Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng tại chi nhánh ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (612.65 KB, 113 trang )

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BIDV : Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
BIDV Thái Nguyên : Chi nhánh Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển
Thái Nguyên
CTCP : Công ty cổ phần
KSNB : Kiểm soát nội bộ
LNTT : Lợi nhuận trước thuế
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHTM : Ngân hàng thương mại
QHKH : Quan hệ khách hàng
QTTD : Quản trị tín dụng
QLRR : Quản lý rủi ro
TMCP : Thương mại cổ phần
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
TSBĐ : Tài sản bảo đảm
XHTDNB : Xếp hạng tín dụng nội bộ
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
ii
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
iii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền
kinh tế hàng hóa để giải quyết nhu cầu phân phối vốn, nhu cầu thanh toán…phục
vụ cho phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế, các cá nhân
với đặc thù kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Ngân hàng thương mại (NHTM) là
trung gian tài chính của nền kinh tế. Nó thực hiện huy động các nguồn vốn trong
nền kinh tế và sử dụng các nguồn vốn huy động này để thực hiện cung ứng vốn tín
dụng cho nền kinh tế và các dịch vụ ngân hàng nhằm tạo ra lợi nhuận.
Trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nghiệp vụ tín dụng là nghiệp


vụ sử dụng vốn quan trọng nhất của NHTM vì nó giúp quay vòng nguồn vốn huy
động đầu vào và tạo ra lợi nhuận cao nhất (70-80%) cho NHTM. Tuy nhiên, đây
cũng là hoạt động tiềm ẩn rủi ro cao nhất. Rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh do
khách hàng vay không trả được nợ cho ngân hàng đúng hạn như đã cam kết. Từ rủi
ro này có thể dẫn đến khả năng mất thanh toán của ngân hàng do không thu hồi
được vốn cho vay để thanh toán các khoản huy động đầu vào. Hơn nữa, thời gian
gần đây ngày càng xảy ra nhiều vụ việc gây tổn thất nghiêm trọng cho các NHTM
và khách hàng hoặc do cán bộ ngân hàng hoặc do khách hàng đơn phương hoặc
móc nối với nhau để lừa đảo, chiếm đoạt vốn và tài sản mà bộ phận kiểm soát nội
bộ của các ngân hàng không phát hiện kịp thời. Để hạn chế và ngăn ngừa rủi ro tín
dụng, ngoài các biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ tín dụng thì việc thiết kế một hệ thống
kiểm soát nội bộ hiệu quả của NHTM đối với nghiệp vụ tín dụng sẽ góp phần quan
trọng trong việc kiểm soát và giám sát rủi ro tín dụng, hạn chế được sự thất thoát
vốn tín dụng của ngân hàng.
Mặt khác, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đã và đang trong quá trình toàn
cầu hóa, Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO thì vấn đề tự do hóa
tài chính từng bước hội nhập kinh tế khu vực và thế giới không còn là sự lựa chọn
của bất kỳ một quốc gia nào. Hội nhập đòi hỏi các NHTM phải nâng cao năng lực
cạnh tranh, năng lực quản lý và đảm bảo hoạt động an toàn, hiệu quả. Vì vậy, một
trong các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của các NHTM Việt Nam nói
1
chung và hệ thống Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) nói
riêng là hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ, đặc biệt đối với nghiệp vụ tín dụng
nhằm đảm bảo sự an toàn và lành mạnh trong hoạt động kinh doanh.
Chi nhánh Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Thái Nguyên (BIDV Thái
Nguyên) là chi nhánh cấp 1 trực thuộc hệ thống BIDV. Nằm trên địa bàn là một tỉnh
gần với thủ đô, có nhiều khu công nghiệp, nhiều trường đại học, dân cư đông đúc,
tiềm năng phát triển ngành ngân hàng lớn, do đó, thu hút khá nhiều các ngân hàng
hoạt động, tính cạnh tranh cao. Để giữ vững được vị thế và uy tín của một ngân
hàng dẫn đầu trên địa bàn, việc tăng cường công tác kiểm soát nội bộ là một trong

những biện pháp giúp BIDV Thái Nguyên quản lý hiệu quả hoạt động tín dụng.
Xuất phát từ thực tế nêu trên, trải qua quá trình học tập, nghiên cứu, tôi đã
lựa chọn đề tài: “Giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát nội bộ hoạt động tín
dụng tại Chi nhánh Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Thái Nguyên” với
mong muốn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác quản trị điểu hành tại
ngân hàng.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Đề tài thực hiện với mục tiêu đánh giá lại thực trạng công tác kiểm soát nội
bộ đối với hoạt động tín dụng tại BIDV Thái Nguyên. Từ đó, đưa ra những giải
pháp hoàn thiện công tác kiểm soát nội bộ góp phần nâng cao chất lượng tín dụng,
nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, đóng góp vào sự phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đề tài nghiên cứu hệ thống hóa lý luận về kiểm soát nội bộ nói chung và hệ
thống kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng tại NHTM nói riêng
-Đề tài trình bày và đánh giá thực tiễn công tác kiểm soát nội bộ hoạt động
tín dụng tại BIDV Thái Nguyên.
- Trên cơ sở những ưu điểm và tồn tại hạn chế trong công tác kiểm soát nội bộ
hoạt động tín dụng tại BIDV Thái Nguyên đề tài đề xuất các giải pháp cũng như kiến
nghị nhằm hoàn thiện công tác kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng tại ngân hàng.
2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng công tác kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng tại BIDV Thái Nguyên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Đề tài nghiên cứu hoạt động kiểm soát nội bộ nói chung và kiểm
soát nội bộ hoạt động tín dụng nói riêng.
- Không gian: Đề tài được tiến hành nghiên cứu tại địa bàn tỉnh Thái
Nguyên, cụ thể tại BIDV Thái Nguyên

