DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Nguyên nghĩa
BTC Bộ Tài Chính
CBVC Cán bộ viên chức
CCT Chi Cục thuế
CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CP Chính Phủ
CT Chỉ thị
CTK Cục Thống kê
DN Doanh nghiệp
DNNN Doanh nghiệp Nhà nước
ĐTNT Đối tượng nộp thuế
HNKTQT Hội nhập Kinh tế quốc tế
KTQT Kinh tế quốc tế
KT-XH Kinh tế - xã hội
NĐ Nghị định
NLĐ Người lao động
NNT Người nộp thuế
NQ Nghị quyết
NSNN Ngân sách Nhà nước
QLTT Quản lý thu thuế
TNC Thu nhập cao
TCT Tổng Cục Thuế
TNCN Thu nhập cá nhân
TNDN Thu nhập doanh nghiệp
TT Thông tư
UBND Uỷ Ban Nhân dân
VAT Thuế giá trị gia tăng
XHCN Xã hội Chủ nghĩa
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
ii
DANH MỤC CÁC HÌNH, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
1. Hình:
iii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua hai cuộc cải cách thuế, ngành thuế đã hình thành được một hệ thống
chính sách thuế bao quát được hầu hết các nguồn thu của đất nước và luôn được sửa
đổi bổ sung hoàn thiện kịp thời phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của
đất nước, đã trở thành công cụ của Đảng và Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế
theo hướng khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu, thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, phát triển sản xuất kinh doanh và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Hệ
thống quản lý thuế đã xây dựng và không ngừng được kiện toàn, đảm bảo thực thi
tốt và thống nhất các luật thuế trong cả nước. Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy quản lý
thuế ngày càng được nâng cao. Nhờ vậy, công tác thuế của Đảng và Nhà nước ta đã
góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế, xã hội. Đất nước ta đã thoát khỏi thời
kỳ khủng hoảng kinh tế kéo dài, lấy đà tăng trưởng cao trong hơn một thập kỷ qua.
Số thu từ thuế và phí đã trở thành nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước năm
sau cao hơn năm trước, nhất là các năm gần đây và đã góp phần đảm bảo công bằng
xã hội, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong cơ
chế thị trường.
Thực hiện Luật Quản lý thuế, các Luật thuế và các văn bản hướng dẫn thi
hành của Nhà nước, công tác thu ngân sách ở tỉnh Thái Nguyên đã có nhiều tiến bộ,
năm 2008 số thu ngành thuế bao gồm cả thuế và phí mới đạt 1.000 tỷ đồng nhưng
đến năm 2012 số thu vượt 3.000 tỷ đồng.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của thời kỳ CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh
tế quốc tế, công tác thuế của nước ta hiện nay vẫn còn tồn tại chủ yếu như: chính
sách thuế chưa thực sự đồng bộ, còn phức tạp, một số sắc thuế còn nhiều mức thuế
suất, lồng ghép nhiều chính sách xã hội, nhiều mức miễn giảm; bộ máy thanh tra,
kiểm tra xử lý vi phạm về thuế, quản lý nợ và cưỡng chế thuế thì còn quá nhỏ so với
yêu cầu quản lý thuế Hơn nữa quy mô của doanh nghiệp ngày một lớn, không
còn bó hẹp trong một địa phương mà ngày càng quốc gia hoá, toàn cầu hoá; hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng đa dạng và phong phú. Việc quản trị
kinh doanh và các hoạt động thương mại của doanh nghiệp ngày càng tiên tiến, điện
tử hoá và tin học hoá. Vì vậy nếu không cải cách và hoàn thiện công tác quản lý
thuế thì không theo kịp và đáp ứng được sự phát triển nhanh chóng và hiện đại hoá
của doanh nghiệp. Quá trình cải cách thuế nhằm tạo hành lang pháp luật trong chính
sách thuế, quản lý thuế, nâng cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc
thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, đồng thời từng bước điều chỉnh các sắc
thuế phù hợp với lộ trình hội nhập quốc tế.
1
Mặt khác, khi Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO và để nâng cao năng
lực cạnh tranh quốc gia, tất cả các chính sách thuế hiện hành đều đã được thay đổi
theo hướng giảm nghĩa vụ thuế phù hợp với các cam kết của WTO và các định chế
quốc tế. Từ năm 2000 đến nay, thuế chuyển quyền sử dụng đất được giảm tới 25
lần, thuế trước bạ giảm 50%. Hiện nay, ngành thuế cũng đã xóa bỏ trên 300 loại
phí không cần thiết, một số loại như phí đường bộ, hàng hải giảm tới 30% - 40%.
Theo tính toán ban đầu, khi cắt giảm các loại thuế và chi phí này, Nhà nước bị thất
thu trên 1.000 tỷ đồng. Hiện ngân sách Nhà nước phụ thuộc vào 3 khoản thu chủ
yếu gồm xuất nhập khẩu chiếm 25% ngân sách, tương đương khoảng 60 nghìn tỷ
đồng mỗi năm. Số thu từ xuất khẩu dầu thô khoảng 25%. Như vậy còn khoảng 50%
ngân sách Nhà nước là các khoản thu nội địa, nhưng khoản thu nội địa này cũng
đang một ngày giảm do chính sách thuế liên tục được thay đổi để thực hiện theo
cam kết. Tính đến thời điểm này đã có tới trên 1.000 dòng thuế được cắt giảm.
Chính vì thế để bù đắp cho sự giảm sút này Chính phủ cần quan tâm hơn đến thuế
trực thu. Tuy nhiên, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp cũng nên giảm dần tới
mức tương ứng với các nước trong khu vực nhằm khuyến khích hoạt động sản xuất
kinh doanh. Vì vậy, Chính phủ đã có những biện pháp đối với thuế TNCN nhằm tạo
thêm nguồn thu cho ngân sách từ loại thuế này.
Cả nước nói chung và tỉnh Thái Nguyên nói riêng, quản lý thuế nói chung và
quản lý thuế TNCN nói riêng còn nhiều hạn chế và bất cập, kể từ việc ban hành
pháp luật thuế đến tổ chức thực hiện cũng như thanh tra thuế. Nếu như không sớm
khắc phục những hạn chế này thì mục tiêu đặt ra khi ban hành luật sẽ gặp phải rất
nhiều bất lợi. Chính vì thế, công tác quản lý TNCN ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh
Thái nguyên nói riêng cần phải được hoàn thiện để đáp ứng những yêu cầu trong xu
thế hội nhập và phát triển nhanh chóng hiện nay.
Xuất phát từ thực tế của tỉnh Thái Nguyên, trên giác độ quản lý để góp phần
đẩy mạnh công tác quản lý thuế TNCN, nhằm khắc phục thất thu thuế TNCN và
tăng NSNN ở địa phương và Trung ương. Do vậy, đề tài: “Giải pháp hoàn thiện
công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân ở tỉnh Thái Nguyên đến năm 2015” được
tôi lựa chọn để làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng công tác quản lý thuế TNCN trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên, đề xuất các giải pháp cải cách nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế thu
nhập cá nhân góp phần xây dựng ngành thuế tỉnh Thái Nguyên tiên tiến, hiện đại và
2
chuyên nghiệp, đảm bảo thực thi tốt pháp luật thuế; đảm bảo quản lý thuế công
bằng, minh bạch, hiệu lực và hiệu quả theo các chuẩn mực quốc tế; phục vụ tốt đối
tượng nộp thuế, tăng tính tự giác tuân thủ pháp luật thuế của đối tượng nộp thuế;
đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách nhà nước cho địa phương và Trung ương, phục
vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và tỉnh Thái Nguyên.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Khái quát hoá những vấn đề lý luận về thuế TNCN; quản lý thuế TNCN;
hoàn thiện công tác quản lý thuế TNCN.
- Phân tích thực trạng công tác quản lý thuế TNCN ở tỉnh Thái Nguyên, giai
đoạn 2009 - 2012.
- Phân tích, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế TNCN
của tỉnh Thái Nguyên.
- Xác định ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân tồn tại trong công tác quản lý thuế
TNCN ở tỉnh Thái Nguyên.
