Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tư tưởng người Việt thời kỳ Bắc thuộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.32 KB, 20 trang )

Dự án 2: Lịch sử tư tưởng người Việt thời kỳ Bắc thuộc

Phần 1: Bối cảnh lịch sử thời kỳ Bắc thuộc và chính sách Hán hóa của người
Hán

1.1. Bối cảnh lịch sử thời kỳ Bắc thuộc

Thời kì bắc thuộc lần thứ nhất trong lịch sử Việt Nam kéo dài từ khoảng thế
kỷ thứ 2 trước Công nguyên đến năm 40, dưới sự cai trị của phong kiến Trung
Quốc. Dấu mốc xác định thời kỳ đầu tiên này chưa thống nhất giữa các sử gia, do
quan niệm khác nhau về nước Nam Việt và nhà Triệu. Quan điểm thừa nhận nhà
Triệu là triều đại chính thống của Việt Nam (Đại Việt sử ký tồn thư, Khâm định
Việt sử thơng giám cương mục, Việt Nam sử lược) xác định rằng khi nhà Triệu bị
Hán Vũ Đế diệt năm 111 TCN là lúc bắt đầu thời Bắc thuộc. Theo mốc thời gian
này, thời Bắc thuộc lần 1 kéo dài 150 năm. Theo quan điểm này, thời Bắc thuộc
lần 1 thực chất là thời thuộc Hán. Đây cũng là quan điểm chung của các sử gia thế
giới . Quan điểm không thừa nhận nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt Nam
(Việt sử tiêu án, các sách Lịch sử Việt Nam của các sử gia hiện đại) xác định thời
Bắc thuộc bắt đầu từ khi Triệu Đà diệt An Dương Vương

Nhóm chúng tơi lựa chọn quan điểm khơng thừa nhận và sẽ tìm hiểu xun
suốt khoảng thời gian từ khi Triệu Đà xâm chiếm Âu Lạc. Năm 179 trước Công
nguyên, Triệu Đà vua nước Nam Việt đóng đơ ở Phiên Ngung (Quảng Đơng,
Trung Quốc ngày nay) xâm chiếm nước Âu Lạc (Việt Nam ngày nay), chia Âu Lạc
ra thành hai quận: Giao Chỉ và Cửu Chân. Năm 111 trước Công nguyên, nhà Hán
chiếm được nước Nam Việt, đối vùng đất của Âu Lạc, thành châu Giao Chỉ, dưới
đó là bảy quận, với chức quan đầu châu là thứ sử, đầu quận là thái thú. Lịch sử
người Âu Lạc sang trang, từ độc lập, tự do trở thành nô lệ và phụ thuộc, từ cộng
đồng người có quốc gia riêng biệt, trở thành những người thuộc các châu quận của

đế quốc Hán. Thời kỳ nô lệ dài đằng đẳng, từ năm 179 trước công nguyên đến năm


938, khi Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, mở đầu kỷ
nguyên độc lập của nước Đại Việt. Tổng cộng 1117 năm. Đây là thời kỳ đầy máu
và nước mắt, nhưng cũng là thời kỳ biểu hiện sức quật cường cũng như sự vươn
lên kỳ diệu của một tộc người.

1.2. Chính sách Hán hóa của người Hán

Đế quốc Hán vào, mâu thuẫn mới ở Việt Nam hình thành. Một bên của mâu
thuẫn là đế quốc Hán cùng bè lũ tay sai người Việt và một bên là nhân dân Việt
Nam yêu nước, căm thù giặc. Hai mặt làm nên mâu thuẫn đó ln đấu tranh với
nhau. Nét khác biệt so với giai đoạn trước Bắc thuộc là trên mảnh đất Việt Nam
cùng một lúc diến ra hai quá trình vận động, hai chiều hướng phát triển. Đó là
chiều hướng Hán hóa và chiều hướng chống Hán hóa, giữ gìn bản sắc của dân tộc
trên đất Việt. Cả hai chiều hướng đó đều tác động tới chung một đối tượng là đất
nước, xã hội và con người Việt Nam.

Hán hóa là hiện tượng rõ ràng, dễ nhận biết. Diễn ra trong suốt thời kỳ Bắc
thuộc. Các sử gia, các nhà tư tưởng của đế quốc phong kiến Hán thường giải thích
hiện tượng người Hán xâm lược và thống trị các nước khác là để thỏa chí "Trị
quốc, bình thiên hạ", để "Di Hoa biến Di" nghĩa là thực hiện trách nhiệm khai hóa.

Hán hóa đầu tiên là trên lĩnh vực chính trị - xã hội. Kẻ thống trị Hán có ý thức
di thực mơ hình tổ chức chính trị và sinh hoạt xã hội của Trung Hoa sang đất Việt,
cốt để tạo ra trên xử thuộc địa này một cơ cấu xã hội, một thể chế chính trị, một
phương thức canh tác và một tập tục nơi dân dã, v.v... như Trung Hoa. Trên thực
tế, chúng đã bắt người dân bản xứ học tập như người Hán, ăn mặc như người Hán,
tổ chức đời sống xã hội như người Hán, làm ruộng theo kỹ thuật Hán, v.v... Ngoài

ra chúng còn di dân từ phương Bắc xuống, cho hỗn canh hỗn cư với người Việt để
đễ nhiễm hóa. Các chính sách đó nói chung đã được thực thi và quán triệt trong

suốt thời kỳ Bác thuộc. Hán hóa tiếp theo và rõ nét là trên lĩnh vực hệ tư tưởng. Đó
là sự truyền bá các học thuyết, các tôn giáo của phương Đông, là sự du nhập đạo
Nho, đạo Lão-Trang, đạo Giáo, đạo Phật vào Việt Nam.

