Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Tiểu luận Lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (844.36 KB, 32 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA LỊCH SỬ ĐẢNG

TIỂU LUẬN

LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu

tiên của Đảng.

Sinh viên: THÂN THỊ THẢO HIỀN
Lớp: Truyền thông Marketing A2 K40
Mã sinh viên: 2056160061
Giảng viên hƣớng dẫn: VŨ THỊ DUYÊN

Hà Nội – Năm 2021

1

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................2
NỘI DUNG
Chƣơng I: Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam trƣớc khi Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời ...........................................................................................................5

1. Hoàn cảnh quốc tế cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX........................................5
2. Hoàn cảnh trong nước.....................................................................................7
Chƣơng II: Nguyễn Ái Quốc và quá trình thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam..............................................................................................................13


1. Con đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc .....................................13
2. Điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam........................................15
Chƣơng III: Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cƣơng
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng........................................................................18
1. Sự chuyển biến của phong trào yêu nước Việt Nam, các tổ chức cộng
sản ra đời..........................................................................................................18
2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam..............................................21
3. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.......................22
Chƣơng IV: Nhận xét.........................................................................................25
1. Ý nghĩa của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam.........................................25
2. Ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng...................................27

KẾT LUẬN.........................................................................................................29

TÀI LIỆU THAM KHẢO

2

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Lịch sử Việt Nam đã trải qua 4000 năm xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, ông
cha ta đã phải đánh thắng hàng vạn quân xâm lược lớn mạnh và hung hãng như
quân Ngô, quân Nguyên Mông,... đối đầu với những kẻ xâm lược không chỉ
mạnh về số lượng mà còn là những kẻ thâm độc nhất, tàn bạo nhất, có vũ khí
mạnh nhất. Đứng trước tình hình vậy, cách mạng Việt Nam địi hỏi phải có lãnh
đạo sáng suốt để lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo nhân dân đứng lên giành lại độc
lập cho dân tộc. Và Đảng Cộng sản được ra đời để làm điều đó.


Sự ra đời của Đảng là địi hỏi khách quan của cơng cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước của dân tộc. Nhìn lại quá trình lịch sử
của Cách mạng Việt Nam ta thấy được Đảng đã thể hiện được vai trò lãnh đạo,
tinh thần phụ trách trước giai cấp và dân tộc khi thành công cũng như lúc khó
khăn, khi thành cơng cũng như lúc sai lầm. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là
một điều tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp và giải phóng
dân tộc ở Việt Nam trong thời đại mới, là kết quả của một quá trình lựa chọn con
đường cứu nước, tích cực chuẩn bị về tư tưởng, chính trị... Đảng ra đời là một
bước ngoặt lớn trong lịch sử nước nhà. Và ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã có
những đường lối, chiến lược đúng đắn, sáng tạo được thể hiện ở bản Cương lĩnh
chính trị đầu tiên. Nội dung của Cương lĩnh đề cập và giải quyết đúng đắn vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.

Xuất phát từ những nội dung trên, bài tiểu luận với đề tài "Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng" sẽ làm sáng tỏ hơn
về những vấn đề này.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3

2.1: Mục đích nghiên cứu
Làm rõ quá trình ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị

đầu tiên của Đảng, góp phần nhận thức được vai trị và cơng lao to lớn của lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam, thấy được ngay từ khi ra đời, Đảng đã có đường lối cách mạng đúng đắn,
sáng tạo, thể hiện ở Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2/1930). Từ đó, nắm được ý
nghĩa lịch sử to lớn của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng; nắm giữ ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam


2.2: Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tiểu luận tập trung những nhiệm vụ chủ yếu:

- Trình bày khái qt hồn cảnh lịch sử tác động đến q trình ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam và sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Trình bày có hệ thống về q trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam của
Nguyễn Ái Quốc.

- Trình bày hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng.

- Nhận xét ý nghĩa về sự ra đời của Đảng Cộng sản và Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1: Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận là quá trình ra đời của Đảng Cộng sảng

Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

3.2: Phạm vi nghiên cứu

4

- Phạm vi nội dung: lựa chọn cách tiếp cận là đặt trực tiếp sự ra đời của Đảng
trong bối cảnh lịch sử dân tộc và thế giới để qua đó làm rõ q trình ra đời của
Đảng và Cương lĩnh chính trị của Đảng.