- Đề xuất được một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác quản lý
TNCN ở tỉnh Thái Nguyên đến năm 2015.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Với chủ đề nghiên cứu của luận văn, đối tượng nghiên cứu của đề tài đó là
thuế TNCN, công tác quản lý thuế TNCN ở tỉnh Thái Nguyên, giai đoạn 2009 - 2012;
những yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế TNCN của tỉnh Thái Nguyên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Nghiên cứu ở tỉnh Thái Nguyên
- Về mặt thời gian: Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý thuế TNCN, giai
đoạn 2009 - 2012; giải pháp đến năm 2015.
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý
thuế TNCN và thực trạng công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân ở tỉnh Thái
Nguyên, có so sánh tham chiếu với một số địa phương khác.
4. Đóng góp của luận văn
Nghiên cứu thành công đề tài luận văn sẽ đóng góp cả về phương diện lý
luận và thực tiễn của chủ đề nghiên cứu. Đó là, hệ thống hóa và bổ sung những vấn
đề lý luận về hoàn thiện công tác quản lý thuế TNCN; đánh giá được thực trạng
công tác quản lý thuế TNCN ở địa phương, đồng thời đề xuất một số giải pháp chủ
yếu nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân, tăng thu cho NSNN
của tỉnh Thái Nguyên đến năm 2015; tạo đà nhằm cải cách và hiện đại hoá ngành
thuế của tỉnh.
3
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết
cấu gồm 04 Chương, như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về thuế thu nhập cá nhân và quản lý
thuế thu nhập cá nhân.
Chương 2: Phương pháp và hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu công tác quản
lý thuế thu nhập cá nhân.
Chương 3: Thực trạng công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân ở tỉnh Thái
Nguyên, giai đoạn 2009 - 2012.
Chương 4: Giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế thu
nhập cá nhân ở tỉnh Thái Nguyên đến năm 2015.
4
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÍ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1.1. Khái quát về thuế thu nhập cá nhân
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời của thuế thu nhập cá nhân
Thuế TNCN phát sinh, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát
triển của Nhà nước. Thuế xuất hiện khi trong xã hội xuất hiện sản phẩm thặng dư
cùng với sự phân chia giai cấp, Thuế được giai cấp thống trị dùng như một công cụ
để tạo ra nguồn thu chủ yếu cho mọi nhu cầu chi tiêu của bộ máy nhà nước nói
chung hay của giai cấp thống trị nói riêng. Vì thế, Thuế được xem như một phạm
trù vừa có tính lịch sử vừa là một tất yếu khách quan đáp ứng nhu cầu của Nhà nước
trong quá trình tồn tại và phát triển của mình. Giai cấp thống trị- vua chúa sử dụng
thuế như một công cụ kinh tế quan trọng nhằm huy động nguồn thu cho ngân sách
Nhà nước, qua tiến trình tiến triển của lịch sử, hiện nay thuế vẫn được sử dụng với
đúng mụch đích của nó nhưng bản chất của Thuế ở các nước lại không giống nhau,
nó tùy thộc vào bản chất Nhà nước và cách thức sử dụng nguồn thu từ thuế [1].
Ở miền Nam Việt Nam, năm 1962 chính quyền Sài Gòn đã áp dụng thuế
TNCN nhưng với tên gọi là thuế lợi tức lương bổng và sau đó được cải cách vào
năm 1972.
Ngày 27/12/1990, Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
(Income Tax on high - Income earner) đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông
qua. Ðể phù hợp với tình hình thực tế của từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, từ đó đến nay đã có nhiều lần lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh Thuế thu
nhập đối với người có thu nhập cao: lần thứ nhất vào ngày 10/3/1992, lần thứ hai
vào ngày 1/6/1994, lần thứ ba vào ngày 6/2/1997, lần thứ 4 vào ngày 30/6/1999, lần
thứ năm vào ngày 13/6/2001 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2001 và lần thứ 6 là
Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung số 14/2004/PL-UBTVQH11 ban hành năm 2004 có hiệu
lực từ ngày 01/07/2004… đến năm 2007, Quốc Hội đã ban hành Luật thuế thu nhập
cá nhân số 04/2007/QH12. Đến năm 2012, Luật Thuế TNCN đã được sửa đổi, bổ
sung có hiệu lực thi hành từ 1/7/2013, trong đó có nhiều thay đổi theo chiều hướng
tạo thông thoáng, thuận lợi hơn cho đối tượng nộp thuế với các quy định mới về thu
nhập chịu thuế, thu nhập miễn thuế, các khoản giảm trừ [16].
Với mục tiêu đáp ứng yêu cầu của thực tiễn phát sinh và từng bước triển khai
Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 - 2020, tại kỳ họp thứ tư, Quốc
hội khoá XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNCN.
5
Luật thuế TNCN sẽ được chính thức áp dụng từ ngày 01/7/2013. Theo đó, Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TNCN đã sửa 6 điều trong tổng số 35 điều
của Luật thuế TNCN số 04/2007.
1.1.2. Khái niệm thuế thu nhập cá nhân
Thu nhập luôn gắn với một chủ thể nhất định trong nền kinh tế, xã hội
thể hiện tính sở hữu của thu nhập. Việc xác định thu nhập của các chủ thể khác
nhau trong một thời gian nhất định được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ - là hình
thức thông qua đó biết được tổng thu nhập các nguồn khác nhau của một cá nhân
hay một pháp nhân. Thu nhập được hình thành thông qua quá trình phân phối
và phân phối lại thu nhập quốc dân, do thị trường và Nhà nước thực hiện. Từ
các đặc điểm trên, khái niệm về thu nhập được tổng hợp như sau “Thu nhập là tổng
các giá trị tài sản và của cải được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ do một chủ
thể trong nền kinh tế - xã hội tạo ra và nhận được từ các nguồn lao động, tài sản
hay đầu tư thông qua quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc
dân trong một khoảng thời gian nhất định - thường là một năm” [16].
Thuế TNCN là một trong các sắc thuế xuất hiện khá sớm trong lịch sử phát
triển thuế khoá của hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những nước có nền
kinh tế thị trường phát triển. Thuế TNCN đầu tiên được áp dụng tại Hà Lan vào
năm 1797, sau đó là Anh Quốc vào năm 1799. Lúc đầu Anh Quốc đưa vào thực
hiện như một hình thức thu tạm thời nhằm mục đích trang trải cho cuộc chiến tranh
chống Pháp và được chính thức áp dụng vào năm 1942, một số nước tư bản phát
triển khác cũng áp dụng thuế này như Ðức (1899), Hoa Kỳ (1903), Pháp (1916).
Các nước Châu Á như: Thái Lan áp dụng năm 1939, Philipin năm 1945, Hàn Quốc
năm 1948, In-đô-nê-xia năm 1949, Trung quốc năm 1984; Những nước Đông Âu
thuộc các nền kinh tế chuyển đổi như Rumani năm 1990, Nga năm 1991, Ba Lan
năm 1992
Hiện nay trên thế giới đã có khoảng 180 nước áp dụng thuế TNCN. Ưu điểm
của cách này là đơn giản, dễ thực hiện, đảm bảo thu kịp thời vào ngân sách Nhà
nước. Nhưng có nhược điểm là chưa đảm bảo yêu cầu phân phối lại thu nhập quốc
dân qua thuế sao cho có hiệu quả, đáp ứng được sự công bằng xã hội và nhất là đối
với những cá nhân có nhiều người phụ thuộc.
Về nguyên tắc, bất kỳ một thể nhân hay pháp nhân nào khi nhận được thu
nhập dưới bất cứ hình thái nào (hiện vật hay giá trị) và bất kể từ nguồn nào (do lao
động, hay đầu tư…) đều phải trích một phần từ thu nhập đó để nộp cho Nhà nước
dưới dạng thuế thu nhập.
6
Cho đến nay, có nhiều khái niệm khác nhau về thuế do quan điểm về Thuế ở
các nước khác nhau như:
“Thuế là một khoản thu của nhà nước đối với các tổ chức và mọi thành viên
trong xã hội, Thuế là khoản thu có tính bắt buộc và không hoàn trả trực tiếp theo
luật định” [18].
“Thuế TNCN là thuế trực thu đánh vào thu nhập chịu thuế có được của cá
nhân trong kỳ tính thuế (thường là một năm)” [24].