Phần 2: Tư tưởng người Việt thời kỳ Bắc thuộc

2.1. Tư tưởng bản địa của người Việt

2.1.1. Ở thời kỳ Bắc thuộc lần 1

Dấu mốc xác định thời kỳ đầu tiên này chưa thống nhất giữa các sử gia, do quan
niệm khác nhau về nước Nam Việt và nhà Triệu. Quan điểm thừa nhận nhà Triệu
là triều đại chính thống của Việt Nam (Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử
thông giám cương mục, Việt Nam sử lược) xác định rằng khi nhà Triệu bị Hán Vũ
Đế diệt năm 111 TCN là lúc bắt đầu thời Bắc thuộc. Theo mốc thời gian này, thời
Bắc thuộc lần 1 kéo dài 150 năm. Theo quan điểm này, thời Bắc thuộc lần 1 thực
chất là thời thuộc Hán. Đây cũng là quan điểm chung của các sử gia thế giới . Cịn
quan điểm cịn lại là khơng thừa nhận nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt
Nam (Việt sử tiêu án, các sách Lịch sử Việt Nam của các sử gia hiện đại) xác định
thời Bắc thuộc bắt đầu từ khi Triệu Đà diệt An Dương Vương. Sử cũ thường xác
định An Dương Vương và nước Âu Lạc bị tiêu diệt năm 207 TCN. Theo mốc thời
gian này, thời Bắc thuộc lần 1 kéo dài 246 năm. Sử hiện đại căn cứ theo ghi chép
của Sử ký Tư Mã Thiên là Triệu Đà diệt nước Âu Lạc “sau khi Lã Hậu mất”, tức là
khoảng năm 179 TCN. Theo mốc thời gian này, thời Bắc thuộc lần 1 kéo dài 218
năm.

2.1.1.1. Tư tưởng kinh tế

Cơ sở kinh tế thời kỳ này là nơng nghiệp với nơng cụ đá (rìu, cuốc đá), gỗ (mai,
vồ,…), nhiều công cụ đồng thau (lưỡi cuốc, cày, xẻng, rìu, hái…) và một số nơng

cụ sắt (có rìu sắt lưỡi xéo phỏng chế rìu đồng Đơng Sơn)…Lúa nước vẫn là cây
trồng chủ đạo. Bên cạnh đó, có nghề trồng dâu ni tằm, trồng bơng, đay, gai để có
cái mặc và có nhiều hoa quả như nhãn, vải, quýt, chuối,… Trong chăn ni, người
Việt có 5 giống gia súc là trâu, lợn, gà, dê, chó.

Nền sản xuất thủ cơng nghiệp Giao Chỉ tiếp tục có những bước phát triển, trên
cơ sở thủ công nghiệp truyền thống của Âu Lạc kết hợp với việc tiếp thu những
tinh hoa của dân Nam Việt. Đồ đồng Đông Sơn vẫn được sản xuất bên cạnh đồ
đồng vùng Lưỡng Quảng (đỉnh, biển hồ, gươm, qua, gương đồng…). Các sản
phẩm gốm ngồi gốm cổ truyền cịn có những sản phẩm chịu ảnh hưởng của phong
cách Nam Việt (như gốm văn in hình học, bình 4-5 thân dính liền nhau) và Hán
(đỉnh, bình, vị,…). Người Việt có nghề dệt cửi làm vải, nổi tiếng là vải cát bá (vải
bông) nhỏ sợi và rất mịn.

Từ khi nhà Hán chinh phục Nam Việt, người Việt tham gia hoạt động thương
mại nhiều hơn so với trước, do tác động của các thương nhân người Hán. Điểm
xuất phát của các thương nhân người Hán từ phương Bắc, khi đi và về đều qua
Nhật Nam mua bán thổ sản sau khi vòng qua trao đổi hàng ở các quốc gia ngoài
biển. Nhiều lái buôn người Hán đến buôn bán và trở nên giàu có. Sản vật địa
phương bn bán trao đổi bao gồm vải cát bá, đồi mồi, ngọc, voi, tê giác, vàng bạc,
hoa quả,…Việc buôn bán ở phương Đông thời Tây Hán đã phát triển. Do có vị trí
thuận lợi và phong phú sản phẩm nhiệt đới, Giao Chỉ trở thành một trạm quan
trọng về giao thông biển với các nước phía nam ngồi biển.

2.1.1.2. Tư tưởng văn hóa và xã hội

Ở thời Bắc thuộc lần 1 người Việt đã chịu ảnh hưởng lối sống, văn minh – văn
hóa Hán được truyền bá theo 2 cách: Truyền bá một cách ơn hịa qua giao lưu kinh
tế – văn hóa, qua di dân Trung Quốc và truyền bá một cách cưỡng bức thơng qua
đơ hộ hành chính qn sự.


Sự tồn tại của văn hóa Đông Sơn được các sử gia hiện đại đánh giá là sức sống
mãnh liệt của dân tộc Việt trước sự đồng hóa của phương Bắc. Có sự tồn tại song
song của hai nền văn hóa được các nhà nghiên cứu xác nhận: Trong cư trú, kiểu
Đông Sơn với nhà sàn và kiểu Hán với thành qch mơ hình nhà bằng đất, mơ hình
giếng nước, bếp lị, chuồng trại. Trong mộ tang, kiểu Đơng Sơn với mộ táng hình
thuyền và đồ tùy táng kiểu Đơng Sơn cịn kiểu Hán với mộ đất, quách gỗ và hiện
vật tùy táng kiểu Trung Quốc. Trong sinh hoạt, vừa có đồ gốm kiểu Đường Cồ,
gốm Đơng Sơn, rìu lưỡi xéo, trống đồng của người Việt truyền thống bên cạnh
bình, đỉnh miệng vng, đao sắt, kiếm, gương đồng, móc đai lưng.

Các sử gia hiện đại cho rằng: sự pha trộn văn hóa, đời sống giữa Hán và Việt
dẫn tới sự hỗn dung văn hóa cưỡng bức. Đời sống văn hóa – xã hội Việt chuyển từ
mơ hình Đơng Sơn cổ truyền sang mơ hình mới: Hán – Việt. Thời Bắc thuộc lần 1,
trong vịng hơn 200 năm khơng ghi nhận một cuộc nổi dậy chống đối đáng kể nào
của người Việt. Chỉ có những việc chống đối quy mơ tương đối nhỏ, giết quan lại
nhà Hán, dù trong nhiều năm đã khiến nhà Hán phải điều động quân đội từ Kinh
Sở (Hoa Nam) xuống trấn áp, nhưng không đủ mạnh để đuổi người Hán.

