Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Hướng dẫn làm nghị luận văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.42 KB, 5 trang )

III. CẤU TRÚC BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
1. Cấu trúc phần mở bài
Cách 1

Giới thiệu Hoàn cảnh Chủ đề và đại ý Trích đề, nêu nhận xét chu
tác giả sáng tác tác phẩm

Ví dụ:

Xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX, Bà Huyện Thanh Quan
đã đi vào lòng người bằng nét bút trang nhã, điêu luyện. Bà làm thơ không
nhiều nhưng mỗi bài thơ là một tuyệt bút. Trên đường từ Thăng Long vào
kinh đô Huế nhậm chức, bà đã dừng chân trên đỉnh Đèo Ngang, xúc cảnh
sinh tình trước cảnh quan thiên nhiên trong nỗi buồn sâu lắng, bài thơ Qua
Đèo Ngang ra đời miêu tả cảnh vật đồng thời cịn bày tỏ mối u hồi về thời
thế. Bài thơ đã khắc tạc tên tuổi của bà vào lịch sử thi ca.

Cách 2:

Chọn những câu thơ có nội Giới thiệu Hoàn Chủ đề và Trích đề,
dung phù hợp với tác phẩm tác giả cảnh đại ý tác nhận
để dẫn dắt vào đề sáng tác phẩm chung

Ví dụ:

“Chao ôi mong nhớ ôi mong nhớ !

Một cánh chim thu lạc cuối ngàn”

(Chế lan Viên)


Đi về đâu hỡi cánh chim lẻ loi kia giữa chiều thu giăng mắc? Tự bao
giờ, mùa thu thường mang đến cho các thi nhân nỗi buồn man mác sâu kín,
khơi gợi nỗi nhớ nhung xa vắng. Trước cái se lạnh của đất trời, lãng phất lá
vàng rơi nơi vùng quê chiêm trũng đã lay động tâm hồn cụ Tam nguyên Yên
Đổ để những ý thơ cất lên như những tiếng tơ lòng thể hiện mối u hoài trước
thời thế. Nguyễn Khuyến được mệnh danh là thi sĩ của mùa thu, của làng quê
Việt Nam. Bài thơ Thu điếu ra đời miêu tả cảnh sắc mùa thu ở vùng nơng
thơn Bắc bộ, qua đó bày tỏ tâm sự u hồi sâu kín.

Bài thơ là một tuyệt sắc về mùa thu trong văn học Việt Nam.

Cách 3:

Mượn nội dung, Giới thiệu tác Hoàn cảnh Chủ đề và đại Trích đề, n
tiêu đề để dẫn dắt giả sáng tác ý tác phẩm nhận xét
vào đề chung

Ví dụ:

Năm tháng rồi sẽ qua đi theo quy luật nghiệt ngã của thời gian, song có một
điều vẫn đọng mãi trong mọi người về một thời để nhớ, một thời không thể
nào quên. Vâng! Đó là những năm tháng đầy đau thương mà anh dũng trong
cuộc chiến đấu chống Mỹ vĩ đại. Khí thế hăm hở cả nước ra trận đã thổi vào

hồn thơ Phạm Tiến Duật như thứ ánh sáng chói chang như từng cơn lộng gió
để “Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính” ra đời khắc họa hình ảnh người chiến
sĩ lái xe gan dạ dũng trên tuyến lửa Trường Sơn. Đặc biệt qua ba khổ đầu:

“Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi



Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lắm cười ha ha …”

Đoạn trích ca ngợi vẻ đẹp của người lính, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách
mạng.
* LƯU Ý VỀ VIỆC TRÍCH ĐỀ:
 Đối với bài thơ ngắn hoặc đoạn trích (khoảng dưới 8 câu) các em cần

chép nguyên bài thơ hoặc đoạn trích. Tuy nhiên khi phân tích đoạn trích
trong phần mở bài ngoài việc giới thiệu chung tác phẩm cần phải giới thiệu
nội dung đoạn trích (xem ví dụ phần mở bài theo cách 3).

 Đối với bài thơ dài, phần trích đề chỉ nên giới thiệu câu đầu và câu cuối. Ví
dụ trích đề khi phân tích bài thơ Đồng chí mở đầu bằng hồn cảnh xuất thân
của người lính:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua”
Và khép lại trong hình ảnh đầy lãng mạn:

“Đầu súng trăng treo”.
 Đối với truyện (văn xuôi tự sự) thì khơng trích đề.
2. Cấu trúc đoạn văn phần thân bài
 Đoạn văn phần thân bài trong bài phân tích thường được sắp xếp theo

trình tự: khái qt - phân tích - tổng hợp. Đối với thể loại trữ tình có thể được
dựng đoạn theo cách sau đây:

 Câu mở đoạn (khái quát): Mượn một nét nghệ thuật để dẫn đến nội dung

khái quát hoặc giới thiệu ý chung của câu thơ, đoạn thơ, đoạn văn.