Theo Marx “Thuế là cở sở kinh tế của bộ máy Nhà nước, là thủ đoạn đơn
giản để kho bạc thu được tiền hay tài sản của người dân để dùng vào việc chi tiêu
của nhà nước" [18; tr. 267-305]
Các nhà nghiên cứu kinh tế khác cho rằng “Thuế là hình thức phân phối thu
nhập tài chính của Nhà nước để thực hiện chức năng của mình, dựa vào quyền lực
chính trị, tiến hành phân phối sản phẩm thặng dư của xã hội một cách cưỡng chế
và không hoàn lại”.
Mặc dù có nhiều cách định nghĩa về Thuế khác nhau nhưng có thể thấy
những điểm tương đồng sau: Thuế là khoản thu mang tính bắt buộc mà các tổ chức,
cá nhân phải nộp cho Nhà nước khi có những điều kiện nhất định. Thuế mang tính
bắt buộc và không mang tính hoàn trả trực tiếp, ngang giá. Một phần thuế nộp vào
ngân sách Nhà nước được trả về với người dân một cách gián tiếp dưới nhiều hình
thức khác nhau như trợ cấp xã hội, phúc lợi xã hội và quỹ tiêu dùng khác.
Trên cơ sở nhưng khái niệm về Thuế, có thể rút ra khái niệm về thuế TNCN
theo pháp luật hiện hành như sau: “Thuế thu TNCN là loại thuế chủ yếu đánh vào
thu nhập của cá nhân nhằm thực hiện công bằng xã hội, động viên một phần thu
nhập của cá nhân vào ngân sách nhà nước và có thể được sử dụng để điều tiết vĩ
mô nền kinh tế thông qua việc khuyến khích làm việc hay nghỉ ngơi, thông qua việc
thu hay không thu thuế đối với các khoảng thu nhập từ kinh doanh, đầu tư,…. Thuế
TNCN được coi là loại thuế đặc biệt vì có lưu ý đến hoàn cảnh của các cá nhân có
thu nhập phải nộp thuế thông qua việc xác định miễn, giảm thuế hoặc khoản miễn
trừ đặc biệt” [32].
1.1.3. Đặc điểm thuế thu nhập cá nhân
Một là, thuế TNCN là thuế trực thu, đánh vào thu nhập chính đáng của từng
cá nhân. Do là thuế trực thu nên nó phản ánh sự đồng nhất giữa đối tượng nộp thuế
theo luật và đối tượng chịu thuế theo ý nghĩa kinh tế. Người nộp thuế cũng là người
chịu thuế, người chịu thuế TNCN không có khả năng chuyển giao gánh nặng thuế
sang cho các đối tượng khác tại thời điểm đánh thuế.
7
Hai là, thuế TNCN có diện đánh thuế rất rộng, thể hiện trên hai khía cạnh:
- Đối tượng đánh thuế TNCN là toàn bộ các khoản thu nhập của cá nhân
thuộc diện đánh thuế, không phân biệt thu nhập đó có nguồn gốc phát sinh trong
nước hay ở nước ngoài.
- Đối tượng phải kê khai nộp thuế TNCN là toàn bộ những người có thu
nhập, bao gồm tất cả công dân của nước sở tại và những người nước ngoài cư trú
thường xuyên hay không thường xuyên nhưng có số ngày có mặt, làm việc, có thu
nhập theo mức độ quy định của pháp luật thuế TNCN.
Ba là, thuế TNCN là một hình thức động viên mang tính bắt buộc trên
nguyên tắc theo luật định. Phân phối khoản thu nhập qua thuế TNCN gắn với quyền
lực, sức mạnh của Nhà nước.
Bốn là, thuế thu nhập cá nhân là khoản đóng góp không hoàn trả trực tiếp
cho người nộp. Nó vận động một chiều, không phải là khoản thù lao mà người nộp
thuế phải trả cho Nhà nước do được hưởng các dịch vụ Nhà nước cung cấp.
Năm là, thuế TNCN luôn gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia. Hầu
hết các quốc gia đều gắn chính sách thuế TNCN với một số chính sách xã hội khác
(như phúc lợi công cộng, chăm sóc sức khỏe…).
Sáu là, thuế TNCN có diện thu thuế rất rộng, tất cả các cá nhân có thu nhập
bao gồm: công dân nước sở tại và người nước ngoài cư trú thường xuyên hay không
thường xuyên tại nước đó và hầu như tất cả số thu nhập có được của các cá nhân
đều phải tính thuế không kể nguồn thu nhập phát sinh trong nước hay ngoài nước.
Chính vì vậy, khả năng tạo nguồn thu cho ngân sách của thuế TNCN rất cao.
Bẩy là, việc đánh thuế TNCN thường áp dụng theo nguyên tắc thuế suất lũy
tiến từng phần. Đặc điểm này xuất phát từ vai trò chủ yếu của thuế TNCN là điều
tiết mạnh người có thu nhập cao, góp phần thực hiện công bằng xã hội. Do vậy, việc
sử dụng thuế suất lũy tiến từng phần sẽ đáp ứng được nhu cầu đó vì phần thu nhập
tăng thêm càng cao thì sẽ phải tính thuế suất càng cao.
Tám là, xét về góc độ kinh tế, thuế TNCN có tính trung lập cao hơn so với
các loại thuế khác vì việc tăng hay giảm thuế TNCN hầu như không kéo theo những
biến đổi về cơ cấu kinh tế.
1.1.4. Mục đích, ý nghĩa và vai trò của thuế thu nhập cá nhân
1.1.4.1. Mục đích, ý nghĩa của thuế TNCN
(i) Mục đích của thuế TNCN
- Phân phối lại thu nhập, góp phần hạn chế khoảng cách về thu nhập tạo công
bằng, thu hẹp chênh lệch giàu nghèo; tạo sự công bằng giữa các công dân.
8
- Tăng nguồn thu cho ngân sách quốc gia.
- Hạn chế những hoạt động mà nhà nước không muốn phát triển, chẳng hạn
như đầu cơ vào thị trường bất động sản.
- Bảo đảm tăng trưởng kinh tế, khuyến khích tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng
trong nước, bảo đảm khuyến khích động lực sản xuất, lao động, bảo đảm sự cạnh
tranh của Việt Nam đối với các nước trong khu vực.
- Thúc đẩy sự phát triển của một số hoạt động có đóng góp dài lâu cho sự
tăng trưởng về giá trị kinh tế của quốc gia. Ví dụ, đầu tư vào chứng khoán lâu dài
nên được ưu tiên vì nó thu hút vốn của người dân vào thị trường vốn và góp phần
phát triển kinh tế. Hỗ trợ cho sự phát triển của nền kinh tế.
(ii) Ý nghĩa của thuế TNCN
- Thuế TNCN có ý nghĩa rất quan trọng, nguồn thu thuế thu nhập cá nhân gia
tăng cùng với sự phát triển kinh tế nói chung và sự gia tăng số lượng lao động của
mỗi quốc gia là một trong những nguồn thu chính của mỗi quốc gia.
- Thuế TNCN còn có ý nghĩa đối với các hộ kinh doanh nhỏ ở nước ta, vì
theo quy định trước đây họ phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất
chung bằng với các doanh nghiệp (thông thường là những đơn vị kinh doanh có quy
mô lớn). Việc áp dụng thuế suất như với các doanh nghiệp là quá cao đối với hộ cá
nhân kinh doanh. Hơn nữa, quy định này cũng đảm bảo tính thông lệ quốc tế, vì hầu
hết các nước đều đưa cá nhận kinh doanh vào diện nộp thuế TNCN.
- Thuế TNCN cụ thể hoá thành một sắc thuế với Luật thuế riêng biệt có
nhiều điểm phù hợp với tiến trình đổi mới quản lý kinh tế của nhà nước, với quá
trình hội nhập kinh tế của đất nước và phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã
hội của nước ta hiện nay. Với việc ban hành Luật thuế quan trọng này, hệ thống
thuế của Việt Nam đang hướng đến phù hợp hơn với hệ thống thuế các nước, hướng
tới một hệ thống thuế công bằng và hiện đại hơn.