Trong thời kì này, đặc trưng cơ bản của văn hoá Việt là đấu tranh để bảo vệ
bản sắc văn hố của mình, bảo vệ dân tộc mình, chống lại chính sách đồng hoá,
đồng thời vẫn tiếp tục cố gắng phát triển, cố gắng duy trì và nung nấu quyết tâm
giải phóng đất nước và giải phóng dân tộc.

Từ trong các xóm làng cổ, người Việt thời Bắc thuộc vẫn bảo tồn và phát huy
cái vốn liếng văn hố bản địa, nội sinh tích luỹ được qua hàng nghìn năm trước.
Đành rằng trong suốt thời kì dài đằng đẵng đó, nhân dân ta phải sống cảnh “cá
chậu chim lồng” trong một cơ cấu văn minh ngoại lai. Nhưng xã hội bao giờ cũng
là xã hội của nhân dân, nhân dân vẫn trong một môi trường sinh thái cụ thể và
quen thuộc và không ngừng đấu tranh để phát triển sản xuất và văn hoá. Bất cứ lực

lượng xã hội nào, bất cứ bạo lực chính trị nào cũng khơng ngăn cản được sự phát
triển đó.

Ngay trong khi vay mượn, nhân dân ta vẫn thể hiện được tinh thần sáng tạo. Về
văn hoá vật chất, từ chỗ tiếp thu được kĩ thuật làm giấy của Trung Quốc thì nhân
dân ta đã biết tìm tịi khai thác ngun liệu địa phương (gỗ trầm; rêu biển) để chế
tác những loại giấy tốt chất lượng và có phần hơn giấy sản xuất ở miền nội địa
Trung Hoa. Trong khi chịu ảnh hưởng của kĩ thuật gốm sứ Trung Quốc thì ta vẫn
sản xuất ra các mặt hàng độc đáo như sanh hai quai (Trung Quốc chỉ có chảo), ống
nhổ, bình con tiện đầu voi, bình gốm có nạm hạt đá ở chung quanh cổ tựa như loại
“iang”của đồng bào Mơnông.

Người Việt thời kỳ này đã biết đấu tranh văn hóa, trước tiên là sự đấu tranh
thường xuyên chống âm mưu đồng hố của kẻ thù để bảo tồn nịi giống Việt. Biểu
hiện rõ rệt của sự bảo tồn giống nịi và văn hố Việt đặng chống đồng hố là sự
bảo tồn tiếng Việt; tiếng mẹ đẻ; tiếng nói của dân tộc. Tiếng nói là một thành tựu
văn hố, là một thành phần của văn hố. Tiếng Việt thuộc nhóm ngôn ngữ được
xác lập từ xưa ở miền Đông Nam Á và điều đó chứng tỏ cái gốc tích lâu đời, bản
địa của dân tộc ta trên dải đất này. Khi bị đế chế Trung Hoa chinh phục và kiểm
soát chặt chẽ thì tiếng Hán và chữ Hán được du nhập ồ ạt vào nước ta. Song nó
khơng thể tiêu diệt được tiếng Việt bởi một lí do rất đơn giản là chỉ một lớp người
thuộc tầng lớp trên học. Nhân dân lao động trong các xóm làng Việt cổ vẫn sống
theo cách sống riêng của mình cho nên họ duy trì tiếng nói của tổ tiên, tiếng nói

biểu hiện cuộc sống và tâm hồn người Việt. Tuy nhiên, dưới ách thống trị lâu năm
của người ngoài;, trong cuộc sống đã xảy ra những biến đổi về vật chất và tinh
thần;, đã nảy sinh những nhu cầu mới. Cho nên tiếng Việt cũng phải biến đổi và
phát triển. Trải qua nhiều thế kỉ;, tiếng Việt ngày càng xa với trạng thái ban đầu
của nó. Nó đã hấp thu những yếu tố ngơn ngữ Hán. Tiếng Việt có nhiều từ gốc
Hán. Nhân dân ta đã hấp thu ảnh hưởng của Hán ngữ một cách độc đáo, sáng tạo,

đã Việt hoá những từ ngữ ấy bằng cách dung, cách đọc và tạo thành một lớp từ mới
mà sau này người ta gọi là từ Hán- Việt.

Từ thời Hùng Vương, đã có một nền phong hố riêng của người Việt cổ tuy
cịn giản dị, chất phác. Bọn đô hộ cố sức đưa vào xã hội Việt cổ nhiều thứ lễ giáo
Trung Hoa (chủ yếu là lễ giáo của đạo Nho). Điều đó, nhất định ảnh hưởng đến
phong hố Việt Nam. Đó là điều khơng tránh khỏi. Và nhân dân ta có khả năng
thích ứng vơ hạn với mọi loại tình thế trong khi những truyền thống dân tộc và dân
gian của nền phong hoá Việt Nam vẫn được giữ gìn và phát triển.