- Về không gian: Trên địa bàn Việt Nam và trên phạm vi quốc tế.
- Về thời gian: Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX; Việt Nam dưới ách thống trị
của thực dân Pháp.

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1: Cơ sở lý luận
Tiểu luận dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chiến
tranh cách mạng.

4.2: Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp chủ yếu như phương pháp lịch sử, phương

pháp logic, ngồi ra cịn vận dụng các phương pháp phân tích hệ thống, tổng hợp,
phương pháp thống kê, tổng kết thực tiễn...để làm rõ nội dung nghiên cứu.

5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh lục tài liệu tham khảo và mục lục, nội

dung của tiểu luận tập trung gồm 4 chương.

5

CHƢƠNG I : HOÀN CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM TRƢỚC
KHI ĐẢNG CỘNG SẢN RA ĐỜI

1. Hoàn cảnh quốc tế cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX


1.1: Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó

Từ cuối thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai
đoạn độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Các nước tư bản đế quốc, bên trong thì tăng
cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngồi thì xâm lược và áp bức nhân dân các
dân tộc thuộc địa.

Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa đế quốc đã hoàn thành việc phân chia thị trường
thế giới, 70% dân số thế giới hoặc chịu ảnh hưởng hoặc dưới ách đô hộ của chủ
nghĩa thực dân.

Sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao
động các nước trở nên cùng cực, mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ
nghĩa thực dân ngày càng gay gắt, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn
ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.

Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Cuộc chiến tranh đã gây ra nhiều đau
khổ cho nhân dân các nước, đồng thời cũng làm cho chủ nghĩa tư bản suy yếu và
mâu thuẫn giữa các nước tư bản đế quốc ngày càng tăng.

1.2: Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin

Vào giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển
mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lí luận khoa học với tư cách là vũ
khí tư tưởng của giai cấp cơng nhân chống chủ nghĩa tư bản. Trong hồn cảnh đó
thì chủ nghĩa Mác ra đời, sau đó được Lênin phát triển và trở thành chủ nghĩa
Mác-Lênin.

6


Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ, muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh
thì giai cấp công nhân phải lập ra Đảng Cộng sản. Sự ra đời của Đảng Cộng sản
là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống đàn
áp, bóc lột. Tun ngơn của Đảng Cộng sản vào năm 1848 xác định: những
người cộng sản luôn là đại biểu cho lợi ích của tồn bộ phong trào; là bộ phận
kiên cường nhất trong các đảng công nhân ở khắp nơi; họ hiểu rõ những điều
kiện, tiến trình và kết quả của phong trào vô sản. Những nhiệm vụ chủ yếu có
tính quy luật mà chính đảng của các giai cấp cơng nhân cần thực hiện đó là: tổ
chức và lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp cơng nhân để thực hiện mục tiêu
giành lấy chính quyền, xây dựng xã hội mới. Đảng luôn phải dựa trên lập trường
của giai cấp công nhân, mọi chiến lược của Đảng đều phải xuất phát từ lợi ích
của giai cấp công nhân. Nhưng Đảng phải đại biểu cho quyền lợi của toàn thể
nhân dân lao động bởi lẽ giai cấp cơng nhân chỉ có thể giải phóng được nếu đồng
thời giải phóng cho các tầng lớp nhân dân lao động khác trong xã hội.

Kể từ khi chủ nghĩa Mác-Lênin được tuyên truyền rộng rãi vào Việt Nam,
phong trào yêu nước và phong trào công nhân phát triển mạnh theo khuynh
hướng cách mạng vơ sản thì dẫn đến sự ra đời của các tổ chức ở Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam.

