệu đồng/người, năm 2012 là 63,1
triệu đồng/người, sơ bộ năm 2013 là 68,7 triệu đồng/người.

Đội ngũ nhân lực có trình độ chun mơn và kỹ năng nghề nghiệp khá
đã được thu hút và phát huy hiệu quả lao động cao ở một số ngành, lĩnh vực như
bưu chính viễn thơng, cơng nghệ thơng tin, sản xuất ơ tơ, xe máy, đóng tàu, cơng
nghiệp năng lượng, y tế, giáo dục,… và xuất khẩu lao động. Đội ngũ doanh nhân
Việt Nam ngày càng tăng về số lượng và cải thiện về kiến thức, kỹ năng kinh
doanh, từng bước tiếp cận trình độ quốc tế.

1. Hạn chế

Chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo
vùng, miền, địa phương của nguồn nhân lực chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử
dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.

Đội ngũ nhân lực chất lượng cao, cơng nhân lành nghề vẫn cịn rất thiếu
so với nhu cầu xã hội để phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam, nhất là

19


để tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu cũng như nâng cấp vị thế của Việt Nam trong
chuỗi giá trị đó.

Số lao động có trình độ chun mơn, kỹ thuật, thậm chí nhóm có trình
độ chun mơn cao có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng lại kém về
năng lực thực hành và khả năng thích nghi trong mơi trường cạnh tranh cơng
nghiệp; vẫn cần có thời gian bổ sung hoặc đào tạo bồi dưỡng để sử dụng hiệu quả.

Khả năng làm việc theo nhóm, tính chun nghiệp, năng lực sử dụng
ngoại ngữ là công cụ giao tiếp và làm việc của nguồn nhân lực còn rất hạn chế.
Trong mơi trường làm việc có yếu tố nước ngồi, ngoại ngữ, hiểu biết văn hố thế
giới ln là điểm yếu của lao động Việt Nam.

Tinh thần trách nhiệm làm việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức cơng
dân, ý thức văn hố cơng nghiệp, kỷ luật lao động của một bộ phận đáng kể người
lao động chưa cao.

Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế
giới. Mặt khác, đáng lo ngại là năng suất lao động của Việt Nam có xu hướng tăng
chậm hơn so với các nước đang phát triển trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ,
In-đô-nê-xia.

 Nguyên nhân của những hạn chế:
Thứ nhất, nguồn lực quốc gia và khả năng đầu tư cho phát triển nhân

lực của phần lớn các gia đình cịn hạn chế, chưa đáp ứng điều kiện tối thiểu để bảo
đảm chất lượng các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao. Nguồn lực
tài chính từ ngân sách nhà nước cho phát triển nhân lực còn hạn chế; chưa huy
động được nhiều các nguồn lực trong xã hội (nhất là các doanh nghiệp) để phát
triển nhân lực.


Thứ hai, quản lý nhà nước về phát triển nhân lực còn những bất cập so
với yêu cầu. Chủ trương, đường lối phát triển nguồn nhân lực chưa được thể chế
hoá bằng các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách và các kế hoạch phát

20


×