Nếu một mặt lễ giáo Trung Hoa ít nhiều đã tăng cường sự áp chế trong gia
đình và củng cố chế độ phụ quyền thì mặt khác nó khơng thể ngăn cản được sự
củng cố ở một mức nhất định những truyền thống tích cực của xã hội làng xóm của
ta. Ví dụ như lịng tơn kính và biết ơn đối với cha mẹ tổ tiên (có ý kiến cho rằng sự
thờ cúng tổ tiên nảy sinh ở khu vực Đông Nam Á trước khi Nho giáo được truyền
bá tới miền này). Nét đặc biệt, là lịng tơn trọng phụ nữ của phong hố Việt cổ. Lễ
giáo Trung Hoa có đặc trưng là sự khinh miệt phụ nữ; cố sức thắt chặt họ vào cỗ xe
“tam tịng tứ đức” nhưng vẫn khơng ngăn cản được truyền thống dũng cảm đánh
giặc và lãnh đạo nhân dân đánh giặc của Hai Bà Trưng; Bà triệu…Vai trò của phụ
nữ trong gia đình và ngồi xã hội vẫn được đề cao. Cùng với phong tục dùng trống
đồng; nhiều tục lệ cổ truyền khác vẫn được giữ vững như tục cạo tóc hay búi tóc;
xăm mình; chơn cất người chết trong quan tài hình thuyền hay thân cây khoét rỗng;
tục nhuộm răng; ăn trầu cau…Tuy nhiên trong diễn trình lịch sử; nhiều phong tục

tập quán đã thay đổi. Từ tập quán giã gạo bằng chày tay (hình ảnh khắc trên trống
đồng); từ đầu công nguyên trở về sau; người Việt chuyển sang lối giã gạo bằng cối
đạp (theo hệ thống đòn bẩy). Từ tập tục ở nhà sàn; dần dần người Việt chuyển sang
ở nhà đất bằng…
2.1.2. Ở thời kỳ Bắc thuộc lần 2


2.1.2.1. Tư tưởng kinh tế

Từ đầu Công nguyên trở về sau, nước ta bước vào thời đại đồ sắt phát đạt
Những công cụ và vũ khí chủ yếu đều được chế tạo bằng sắt. Trên cơ sở đó nền
kinh tế cũng có những chuyển biến quan trọng.

Nông nghiệp thời kỳ này đã là một nền nơng nghiệp thâm canh có cánh đồng
trồng lúa, đất bãi trồng dâu, có vườn cây, ao hồ thả cá, thả rau có chuồng trại chăn
ni gia cầm, gia súc... Thủ cơng nghiệp cũng có những bước tiến đáng kế, bên
cạnh các nghề cổ truyền đã có thêm một số nghề học được từ nước ngồi. Có thể
kể ra một số nghề tiêu biểu như rèn sắt, gốm, làm gạch ngói, dệt, đan lát, làm
đường, làm giấy, chế tạo thủy linh, sản xuất đồ mỹ nghệ. Trên cơ sở phát triển của
nông nghiệp và thủ công nghiệp, việc bn bán trong và ngồi nước cũng có bước
phát triển mới.

Mạng lưới giao thông thủy bộ vẫn dựa vào những con đường và những phương
tiện giao thông truyền thống mà mở mang thêm lên. Việc trao đổi kinh tế giữa châu
Giao với nước ngoài cũng có tác dụng kích thích nhất định đối với nền kinh tế
trong nước. Một số mặt hàng thủ công của ta đã được xuất khẩu, một số kỹ thuật
nước ngoài cũng được nhân dân ta tiếp thu. Qua đó, việc giao lưu văn hóa giữa các
nước cũng được đấy mạnh.

2.1.2.2. Tư tưởng văn hóa xã hội

Trong xã hội, về cơ bản, tầng lớp hào trưởng địa phương người Việt vẫn dựa
trên cơ sở ruộng đất công hữu của các vùng, các cơng xã mà bóc lột nơng dân.
Người Việt khơng ngừng bảo tồn và củng cố cộng đồng xóm làng. Tuy nhiên, trên
cơ sở sức sản xuất phát triển mà sự phân hóa xã hội ngày một sâu sắc thêm. Những
mối quan hệ xã hội mới ra đời và phát triển, trong khi đó một số truyền thống cũ
của chế độ tù trưởng bộ lạc và công xã đã bị phá vỡ hay khơng cịn phát huy tác

dụng trong hồn cảnh lịch sử mới. Việc xoa bỏ cơ cấu bộ lạc, giữ lại và củng cố cơ
cấu xóm làng, tăng cường sự cố kết dân tộc, thích ứng với cơ cấu quận huyện- một
tổ chức có tính chất hành chính, địa vực là những chuyến biến quan trọng của xã
hội Việt Nam thời kỳ này.

Do không nắm được cơ sở bên dưới của xã hội, nhà Hán chủ trương muốn giữ
được đất đai mới chiếm thì phải thực hiện chính sách đồn điền. Chúng tiến hành
dời tội nhân, dân nghèo người Hán xuống ở lẫn với người Việt, xâm chiếm và khai
phá ruộng đất để lập đồn điền. Đồn điền là một loại ruộng quốc khố do chính
quyền đơ hộ trực tiếp quản lý. Một bộ phận nhân dân lao động bị trói buộc vào đồn
điền trở thành nơng nơ của chính quyền đơ hộ.

Do hậu quả của chế độ công phú, tô thuế nặng nề, chiến tranh tàn phá, ruộng đất
công bị cường hào chiếm đoạt mà nhiều thành viên công xã người Việt bị phá sản,
phải rơi xuống thân phận làm nô tì cho các nhà quyền q hay trở thành nơng dân
lệ thuộc, thuộc hạ của địa chủ quan lại địa phương.

Bên cạnh sự tồn tại phổ biến của làng xã, người Việt vẫn giữ được tính tự trị,
thời kỳ này đã xuất hiện một số đồn điền của chính quyền đơ hộ, một số trại ấp của
quan lại địa chủ gốc Hán, cũng như một số thị trấn và xóm làng của người Hoa. Sự
gia nhập của người Hoa không chỉ làm tăng thêm dân số mà cịn đưa thêm văn hóa
Hán vào xã hội Việt. Trái lại, do sinh sống lâu đời giữa một cộng đồng cư dân có

sức sinh tồn mạnh mẽ mà số người Hoa di cư sang Việt Nam cũng dần dần Việt
hố, hịa nhập vào cộng đồng cư dân Việt.