- Thời gian: Đề tài được tiến hành nghiên cứu trong phạm vi thời gian 3 năm,
từ năm 2010 - 2012
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Hệ thống hoá những vấn đề mang tính lý luận về NHTM, kiểm soát nội bộ
hoạt động tín dụng tại NHTM
- Thực trạng công tác kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng, đánh giá những
ưu điểm cũng như những hạn chế trong công tác kiểm soát nội bộ hoạt động tín
dụng tại BIDV Chi nhánh Thái Nguyên.
- Đề xuất các giải pháp góp phần khắc phục các hạn chế và hoàn thiện công
tác kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng tại BIDV Chi nhánh Thái Nguyên nhằm
đảm bảo ngân hàng hoạt động an toàn, hiệu quả, đạt được các mục tiêu đề ra.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo nội dung
của Luận văn gồm 4 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về kiểm soát nội bộ và kiểm soát nội
bộ đối với hoạt động tín dụng trong ngân hàng thương mại.
- Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.
- Chương 3: Thực trạng tác kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng tại BIDV
Thái Nguyên.
- Chương 4: Các giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát nội bộ hoạt động
tín dụng tại BIDV Thái Nguyên.
3
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN KIỂM SOÁT NỘI BỘ ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Lý luận về kiểm soát nội bộ
1.1.1. Khái niệm kiểm soát nội bộ
Có nhiều tổ chức khác nhau đưa ra các quan niệm về Kiểm soát nội bộ, hệ
thống kiểm soát nội bộ:
Uỷ ban chuẩn mực kiểm toán quốc tế (The International Auditing and

Assuarance Standards Board - IAASB) đưa ra khái niệm: “Kiểm soát nội bộ là toàn
bộ các biện pháp kiểm tra, kế toán hoặc các biện pháp khác do Ban Giám Đốc chịu
trách nhiệm xây dựng, áp dụng và giám sát nhằm mục đích bảo vệ tài sản của doanh
nghiệp, tính tin cậy của các ghi chép kế toán và của các báo cáo tài chính năm được
lập trên cơ sở các ghi chép đó, việc tuân thủ các quy chế và thủ tục hiện hành và
việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của doanh nghiệp” (ISA, 2009).
Viện kiểm toán độc lập Hoa Kỳ (American Institute of Certificated Public
Accountant- AICPA) đưa ra khái niệm về kiểm soát nội bộ như sau: “Kiểm soát nội
bộ bao gồm kế hoạch của tổ chức và tất cả các phương pháp phối hợp và đo lường
được thừa nhận trong doanh nghiệp để bảo đảm an toàn tài sản có của họ, kiểm tra
sự phù hợp và độ tin cậy của dữ liệu kế toán, tăng cường tính hiệu quả của hoạt
động và khuyến khích việc thực hiện các chính sách quản lý lâu dài” (AICPA).
Theo Liên đoàn kế toán quốc tế (The International Federation of Accountant-
IFAC) thì: “Hệ thống kiểm soát nội bộ là kế hoạch của đơn vị và toàn bộ các
phương pháp, các bước công việc mà các nhà quản lý doanh nghiệp tuân theo. Hệ
thống kiểm soát nội bộ trợ giúp cho các nhà quản lý đạt được mục tiêu một cách
chắc chắn theo trình tự và kinh doanh có hiệu quả kể cả việc tôn trọng các quy chế
quản lý; giữ an toàn cho tài sản, ngăn chặn, phát hiện sai phạm và gian lận; ghi chép
kế toán đầy đủ, chính xác, lập báo cáo tài chính kịp thời, đáng tin cậy” (IFAC).
Theo định nghĩa của Viện kiểm toán nội bộ quốc tế (Institute of Internal
Audit - IIA): “Hệ thống kiểm soát nội bộ của Ngân hàng là tập hợp bao gồm các
chính sách, quy trình, quy định nội bộ, các thông lệ, cơ cấu tổ chức của ngân hàng,
4
được thiết lập và được tổ chức thực hiện nhằm đạt được các mục tiêu của ngân hàng
và đảm bảo phòng ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời các rủi ro xảy ra” (IIA).
Báo cáo COSO (Committee of Sponsoring Organizations of the Treadway
Commission) năm 1992 đưa ra khái niệm như sau: “Kiểm soát nội bộ là một quá
trình do người quản lý, hội đồng quản trị, các nhân viên của đơn vị chi phối, nó
được thiết lập để cung cấp một sự đảm bảo hợp lý nhằm thực hiện ba mục tiêu dưới
đây: Báo cáo tài chính đáng tin cậy; Các luật lệ và qui định được tuân thủ; Hoạt

động hữu hiệu và hiệu quả.” (Báo cáo COSO, 1992)
Ngày 29/12/2011 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành thông tư số
44/2011/TT-NHNN quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ của
tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, hiệu lực thực hiện từ ngày
12/02/2012. Theo đó, hệ thống KSNB được hiểu là “tập hợp các cơ chế, chính sách,
quy trình, quy định nội bộ, cơ cấu tổ chức của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài được xây dựng phù hợp theo quy định tại Thông tư này và được tổ
chức thực hiện nhằm bảo đảm phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời rủi ro và đạt
được yêu cầu đề ra” (Thông tư 44/2011/TT-NHNN, 2011). Qua các khái niệm trên
có thể nhận thấy những đặc điểm nổi bật của hệ thống kiểm soát nội bộ là:
- Kiểm soát nội bộ là một chuỗi các hoạt động kiểm soát tồn tại ở mọi bộ
phận trong doanh nghiệp và được kết hợp với nhau thành một thể thống nhất. Nó là
phương tiện giúp doanh nghiệp đạt được các mục tiêu.
- Kiểm soát nội bộ không chỉ đơn thuần là những chính sách, thủ tục, biểu
mẫu… mà còn bao gồm những con người trong tổ chức. Chính con người định ra
mục tiêu, thiết lập cơ chế kiểm soát và vận hành chúng.
- Kiểm soát nội bộ cung cấp một sự đảm bảo hợp lý chứ không đảm bảo
tuyệt đối các mục tiêu được thực hiện. Trong quá trình vận hành, hệ thống kiểm
soát có thể tồn tại yếu kém, những sai lầm của con người dẫn đến mục tiêu không
được thực hiện. Kiểm soát nội bộ chỉ có thể ngăn ngừa và phát hiện những sai sót
nhưng không thể đảm bảo là chúng không xẩy ra. Hơn nữa, một trong những
nguyên tắc cơ bản để quyết định trong quản lý là chi phí cho quá trình kiểm soát
không được vượt quá lợi ích mong đợi từ quá trình kiểm soát đó. Do vậy, người
5
quản lý có thể nhận thức được mọi rủi ro nhưng nếu chi phí cho quá trình kiểm soát
quá lớn thì không thể áp dụng các thủ tục kiểm soát.
1.1.2. Các bộ phận cấu thành của hệ thống kiểm soát nội bộ
Dù đặc điểm hoạt động của mỗi tổ chức có khác nhau thì vẫn có 05 bộ phận
cấu thành hệ thống kiểm soát nội bộ, bao gồm:
1.1.2.1 Môi trường kiểm soát