1.1.4.2. Vai trò của thuế TNCN
Trước bối cảnh đẩy mạnh hội nhập KTQT và những sự biến đổi lớn của điều
kiện KT - XH ở nước ta hiện nay, thuế TNCN và việc ban hành Luật thuế TNCN ở
Việt Nam là hết sức cần thiết và có vai trò quan trọng về nhiều mặt. Là một bộ phận
của hệ thống thuế nên thuế TNCN vừa có vai trò chủ yếu của thuế nói chung, vừa
có các vai trò đặc thù mà các sắc thuế khác không có được.
Một là, thuế TNCN có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế- xã hội:
(i) Tạo lập nguồn tài chính cho ngân sách nhà nước: Thuế TNCN là một
trong những bộ phận quan trọng cấu thành thuế nói chung nên cũng góp một phần
quan trọng để tạo nguồn tài chính cho nhà nước. Thuế TNCN được tính với diện
rộng, khả năng tạo nguồn thu cho ngân sách rất lớn. Bên cạnh đó, thuế TNCN tác
9
động trực tiếp vào thu nhập của dân cư mà người dân của bất kỳ quốc gia nào cũng
đều mong muốn và cố gắng có thu nhập ngày càng cao để nâng cao đời sống vật
chất tinh thần. Thuế TNCN luôn có sự gia tăng nhanh chóng cùng với sự tăng lên
của thu nhập bình quân đầu người. - Dù không phải là mục tiêu chủ yếu, song thực
hiện phát triển chính sách thuế trực thu nói chung, thuế TNCN nói riêng chính là là
việc tạo lập và phát triển nguồn thu vững chắc cho ngân sách nhà nước. Cùng với
xu hướng tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, hội nhập và phát triển, thu nhập quốc
dân đầu người ngày càng lớn thì khả năng huy động nguồn thu cho ngân sách nhà
nước thông qua thuế TNCN sẽ ngày càng tăng và sẽ ngày một dồi dào. Thực tế tỷ
trọng thu thuế TNCN trong tổng thu ngân sách của nhiều quốc gia đã phản ánh tiến
trình đó, tại các nước khối ASEAN: 5-10%, các nước phát triển có tỷ trọng 15-16%
có nước đạt tới tỷ trọng 30- 40% như Anh, Mỹ. Tại Việt Nam, mới tiếp cận chính
sách thu và còn phân tán ở nhiều sắc thuế nhưng cũng đã có kết quả tăng trưởng thu
khá lớn trong những năm gần đây: năm 1991 thu theo chính sách thuế thu nhập đối
với người có thu nhập cao là 62 tỷ đồng, đến năm 2000 thu được 1.831 tỷ đồng,
năm 2005 số thu đã đạt 4.400 tỷ đồng và tính đến năm 2011 con số này đạt 36.940
tỷ đồng. Tuy vậy, tỷ trọng thu cũng mới chỉ đạt khoảng 5% tổng thu ngân sách.
(ii) Góp phần thực hiện công bằng xã hội: Trong mỗi quốc gia, thu nhập của
mỗi cá nhân phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố như khả năng và trình độ lao động, vị
trí công tác, quyền sở hữu về tài sản của cá nhân đó. Tuy nhiên, các yếu tố nói trên
của mỗi cá nhân thường không giống nhau nên đã tạo ra sự khác nhau về thu nhập
của mỗi người. Chính sự khác nhau ấy là nguồn gốc tạo ra sự phân cực giàu nghèo,
là sự bất bình đẳng trong xã hội. Để giải quyết vấn đề này, các nước đã dùng nhiều
hình thức và biện pháp khác nhau trong đó thuế TNCN được xem như một công cụ
hữu hiệu để điều tiết bớt thu nhập của những người có thu nhập cao, đảm bảo công
bằng xã hội.
(iii) Điều tiết thu nhập, tiêu dùng và tiết kiệm: Thuế TNCN là một công cụ
rất cần thiết để thực hiện việc kiểm soát thu nhập của các tầng lớp dân cư, thực hiện
công bằng xã hội và quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Để kiểm soát thu nhập dân
cư, nhà nước phải sử dụng đồng thời cả hai cơ chế quản lý quỹ tiền lương, tiền
công, chế độ báo cáo quyết toán kinh doanh…và cơ chế kê khai nộp thuế TNCN,
tuy ban đầu có thể chưa chính xác, nhưng sẽ là căn cứ để thống kê thu nhập dân cư
phục vụ chương trình mục tiêu nghiên cứu quốc gia, hoạch định chính sách phát
triển phù hợp khi tính tuân thủ pháp luật, pháp chế xã hội được nâng lên. Thông qua
các cơ chế và công cụ quản lý đó mà nhà nước sẽ có giải pháp tăng cường hoặc
10
giảm bớt điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư làm cho tổng cầu xã hội giảm
hoặc tăng, từ đó có tác dụng co hẹp hay kích thích kinh tế phát triển. Đó chính là vai
trò quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế mà chính sách thuế thu nhập cá nhân góp
phần tác dụng đáng kể.
(iv) Góp phần phát hiện thu nhập bất hợp pháp: Thực tế đã chứng minh
nhiều khoản thu nhập của một số cá nhân nhận được từ việc thực hiện các hành vi
bất hợp pháp hoặc bằng cách lợi dụng những kẽ hở của pháp luật mà nhà nước
không kiểm soát được như tham ô, nhận hối lộ, buôn bán hàng quốc cấm, trốn tránh
thuế, lừa đảo chiếm đoạt tài sản của nhà nước và công dân Những hành vi này ảnh
hưởng rất xấu đến đời sống kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Phải kết hợp hữu hiệu
nhiều biện pháp để ngăn chặn và chống lại những hành vi trên, một trong số các
biện pháp ngăn chặn đó thì phải kể đến vai trò của thuế TNCN.
Hai là, thuế TNCN có vai trò đối với hệ thống thuế:
(i) Góp phần khắc phục nhược điểm của một số loại thuế khác: Một số thuế
gián thu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt đều có nhược điểm là có
tính luỹ thoái và ảnh hưởng đến người nghèo nhiều hơn người giàu vì khi tiêu thụ
cùng một lượng hàng hoá mọi người không phân biệt giàu nghèo và đều phải chịu
thuế như nhau. Nếu tính thuế thu nhập cá nhân theo phương pháp luỹ tiến từng phần
sẽ góp phần khắc phục được nhược điểm này.
(ii) Góp phần hạn chế sự thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp: Trong doanh
nghiệp thường tồn tại cả thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế TNCN Giữa hai loại
thuế này luôn luôn tồn tại mối quan hệ gắn bó với nhau. Thuế TNCN còn góp phần
khắc phục sự thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp khi có sự thông đồng giữa các
doanh nghiệp hay giữa doanh nghiệp với cá nhân. Trong trường hợp doanh nghiệp
kê khai cao hơn thực tế những chi phí phải trả cho các cá nhân để làm giảm thu
nhập tính thuế của doanh nghiệp hòng trốn thuế thu nhập doanh nghiệp thì các cá
nhân nhận được những khoản trả nói trên sẽ phải nộp thêm thuế thu nhập cá nhân
đối với phần thu nhập nhận được kê khai tăng thêm đó. Thu nhập của doanh nghiệp
tăng thường kéo theo sự tăng lên của thuế TNCN và thuế thu nhập doanh nghiệp.
(iii) Góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế: Xây dựng và phát triển,
hoàn thiện chính sách thuế TNCN là góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế,
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập với kinh tế thế giới. Việc ban hành
Luật thuế TNCN là bước thể chế hoá đường lối chính sách của Đảng về lĩnh vực tài
chính tiền tệ đồng thời là bước đi phù hợp lộ trình cải cách thuế theo mục tiêu chiến
lược Chính phủ đã hoạch định. Nhận thức đúng vai trò vị trí hiện tại cũng như
11
hướng phát triển hoàn chỉnh của chính sách thuế TNCN, quán triệt đầy đủ nội dung
yêu cầu của Luật thuế thu nhập cá nhân mới ban hành để tuyên truyền, giáo dục
pháp luật thuế, vận động toàn dân hiểu biết, chấp hành là nghĩa vụ và trách nhiệm
của các tổ chức, cơ quan, đơn vị và cán bộ, công chức, công dân theo quy định của
Luật Quản lý thuế, ban hành ngày 29/11/2006.