 Trích dẫn câu thơ, đoạn thơ, đoạn văn.

 Phân tích:

 Giải thích từ ngữ, câu

 Nghệ thuật (giọng điệu, không gian, thời gian, từ ngữ, hình ảnh,
phép tu từ… và tác dụng để làm rõ nội dung)

 Nội dung diễn đạt

 Liên hệ tác giả, hoàn cảnh xã hội

 Liên hệ so sánh văn học, cảm xúc của người phân tích.

 Câu kết đoạn và chuyển ý (tổng hợp)

* LƯU Ý KHI VIẾT PHẦN THÂN BÀI

 Trong q trình phân tích trình tự có thể thay đổi theo dụng ý riêng của
người viết và không nhất thiết đoạn nào cũng dựng như mẫu trên mà có biến
hóa cho sinh động.

 Thông thường phần đầu tiên của thân bài nên giới thiệu về hoàn cảnh xã
hội. Ví dụ khi phân tích bài thơ Đồng chí – Chính Hữu thì phần đầu tiên của
thân bài cần liên hệ hoàn cảnh nước ta sau cách mạng tháng tám 1945.

 Sau khi giới thiệu hoàn cảnh xã hội đương thời cần phân tích thêm về tiêu

đề bài thơ.

 Phần cuối cùng của thân bài cần liên hệ giá trị tư tưởng hay ý nghĩa thực
tiễn qua bài học.

Sau đây là cấu trúc chung của phần thân bài:

 Hồn cảnh xã hội

 Phân tích theo bố cục từng phần:

 Đối với thơ: kết hợp nghệ thuật và nội dung (chú ý nhiều đến sắc thái biểu
cảm).

 Đối với truyện chủ yếu phân tích nội dung hiện thực và nội dung tư tưởng
rồi sau đó mới phân tích nghệ thuật (mỗi nội dung dựng thành đoạn văn
riêng, sau đó dựng đoạn văn phân tích nghệ thuật).

 Giá trị tư tưởng, liên hệ, đối chiếu với hiện thực cuộc sống.

ĐOẠN VĂN MINH HỌA CHO CÁCH DỰNG ĐOẠN
Ví dụ 1: Đoạn văn phân tích cặp câu đề trong bài Thu điếu – Nguyễn Khuyến
Khơng chọn cho mình một dịng sơng n ả xuôi nguồn ra bể lớn, một mặt
hồ lung linh sắc biếc của mây trời, không gian thu của Nguyễn Khuyến là
làng quê chiêm trũng với chiếc ao bé nhỏ quen thuộc:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.”
Chiếc ao bé nhỏ của làng quê trong thành ngữ "ao tù nước đọng" chật
chội kia bỗng trở nên thanh khiết trong sắc màu thu về của cụ Tam nguyên .

Ngữ "ao thu" là sự kết hợp độc đáo không gian và thời gian. Thời gian ở đây
không là một khoảng khắc thu, một ngày thu, mà là cả một mùa thu lắng
đọng trong chiếc ao bình dị. Sự khám phá độc đáo ở chỗ nhà thơ đã mặc
chiếc áo thu diệu kì để làn ao trở thành “trong veo” như chiếc gương của
thiên nhiên thâu cả mảng trời xanh biếc, đám mây trắng hửng hờ, và cả
bóng dáng co ro của con người trong chiếc thuyền câu. Sắc trời thu, mặt ao
thu, con thuyền câu, người câu hài hòa trong bức tranh thơ, song lại man
mác sắc màu thu luống u buồn .Mùa thu với làn gió heo may se se lạnh vừa
đủ tiễn đưa cái oi ả của mùa hè nhưng sao thi nhân nghe như thấm lạnh cả
đất trời, cả hồn người. Làn gió thu mn đời vơ hình kia sao lại "lạnh lẽo" đến

tê lòng hay là cái lạnh từ nỗi buồn thương nơi thẩm đáy lòng thi nhân đã lan
tỏa, thấm sâu vào ngàn cây ngọn cỏ, vào hơi thở của đất trời, thấm lạnh vào
hồn người câu đang co ro trên con thuyền bé "tẻo teo". Ngôn ngữ thật cô
đọng, độc đáo vần "eo" trong "lạnh lẽo", "trong veo", "tẻo teo" nhưng chắt
lọc cả không gian mênh mông vào một phạm vi bé nhỏ cô tịch. Người ngồi
câu không ngồi trên bờ, mặc dù chiếc ao vốn nhỏ. Bởi lẽ ngồi trên bờ thì dẫu
sao cũng cịn có bờ đất bụi cỏ làm điểm tựa. Hơn nữa ngồi trên bờ thì tầm
nhìn bị hạn chế vì chỉ nhìn về một phía. Nhà thơ đã đặt người ngồi câu trên
chiếc thuyền thúng bé nhỏ đẩy ra giữa mặt ao, giữa khoảng không bé nhỏ
vắng lặng để mở rộng tầm nhìn về bốn phía, để người ngồi câu mới cảm
nhận được hương thu, sắc thu, tiếng thu, và cả nỗi cô đơn giữa mùa thu của
chính mình. Đọc câu thơ Nguyễn khuyến sao khơng khỏi nhớ đến Vũ Đình
Liên:

"Làn gió heo may xa hiu hắt

Lạnh lùng chẳng biết tiễn đưa ai"

Vẻ lạnh lùng của ngọn gió vơ tình khơi gợi nỗi cơ đơn hoang trống, cịn làn

gió "lạnh lẽo" của Nguyễn khuyến cứ quặn thắt lòng người, trăn trở nỗi đau
đời quay quắt.

(Nguyễn Văn Thành)

Ví dụ 2: Đoạn văn trong nghị luận Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng

“Lần đầu tiên, khi không ai ngờ tới, Thu cất tiếng gọi ba. Đó là tiếng kêu
như tiếng xé, xé khơng khí và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó
là tiếng ba Thu đã kìm nén bao năm nay. Tiếng ba như vỡ tung ra từ đáy
lịng nó. Và đau đớn thay, đây là tiếng gọi ba đầu tiên cũng là tiếng gọi cuối
cùng trong cuộc đời cô bé. Sau tiếng gọi ba là một loạt những hành động “nó
vừa kêu vừa chạy xơ tới, nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên, giang hay
tay ơm chặt lấy cổ ba nó rồi nó hơn ba nó cùng khắp, hôn cả vết thẹo dài
trên má của ba”. Tất cả những hành động đó đều biểu hiện một tình cảm
ruột thịt nồng nàn là nỗi mong nhớ bùng lên thật mãnh liệt, hối hả, cuống
quýt có xen lẫn sự hối hận. Và khi nghe ơng Sáu nói: “Thơi, ba đi nghe con”,
nó đã thét lên “Khơng!” rồi “hai tay xiết chặt cổ ba nó, giang cả hai chân câu
chặt lấy ba, đôi vai nhỏ bé rung rung”, bé Thu khóc. Đó là tiếng khóc của sự
xót xa ân hận vì lỗi lầm của mình, vì thương ba đau khổ. Khi hiểu ra mọi lẽ,
khi nhận ra cha thì đã quá muộn. Do đó tất cả mọi hành động của Thu đối
với cha như muốn đền bù những hụt hẫng đã qua. Chứng kiến những biểu
hiện tình cảm ấy, trong cảnh ngộ cha con ơng Sáu phải chia tay, có người
không cầm được nước mắt. Riêng bác Ba – người kể chuyện cảm thấy như có
bàn tay cứ nắm lấy trái tim mình. Nhà văn viết khơng nhiều, chỉ bằng một
nét chấm phá đó thơi nhưng đủ cho ta xúc động trước nỗi niềm và tâm trạng
của nhân vật.”

(Nguyễn Huyền Nga)


3. Cấu trúc đoạn văn phần kết bài

Phần kết bài là cả một nghệ thuật. Làm sao đọng lại trong lòng người đọc những cảm
xúc sâu lắng. Cấu trúc thường là:

 Tổng hợp đánh giá chung về nghệ thuật và nội dung, hình thành kết luận
quan trọng.

 Cảm nghĩ chung của người phân tích.

Để kết bài cho hay, các em có thể chọn hai câu thơ thật hay, thật phù hợp để kết bài
tạo ấn tượng. Ví dụ viết phần kết bài phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Thanh
Hải:

Lời thơ giản dị chân thành, tứ thơ sâu lắng trong nhịp thơ nhẹ nhàng êm ái
như tiếng lòng của Thanh Hải trang trải trước thiên nhiên, con người, cuộc
sống. Bài thơ thể hiện quan niệm sống đẹp, sống là cống hiến cho cuộc đời,
cho q hương. Tấm chân tình đơn hậu, bình dị mà thiết tha yêu cuộc sống
ấy sẽ đọng mãi trong lòng mọi người chúng ta biết bao nghĩ suy và chúng ta
phải làm một “Mùa xuân nho nhỏ” để góp phần đưa “Tổ Quốc bay lên bát
ngát mùa xuân” (Lê Anh Xuân).

Để viết bài văn hoàn chỉnh cần chú ý thời gian làm bài. Cố gắng tính tốn thời gian hợp
lý sau cho bài làm văn phải đảm bảo đủ 3 phần mở bài - thân bài - kết bài. Thông
thường phần mở bài và kết bài mỗi phần tối đa 1/5 thời gian cho phép. Phần thân bài
từ 3/5 đến 3/4 thời gian. Phải tận dụng hết thời gian được phép, tránh làm bài xong quá
sớm hoặc không đủ thời gian (bài làm dang dở).



×