Môi trường kiểm soát tạo ra sắc thái chung của một tổ chức, thông qua việc
chi phối ý thức kiểm soát của các thành viên. Môi trường kiểm soát là nền tảng cho
tất cả các thành phần khác của kiểm soát nội bộ. Những nhân tố của môi trường
kiểm soát được ghi nhận bởi báo cáo COSO 1992 gồm có:
a. Triết lý quản lý và phong cách điều hành
Triết lý quản lý thể hiện qua quan điểm và nhận thức của nhà quản lý. Phong
cách điều hành thể hiện qua cá tính, tư cách và thái độ của nhà quản lý khi điều
hành doanh nghiệp. Tiêu chí để đánh giá các nhân tố này bao gồm:
•Mức độ rủi ro kinh doanh mà nhà quản lý có thể chấp nhận - mạo hiểm hay
thận trọng.
•Sự tiếp xúc giữa nhà quản trị cấp cao và người quản lý điều hành.
•Thái độ và hành động đối với việc lập báo cáo tài chính bao gồm những
khuynh hướng khác nhau trong kế toán, áp dụng những nguyên tắc kế toán, mức độ
khai báo thông tin trên báo cáo tài chính và kể cả quan điểm về gian lận và giả mạo
chứng từ sổ sách.
b. Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức là việc thiết lập bộ máy thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp.
Cơ cấu tổ chức giúp cung cấp khuôn khổ trong đó hoạt động của tổ chức được lập
kế hoạch, thực hiện, kiểm soát và giám sát. Cơ cấu tổ chức cần xác định rõ quyền
hạn và trách nhiệm chủ yếu đối với từng hoạt động, xác định cấp bậc cần báo cáo
thích hợp. Cơ cấu tổ chức khác nhau tùy theo quy mô và đặc điểm của tổ chức. Cơ
cấu tổ chức thúc đẩy hoặc hạn chế việc thực hiện các hoạt động kiểm soát. Các tiêu
chí để đánh giá cho nhân tố này bao gồm:
• Sự thích hợp của cơ cấu tổ chức trong doanh nghiệp và khả năng cung cấp
thông tin cần thiết của nhà quản lý.
6
• Mức độ phù hợp giữa trách nhiệm theo cơ cấu tổ chức với nhận thức của
những người quản lý về nhiệm vụ đó.
• Khả năng đáp ứng về kiến thức, kinh nghiệm đối với nhiệm vụ được giao
của các nhà quản lý.

c. Phương pháp phân chia quyền hạn và trách nhiệm
Phương pháp phân chia quyền hạn và trách nhiệm là mức độ giao quyền từ
trên xuống của hệ thống tổ chức, là việc xác định mức độ tự chủ, quyền hạn của
từng cá nhân hay từng nhóm trong việc đề xuất và giải quyết vấn đề, trách nhiệm
báo cáo với các cấp có liên quan. Quyền hạn được giao tương xứng với trách nhiệm
và năng lực của từng thành viên. Mỗi người phải hiểu được công việc cụ thể họ sẽ
phụ trách và nó ảnh hưởng đến người khác như thế nào trong việc góp phần hoàn
thành mục tiêu của doanh nghiệp. Để phân chia quyền hạn và trách nhiệm phù hợp
cần dựa vào các tiêu chí sau đây:
• Phù hợp với mục tiêu của tổ chức, chức năng hoạt động, yêu cầu trách
nhiệm về hệ thống thông tin và quyền hạn thay đổi.
• Phù hợp với các tiêu chuẩn và thủ tục kiểm soát.
• Sự tương xứng giữa số lượng, năng lực của các thành viên, với mức độ
công việc và quy mô của doanh nghiệp.
d. Cam kết về năng lực
Cam kết về năng lực là việc người quản lý đặt yêu cầu các nhân viên đủ năng
lực cho công việc được giao. Yếu tố này giúp đáp ứng mục tiêu kiểm soát nội bộ,
đảm bảo thực hiện các yêu cầu của thủ tục kiểm soát. Vì vậy cam kết về năng lực
cần được cụ thể hóa thành các yêu cầu về kiến thức và kỹ năng cho mỗi công việc
cụ thể và cần cân bằng giữa chi phí và lợi ích. Tiêu chí đánh giá nhân tố này:
• Mọi công việc cụ thể trong tổ chức phải có bảng mô tả các tác vụ một cách
rõ ràng. Bảng mô tả này có thể dưới dạng một bảng mô tả công việc hoặc dưới một
hình thức khác.
• Mỗi công việc cần phải được phân tích về yêu cầu đối với kiến thức và kỹ năng.
e. Chính sách nhân sự
Chính sách nhân sự là các chính sách và các qui định liên quan đến việc
tuyển dụng, huấn luyện, đánh giá, bổ nhiệm, khen thưởng hay kỷ luật nhân viên. Nó
7
có ảnh hưởng quan trọng đến việc hạn chế rủi ro của kiểm soát nội bộ. Các chính
sách kiểm soát phụ trợ cũng không kém phần quan trọng như định kỳ thay đổi

nhiệm vụ của nhân viên để tránh và phát hiện gian lận, sai sót có thể xẩy ra. Nhà
quản lý cần phải thiết lập các chương trình động viên khuyến khích bằng các hình
thức khen thưởng và nâng cao mức khuyến khích cho các hoạt động nổi bật. Đồng
thời, các hình thức kỷ luật nghiêm khắc cho các hành vi vi phạm cũng cần được các
nhà quản lý quan tâm. Khi đánh giá về các chính sách nhân sự, cần dựa vào các tiêu
chí dưới đây:
• Chính sách và thủ tục cho việc tuyển dụng, huấn luyện, đề bạt và trợ cấp
thích hợp cho nhân viên.
• Có biện pháp điều chỉnh thích hợp cho sự khác biệt giữa các chính sách
nhân sự với các chính sách và thủ tục kinh doanh.
• Cần kiểm tra và lựa chọn các ứng cử viên có trình độ, năng lực và kinh
nghiệm phù hợp
• Mức độ phù hợp giữa sự duy trì nhân viên, tiêu chuẩn đề bạt, kỹ thuật đánh
giá khả năng làm việc, mối quan hệ về nguyên tắc đạo đức và các hành vi khác.
g. Sự liêm chính và giá trị đạo đức
Sự liêm chính và giá trị đạo đức là tính cách, bản chất của con người thể hiện
qua hoạt động hàng ngày trong một tổ chức. Nó chịu sự tác động của văn hóa tổ
chức. Những nhà quản lý cấp cao giữa một vai trò chủ đạo trong việc hình thành
văn hóa tổ chức. Sự hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ trước tiên phụ thuộc
trực tiếp vào sự liêm chính và tôn trọng các giá trị đạo đức của những thành viên
liên quan đến quá trình kiểm soát. Sự liêm chính và tôn trọng các giá trị đạo đức là
yếu tố chính của môi trường kiểm soát, nó tác động đến các thành phần khác của
kiểm soát nội bộ. Tiêu chí đánh giá nhân tố này bao gồm:
• Sự tồn tại quy định về đạo đức nghề nghiệp hoặc thông lệ kinh doanh được
chấp nhận, quy định xử lý các trường hợp mâu thuẫn về quyền lợi và những quy
định chuẩn mực về đạo đức khác. Những quy định này phải được áp dụng trong
thực tế.
• Quy định về cách đối xử với khách hàng, nhà cung cấp phải dựa trên một
tinh thần trung thực và công bằng.
8