1.3: Tác động của Cách mạng Tháng Mười Nga và Quốc tế Cộng sản

Ngày 7/11/1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, mở ra một thời
đại mới trong lịch sử phát triển của nhân loại. Thắng lợi của Cách mạng Tháng
Mười Nga đã dẫn đến sự ra đời của nước Nga xơ-viết và tiếp đó là Liên bang các
nước cộng hịa xã hội chủ nghĩa xơ-viết (Liên Xơ), làm thay đổi hoàn toàn cục
diện thế giới cũng như vận mệnh của nhiều quốc gia, dân tộc. Thắng lợi mở ra
một thời đại mới, '' thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân

tộc''. Cuộc cách mạng là lời cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp

7

công nhân, nhân dân các nước, là động lực để nhiều đảng cộng sản ra đời: Đảng
Cộng sản Đức, Đảng Cộng sản Hunggari (1918), Đảng Cộng sản Mỹ (1919),
Đảng Cộng sản Anh, Đảng Cộng sản Pháp (1920),...

Nguyễn Ái Quốc nhận định: Cách mạng Tháng Mười Nga như tiếng sét đã
đánh thức nhân dân châu á tỉnh giấc mê hàng thế kỉ nay. ''Cách mệnh Nga dạy
cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành cơng thì phải lấy dân chúng (cơng
nơng) làm gốc, có đảng vững bền, phần bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất.
Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin''.

3/1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) được thành lập. Sự ra đời của Quốc tế
Cộng sản có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế. Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa của Lênin được công bố tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản vào năm 1920
đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng dân tộc bị áp bức. Đối với Việt
Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trị quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc khẳng định
vai trò của tổ chức này với cách mạng nước ta '' An Nam muốn cách mệnh thành
cơng, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế.''

2. Hoàn cảnh trong nƣớc

2.1: Xã hội Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp

* Chính sách cai trị của thực dân Pháp


Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Sau khi tạm thời dập
tắt được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta thì thực dân Pháp bắt đầu thiết
lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động chủ nghĩa thực dân trên đất nước Việt
Nam.

8

Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị chuyên chế. Chúng
trực tiếp giữ chức vụ chủ chốt của bộ máy nhà nước, biến giai cấp tư sản mại bản
và địa chủ phong kiến thành tay sai đắc lực và là công cụ để đàn áp nhân dân.
Chúng thực hiện chính sách đàn áp, khủng bố hết sức dã man cho nhân dân mất
hết quyền tự do dân chủ, mọi phong trào đều bị đàn áp. Thực dân Pháp thực hiện
chính sách '' chia để trị'': chia rẽ ba nước Đông Dương, lập ra xứ Đơng Dương
thuộc Pháp nhằm xóa tên ba nước Lào, Campuchia, Việt Nam ra khỏi bản đồ thế
giới và chia Việt Nam thành ba xứ Bắc Kì, Trung Kì, Nam kì nhằm tạo ra xung
khắc giảm tình đồn kết giữa người Việt, thực hiện ở mỗi kì một chế độ cai trị
riêng song thực chất đều là thuộc địa của thực dân Pháp.

Về kinh tế, chúng thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự phát triển
kinh tế độc lập, biến Việt nam thành thị trường của chính quốc, phụ thuộc vào
kinh tế chính quốc. Chúng tiến hành cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư
khai thác tài nguyên; xây dựng hệ thống đường giao thơng, bến cảng phục vụ cho
lợi ích của chúng. Chính sách khai thác thuộc địa của Pháp đã tạo sự chuyển biến
đối với nền kinh tế Việt Nam, ra đời những ngành kinh tế mới: công nghiệp, khai
thác mỏ, giao thông vận tải, thương nghiệp; trong nông nghiệp thì xuất hiện kinh
tế đồn điền, kinh doanh theo lối tư bản. Tuy nhiên dẫn đến hậu quả là nền kinh tế
Việt Nam bị phụ thuộc vào tư bản Pháp, bị kìm hãm trong vịng lạc hậu.

Về văn hóa - xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu dân, ngăn cản ảnh
hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới kể cả văn hóa Pháp vào Việt Nam. Chúng

khuyến khích văn hóa nơ dịch, văn hóa độc tài, xuyên tạc lịch sử. Chúng xây
dựng nhà tù nhiều hơn trường học và bệnh viện. Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội
ác của chế độ cai trị thực dân ở Đông Dương: '' chúng tôi không những bị áp bức
và bóc lột một cách nhục nhã mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê
thảm...bằng thuốc phiện bằng rượu... chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối
tăm vì chúng tơi khơng có quyền tự do học tập.'' Chúng dùng rượu và thuốc phiện

9

để đầu độc người dân đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên Việt Nam để họ chìm
đắm trong cơn say quên đi nỗi nhục mất nước.

* Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam

Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục
thực dân, xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc.

Giai cấp địa chủ: Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc
lột, áp bức nơng dân. Tuy nhiên, trong nội bộ giai cấp địa chủ Việt Nam lúc này
có sự phân hóa, một bộ phận địa chủ có truyền thống và tinh thần dân tộc, khởi
xướng và lãnh đạo các phong trào yêu nước chống thực dân để giành lại độc lập
và bảo vệ chế độ phong kiến; một bộ phận trở thành lãnh đạo phong trào nông
dân, phong trào quần chúng chống thực dân Pháp và triều đình bán nước; một số
chuyển sang kinh doanh theo tư bản chủ nghĩa.

Giai cấp nông dân: Là lực lượng đông đảo nhất, bị thực dân phong kiến áp
bức bóc lột nặng nề - '' một cổ hai trịng'' nên họ khao khát có ruộng đất, độc lập
và tự do. Mặc dù số lượng lớn nhưng giai cấp này không thể tự vạch ra đường lối
và càng không thể lãnh đạo cách mạng.


Giai cấp tư sản: bao gồm tư sản công nghiệp, tư sản thương nghiệp... Ngay
từ khi ra đời, giai cấp tư sản Việt Nam đã bị tư sản Pháp và tư sản Hoa cạnh
tranh, chèn ép do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị của giai cấp tư sản Việt
Nam nhỏ bé, yếu ớt, không thể lãnh đạo cách mạng dân tộc đi đến thành công.

Giai cấp công nhân: Ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực
dân Pháp, giai cấp công nhân tập trung nhiều ở các thành phố và vùng mỏ như:
Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Quảng Ninh. Phần lớn giai cấp
công nhân đều xuất thân từ nơng dân, đó là cơ sở khách quan, thuận lợi cho công
nhân và nông dân liên minh chặt chẽ với nhau. Đặc điểm nổi bật của giai cấp

10

công nhân Việt Nam là '' ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam, và vừa
lớn lên nó đã sớm tiếp thụ ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.''

Tầng lớp tiểu sư sản: Bao gồm học sinh, tri thức, viên chức và những người
làm nghề tự do. Trong đó giới tri thức và học sinh là bộ phận quan trọng. Đời
sống của tiểu tư sản Việt Nam bấp bênh và dễ bị phá sản thành người vô sản.
Giai cấp này có lịng u nước, căm thù thực dân, đế quốc, chịu ảnh hưởng tiến
bộ từ bên ngồi truyền vào, vì thế đây là lực lượng có tinh thần cách mạng cao.

Tóm lại, với chính sách khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp, cơ cấu
xã hội Việt Nam có những biến đổi to lớn đó là sự ra đời của hai giai cấp: giai
cấp công nhân và giai cấp tư sản. Các giai cấp tạo ra hai mâu thuẫn cơ bản: mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nhân
dân Việt Nam với giai cấp địa chủ phong kiến. Trong đó mâu thuẫn thứ nhất là
chủ yếu. Việt Nam đặt ra hai nhiệm vụ cách mạng, một là đánh đuổi thực dân
Pháp xâm lược, hai là xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân
dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó chống đế quốc, giải phóng dân

tộc là nhiệm vụ hàng đầu.

2.2: Phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời

Nước ta từ khi đế quốc Pháp xâm lược (1858) đến những năm 20 của thế kỉ
này đã trải qua hàng trăm cuộc đứng lên đấu tranh chống kẻ thù xâm lược nhưng
đều thất bại vì khơng có đường lối đúng đắn.

Giai cấp phong kiến với những chiến tích oai hùng đã từng đánh thắng bọn
phong kiến lớn mạnh nhưng khi đứng trước một loại kẻ thù là chủ nghĩa đế quốc
thì giai cấp phong kiến trở nên bất lực. Thất bại của phong trào Cần Vương là do
đường lối thiếu đúng đắn, thiếu tổ chức cách mạng để lãnh đạo cuộc chiến tranh
đến thắng lợi cuối cùng. Thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Thế dưới sự lãnh đạo

11

Hồng Hoa Thám cũng chứng tỏ đó khơng phải con đường dẫn đến thắng lợi.
Thất bại của các phong trào đã chứng tỏ giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng
phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải quyết
nhiệm vụ dân tộc ở Việt Nam.