Tóm lại, thuế TNCN đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của mỗi
quốc gia, ngày càng trở thành nguồn thu quan trọng của NSNN nói chung và tỉnh
Thái Nguyên nói riêng. Dù không phải là mục tiêu chủ yếu, song thực hiện quản lý
và phát triển chính sách thuế trực thu nói chung, thuế TNCN nói riêng chính là là
việc tạo lập và phát triển nguồn thu vững chắc cho ngân sách nhà nước. Cùng với
xu hướng tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, hội nhập và phát triển, thu nhập quốc
dân đầu người ngày càng lớn thì khả năng huy động nguồn thu cho ngân sách nhà
nước thông qua thuế TNCN sẽ ngày càng tăng và sẽ ngày một dồi dào. Tuy nhiên,
vì công tác quản lý thuế TNCN còn nhiều hạn chế nên những vai trò này vẫn chưa
thực sự được phát huy ở những nước chậm phát triển, trong đó có Việt Nam và tỉnh
Thái Nguyên.
1.1.5. Một số nét khái quát về Luật thuế Thu nhập Cá nhân của Việt Nam
Ngày 27/12/1990, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp lệnh Thuế thu
nhập đối với người có thu nhập cao (Income Tax on high - Income earner) và đã
được ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua. Ðể cho phù hợp với tình hình thực tế
của từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, từ đó đến nay đã có 05
lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao: lần thứ
nhất vào ngày 10/3/1992, lần thứ hai vào ngày 1/6/1994, lần thứ ba vào ngày
6/2/1997, lần thứ 4 vào ngày 30/6/1999 và lần thứ năm vào ngày 13/6/2001 (có hiệu
lực thi hành từ ngày 1/7/2001) [2].
Sau hơn ba năm chuẩn bị kỹ lưỡng với hàng trăm cuộc hội thảo và sau gần
một năm công bố rộng rãi để lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, ngày 20/11/2007,
tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội nước Cộng hoà XHCH Việt nam khoá XII đã thông qua
Luật thuế TNCN. Luật này sẽ có hiệu lực thi hành từ 1/1/2009, gồm 35 điều 4
chương, là một văn bản luật được soạn thảo “công phu” nhất từ trước đến nay, phản
ánh khá đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân với nhiều điểm mới so với Pháp
lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (gồm 34 điều 8 chương) và phù
hợp hơn với điều kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay như:
- Quy định cụ thể về đối tượng nộp thuế là cá nhân kinh doanh đang nộp thuế
thu nhập doanh nghiệp, cá nhân có thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất, cá nhân
12
có thu nhập từ tiền lương, tiền công và một số thu nhập theo Pháp lệnh Thuế thu
nhập đối với người có thu nhập cao hiện hành sẽ được điều chỉnh theo Luật thuế thu
nhập cá nhân. Ngoài ra, có bổ sung thêm với đối tượng nộp thuế là cá nhân có thu
nhập chịu thuế từ đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng tài sản, thu nhập
từ thừa kế, quà tặng. Sự thay đổi này, trước hết đảm bảo tính công bằng trong điều
tiết thu nhập bởi đã là cá nhân có thu nhập chịu thuế thì dù thu nhập từ bất kì nguồn
nào cũng đều được đối xử như nhau, tức là đều chịu thuế TNCN. Thêm vào đó, việc
điều tiết thu nhập của cá nhân kinh doanh theo Luật thuế TNCN thực hiện theo
phương pháp luỹ tiến sẽ đảm bảo điều tiết hợp lý thu nhập dân cư. Điều này rất có ý
nghĩa đối với các hộ kinh doanh nhỏ ở Việt Nam cũng như ở tỉnh Thái Nguyên vì
theo quy định trước đây họ phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất
chung bằng với các doanh nghiệp (thông thường là những đơn vị kinh doanh có quy
mô lớn).
- Về đối tượng nộp thuế, còn một điểm mới nữa là việc định nghĩa rõ hơn đối
tượng cư trú (đối tượng phải nộp thuế TNCN cho Việt Nam đối với toàn bộ thu
nhập, kể cả thu nhập phát sinh ở Việt Nam và nước ngoài). Nếu như trước đây, đối
tượng cư trú chỉ là cá nhân có mặt ở Việt Nam từ 183 ngày trở lên trong năm dương
lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ khi đến Việt Nam thì Luật thuế TNCN đã
bổ sung thêm một điều kiện nữa được coi là cư trú ở Việt Nam, đó là “cá nhân có
nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký thường trú hoặc có nhà
thuê để ở lại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn” [23]. Quy định như vậy làm
cho việc xác định đối tượng nộp thuế được thuận lợi hơn, bao quát hết các đối
tượng nộp thuế và mở rộng đối tượng nộp thuế một cách hợp lý.
- Theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thu nhập
được phân chia thành thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên. Tuy
nhiên, Pháp lệnh không định nghĩa rõ thế nào là thu nhập thường xuyên, thế nào là
thu nhập không thường xuyên. Do vậy, trong thực tế, việc tính thuế gặp khá nhiều
khó khăn. Đồng thời, việc tính thuế đối với từng loại thu nhập không hợp lý, không
phù hợp với thông lệ quốc tế. Luật thuế thu nhập cá nhân đã khắc phục được hạn
chế này với việc phân loại thu nhập chịu thuế theo nguồn phát sinh thu nhập. Theo
đó, thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập từ kinh doanh; thu nhập từ tiền lương, tiền
công; thu nhập từ đầu tư vốn; thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất
động sản; thu nhập khác (bao gồm: thu nhập từ trúng thưởng, thu nhập từ bản
quyền, thu nhập từ thừa kế, quà tặng, thu nhập từ chuyển nhượng quyền thương
mại). Đây là cơ sở để tính thuế phù hợp với từng loại thu nhập. Từ cách phân loại
13
này, việc áp dụng thuế suất được quy định theo hai hướng: đối với thu nhập từ kinh
doanh và tiền lương, tiền công thì áp dụng biểu thuế suất luỹ tiến từng phần; đối với
các khoản thu nhập còn lại thì áp dụng biểu thuế luỹ tiến toàn phần.
- Một số khoản thu nhập trước đây không quy định (mặc nhiên được coi là
thu nhập không chịu thuế) được quy định trong Luật thuế TNCN gồm: thu nhập từ
chuyển nhượng quyền thương mại, thu nhập từ quà tặng là chứng khoán, phần vốn
trong các cơ sở kinh doanh, bất động sản hoặc tài sản khác phải đăng ký sở hữu
hoặc sử dụng , thu nhập từ casino, thu nhập từ trúng thưởng các cuộc thi có thưởng
và các hình thức trúng thưởng khác (trước đây chỉ tính đối với trúng thưởng xổ số
và khuyến mại). Tất nhiên, những khoản thu nhập này chỉ bị đánh thuế khi thu nhập
phát sinh lớn (từ trên 10 triệu đồng cho một hợp đồng hoặc một lần phát sinh). Liên
quan đến thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng, kế thừa, quà tặng, có một quy định
đáng chú ý là Luật thuế thu nhập cá nhân quy định miễn thuế đối với thu nhập từ
chuyển nhượng, thừa kế, quà tặng giữa vợ với chồng; cha mẹ đẻ; cha mẹ nuôi; mẹ
nuôi với con đẻ, con nuôi; cha chồng mẹ chồng với con dâu; cha vợ mẹ vợ với con
rể; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại với cháu nội, cháu ngoại; anh chị em ruột
với nhau. Một số khoản thu nhập trước đây tạm thời chưa thu thuế như thu nhập từ
đầu tư vốn (gồm lãi cho vay, lợi tức cổ phần và thu nhập từ đầu tư vốn dưới các
hình thức khác); thu nhập từ chuyển nhượng vốn bao gồm cả chuyển nhượng chứng
khoán. Tuy nhiên, phần thu nhập từ lãi tiền gửi tại các tổ chức tín dụng (ngân hàng,
các quỹ tín dụng và các tổ chức tín dụng khác) và lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ được miễn thuế thu nhập cá nhân. Việc miễn thuế này nhằm mục đích thu hút
khoản tiền nhàn rỗi nhỏ lẻ trong dân cư vào các kênh tín dụng, để từ đó sử dụng vốn
của nền kinh tế vào hoạt động sản xuất kinh doanh, khuyến khích sử dụng có hiệu
quả mọi đồn vốn của xã hội.