• Loại bỏ sức ép đối với việc thỏa mãn mục tiêu phi hiện thực đặc biệt là đối
với những mục tiêu trong ngắn hạn, giới hạn phạm vi áp dụng phương pháp khuyến
khích vật chất đơn thuần dựa trên kết quả công việc.
h. Hội đồng quản trị và Ủy ban kiểm toán
Hội đồng quản trị và Ủy Ban kiểm toán là những thành viên có kinh nghiệm,
uy tín trong doanh nghiệp, giúp tạo lập môi trường kiểm soát tốt và giám sát bộ
máy quản lý. Ủy Ban kiểm toán trực thuộc hội đồng quản trị, gồm những thành viên
trong và ngoài hội đồng quản trị nhưng không tham gia vào việc điều hành doanh
nghiệp. Các nhân tố để xem xét và đánh giá sự hữu hiệu của Hội đồng quản trị và
Ủy ban kiểm toán là mức độ độc lập, kinh nghiệm, uy tín, mối quan hệ với bộ phận
kiểm toán nội bộ và kiểm toán độc lập.
1.1.2.2 Đánh giá rủi ro
Đánh giá rủi ro là bộ phận thứ hai của kiểm soát nội bộ, là quá trình nhận
dạng và phân tích những rủi ro ảnh hưởng đến việc đạt được mục tiêu, từ đó có thể
quản trị được rủi ro. Rủi ro là những nguy cơ làm cho mục tiêu của tổ chức không
thể thực hiện được, phát sinh từ các nguồn bên ngoài lẫn bên trong của tổ chức. Quá
trình đánh giá rủi ro bao gồm:
- Xác định mục tiêu: Xác định mục tiêu thật ra không phải là thành phần
của kiểm soát nội bộ nhưng là điều kiện tiên quyết, là cơ sở quan trọng để đánh
giá rủi ro.
+ Mục tiêu hoạt động:
• Thể hiện ở hiệu lực và hiệu quả các hoạt động
• Gắn với nhiệm vụ cơ bản của tổ chức
• Ảnh hưởng đến phân bổ nguồn lực
• Thay đổi theo sự lựa chọn của nhà quản lý
+ Mục tiêu tuân thủ:
• Tuân thủ quy định và pháp luật
• Tránh các nghĩa vụ pháp lý
• Phụ thuộc vào tiêu chuẩn bên ngoài
9

+ Mục tiêu báo cáo tài chính:
• Báo cáo tài chính đáng tin cậy
• Tăng khả năng huy động nguồn lực
• Phụ thuộc vào tiêu chuẩn bên ngoài
- Nhận dạng rủi ro: Rủi ro là những sự kiện làm suy giảm mục tiêu, gồm có
rủi ro về hoạt động, rủi ro về tuân thủ, rủi ro về báo cáo tài chính. Các nhân tố tác
động đến rủi ro gồm:
+ Nhân tố bên ngoài: Sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự thay đổi trong
nhu cầu của khách hàng, chiến lược hoặc hoạt động của đối thủ cạnh tranh, quy
định của luật pháp, thay đổi trong nền kinh tế, thảm họa thiên nhiên, …
+ Nhân tố bên trong: Hệ thống thông tin, năng lực người quản lý và nhân
viên, thay đổi người quản lý, …
Có thể sử dụng các phương pháp sau để nhận dạng rủi ro: sử dụng các kỹ
thuật phân tích (PEST, 5F, 7S…); thông qua việc nghiên cứu định kỳ sự thay đổi
của nền kinh tế, ngành nghề có thể ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức; thông qua
công tác lập kế hoạch chiến lược, dự toán ngân sách, …
- Phân tích rủi ro: là việc phân tích về mức độ thiệt hại và khả năng xảy ra
của rủi ro.
- Quản trị rủi ro: gồm lựa chọn chiến lược đối phó, xem xét quan hệ lợi ích
chi phí và xem xét quan hệ với mức rủi ro có thể chấp nhận được. Quản trị rủi ro
được tiến hành dựa trên kết quả của việc phân tích rủi ro, tuy nhiên đây là một phần
của quy trình quản lý, không thuộc về kiểm soát nội bộ.
1.1.2.3. Các hoạt động kiểm soát
Các hoạt động kiểm soát là tập hợp những chính sách, thủ tục để đảm bảo
cho các chỉ thị của nhà quản lý được thực hiện, là các hành động cần thiết cần thực
hiện để đối phó với rủi ro đe dọa đến việc đạt được mục tiêu của tổ chức. Có nhiều
loại hoạt động kiểm soát, dưới đây là một số hoạt động kiểm soát chủ yếu:
- Phân chia trách nhiệm: Không để cho một cá nhân nắm tất cả các khâu
trong quy trình nghiệp vụ từ khi phát sinh đến khi kết thúc. Phân chia trách nhiệm
giúp sai sót dễ phát hiện và gian lận khó xảy ra hơn.