2.3: Cuộc khủng hoảng đường lối giải phóng dân tộc, nhiều đảng phái xuất
hiện

Sau khi các phong trào giải phóng dân tộc trên chấm dứt thì cuộc khủng
hoảng đường lối cứu nước bộc lộ sâu sắc:

Sau khi không thành công với con đường giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng
phong kiến, người nhân dân Việt Nam yêu nước đã có tư tưởng hướng ngoại với

mong muốn tìm được con đường mới để giải phóng dân tộc như: con đường Duy
Tân của Nhật Bản (1860), con đường Cách mạng tư sản Pháp (1789), con đường
Cách mạng Tân Hợi của Trung Quốc (1911)... Tất cả cuộc cách mạng đó ít nhiều
đều ảnh hưởng đến phong trào yêu nước của nhân dân ta, lôi cuốn nhiều sĩ phu
phong kiến, tiêu biểu là Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh. Về mặt phương
pháp, sĩ phu lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc có sự phân hóa thành hai xu
hướng. Một bộ phận chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc,
khôi phục chủ quyền quốc gia bằng biện pháp bạo động; một bộ phận khác lại coi
cải cách là giải pháp để khôi phục độc lập.

Đại diện cho xu hướng bạo động là Phan Bội Châu, với chủ trương dùng bạo
lực để đánh đuổi thực dân Pháp. Đại diện cho xu hướng cải cách là Phan Châu
Trinh với chủ trương vận động cải cách văn hóa, xã hội, vực dậy lịng u nước
trong nhân dân, đả kích bọn vua quan thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản;
thực hiện khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền; phản đối
đấu tranh vũ trang và cầu viện nước ngoài.

12

Tính chất phong trào dân tộc ở thời kỳ này có chuyển biến khác trước. Phong
trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, nộp thuế ở Trung Kỳ là kết quả của
khuynh hướng tư tưởng tư sản. Một số tổ chức yêu nước ra đời nhưng vì đường
lối chính trị của các tổ chức này khơng rõ ràng, đặc biệt là không dựa vào quần
chúng lao động mà dựa vào uy tín cá nhân, nên khơng tạo ra được sức mạnh và
sự thống nhất ( hội Duy Tân, trường Đông Kinh nghĩa thục, hội Đông Á đồng
minh...). Vì vậy, khi những người thủ lĩnh bị bắt thì phong trào cũng tan theo.

Trên thực tế, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam rơi
vào tình trạng khủng hoảng về đường lối nghiêm trọng mà thực chất là khủng
hoảng về giai cấp lãnh đạo. Các phong trào yêu nước diễn ra rất sôi nổi nhưng do

thiếu đường lối đúng đắn và sự lãnh đạo sáng suốt nên các phong trào lần lượt
thất bại.

Từ những năm 1920 trở đi, phong trào cách mạng Việt Nam có những
chuyển biến mạnh mẽ. Những tổ chức yêu nước tiếp thu tư tưởng tiến bộ mới đã
dần dần xuất hiện. Đặc biệt là chủ nghĩa Mác - Lênin ngày càng có tác động
mạnh mẽ vào phong trào yêu nước và phong trào công nhân.

Từ trong phong trào đấu tranh, các tổ chức đảng phái ra đời: Đảng Lập Hiến
(1923); Đảng Thanh Niên (3/1926); Đảng Thanh niên cao vọng (1926); Việt
Nam nghĩa đoàn (1925) sau nhiều lần đổi tên tháng 7/1928 lấy tên là Tân Việt
cách mạng Đảng; Việt Nam quốc dân Đảng (12/1927). Các đảng phái chính trị tư
sản và tiểu tư sản trên đây góp phần truyền bá tư tưởng mới giáo dục và thúc đẩy
phong trào yêu nước chống Pháp, trong đó nổi bật là Tân Việt cách mạng Đảng
và Việt Nam quốc dân Đảng.