- Trên cơ sở kế thừa các khoản thu nhập không thuộc diện chịu thuế của
Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, Luật thuế TNCN đã bổ sung
các khoản thu nhập sau vào diện miễn thuế từ thu nhập như thu nhập từ tiền lương
làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn lương làm việc ban ngày, làm
việc trong giờ; lương hưu; tiền thưởng cho cá nhân về việc phát hiện, khai báo cơ
quan nhà nước có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật; học bổng nhận từ ngân
sách Nhà nước và từ các tổ chức trong và ngoài nước theo quy định của Chính phủ;
thu nhập từ viện trợ, từ thiện với điều kiện các quỹ từ thiện này phải được Nhà nước
cho phép thành lập hoặc công nhận hoạt động vì mục đích nhân đạo không nhằm
mục đích thu lợi nhuận; thu nhập từ lãi trái phiếu chính phủ. Đối với khoản đóng
góp từ thiện nhân đạo được trừ vào thu nhập trước khi tính thuế nhưng chỉ áp dụng
14
đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công và thu nhập từ kinh doanh; không áp dụng
đối với cá khoản thu nhập khác. Với quy định này, Luật đã khuyến khích mọi công
dân trong xã hội tham gia các hoạt động từ thiện, nhân đạo. Đồng thời, đây cũng
chính là một khoản "chi tiêu qua thuế" của nhà nước, thể hiện ở chỗ một khoản thu
lẽ ra được nộp về ngân sách Nhà nước bây giờ được chuyển sang cho đối tượng thụ
hưởng khoản đóng góp từ thiện. Chẳng hạn như, một người có thu nhập từ kinh
doanh trước thuế của một năm 360 triệu đồng (thu nhập bình quân tháng 30 triệu
đồng) thực hiện góp quỹ ủng hộ đồng bào lụt 10 triệu đồng. Khi đó, 10 triệu đồng
này được giảm trừ vào thu nhập chịu thuế. Với biểu thuế như sẽ được trình bày dưới
đây, số thuế nhà nước giảm thu khi cho cá nhân này giảm trừ vào thu nhập tính thuế
là 2 triệu đồng. Có thể hiểu trong trường hợp này, coi như Nhà nước đã sử dụng
ngân sách góp vào quỹ ủng hộ đồng bào bão lụt 2 triệu đồng, còn cá nhân này thực
ra chỉ ủng hộ 8 triệu đồng. Việc bổ sung một số khoản thu nhập miễn thuế nêu trên
thể hiện sự ưu đãi của nhà nước đối với một số đối tượng được hưởng thu nhập
trong những trường hợp gặp khó khăn và thể hiện chính sách khuyến khích của nhà
nước đối với một số hoạt động có lợi cho phát triển kinh tế - xã hội nhằm tăng
cường lao động sản xuất…
- Áp dụng giảm trừ gia cảnh cho bản thân đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/
tháng, cho mỗi người phụ thuộc mà đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ nuôi dưỡng là
1.6 triệu đồng/tháng và mở rộng áp dụng đối với cá nhân có thu nhập từ kinh doanh
trước khi xác định nghĩa vụ thuế. Việc giảm trừ cho người phụ thuộc được thực
hiện theo nguyên tắc mỗi người phụ thuộc được tính giảm trừ một lần vào một đối
tượng nộp thuế. Những người phụ thuộc được giảm trừ khá rộng, bao gồm: con
chưa thành niên, con đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, con tàn
tật không có khả năng lao động; các cá nhân khác không có thu nhập hoặc có thu
nhập nhưng thấp hơn mức quy định của Chính phủ hoặc không có nơi nương tựa
mà người nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng (gồm cha, mẹ, vợ chồng, cô, dì, chú,
bác, cháu…). Đây chính là vấn đề được ủng hộ của đông đảo nhân dân nhiều nhất,
xuất phát từ cơ sở là, thay vì áp dụng mức khởi điểm chịu thuế chung cho mọi đối
tượng nộp thuế (có tính riêng đối với người Việt Nam và người nước ngoài cư trú
tại Việt Nam) thì chuyển sang áp dụng giảm trừ gia cảnh, tức là có tính đến hoàn
cảnh cá nhân của đối tượng nộp thuế. Điều này làm cho việc xác định nghĩa vụ thuế
của mỗi đối tượng nộp thuế được công bằng hơn.
- Theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, áp dụng chịu
thuế theo thu nhập thường xuyên, tính thuế theo biểu thuế luỹ tiến từng phần với
15
bốn mức thuế suất, thấp nhất là 10% và cao nhất là 40%. Đối với Luật thuế TNCN
thì áp dụng biểu thuế luỹ tiến từng phần áp dụng cho thu nhập từ kinh doanh và từ
tiền lương, tiền công, mức thuế suất thấp nhất còn 5% và mức thuế suất cao nhất là
35%, với số lượng bậc thuế nâng lên thành bảy bậc áp dụng chung cho cả người
Việt Nam và người nước ngoài (xem bảng 1.1)
Bảng 1.1: Biểu thuế lũy tiến từng phần
Bậc
thuế
Thu nhập tính thuế/năm
(triệu đồng)
Thu nhập tính thuế/tháng
(triệu đồng)
Thuế suất
(%)
1 Đến 60 Đến 5 5
2 Trên 60 đến 120 Trên 5 đến 10 10
3 Trên 120 đến 240 Trên 10 đến 20 15
4 Trên 240 đến 420 Trên 20 đến 35 20
5 Trên 420 đến 660 Trên 35 đến 55 25
6 Trên 660 đến 960 Trên 55 đến 80 30
7 Trên 960 Trên 80 35
Nguồn: [25]
- Với biểu thuế mới này, tuy việc tính toán có phức tạp hơn (do tăng số
lượng bậc thuế) nhưng lại đảm bảo công bằng hơn trong điều tiết thu nhập do chênh
lệch về thuế suất giữa các bậc thuế giảm đi. Việc hạ thuế suất cao nhất và thấp nhất
xuống thể hiện tinh thần mở rộng diện đánh thuế nhưng mức độ điều tiết cũng giảm
đi, huy động sự đóng góp của nhiều người nhưng với mức độ vừa phải. Mặc khác,
việc giảm mức thuế suất cao nhất sẽ góp phần khuyến khích người lao động tích
cực lao động và sản xuất, kinh doanh; khuyến khích người dân làm giầu chính đáng.
- Đối với các khoản thu nhập còn lại. Luật thuế TNCN quy định biểu thuế
luỹ tiến toàn phần (xem bảng 1.2):
Bảng 1.2: Biểu thuế lũy tiến toàn phần
Loại thu nhập tính thuế Thuế suất (%)
1. Thu nhập từ đầu tư vốn 5
2. Thu nhập từ bản quyền, nhượng quyền thương mại 5
3. Thu nhập từ trúng thưởng 10
4. Thu nhập từ thừa kế, quà tặng 10
5. Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản (Trường hợp không xác
định được thu nhập tính thuế thì áp dụng thuế suất tính trên giá bán).
25
6. Thu nhập từ chuyển nhượng vốn (Đối với chuyển nhượng chứng
khoán áp dụng thu thuế theo từng phần)
20
0.1
Nguồn: [25]; Tổng Cục Thuế
Ngoài ra, Luật còn quy định thuế suất cụ thể cho từng loại thu nhập áp dụng
đối với cá nhân không cư trú với các mức thuế suất từ 0.1% đến 20% tính trên toàn
bộ thu nhập phát sinh ở Việt Nam (không được trừ chi phí).
16
Có thể nói, Luật thuế TNCN có rất nhiều điểm đổi mới phù hợp với thực tiễn
và khoa học so với Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.
1.2. Lý luận chung về công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân
1.2.1. Khái niệm về quản lý thuế thu nhập cá nhân
Công tác quản lý thuế TNCN là hoạt động quản lý hành chính của Nhà nước
đối với các đối tượng nộp thuế nhằm đạt được các mục tiêu nhất định trong khoảng
thời gian nhất định trong khung khổ quy định của pháp luật. Nói một cách khác,
quản lý thuế TNCN là quá trình tác động của chủ thể quản lý (các cơ quan quản lý
nhà nước về thuế TNCN) tới đối tượng và khách thể (đối tượng thu và nộp thuế
TNCN) thông qua các công cụ quản lý (cơ chế chính sách, hệ thống pháp luật về
thuế TNCN, các công cụ quản lý khác,…) nhằm đạt được mục tiêu trong từng giai
đoạn nhất định [31].