10
- Xử lý thông tin: bao gồm các nội dung:
+ Ủy quyền và xét duyệt: đảm bảo nguyên tắc tất cả các nghiệp vụ đều phải
có người chịu trách nhiệm, tránh chồng chéo trong phê duyệt, cân bằng giữa ủy
quyền và xét duyệt trực tiếp, cần có quy định về cơ sở và dấu hiệu của sự phê duyệt.
+ Chứng từ: là công cụ kiểm soát quan trọng:
• Lập chứng từ: biểu mẫu chứng từ đầy đủ, đánh số trước liên tục, lưu một
bản tại bộ phận lập
• Lưu chuyển chứng từ qua các bộ phận lập để thực hiện xét duyệt và
kiểm soát
• Kế toán kiểm soát chứng từ trước khi ghi chép giúp đảm bảo nghiệp vụ
thực sự xảy ra
• Lưu trữ chứng từ giúp xác định trách nhiệm của người lập, người phê duyệt
và các bên liên quan.
+ Đối chiếu và xử lý khác biệt: Việc đối chiếu giúp phát hiện việc xử lý hoặc
ghi chép sai, bỏ sót hay trùng lắp của các bộ phận. Đối chiếu được thực hiện giữa
chứng từ với chứng từ, giữa sổ sách với sổ sách, giữa chứng từ với sổ sách, giữa sổ
sách với thực tế. Đối chiếu phải được thực hiện định kỳ và để lại dấu vết (biên bản
hoặc ký xác nhận). Các khác biệt được phát hiện thông qua đối chiếu phải được ghi
nhận, theo dõi và xử lý.
+ Kiểm tra độc lập: kiểm tra trước khi nghiệp vụ xảy ra và sau khi nghiệp vụ
xảy ra.
- Bảo vệ tài sản: là các hoạt động kiểm soát của doanh nghiệp nhằm giảm
thiểu rủi ro các tài sản của đơn vị bị mất mát, lãng phí, lạm dụng, hư hỏng, phá hoại
- Sử dụng các chỉ số hoạt động: Chỉ số hoạt động là thước đo những phương diện
khác nhau của các hoạt động trong đơn vị. Tính toán và so sánh các chỉ số hoạt động
giữa thực tế với tiêu chuẩn, giữa kỳ này với kỳ trước… giúp nhận dạng những thay đổi
bất thường hoặc không hợp lý để xác định nguyên nhân và có biện pháp thích hợp.
1.1.2.4. Thông tin và truyền thông:
Hệ thống này được thiết lập để mọi thành viên trong tổ chức có khả năng

nắm bắt và trao đổi thông tin cần thiết cho việc điều hành, quản trị và kiểm soát các
hoạt động.
11
- Thông tin: Thông tin là những tin tức cần thiết giúp từng cá nhân, bộ phận
thực hiện trách nhiệm. Những thông tin cần thiết phải được xác định, thu thập và
truyền đạt tới những cá nhân, bộ phận có liên quan một cách lịp thời và thích hợp.
Hệ thống thông tin của doanh nghiệp tạo ra các báo cáo, trong đó chứa đựng những
thông tin về tài chính, hoạt động hay tuân thủ, giúp cho nhà quản lý điều hành và
kiểm soát doanh nghiệp.
Hệ thống thông tin phải đạt được các yêu cầu sau: hỗ trợ cho chiến lược kinh
doanh, hỗ trợ cho sang kiến mang tính chiến lược, tích hợp với hoạt động kinh
doanh, phối hợp hệ thống thông tin cũ và mới.
Chất lượng thông tin phải đạt các tiêu chí sau: thích hợp, kịp thời, cập nhật,
chính xác và dễ truy cập.
- Truyền thông: là thuộc tính của hệ thống thông tin, là việc trao đổi và
truyền đạt các thông tin cần thiết tới các bên có liên quan cả trong lẫn ngoài doanh
nghiệp. Truyền thông bảo đảm các kênh thông tin bên trong và bên ngoài đều hoạt
động hữu hiệu.
1.1.2.5. Giám sát
Giám sát là bộ phận cuối cùng của kiểm soát nội bộ, là một quá trình đánh
giá đúng chất lượng của hệ thống kiểm soát nội bộ trong suốt thời kỳ hoạt động để
có các điều chỉnh và cải tiến thích hợp. Giám sát có một vai trò quan trọng, nó qiúp
kiểm soát nội bộ luôn duy trì sự hữu hiệu qua các thời kỳ khác nhau. Quá trình giám
sát được thực hiện bởi những người có trách nhiệm nhằm đánh giá việc thiết lập và
thực hiện các thủ tục kiểm soát. Giám sát được thực hiện ở mọi hoạt động doanh
nghiệp và theo hai cách: Giám sát thường xuyên và chương trình đánh giá độc lập.
1.1.3. Các hạn chế của hệ thống kiểm soát nội bộ
Một hệ thống kiểm soát nội bộ hữu hiệu chỉ có thể hạn chế tối đa các sai
phạm chứ không thể đảm bảo rủi ro, gian lận và sai sót không xẩy ra. Những hạn
chế vốn có của kiểm soát nội bộ bao gồm:

- Kiểm soát nội bộ khó ngăn chặn được gian lận và sai sót của người quản lý
cấp cao. Các thủ tục kiểm soát là do người quản lý đặt ra, nó chỉ kiểm tra việc gian
lận và sai sót của nhân viên. Khi người quản lý cấp cao cố tình gian lận, họ có thể
tìm cách bỏ qua các thủ tục kiểm soát cần thiết.
12
- Bất kỳ một hoạt động kiểm soát nào của kiểm soát nội bộ cũng phụ thuộc
vào yếu tố con người. Con người là nhân tố gây ra sai sót từ những hạn chế xuất
phát từ bản thân như: vô ý, bất cẩn, sao lãng, đánh giá hay ước lượng sai, hiểu sai
chỉ dẫn của cấp trên hoặc báo cáo của cấp dưới.
- Sự gian lận của nhân viên thông qua sự thông đồng với nhau hay với các bộ
phận bên ngoài tổ chức;
- Nhà quản lý lạm quyền: Nhà quản lý bỏ qua các quy định kiểm soát trong
quá trình thực hiện nghiệp vụ có thể dẫn đến việc không kiểm soát được các rủi ro
và làm cho môi trường kiểm soát trở nên yếu kém.
- Hoạt động kiểm soát chỉ tập trung vào các sai phạm dự kiến, do đó khi
xẩy ra các sai phạm bất thường thì thủ tục kiểm soát trở nên kém hữu hiệu thậm
chí vô hiệu.
- Chi phí thực hiện hoạt động kiểm soát phải nhỏ hơn giá trị thiệt hại ước
tính do sai sót hay gian lận xẩy ra.
- Những thay đổi của tổ chức, thay đổi quan điểm quản lý và điều kiện hoạt
động có thể dẫn đến những thủ tục kiểm soát không phù hợp.
Tóm lại, kiểm soát nội bộ cung cấp một sự đảm bảo hợp lý chứ không phải
đảm bảo tuyệt đối các mục tiêu được thực hiện. kiểm soát nội bộ chỉ có thể ngăn
ngừa và phát hiện những sai sót, gian lận nhưng không thể đảm bảo là chúng không
xẩy ra. Chính vì vậy, một hệ thống kiểm soát nội bộ hữu hiệu đến đâu cũng đều tồn
tại rủi ro nhất định. Vấn đề là người quản lý đã nhận biết, đánh giá và giới hạn
chúng trong mức độ chấp nhận được.
1.2. Lý luận về ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng của ngân hàng
thương mại
1.2.1. Khái niệm, chức năng của ngân hàng thương mại