2.1.2.3. Tư tưởng yêu nước

Tầng lớp hào trưởng địa phương người Việt có ảnh hưởng lớn về kinh tế, chính
trị, xã hội trong dân chúng, song lại bị chính quyền đơ hộ, chèn ép nên có nhiều

mâu thuẫn với quan lại. chính quyền đơ hộ của ngoại bang. Họ chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ phong trào đấu tranh của dân chúng, trở thành thủ lĩnh các phong trào
đấu tranh đó và qua đấu tranh mà ý thức dân tộc của họ càng được bồi bổ, trưởng
thành. Họ dần dần trở thành người đại diện cho phong trào dân tộc, đứng ra tố chức
tập hợp lực lượng vùng lên lật đổ chính quyền đô hộ, giành lại nền độc lập.

Trong suốt mấy thế kỷ, hầu như khơng có thế kỷ nào là khơng có khởi nghĩa
của nhân dân, khơng một lúc nào bọn đô hộ phương Bắc được ăn ngon, ngủ yên.
Phong trào đấu tranh của nhân dân đang chuyển dần vai trò lãnh đạo từ các quý tộc
bộ lạc cũ sang các hào trưởng. Vào giữa thế kỷ VI,phong trào khởi nghĩa nhân dân
đã tiến lên cao trào làm nổ ra cuộc khởi nghĩa Lý Bí dẫn tới việc thành lập Nhà
nước Vạn Xuân. Đây là mốt cột mốc lớn, một đột phá hết sức quan trọng trong lịch
sử hơn nghìn năm chống Bắc thuộc của nhân dân ta.

2.1.3. Ở thời kỳ Bắc thuộc lần 3

Tư tưởng bản địa của người Việt thời kỳ này liên quan mật thiết tới việc chống
lại ách cai trị phương bắc đồng thời giữ vững bản sắc dân tộc

2.1.3.1. Tư tưởng yêu nước

Nổi bật trong tư tưởng Việt Nam thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba là tinh thần yêu
nước, ý chí độc lập dân tộc. Nhân dân ta đã liên tục nổi dậy chống lại ách áp bức

bóc lột của phong kiến phương Bắc. Nhiều cuộc khởi nghĩa đã diễn ra trong thời
kỳ này, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan, Phùng Hưng,...

2.1.3.2. Tư tưởng nhân văn

Trong tư tưởng Việt Nam thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba cũng có những giá trị

nhân văn cao đẹp như: tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái,...Những giá trị này
được thể hiện qua các câu ca dao, tục ngữ,...Cụ thể như

Về tư tưởng yêu nước: Lòng yêu nước thể hiện qua sự căm phẫn trước ách áp
bức bóc lột của phong kiến phương Bắc. Thể hiện qua tinh thần đoàn kết, tương trợ
lẫn nhau của nhân dân. Thể hiện qua ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; Ý chí
độc lập dân tộc thể hiện qua các cuộc khởi nghĩa chống lại ách đô hộ phương Bắc.
Thể hiện qua ý chí quyết tâm giành lại độc lập, tự chủ cho đất nước. Thể hiện qua
tinh thần quật cường, không chịu khuất phục trước kẻ thù.

Về tư tưởng giữ vững giá trị truyền thống dân tộc: Tiếng Việt vẫn được sử dụng
và phát triển, là ngơn ngữ chính thức trong đời sống xã hội. Nhiều tác phẩm văn
học bằng tiếng Việt được sáng tác như: "Bình Ngơ đại cáo", "Nam quốc sơn hà",...;
Phong tục tập quán thì các phong tục tập quán truyền thống như Tết Nguyên Đán,
Tết Trung Thu, cúng giỗ tổ tiên,... được duy trì. Lễ hội truyền thống như lễ hội
Gióng, Lễ hội Đền Hùng,... được tổ chức; Văn hóa dân gian, nền văn hóa dân gian
phát triển mạnh mẽ với các loại hình như ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích,...Các loại
hình nghệ thuật dân gian như: múa rối nước, hát chèo,... được phát triển.

Về tư tưởng nhân văn: Lòng yêu thương con người được thể hiện qua tinh thần
đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong cộng đồng. Thể hiện qua sự cưu mang, giúp đỡ
những người yếu thế, gặp khó khăn; Tinh thần đề cao đạo đức, phẩm chất con
người với lòng trung thực, hiếu thảo, biết ơn, ... Coi trọng tri thức, đề cao người có

học thức; Khát vọng tự do, hạnh phúc, mong muốn được sống trong hịa bình, ấm
no. Mong muốn được tự do, khơng bị áp bức, bóc lột.

Ví dụ như tinh thần đồn kết:nhân dân ta đã cùng nhau chống lại ách đô hộ của
phong kiến phương Bắc, giúp đỡ lẫn nhau trong những lúc khó khăn, hoạn nạn.
Hay ví dụ như lịng hiếu thảo: "Cơng cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước

trong nguồn". Tôn trọng, phụng dưỡng cha mẹ, ơng bà. Ví dụ về khát vọng tự do:
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư." Mong muốn
được sống trong hịa bình, độc lập.

Tư tưởng người Việt thời kỳ Bắc thuộc lần ba là một di sản văn hóa vơ giá, góp
phần tạo nên bản sắc dân tộc độc đáo của Việt Nam. Lòng yêu nước, ý chí độc lập
dân tộc, tinh thần quật cường, khơng chịu khuất phục trước kẻ thù là những giá trị
tiêu biểu cần được giữ gìn và phát huy.

2.2. Tư tưởng ngoại lai của quân xâm lược

2.2.1. Nho giáo

2.2.1.1. Lý do đưa vào Việt Nam

Nho giáo du nhập vào Việt Nam nhằm tạo nên cơ sở tư tưởng cho người Hán
đẩy nhanh việc thực hiện chính sách chính trị - xã hội cũng như các chính sách văn
hóa - xã hội khác. Và xã hội cũng như con người Việt Nam đã có những biến đổi.
Sự biến đổi phần thì do cưỡng bức, phần thì do ảnh hưởng tại chỗ. Hán hóa trong
mưu đồ của kẻ thống trị vì vậy đã đạt được một mức độ nhất định. Mức độ đó,
khơng hẳn chỉ là "hời hợt" và dừng lại: "trên bề mặt của xã hội Việt Nam mà là đã
có những nét thuộc chiều sâu trong cấu trúc xã hội cũng như trong hệ tư tưởng bản
xứ.