Nhìn chung, các hội và đảng yêu nước nói trên có tinh thần chống đế quốc,
nhưng chưa nhận thức được xu thế phát triển khách quan của thời đại sau Cách
mạng tháng Mười Nga nên không thấy được '' giải phóng dân tộc phải gắn liền

13

với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng xã hội; chủ nghĩa yêu nước chân
chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản''; chưa thấy độc lập dân tộc phải
gắn liền với chế độ mới để đi đến xóa bỏ áp bức và bất cơng.

Tóm lại, trước yêu cầu lịch sử của xã hội Việt Nam, các phong trào đấu tranh
chống Pháp diễn ra sôi nổi. Các mục tiêu đấu tranh đều quy tới giành độc lập cho
dân tộc nhưng trên các lập trường giai cấp khác nhau, diễn ra dưới các phương
thức và biện pháp khác nhau: dựa vào cải cách hoặc bạo động; nhưng cuối cùng

đều thất bại.

Sự thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp đã chứng tỏ
con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và tư tưởng tư sản đã bế tắc.
Cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối, giai
cấp. Nhiệm vụ đặt ra là phải tìm con đường mới và một giai cấp có đủ tư cách đại
biểu, đủ uy tín, năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến
thành công.

CHƢƠNG II: NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUÁ TRÌNH THÀNH
LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

1. Con đƣờng cứu nƣớc của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc

Ngày 05/06/1911 là một mốc đặc biệt quan trọng, khơng chỉ trong cuộc đời
một con người mà cịn đối với lịch sử của cả một dân tộc. Đó là sự kiện người
thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (khi còn nhỏ là Nguyễn Sinh Cung và
sau này đổi tên thành Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) rời Tổ quốc hướng tới
phương Tây, trước hết là nước Pháp đi tìm đường cứu nước.

14

Vượt qua những hạn chế của các bậc tiền bối, với tấm lòng yêu nước, thương
dân sâu sắc và sự trăn trở về vận mệnh dân tộc, Nguyễn Tất Thành đã sớm nhận
thấy con đường do những người đi trước mở ra sẽ khơng giải phóng được dân
tộc. Theo Người, con đường của Hoàng Hoa Thám vì tư tưởng phong kiến lỗi
thời của nó khơng thể dẫn đến thắng lợi. Con đường cầu viện Nhật Bản của Phan
Bội Châu thì chẳng khác gì việc ''đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau''. Còn con
đường của Phan Chu Trinh chẳng qua là sự ''xin giặc rủ lòng thương''. Vậy nên,
Người không đi theo vết xe đổ ấy mà hướng thẳng về nước Pháp nơi có truyền

thống văn minh, tự do, bình đẳng, bác ái, đồng thời cũng là nơi đẻ ra mọi chế độ
thực dân thối nát và tàn bạo trên đất nước nhà.

Từ chỗ xác định rõ động cơ, mục đích, hướng đi như vậy, Nguyễn Tất Thành
đã chọn một cách đi cho riêng mình.

Gần mười năm bơn ba khắp châu lục (1911-1920), Người đến những nước
thuộc địa và những nước đế quốc như Anh, Mỹ, Pháp,...quan sát, nghiên cúu, suy
nghĩ và người phát hiện ra chân lý: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, thực
dân là cội nguồn của mọi đau khổ, của mọi giai cấp cơng nhân với nhân dân lao
động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa..

Bằng những hoạt động sôi nổi như vậy, Người đã nhanh chóng nắm bắt được
thời cuộc, trên cơ sở đó có sự lựa chọn và định hướng đúng đắn cho bản thân,
dân tộc. Bước ngoặt của sự lựa chọn đó trước hết là ảnh hưởng vang dội của cuộc
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Người rút ra kết luận: ''Trong thế giới
bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân
chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng nhất.'' Sự kiện thứ hai dẫn đến
bước ngoặt của sự lựa chọn của Người đó là khi Người đọc ''Sơ thảo lần thứ nhất
của những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin'' đăng
trên báo L'Humanité (Nhân đạo) số ra ngày 16-17/7/1920. Những luận điểm của
V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ

15

dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc, phù hợp với tư
tưởng Người tìm thấy trong Luận cương của Lênin lời giải đáp về con đường
giải phóng cho nhân dân Việt Nam; về vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với
phong trào cách mạng thế giới phù hợp với tư tưởng yêu nước, thương dân của
Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin.


Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán
thành việc gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản
Pháp. Với sự kiện này Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những sáng lập viên
Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước
chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái
Quốc: " Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con người nào khác con
đường cách mạng vơ sản".

Từ đây, cùng việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế,
Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, vạch phương hướng
chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam.

2. Điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Sau khi xác định con đường cách mạng đúng đắn, trở thành người cộng sản,
Nguyễn Ái Quốc tiếp tục khảo sát, tìm hiểu để hồn thành nhận thức về đường
lối cách mạng vơ sản, đồng thời tích cực truyền bá tư tưởng Mác-Lênin về nước
để chuẩn bị các tiền đề về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng.

2.1: Về chính trị

Từ khi khẳng định cách mạng Việt Nam đi theo con đường cách mạng của
Chủ nghĩa Mác – Lênin, Cách mạng Thánh Mười Nga; tham gia sáng lập Đảng
Cộng sản Pháp, nghiên cứu quy luật hình thành của các đảng cộng sản trên thế

16

giới, Nguyễn Ái uốc nhận thấy sự cần thiết phải chuẩn bị chu đáo về đường lối

chính trị của Đảng kiểu mới theo chủ nghĩa Lênin ở Việt Nam.

Tác phẩm Đường Cách mệnh (1927) của Người là sự chuẩn bị tập trung và
chu đáo về lý luận chính trị cho Đảng ta, đặt nền tảng tư tưởng cho đường lối
chính trị của cách mạng Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa. Tác phẩm
chỉ ra nhiệm vụ chủ yếu của các mạng Việt Nam và các nước thuộc địa là giải
phóng dân tộc tiến lên Chủ nghĩa xã hội; mối quan hệ giữa cách mạng chính quốc
và cách mạng thuộc địa phải khăng khít, thực hiện liên minh giữa các lực lượng
cách mạng ở thuộc địa và chính quốc; về vấn đề đồn kết quốc tế phải thực hiện
sự liên minh đoàn kết với các lực lượng cách mạng thế giới. Cách mạng muốn
thắng lợi thì phải có Đảng lãnh đạo, phải có lý luận khoa học dẫn đường và có
đường lối, phương pháp đúng đắn.

Phong trào “Vơ sản hóa” do Kỳ bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam Cách mạng thanh
niên phát động từ ngày 29-9-1928 đã góp phần truyền bá tư tưởng vơ sản, nhiệm
vụ chính trị, rèn luyện cán bộ và phát triển tổ chức của công nhân.

2.2: Về tư tưởng

Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam
thông qua những bài đăng trên các báo Người cùng khổ, Đời sống công nhân và
xuất bản một số tác phẩm, đặc biệt là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp
(1925). Tác phẩm đã vạch rõ âm mưu, thủ đoạn và tội ác của chủ nghĩa đế quốc
khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, vực dậy tinh thần dân tộc nhằm đánh đuổi
thực dân Pháp.

Sự chuẩn bị về tư tưởng rõ nét nhất của Nguyễn Ái Quốc thơng qua hoạt
động báo chí và tun truyền. Thời gian ở Pháp, Người cho xuất bản và làm chủ
nhiệm kiêm chủ bút cho tờ Người cùng khổ (từ số 1 đến số 15). Người viết


17

khoảng 30 bài, tập trung tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân và truyền bá Chủ
nghĩa Mác-Lênin vào các nước thuộc địa trong đó có Việt Nam.

6/1925 tại Quảng Châu, Người cho xuất bản báo Thanh niên, cơ quan ngôn
luận của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Ngồi ra cịn có một số báo định
kỳ như: tờ tuần báo Công nông đối tượng tuyên truyền chủ yếu là công nhân và
nông dân; tờ Lính cách mệnh lấy binh sĩ Việt Nam trong quân đội Pháp ở Đông
Dương làm đối tượng tuyên truyền.

Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) và Đường Cách mệnh (1927)
vừa tố cáo tội ác của thực dân vừa vạch ra chiến lược và sách lược, gắn cách
mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa với cách mạng vơ sản ở chính quốc.