1.2.1.1. Khái niệm
Ngân hàng thương mại đã hình thành tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn
liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống ngân hàng thương
mại (NHTM) đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền
kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao
13
nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở
thành những định chế tài chính không thể thiếu được.
Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM:
- Ở Mỹ: Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung
cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
- Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân hàng thương
mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của
công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài
nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”.
Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam thông qua ngày 16 tháng 06 năm 2010 có nêu: “Ngân hàng thương mại là
loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động
kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”.
Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định chế tài
chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản
là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn
cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ
của xã hội.
1.2.1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
Xét về mọi mặt thì ngày nay NHTM là loại tổ chức trung gian tài chính quan
trọng nhất phục vụ công chúng.
Việc các ngân hàng thương mại nắm giữ tài sản nhiều hơn mọi định chế tài
chính khác, hoặc các ngân hàng tượng trưng cho một gạch nối thiết yếu để chuyển các
chính sách kinh tế của chính phủ - đặc biệt là chính sách tiền tệ - đến các thành phần

còn lại của nền kinh tế là minh chứng đầu tiên thể hiện vai trò này của ngân hàng.
Mặt khác, tiền gửi ngân hàng là một trong những thành phần lớn nhất của
nguồn cung tiền cho nền kinh tế và những thay đổi về cung tiền có quan hệ chặt chẽ
đến sự thay đổi hàng hóa, giá cả dịch vụ, còn tín dụng ngân hàng và các dịch vụ
ngân hàng là nhu cầu thiết yếu của tất cả các chủ thể kinh tế, nó tạo ra khả năng
thực hiện toàn bộ quá trình kinh tế. Chính quyền cũng dựa vào ngân hàng như
14
nguồn tín dụng khi thâm hụt nguồn chi tiêu. Ngân hàng còn là nguồn lực chính
trong các thị trường trái phiếu, cổ phiếu.
Vai trò này có được là do ngân hàng thương mại thực hiện các chức năng
quan trọng sau:
- Trung gian tín dụng: Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức
năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi thực hiện chức năng trung
gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu
cầu về vốn. Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi
vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa
lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham
gia: người gửi tiền và người đi vay
- Trung gian thanh toán: Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các
doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như
trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc
nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác
theo lệnh của họ.
Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi
như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy
theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp.
Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp
chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một
phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế
sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức

năng này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh
toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
- Tạo tiền: Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của
NHTM. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại
và phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của
mình đã vô hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế.
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM
là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín
15
dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại
được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên
tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền
giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng
này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế,
đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Ngân hàng thương mại tạo tiền phụ
thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng trung ương đã áp dụng đối với
NHTM. Do vậy ngân hàng trung ương có thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền vào
nền kinh tế lớn.
1.2.2. Khái niệm, vai trò, các loại hình tín dụng ngân hàng
1.2.2.1. Khái niệm về tín dụng
Tín dụng là một loại giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho
vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh
nghiệp và các chủ thể khác), trong đó, bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi
vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách
nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên vay khi đến hạn thanh toán.
Theo điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng thì: “Cấp tín dụng là việc tổ chức
tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền có hoàn trả thông qua
các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các
nghiệp vụ khác” (Luật các tổ chức tín dụng, 2010).
Đặc trưng của tín dụng là: tín dụng có tính rủi ro, tín dụng mang yếu tố lòng

tin, tính thời hạn và tính hoàn trả.
1.2.2.2. Vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một nghiệp vụ chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của ngân
hàng và rủi ro trong kinh doanh cũng chủ yếu tập trung ở lĩnh vực này, sau đó là các
nghiệp vụ kinh doanh giao dịch và các nghiệp vụ khác. Vai trò của nó thể hiện trên
các mặt:
- Về mặt tài chính, đây là nghiệp vụ tạo thành bộ phận chủ yếu và quan trọng
của Tài sản Có của NHTM. Những yếu kém trong nghiệp vụ này sẽ làm cho tình
hình tài chính của NHTM bị đe dọa.
16
- Về mặt kinh doanh, cho vay là nghiệp vụ sử dụng vốn quan trọng nhất do
nó luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng thu nhập của ngân hàng. Vì hoạt động
kinh doanh của ngân hàng thương mại là kinh doanh tiền tệ tức huy động vốn tiền tệ
từ bên ngoài và sử dụng vốn huy động để kinh doanh tạo ra lợi nhuận từ thu nhập
lãi chênh lệch đầu ra và chi phí huy động vốn đầu vào nên ngân hàng luôn phải tính
toán việc sử dụng vốn sao cho hiệu quả nhất. Nghiệp vụ cho vay không những đem
lại thu nhập về tiền lãi cho ngân hàng mà còn là tiền đề kéo theo các dịch vụ khác
của ngân hàng phát triển như: thanh toán quốc tế thông qua nghiệp vụ tài trợ ngoại
thương, thẻ thanh toán và các giao dịch tài khoản tiền gửi.
- Đối với xã hội, hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại còn có vai trò
rất to lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội thông qua việc cung ứng
một khối lượng vốn lớn cho nền kinh tế nhằm phục vụ cho sản xuất kinh doanh, xây
dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng đầu tư, tạo việc làm, hỗ trợ tiêu dùng và nhu cầu làm
nhà ở cho dân cư.
1.2.2.3. Các loại hình tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng có rất nhiều loại hình tùy thuộc vào tiêu thức phân loại.
Tuy nhiên có một số cách phân loại chủ yếu sau:
- Phân loại theo thời gian: việc phân loại tín dụng theo thời gian có ý nghĩa
quan trọng đối với hoạt động ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an
toàn và sinh lợi của tổ chức tín dụng cũng như hoàn trả của khách hàng. Theo cách