2.2.1.2. Mục đích

Mục đích của việc truyền bá Nho ở nước ta lúc bấy giờ là để đào tạo nên những
người làm việc cho chính quyền Hán. Trước hết là con em người Hán thống trị ở
Giao Châu và sau đó là những người chạy loạn từ Trung Quốc sang mà vì lí do nào
đấy đã ở lại. Nhưng người Việt cũng tham gia học, một số người yên tâm phục vụ

cho chính quyền đơ hộ, học Nho là để sử dụng. Nhưng cũng có một số người học
Nho là để nắm được kiến thức đương thời, để có thêm cơ sở suy nghĩ về tương lai
của đất nước mình cịn đang rối rắm, chưa tìm ra manh mối.

Chính quyền Hán đặt học hiệu tại các trung tâm châu trị, quận trị như Luy Lâu,
Long Biên, Tư Phố, Cư Phong, v.v... Một số người Việt đã học hành đỗ đạt và có
tên tuổi. Đời Hán Minh Đế (năm 68 - 75), một người Giao Châu tên là Trương
Trọng được các sử gia đánh giá là chăm học, ân nói giỏi, ơng được cử làm kế lại ở
Nhật Nam và sau được làm thái thú ở Kim Thành, Trung Quốc. Thế kỷ II có Lý
Tiến, người Giao Chỉ, thông hiểu kinh truyện, được bổ làm chức công tào ở quận,
rồi thâng dần lên đên chức kỵ đô úy, sau làm thái thủ quận Linh Lăng, Trung
Quốc, khoảng năm 184- 189 được cử làm thải sử Giao Châu. Thế kỷ III, có Lý
Căm, Bốc Long, v.v... đỗ hiểu liêm và mậu tài được làm quan ở Trung Nguyên.
Đến thế kỷ V, vào thời Đường hai anh em Khương Công Phụ và Khương Công
Phục, người Cửu Chân (Thanh Hóa) đều đổ học vị cao nhất lúc bấy giờ là tiến sĩ và
đều làm quan ở Trung Quốc v.v... Đó là những người đỗ đạt cao, được sử sách ghi
lại. Cịn những người khác, khơng có danh vọng, chắc là nhiều.

2.2.1.3. Phương thức đưa vào

Giao Châu lúc bấy giờ là mảnh đất tương đối yên ổn, nhiều nhà nho Trung
Quốc chạy sang nương náu và sáng tác học thuật. Trong số những viên quan cai trị,
nhiều người có học vấn cao, thậm chỉ có người đứng vào bậc nhất của Trung Quốc
đương thời. Thí dụ Si Nhiếp, Ngu Phiên chuyên giảng giải sách Đạo đức kinh của

Lão Tử, và các sách Luận ngữ, Quốc ngữ của đạo Nho. Bố của Ngu Phiên là Hâm
làm thái thú Nhật Nam rất giỏi về Kinh Dịch.

Tình hình trên làm cho người Giao Châu dần dần làm quen với Nho giáo, rồi từ
đó có sự thay đổi trong nhận thức, trong thái độ đối với Nho: từ phản ứng đến tiếp

thụ, từ xa lạ đến gần gũi, từ cơng cụ của kẻ bên ngồi trở thành cơng cụ của bản
thân mình. Hiện tượng này ở cuối thời Bắc thuộc đã biểu hiện rõ.

Nho giáo vào Việt Nam, có thể nói là từ khi người Hán đến đất ta từ trước Công
nguyên nhưng việc truyền bá có nề nếp là từ thế kỷ I sau Công nguyên. Sử Trung
Quốc ghi lại rằng, thời đầu Công nguyên, hai thái thủ ở Giao Chỉ và Cửu Chân là
Nhâm Diễn và Tích Quang đã "dựng học hiệu để dạy lễ nghĩa". Truyện Nhâm Diên
trong Hậu Hàn thư đã ca tụng Nhâm Diên là người thông minh học rộng về Nho từ
khi còn bé, 12 tuổi đã hiểu rõ nội dung của Kinh thi, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và
nổi tiếng ở nhà Thái học Trung Quốc. Đến thế kỷ II, khi Sĩ Nhiếp làm thái thú
Giao Chỉ thì việc học Nho ở nước ta đã tương đối phổ biến. Nhiều sĩ phu Trung
Quốc đến nương nhờ Sĩ Nhiếp đều mở trường dạy Nho học.

2.2.1.4. Thái độ người Việt với tư tưởng

Nho giáo đã cho rằng Nho giáo là một học thuyết vô thần. Thực ra, tuy Nho
giáo, nhất là Khổng Tử, có lúc quan niệm trời như là một thế giới có sự vận hành
tự nhiên (Thiên hà ngôn tai! tứ thời hành n, vạn vật sinh n), có lúc kính trọng
quỷ thần nhưng xa lánh quỷ thần, nhưng bản chất tư tưởng của Khổng Tử không
phải là duy vật hay vô thần. Đúng là ông không coi trọng, không đi sâu nghiên cứu
vấn đề quan hệ giữa thể xác và linh hồn, vấn đề có hay khơng có cuộc sống sau khi
con người chết đi, có hay khơng có ma quỷ, nhưng tư tưởng của ơng vẫn là duy
tâm và có đơi nét thần bí. Thể hiện ở khái niệm "mệnh trời" (Thiên mệnh). Khống
Tử cho rằng người quân tử có ba điều sợ, mà điều sợ thứ nhất là sợ mệnh trời (úy

thiên mệnh - Luận ngữ - thiên Quý thị). Ông cịn nói: "sống chết có mệnh", "khơng
biết mệnh thì khơng phải là người quân từ)". "Năm mươi tuổi thì biết được mệnh
trời". Tư tưởng này của Khổng Tử đến Hán Nho thì phát triển thành thuyết duy
tâm mục đích luận thần học với luận đề "thiên nhân cảm ứng" (trời và người cảm
ứng với nhau), cho tất cả đều là do trời định. Điều này thể hiện sự bất lực của Nho

giáo. Và do bất lực đó mà từ Hán Nho về sau, khuynh hướng vương quyền kết hợp
với thần quyền ngày một rõ.