Như vậy, để tìm hiều về quản lý thuế TNCN thì cần nắm rõ bản chất của
quản lý nói chung “quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý
một cách có tổ chức, có hướng đích nhằm đạt mục tiêu đã đề ra”.
- Về phương thức tác động và hiệu lực: Quản lý thuế TNCN dựa vào pháp
luật và các thể chế, quy chế, nguyên tắc, mô hình đã định trước.
- Về nội dung chức năng, quản lý thuế TNCN bao gồm: các việc như xây
dụng kế hoạch xắp xếp tổ chức, chỉ đạo điều hành và kiểm soát tiến trình hoạt động.
- Về phạm vi tác động và hình thức thể hiện: quản lý thuế TNCN là một
phạm trù rộng, để tiến hành quản lý, chủ thể quản lý phải tiến hành đồng bộ rất
nhiều chức năng, trong đó có chức năng lãnh đạo.
Như vậy quản lý thuế TNCN là sự tác động có chủ đích của các cơ quan
chức năng trong bộ máy nhà nước đối với quá trình tính và thu thuế thu nhập cá
nhân, để thay đổi quá trình này nhằm tạo nguồn thu cho ngân sách và đạt được các
mục tiêu nhà nước đặt ra.
1.2.2. Nội dung công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân
Công tác quản lý thuế TNCN là một phần quan trọng của công tác thu ngân
sách nhà nước, Công tác này cần được nhìn nhận ở tầm vĩ mô và phải bao gồm toàn
bộ các công việc thuộc các lĩnh vực lập pháp và hành pháp, tư pháp về thuế TNCN.
1.2.2.1. Ban hành chính sách thuế TNCN
Đây là công việc thuộc lĩnh vực lập pháp. Việc ban hành chính sách thuế
TNCN sẽ tạo ra những quy định pháp luật làm cơ sở để tính và thu thuế TNCN.
Đồng thời, ban hành chính sách cũng đưa ra những căn cứ để kiểm tra, thanh tra, và
17
áp dụng các chế tài đối với quá trình tính và thu này. Để mỗi công dân sống và làm
việc theo pháp luật thì chính sách thuế TNCN cần được xây dựng dựa trên các
nguyên tắc cơ bản như sau:
Thứ nhất, việc xây dựng các văn bản pháp luật và chính sách thuế cần đảm
bảo tính đơn giản, minh bạch rõ ràng và chặt chẽ. Vì loại thuế TNCN khá phức tạp
nên nguyên tắc này cần được đảm bảo để hạn chế hành vi trốn thuế của các đối
tượng nộp thuế.
Thứ hai, quy định trong chính sách thuế TNCN phải đảm bảo được yêu cầu đặt
ra trong việc huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đồng thời phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội và đảm bảo tính công bằng đối với cả người nộp thuế và xã hội.
Thứ ba, quy định trong chính sách thuế TNCN cũng cần đảm bảo tính công
bằng đối với người nộp thuế và xã hội. Thuế TNCN đóng vai trò phân phối lại thu
nhập trong xã hội, giảm bớt sự cách biệt quá lớn về mức sống giữa các cá nhân
trong xã hội nhưng cũng cần động viên sự phấn đấu làm việc của người lao động.
Các quy định phải đảm bảo cho thu nhập thực tế sau khi nộp thuế của các đối tượng
nộp thuế tương xứng với công sức lao động và sự đóng góp của họ.
Ngoài yêu cầu cơ bản trên, để đảm bảo chính sách thuế TNCN phát huy hiệu
quả cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho quá trình triển khai thực hiện như: cải tiến
và hoàn thiện chế độ kế toán, thống kê, thông tin, báo cáo để tạo điều kiện thuận lợi
cho công tác quản lý thuế TNCN, đặc biệt đối với cá nhân, hộ gia đình kinh doanh.
1.2.2.2. Tổ chức thực hiện chính sách thuế TNCN
Luật thuế TNCN đã được áp dụng hàng trăm năm nay ở các nước phát triển
trên thế giới. Ở Việt Nam cũng như ở tỉnh Thái Nguyên, thuế TNCN lần đầu tiên
được ban hành vào năm 1990 dưới hình thức Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người
có thu nhập cao. Hiện nay theo quy định hiện hành, Luật thuế thu nhập cá nhân có
hiệu lực ngày 01/01/2009, được chính thức áp dụng vào đời sống nhân dân ban
hành kèm theo Nghị định 100/2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008 của Chính phủ và
Thông tư 84/2008/TT-BTC của Bộ tài chính hướng dẫn thi hành Luật thuế TNCN.
Với quy định này, việc kê khai nộp thuế thu nhập được thực hiện theo nguyên tắc
khấu trừ tại nguồn, đối với trường hợp xác định được cơ quan chi trả thu nhập,
người hành nghề tự do và có thu nhập từ nhiều nguồn khác nhau, cơ quan thuế có
thể áp dụng phương pháp tự kê khai. Đây là khâu đóng vai trò quan trọng nhất,
quyết định hiệu quả của việc sử dụng công cụ thuế. Nhờ việc tổ chức thực hiện
chính sách thuế và quá trình tính, thu thuế mới diễn ra trong thực tế, đồng thời các
quy định về quá trình này mới đến được với mọi người dân thông qua tuyên truyền,
phổ biến chính sách thuế. Đó chính là nội dung mà các cơ quan quản lý thuế tiến
18
hành thực hiện theo quy trình sau đây.
1.2.2.3. Đăng ký thuế, quản lý kê khai và nộp thuế TNCN
a. Đăng ký thuế và cấp mã số thuế
Trong quá trình thực hiện Luật thuế TNCN, với số lượng cá nhân đăng ký
thuế để được cấp mã số thuế ngày càng rất lớn. Do đó, khối lượng công việc và dữ
liệu cơ quan Thuế phải xử lý sẽ phức tạp hơn và tăng gấp nhiều lần. Với tình hình
khẩn trương đó Bộ Tài chính đã phê duyệt dự án ứng dụng công nghệ thông tin, đáp
ứng yêu cầu quản lý thuế TNCN. Hệ thống được xây dựng dựa trên cơ sở sử dụng
giải pháp phần mềm chuẩn có sẵn theo mô hình xử lý tập trung, đã được triển khai
ứng dụng từ năm 2009.
Ứng dụng đăng ký Thuế chỉ đáp ứng được việc nhập, xử lý tờ khai đăng ký
thuế và cấp mã số thuế cho những đối tượng nộp thuế theo quy định tại Thông tư
84/2008/TT-BTC của Bộ tài chính hướng dẫn thi hành Luật thuế TNCN như sau:
- Đăng ký thuế cho đơn vị chi trả thu nhập;
- Đăng ký thuế cho cá nhân nộp thuế thu nhập;
- Thủ tục đăng ký: Các tổ chức, cá nhân truy cập vào website tncnonline.com.vn
(xem hình 1.1) và tải về phần mềm (gồm các tài liệu, phần mềm và hướng dẫn quy
trình kê khai thuế) đăng ký mã số thuế cá nhân, cập nhật các thông tin đăng ký thuế
vào phần mềm theo hướng dẫn sử dụng của chương trình rồi gửi lại cho cơ quan
thuế cũng tại website này. Sau đó, cơ quan thuế sẽ gửi phản hồi cho doanh nghiệp
trong thời gian sớm nhất.