phân loại này tín dụng được chia làm ba loại: tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn
và tín dụng dài hạn.
Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 năm trở xuống, được sử
dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi
tiêu ngắn hạn của cá nhân.
Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời có thời hạn từ trên 1 năm đến 5
năm, loại tín dụng này chủ yếu được sử dụng để đầu tư, mua sắm tài sản cố định,
cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng
các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Tín dụng dài hạn
chủ yếu để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như: xây dựng nhà ở, thiết bị, phương tiện
vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp lớn, xây dựng các dự án lớn.
17
- Phân loại theo hình thức tài trợ: gồm cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cho
thuê tài chính.
Cho vay: là một hình thức cấp tín dụng theo đó ngân hàng giao cho khách
hàng một khoản tiền để sử dụng vào một mục đích và trong một khoảng thời gian
nhất định theo thỏa thuận của hai bên với nguyên tắc có hoàn trả gốc và lãi.
Chiết khấu: là hình thức trao đổi trái quyền, cụ thể là ngân hàng ứng trước
cho khách hàng một khoản tiền tương ứng với giá trị thương phiếu mà khách hàng
có nhu cầu chiết khấu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương
phiếu chưa đến hạn.
Bảo lãnh: là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng với bên có quyền về
thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện
đúng nghĩa vụ đã cam kết, sau đó khách hàng phải nhận nợ và trả cho tổ chức tín
dụng số tiền đã được trả thay.
Cho thuê tài chính: là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách thuê
theo những thỏa thuận nhất định. Sau một thời gian nhất định, khách hàng phải trả
cả gốc và lãi cho ngân hàng. Đây thường là hoạt động tín dụng trung và dài hạn trên
cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là ngân hàng với khách hàng

thuê. Khi hết thời gian thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo
các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng thuê.
- Phân loại theo tài sản đảm bảo: việc phân loại theo tiêu thức này rất quan
trọng đối với các Ngân hàng, vì tài sản đảm bảo cho các khoản tín dụng cho phép
ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách phát mại tài sản đảm bảo đó để
thu nợ trong trường hợp nguồn thu nợ thứ nhất (từ quá trình sản xuất kinh doanh)
không đủ hoặc không có. Thông thường theo tiêu thức này tín dụng được chia thành
hai loại: tín dụng có bảo đảm và tín dụng không có bảo đảm.
Tín dụng có bảo đảm: là loại tín dụng mà khi cho vay, đòi hỏi người vay vốn
phải có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có bảo lãnh của người thứ ba.
Tín dụng không có bảo đảm (hay còn gọi là tín chấp): là loại tín dụng không
có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ ba mà việc cho vay chỉ
dựa vào uy tín của bản thân khách hàng.
18
- Phân loại theo ngành kinh tế:
Tín dụng nông nghiệp: là loại tín dụng phục vụ cho mục đích sản xuất kinh
doanh trong lĩnh vực nông nghiệp.
Tín dụng công nghiệp: là loại tín dụng phục vụ cho mục đích sản xuất kinh
doanh trong lĩnh vực công nghiệp.
Tín dụng thương mại dịch vụ: là loại tín dụng nhằm tài trợ cho hoạt động
cung ứng dịch vụ, mua bán, khách sạn, du lịch,…
Cách phân loại này cho phép ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh lợi gắn liền
với những lĩnh vực tài trợ chính để có chính sách khách hàng phù hợp.
Ngoài các tiêu thức trên, tín dụng còn có thể phân loại theo phương pháp cho
vay như tín dụng trực tiếp, tín dụng gián tiếp; theo phương pháp hoàn trả như tín
dụng trả góp, tín dụng phi trả góp; theo mục đích sử dụng như tín dụng tiêu dùng,
tín dụng sản xuất; theo đối tượng tín dụng như tín dụng tài trợ cho khách hàng lưu
động, tín dụng cho tài trợ tài sản cố định; theo mức độ rủi ro như tín dụng lành
mạnh, tín dụng có vấn đề, tín dụng quá hạn có khả năng thu hồi nợ, tín dụng quá
hạn khó thu hồi nợ…

Các cách phân loại này cho ta thấy tín dụng ngân hàng rất đa dạng và phong
phú, đóng vai trò quan trọng trong công tác quản lý của các NHTM nói riêng và của
nền kinh tế thị trường nói chung.
Tùy theo yêu cầu của khách hàng và các quy định cụ thể của Nhà nước đối
với việc cho vay của các NHTM, các NHTM có thể áp dụng các loại tín dụng phù
hợp cho kế hoạch của mình, đảm bảo lợi nhuận và an toàn tài sản Ngân hàng.
1.2.3. Rủi ro tín dụng
1.2.3.1. Khái niệm
Có nhiều khái niệm về rủi ro tín dụng nhưng chúng ta có thể rút ra các nội
dung cơ bản về rủi ro tín dụng như sau:
• Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu hồi được
đầy đủ cả vốn gốc và lãi của khoản vay hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không
đúng kỳ hạn đã thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng vay.
• Rủi ro tín dụng bắt nguồn từ sự yếu kém về tài chính của khách hàng, các
tác động bất thường của môi trường kinh doanh, sự giảm sút giá trị của tài sản đảm
bảo cho khoản vay và các nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan khác.
19
• Rủi ro tín dụng phát sinh cao sẽ ảnh hưởng đến sự an toàn về tài chính của
ngân hàng dẫn đến phát sinh rủi ro thanh khoản của ngân hàng do không thu hồi kịp
tiền để thanh toán các khoản vốn huy động phải trả đến hạn và có thể khiến cho
ngân hàng bị sụp đổ, phá sản.
1.2.3.2. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
- Nguyên nhân khách quan
Môi trường kinh doanh biến động ảnh hưởng đến khả năng tài chính và khả
năng trả nợ của khách hàng. Bên cạnh đó, thực lực về tài chính của khách hàng kém
và ỷ lại, chậm thích nghi với môi trường.
Khách hàng không có kế hoạch kinh doanh tốt, cụ thể, rõ ràng và hợp lý,
không dự báo trước đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng như thị trường, chi phí, cạnh
tranh, nguồn lực…Nói chung, thực lực của khách hàng kém.
Do tư cách của người vay kém, khách hàng không có phẩm chất tốt, gian lận.