Nho giáo với nội dung như trên hồn tồn khơng phù hợp với một xã hội vừa
mới thoát thai từ thời Văn Lang - Âu Lạc, với chế độ lạc hầu, lạc tưởng như xã hội
nước ta hồi đầu Bác thuộc. Dân ta lúc bấy giờ không cần Nho giáo. Nho giáo vào
nước ta là do bọn thống trị Trung Quốc áp đặt. Thế nhưng tình hình về sau có
khác. Khi nền tảng và cơ cấu xã hội Việt Nam ít nhiều đã mang tính chất của
phương Bắc thì Nho giáo lại là một yêu cầu, một thứ học thuật tư tưởng mà người
trong nước cần phải tiếp thụ. Tất nhiên trong thời kỳ Bắc thuộc khuynh hướng này
chưa mạnh mẽ như sau khi đất nước giành được độc lập. Nhưng định hướng cho
phát triển sau này thì đã rõ ràng.

2.2.2. Đạo giáo

Cùng với đạo Nho, đạo Lão - Trang và Đạo giáo cũng được truyền sang Việt
Nam từ Trung Quốc và trở thành một bộ phận trong tư tưởng và quan niệm của
người Việt. Đạo Lão - Trang do Lão Tử sáng lập và Trang Tử là người phát triển.
Đạo Lão - Trang là một trong những đạo đối lập với đạo Nho trên nhiều lĩnh vực.

2.2.2.1. Lý do đưa vào Việt Nam

Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam từ khoảng cuối thế kỷ thứ 2. Đạo giáo có hai
phái tu là nội tu và ngoại dưỡng, phái nội tu phổ biến ở Việt Nam hơn. Khi các
triều đại Trung Hoa thống trị Việt Nam trong thời kỳ Bắc thuộc, các triều đại

Trung Hoa đã đưa Đạo giáo vào Việt Nam như một phần của việc thống nhất văn
hóa và tơn giáo trong vùng.

Sách Đạo Tạng kinh ghi: “Sau khi vua Hán Linh đế băng hà, xã hội (Trung

Hoa) rối loạn, chỉ có đất Giao Châu là yên ổn. Người phương Bắc chạy sang lánh
nạn rất đông, phần nhiều là các đạo sĩ luyện phép trường sinh theo cách nhịn ăn”.
Nhiều quan lại Trung Hoa sang ta cai trị đều sính phương thuật (như Cao Biền đời
Đường từng lùng tìm yểm huyệt, hi vọng cắt đứt các long mạch để triệt nguồn
nhân tài Việt Nam).

2.2.2.2. Thái độ người Việt với tư tưởng

Trong khi Nho giáo chưa tìm được chỗ đứng ở Việt Nam thì Đạo giáo đã tìm
thấy ngay những tín ngưỡng tương đồng có sẵn từ lâu như tín ngưỡng ma thuật nên
Đạo giáo dễ dàng ăn sâu vào trong tư tưởng người Việt. Từ xa xưa người Việt
Nam từ miền núi đến miền xuôi đã rất sùng bái ma thuật, phù phép; họ tin rằng các
lá bùa, những câu thần chú… có thể chữa bệnh, trị tà ma, có thể làm tăng sức
mạnh, gươm chém không đứt... Ngay các nhà sư cũng phải học các phép trị bệnh,
trừ tà thì mới đưa Phật giáo thâm nhập sâu vào dân chúng vốn có tín ngưỡng ma
thuật được.

Vì vậy, dễ hiểu là tại sao Đạo giáo, trước hết là Đạo giáo phù thủy, đã thâm
nhập nhanh chóng dễ dàng với tín ngưỡng ma thuật cổ truyền tới mức khơng cịn
ranh giới. Đạo phù thủy đã hịa quyện với những đền miếu, tín ngưỡng dân gian cổ
truyền và sớm có vị trí trong cuộc sống tâm linh người Việt.

2.2.3. Phật giáo

2.2.3.1. Lý do đưa vào Việt Nam

Việt Nam nằm ở giao điểm của các tuyến đường thương mại và văn hóa, tạo
điều kiện cho việc truyền bá Phật giáo từ Ấn Độ qua các con đường thương mại
như Đường tơ lụa. Sự tiếp xúc với các văn hóa khác nhau qua các mối quan hệ
thương mại và giao lưu văn hóa đã đưa Phật giáo từ Ấn Độ sang Việt Nam. Trung

tâm Phật giáo Luy Lâu được hình thành đầu Cơng Ngun do sự truyền bá trực
tiếp của các tăng sĩ Ấn Độ và sau đó lại được tiếp tục truyền bá từ các nhà sư
Trung Quốc. Chính giáo lý Phật giáo cũng đóng vai trị quan trọng trong sự du
nhập của nó vào Việt Nam. Ngun lý về lịng từ bi, sự giác ngộ, và lối sống nhẹ
nhàng đã thu hút sự quan tâm và chấp nhận của người dân Việt. Giáo lý Phật giáo
hướng tới tìm kiếm sự bình an tinh thần, lý tưởng giáo lý, và sự ảnh hưởng văn
hóa. Khơng chỉ mang lại niềm tin tâm linh mà cịn ảnh hưởng tích cực đến đời
sống hàng ngày và giáo dục đạo đức của cộng đồng. Do đó, giáo lý Phật giáo có
thể coi là một yếu tố quan trọng giúp hình thành và củng cố sự gắn bó giữa Phật
giáo và Việt Nam.