Hình 1.1: Quy trình đăng kí thuế TNCN qua website tncnonline.com.vn
(Nguồn: Tổng Cục thuế)
Với trang web này, những người làm công ăn lương qua tổ chức chi trả thu
nhập không phải trực tiếp đến cơ quan thuế để đăng ký thuế mà sẽ được hướng dẫn,
cung cấp ứng dụng nhập tờ khai. Tổ chức chi trả thu nhập thực hiện nhập tờ khai
19
đăng ký thuế vào ứng dụng và kết xuất ra file dữ liệu tải lên web hoặc qua đĩa mềm,
đĩa CD, thẻ nhớ USB gửi cho cơ quan thuế, sau đó in bảng kê đăng ký thuế từ dữ
liệu đã được nhập vào ứng dụng, đóng dấu và ký xác nhận gửi cho cơ quan thuế qua
đường bưu điện. Tiếp đó, cục thuế các địa phương tập trung toàn bộ file dữ liệu của
các cơ quan thuế trên địa bàn rồi gửi về Tổng cục Thuế. Sau khi nhận, xử lý và cấp
mã số thuế tập trung, Tổng cục Thuế sẽ gửi trả lại dữ liệu mã số thuế cho cục thuế,
trên cơ sở đó, mỗi chi cục thuế trực thuộc sẽ nhận lại dữ liệu mã số thuế để truyền
về cho các tổ chức chi trả thu nhập trên địa bàn, kịp thời thông báo cho các cá nhân
đăng ký.
Thủ tục cấp mã số Thuế: Mã số thuế là một dãy số, chữ cái hoặc ký tự khác
do cơ quan quản lý thuế cấp cho người nộp thuế dùng để quản lý thuế [26]
.
Việc cấp
mã số thuế cho người nộp thuế có ý nghĩa hết sức quan trọng để thực hiện thành
công Luật thuế TNCN. Cũng chính vì hiểu rõ tầm quan trọng của mã số thuế đối
với công tác quản lý thuế TNCN mà ngay sau khi Luật thuế TNCN được thông qua,
Tổng cục Thuế đã ban hành Công văn số 2188/TCT-CNTT ngày 03/6/2009, gửi
Cục Thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hướng dẫn cụ thể việc triển
khai đăng ký thuế cho cá nhân làm công ăn lương qua tổ chức trả thu nhập trong
năm 2009. Công văn nêu rõ: đối tượng được cấp mã số thuế cá nhân là người lao
động có thu nhập từ tiền lương, tiền công kê khai đăng ký Thuế thu nhập cá nhân
thông qua tổ chức trả thu nhập. Căn cứ công văn Tổng cục Thuế chỉ đạo Cục Thuế
các tỉnh, thành phố cấp mã số thuế cho các đơn vị, cơ quan chi trả thu nhập và các
cá nhân hiện nay đang thuộc diện nộp thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.
Đối với các tổ chức, cá nhân khác sẽ thực hiện kê khai, cấp dần mã số thuế trong
năm tiếp theo (xem sơ đồ 1.1).
20
Sơ đồ 1.1: Thủ tục đăng ký mã số thuế
(Nguồn: Tổng Cục thuế )
b. Quản lý kê khai, nộp thuế
Quy trình quản lý nghĩa vụ kê khai thuế thu nhập cá nhân được thiết kế xây
dựng, nhằm hỗ trợ cơ quan thuế theo dõi, giám sát người nộp thuế, thực hiện các
thủ tục hành chính về khai thuế thu nhập cá nhân đầy đủ, đúng thời hạn. Nghĩa vụ
kê khai thuế được xác định (hệ thống có hỗ trợ tự động) sau khi người nộp thuế
đăng ký và được cấp mã số thuế. Quy trình này cũng cung cấp danh sách người nộp
thuế phải nộp hồ sơ khai thuế để theo dõi đôn đốc tình trạng kê khai của người nộp
thuế. Quy trình quản lý nghĩa vụ kê khai bao gồm 4 chức năng chính: (i) Xác định
và cập nhật các nghĩa vụ khai thuế của người nộp thuế sau khi đăng ký thuế, đồng
thời hỗ trợ xác định tự động nghĩa vụ khai quyết toán thuế của cá nhân; (ii) Cập
nhật, điều chỉnh, gia hạn nghĩa vụ khai thuế khi có các thông tin thay đổi đăng ký
thuế hoặc đề nghị gia hạn, yêu cầu thay đổi kỳ kê khai của người nộp thuế; (iii)
Định kỳ hàng tháng, tự động lên danh sách người nộp thuế có nghĩa vụ phải khai
thuế; (iv) Cung cấp các thông tin báo cáo phục vụ công tác quản lý, theo dõi tình
trạng chấp hành nghĩa vụ thuế.
Thủ tục đăng ký mã số thuế
Cơ quan chi trả thu nhập
Cá nhân làm việc tại cơ
quan chi trả thu nhập
Mẫu 01/ĐK-TCT
Bảng liệt kê hồ sơ
Đăng ký thuế
Giấy phép thành lập
(sao y)
Mẫu 01/ĐK-TTNCN
CMND hay Passport
21
Quy trình này áp dụng cho cơ quan thuế các cấp để hỗ trợ cập nhật, xử lý
thông tin về nghĩa vụ khai thuế của người nộp thuế. Các nghĩa vụ kê khai thuế
TNCN được xác định và quản lý trên các tiêu chí. Các loại tờ khai thuế TNCN theo
lần phát sinh không được quản lý như nghĩa vụ khai thuế của người nộp thuế. Các
tờ khai này không được đưa vào danh sách phải đôn đốc nộp. Khi nào người nộp
thuế phát sinh thu nhập sẽ tự khai và tự nộp thuế cho cơ quan thuế. Một người nộp
thuế có thể có quyết toán nhiều hơn một lần trong năm tính thuế. Trường hợp nhóm
cá nhân kinh doanh chia tách hoặc ngừng hoạt động giữa năm và người đại diện của
nhóm này trở thành người đại diện cho một nhóm khác hoặc cho các cá nhân có số
ngày cư trú 183 ngày trong 12 tháng liên tục qua 2 năm. Các tờ khai quyết toán phát
sinh nộp giữa năm là tờ khai phát sinh không quản lý được như là nghĩa vụ kê khai.
Trình tự quản lý kê khai: Cơ quan thuế quản lý thuế thu nhập cá nhân thông
qua cơ quan chi trả thu nhập, n cơ quan này sẽ quản lý trực tiếp đến từng người nộp
thuế. Điều này sẽ giải quyết hai vấn đề: Thứ nhất, người nộp thuế sẽ chứng minh gia
cảnh trực tiếp với cơ quan thuế, chịu trách nhiệm về thông tin kê khai và khắc phục
nhược điểm một người có nhiều khoản thu nhập từ các địa bàn khác nhau nhưng chỉ
nộp thuế tại một nơi. Thứ hai, Việc quản lý thu nhập của mỗi cá nhân, sẽ dựa trên dữ
liệu của nhiều cơ quan trả thu nhập tập trung vào dữ liệu của cơ quan thuế. Theo
Thông tư 84/2008/TT-BTC của Bộ tài chính, hệ thống tờ khai thuế thu nhập cá nhân
có hai dạng: Hệ thống tờ khai dùng cho các cơ quan chi trả thu nhập và hệ thống tờ
khai dành cho cá nhân nộp thuế (áp dụng cho thu nhập thường xuyên).
Địa điểm kê khai nộp thuế: Đối với các doanh nghiệp được thành lập và hoạt
động theo Luật Doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh bao gồm cả cá nhân hành nghề
độc lập: địa điểm nộp hồ sơ đăng ký thuế thực hiện theo quy định tại Thông tư số
85/2007/TT-BTC. Cá nhân đến cơ quan thuế Thành Phố, Quận, Huyện, Thị xã nơi
người đó làm việc hoặc sinh sống, mang theo bản sao chứng minh nhân dân hoặc hộ
chiếu và điền vào tờ khai đăng ký thuế.
- Cá nhân có thu nhập từ nhiều nguồn: từ kinh doanh, tiền lương được chọn
nơi nộp hồ sơ đăng ký thuế tại cơ quan, đơn vị chi trả thu nhập hoặc tại chi cục thuế
nơi kinh doanh. Hồ sơ khai thuế sẽ khác nhau tùy theo cá nhân có thực hiện đầy đủ
chế độ sổ sách kế toán hay không sẽ có hồ sơ khai thuế hay không.
- Cá nhân làm việc cố định tại các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức: sẽ nhận tờ
khai từ đơn vị chi trả thu nhập để khai và cơ quan này có trách nhiệm tập hợp xử lý.
Tuy nhiên về cơ bản, trách nhiệm khai thuế thuộc về đơn vị chi trả thu nhập. Đối
với cơ quan chi trả thu nhập có hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc cơ quan thuế
22