Môi trường pháp lý, kinh tế vĩ mô chưa hoàn chỉnh
Thiếu thông tin kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế.
Tài sản đảm bảo do ngân hàng nắm giữ bị giảm sút giá trị
Các nguyên nhân khác về sự thay đổi điều kiện kinh doanh, bộ máy quản lý,
tình trạng gia đình của khách hàng vay, nguồn thu nhập, thiên tại, hỏa hoạn.
- Nguyên nhân chủ quan
Do chính sách của người điều hành ngân hàng muốn tăng chỉ tiêu dư nợ mà
không thực hiện đầy đủ các bước kiểm soát khi cho vay.
Do năng lực và trình độ của cán bộ tín dụng yếu kém
Nhân viên tín dụng không tìm hiểu kỹ và không đánh giá được tư cách
khách hàng.
Thông tin về khoản vay thu thập không đầy đủ đẫn đến cho vay sai mục
đích. Không phân tích rõ môi trường kinh doanh của khách hàng, nguồn thu nhập,
tài sản đảm bảo…
Không hiểu rõ nhu cầu của khách hàng vay, không cơ cấu khoản vay cho
phù hợp với luồng tiền của họ do không hiểu luồng tiền của khách hàng vay…
Quy trình tín dụng không đầy đủ và chặt chẽ, để sơ hở các yếu tố pháp lý
trên hợp đồng vay gây bất lợi cho ngân hàng.
20
Sự gian lận của nhân viên tín dụng, thông đồng với khách hàng.
Quản lý khoản cho vay kém, không thường xuyên kiểm tra, giám sát, từ đó
không phát hiện kịp thời những dấu hiệu có vấn đề.
1.3. Kiểm soát nội bộ đối với hoạt động tín dụng trong ngân hàng thương mại
1.3.1. Các yêu cầu và nguyên tắc hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ
Điều 4 Thông tư số 44/2011/TT-NHNN quy định về hệ thống kiểm soát nội
bộ và kiểm toán nội bộ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài ban
hành ngày 29/12/2011 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã nêu rõ các yêu cầu và
nguyên tắc hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ như sau:
- Các rủi ro có nguy cơ ảnh hưởng xấu đến hiệu quả và mục tiêu hoạt động
của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải được nhận dạng, đo

lường, đánh giá thường xuyên, liên tục để kịp thời phát hiện, ngăn ngừa và có biện
pháp quản lý rủi ro thích hợp. Khi có sự thay đổi về mục tiêu kinh doanh, sản phẩm,
dịch vụ và hoạt động kinh doanh mới, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài phải rà soát, nhận dạng rủi ro liên quan để xây dựng, sửa đổi, bổ sung các quy
trình, quy định kiểm soát nội bộ phù hợp.
- Hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ là một phần không tách rời các
hoạt động hằng ngày của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Kiểm
soát nội bộ được thiết kế, cài đặt, tổ chức thực hiện ngay trong mọi quy trình nghiệp
vụ tại tất cả các đơn vị, bộ phận của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài dưới nhiều hình thức như:
+ Phân cấp ủy quyền rõ ràng, minh bạch; bảo đảm tách bạch nhiệm vụ,
quyền hạn của các cá nhân, các bộ phận trong tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài;
+ Quy định về hạn mức rủi ro cụ thể đối với từng cá nhân, bộ phận trong
việc thực hiện giao dịch;
+ Quy trình thẩm định, chấp thuận và duyệt cho phép thực hiện giao dịch;
bảo đảm một quy trình nghiệp vụ phải có ít nhất 02 cán bộ tham gia, một người
thực hiện giao dịch và một người kiểm soát giao dịch, không có cá nhân nào có thể
một mình thực hiện và quyết định một quy trình nghiệp vụ, một giao dịch cụ thể,
21
ngoại trừ những giao dịch trong hạn mức được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài cho phép phù hợp với quy định của pháp luật.
- Phân cấp ủy quyền phải được thiết lập, thực hiện hợp lý, cụ thể, rõ ràng,
tránh xung đột lợi ích; bảo đảm một cán bộ không đảm nhiệm cùng một lúc những
cương vị, nhiệm vụ có mục đích, quyền lợi mâu thuẫn hoặc chồng chéo với nhau;
đảm bảo mọi cán bộ trong tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không
có điều kiện để thao túng hoạt động, không minh bạch thông tin phục vụ cho mục
đích cá nhân hoặc che giấu hành vi vi phạm quy định của pháp luật và quy định nội
bộ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
- Bảo đảm chấp hành chế độ hạch toán, kế toán theo quy định và phải có hệ

thống thông tin nội bộ về tài chính, về hoạt động, về tình hình tuân thủ trong tổ chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tình hình kinh tế, thị trường bên ngoài
hợp lý, tin cậy, kịp thời nhằm phục vụ cho công tác quản trị, điều hành hiệu quả.
- Hệ thống thông tin, công nghệ thông tin của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài phải được giám sát, bảo vệ hợp lý, an toàn và phải có cơ chế quản lý
dự phòng độc lập nhằm xử lý kịp thời những tình huống bất ngờ, bao gồm cả thiên
tai, cháy, nổ, hệ thống bị xâm nhập, đảm bảo tuân thủ các quy định về an toàn, bảo
mật hệ thống công nghệ thông tin của ngành ngân hàng, đảm bảo hoạt động kinh
doanh thường xuyên, liên tục của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
- Bảo đảm cán bộ, nhân viên của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài đều phải hiểu được tầm quan trọng của hoạt động kiểm soát nội bộ; vai trò
của từng cá nhân trong quá trình kiểm soát nội bộ có liên quan đến chức năng,
nhiệm vụ được giao và phải thực hiện đầy đủ, hiệu quả các quy định, quy trình kiểm
soát nội bộ liên quan.
- Người điều hành bộ phận, đơn vị nghiệp vụ và cá nhân có liên quan phải
thường xuyên xem xét, đánh giá về tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát
nội bộ; các tồn tại, bất cập của hệ thống kiểm soát nội bộ phải được báo cáo kịp thời
với cấp quản lý trực tiếp; các tồn tại, bất cập lớn có thể gây tổn thất hoặc nguy cơ
rủi ro phải được báo cáo ngay cho Tổng giám đốc (Giám đốc), Hội đồng quản trị,
Hội đồng thành viên, Ban kiểm soát.
22

×