2.2.3.2. Mục đích

Mục đích rõ ràng và thiết thực của đạo Phật. Đó là giúp mọi người nhìn thấy và
thực hành con đường mà Phật đã chỉ ra để dần dần giải thoát khỏi những khổ đau
và ô nhiễm của thân tâm, mang lại phúc lợi và hạnh phúc cho mọi người. Và mục
đích, đích đến cuối cùng là của đạo Phật là sự giải thốt hồn tồn, là Niết bàn
(vimutti, nibbana)

Lời dạy của Đức Phật hướng đến khai giảng chân lý và con đường Trung Đạo
như là một tầm nhìn, mang lại tri thức, dẫn đến sự bình an và trí tuệ bên trong, dẫn
đến sự giác ngộ, và Niết bàn (trạng thái được giải thốt hồn tồn khỏi mọi ơ
nhiễm và khổ đau). Có nghĩa rằng Đức Phật đã khai giảng đạo Phật với mục đích
là chỉ ra con đường giải thoát khỏi khổ đau, những khổ đau vốn kết quả của những

dục vọng và ơ nhiễm trong tâm. Dục vọng chính là nguyên nhân tạo ra những khổ
đau và vòng sống-chết luân hồi..

2.2.3.3. Phương thức đưa vào


Phật giáo truyền vào Việt Nam vào khoảng thế kỷ đầu công nguyên, theo hai
con đường. Theo đường bộ, từ Ấn Độ truyền bá vào Trung Quốc theo "con đường
tơ lụa" rồi từ đây sang Việt Nam Theo đường biển, từ Ấn Độ theo các thương
thuyền dọc bờ biển Đông Dương, Nam Dương. Dưới thời A dục vương trị vì tại
Ấn Độ (từ năm 273 đến 232 trước CN), nhờ sự ủng hộ của nhà vua nên đạo Phật
đã được truyền đi nhiều xứ sở bên ngoài Ấn Độ. Các thương nhân người Ấn theo
đường biển đã đến Giao Chỉ buôn bán và mang theo đạo Phật mới mẻ đến xứ này.
Sau đó đến lượt các tăng sĩ người Ấn tới đây truyền đạo, góp phần lập ra trung tâm
đạo Phật tại Luy Lâu (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam),
một trong những trung tâm lớn nhất của đạo Phật tại phương Đông đầu Công
nguyên cùng với hai trung tâm Lạc Dương và Bành Thành (nay thuộc Trung
Quốc). Từ thế kỷ 2, Giao châu đã thành lập những tăng đoàn, dịch kinh Phật, xây
dựng chùa và sáng tác sách nói về kinh Phật. Những kinh điển Phật giáo đầu
tiênđược phiên dịch tại Giao châu là Tứ thập nhị kinh và Lý hoặc luận. Phật giáo
có tinh thần hịa đồng với các tín ngưỡng dân gian và các tơn giáo khác như Nho
giáo và Đạo giáo. Các nhà truyền giáo nổi tiếng thời này gồm có Khâu Đà La , Chi
Cương Lương , Ma Ha Kỳ Vực

2.2.3.4. Thái độ của người Việt với tư tưởng

Người Việt Nam hưởng ứng và tiếp thu rất mạnh tinh thần Phật giáo. Trong ba
tơn giáo thì Phật giáo là tơn giáo phát triển nhất và có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất
trong thời kỳ ngàn năm Bắc thuộc. Các nhà nghiên cứu lý giải cho điều này rằng:

Phật giáo đến bằng con đường hịa bình, khơng giống như Nho giáo đến bằng con
đường chinh phạt cưỡng bức.

Phật giáo Giao châu còn gắn liền với tín ngưỡng dân gian, được dân gian hóa và
phong tục hóa, thể hiện tâm lý, lịng mong ước và thế giới quan của người nông
dân trồng lúa nước ở đồng bằng sơng Hồng mà điển hình là tín ngưỡng thờ Tứ

Pháp ở vùng Dâu . Phật giáo đến Việt Nam không những làm mất địa vị độc tôn
của Nho giáo văn minh Trung Hoa, mà còn thu hút hầu hết thiện cảm của người
Việt nhờ tính chất nhu hịa của tôn giáo này.

2.2.4. Sự ảnh hưởng của các tư tưởng ngoại lai

Về việc tiếp thu các tư tưởng bên ngồi thì nho giáo được du nhập vào
Việt Nam từ thời Bắc thuộc lần thứ hai và trở thành hệ tư tưởng chính thống
trong thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba. Nho giáo đề cao đạo đức, lễ nghĩa, trung
quân ái quốc, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của người Việt. Tuy
nhiên, Nho giáo thời kỳ này cũng có những hạn chế như: tư tưởng trọng nam
khinh nữ, trung quân mù quáng,...và chỉ được truyền bá và phát triển trong
tầng lớp trên, chưa có ảnh hưởng rộng đến dân chúng. Cịn Đạo giáo thì có
sự ảnh hưởng sâu rộng hơn đến đời sống tinh thần của người Việt trong thời
kỳ Bắc thuộc lần thứ ba. Đạo giáo đề cao sự trường sinh bất lão, ảnh hưởng
đến một số nghi lễ tín ngưỡng của người Việt. Riêng Phật giáo thì đây là tơn
giáo phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba. Phật giáo mang
đến cho người Việt những giá trị tinh thần mới như: lòng từ bi, bác ái, bình
đẳng,...Ngồi ra cũng góp phần thúc đẩy sự phát triển văn hóa, giáo dục,
nghệ thuật,...Phật giáo gần gũi với tín ngưỡng dân gian của người Việt nên
được dân chúng tin theo.

2.3. Mối quan hệ giữa tư tưởng bản địa của người Việt và tư tưởng ngoại lai

Nhìn chung, dù là Nho, Đạo hay Phật truyền vào Việt Nam bằng con đường nào,
trong hoàn cảnh nào, thì khuynh hướng thích nghi và hịa nhập với tín ngưỡng dân
gian cổ truyền của người Việt vẫn là khuynh hướng chủ đạo. Khuynh hướng xâm
nhập lẫn nhau, hịa quyện vào nhau giữa các tơn giáo, tín ngưỡng bản địa và ngoại
lai đã tạo nên sắc thái đa ngun và hỗn hợp trong cuộc sống tơn giáo, tín ngưỡng


Việt Nam.


×