Ngồi ra, Người cịn trực tiếp giảng bài, thảo luận tại các hội nghị. Người sử
dụng nhiều hình thức để vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân, tuyên truyền
chủ nghĩa Mác-Lênin và động viên nhân dân giác ngộ làm cách mạng.

Đây là sự chuẩn bị quan trọng về tư tưởng, lý luận cho quá trình thành lập
Đảng, như Nguyễn Ái Quốc đã xác định: "Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa
làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà
khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ
nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, những chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin".

2.3: Về tổ chức

Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà cách mạng ở các nước thuộc
địa Pháp lập ra Hội Liên Hiệp các dân tộc thuộc địa nhằm tập hợp lực lượng

chống chủ nghĩa thực dân.

18

Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu và cùng những nhà lãnh đạo
cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ, Thái Lan... thành lập Hội Liên Hiệp
các dân tộc bị áp bức Á Đông.

2/1925, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm Tâm xã, lập ra
nhóm Cộng sản Đoàn.

6/1925, Nguyễn Ái Quốc lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Quảng
Châu, nòng cốt là Cộng sản đồn mục đích là để huấn luyện cán bộ trực tiếp
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân, phong trào yêu nước
ở Việt Nam. Hội xuẩ bản tờ báo Thanh niên ( do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và
chỉ đạo) tuyên truyêng mục đích của Hội, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin và
về phương hướng phát triển của cuộc vận động giải phóng dân tộc.

Năm 1927, các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu được xuất bản
thành sách Đường Cách mệnh. Sách chỉ rõ con đường, mục tiêu, lực lượng và
phương pháp đấu tranh của cách mạng Việt Nam, thể hiện tư tưởng của lãnh tụ
dựa trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Những
điều kiện về tư tưởng, lý luận, chính trị và tổ chức để thành lập Đảng được nêu rõ
trong tác phẩm.

CHƢƠNG III: HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM VÀ CƢƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA

ĐẢNG


1. Sự chuyển biến của phong trào yêu nƣớc Việt Nam, các tổ chức cộng
sản ra đời

1.1: Sự phát triển phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản

19

Ngay từ khi mới ra đời, công nhân đã tiến hành đấu tranh chống thực dân
Pháp áp bức, bóc lột, nhưng chủ yếu là đấu tranh kinh tế. Các hình thức đấu tranh
là bãi cơng, bỏ việc, đập phá máy móc... Bãi cơng là hình thức riêng biệt của giai
cấp công nhân đã xuất hiện trong những năm 1906 – 1908, báo hiệu sự ra đời của
một lực lượng chính trị mới. Trong những năm 1919-1925, phong trào cơng nhân
diễn ra dưới các hình thức đình công, bãi công, tiêu biểu như cuộc bãi công của
công nhân Ba Son (Sài Gịn) do Tơn Đức Thắng tổ chức (1925) và cuộc bãi công
của công nhân Nhà máy sợi Nam Định ngày 30/4/1925 đòi chủ tư bản phải tăng
lương, bỏ đánh đập, đuổi thợ...

Sau chiến tranh thế giới thứ I, do Pháp đẩy mạnh khai thác thuộc địa, giai cấp
công nhân tăng lên mạnh mẽ. Phong trào cơng nhân có tổ chức hơn, những yêu
sách về kinh tế đã gắn kết với khẩu hiệu chính trị.

Do hoạt động tích cực của Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên, của phong trào ''vơ sản hóa'', do ảnh hưởng của cách mạng tháng
Mười Nga, lý luận cách mạng ngày càng được truyền bá sâu rông vào phong trào
công nhân, phong trào công nhân phát triển từ tự phát đến tự giác.

=> Sự phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta
những năm đầu thế kỷ XX đã tạo tiền đề tích cực cho sự ra đời của các tổ chức
cộng sản ở Việt Nam.


1.2: Sự ra đời của các tổ chức cộng sản

Trước sự phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước, cuối
tháng 2/1929, ở Hà Nội, một số hội viên tiên tiến của tổ chức Thanh niên ở Bắc
Kì đã lập ra chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, do Trần Văn Cung làm Bí thư
chi bộ.


×