TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG NAM
KHOA: NGỮ VĂN & CTXH
----------
TỐNG THỊ HUỆ
NGHIÊN CỨU CÁCH DIỄN ĐẠT GIỐNG VÀ
MỘT SỐ BIỂU HIỆN CỦA SỰ KÌ THỊ GIỚI TÍNH
TRONG TIẾNG PHÁP VÀ TIẾNG VIỆT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Quảng Nam, tháng 5 năm 2016
LỜI CẢM ƠN
Trên thực tế khơng có sự thành cơng nào mà khơng có sự hỗ trợ, giúp đỡ, dù ít
hay nhiều, dù gián tiếp hay trực tiếp. Để hồn thành khóa luận này tôi xin chân thành
cảm ơn các thầy cô giáo đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy tơi trong suốt quá trình học
tập tại trường Đại học Quảng Nam.
Xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn Nguyễn Thị Hồng Sanh, đã tận tình,
chu đáo hướng dẫn tơi hồn thành khóa luận tốt nghiệp này. Không chỉ gợi ý và hướng
dẫn tôi trong quá trình tìm hiểu đọc tài liệu và lựa chọn đề tài, cơ cịn chỉ bảo tơi những
kĩ năng phân tích, khai thác tài liệu để có được những lập luận phù hợp với nội dung
khóa luận. Hơn nữa, cơ cịn rất nhiệt tình trong việc đốc thúc q trình viết khóa luận,
đọc và đưa ra những nhận xét, góp ý để tơi có thể hồn thành khóa luận một cách tốt
nhất.
Xin chân thành cảm ơn bạn bè và người thân đã an ủi, động viên trong q trình
tơi thực hiện khóa luận này
Cảm ơn bạn Ung Thị Hồng Hiếu đã giúp tơi về mặt kiến thức và ln theo sát
trong q trình tơi hồn thành khóa luận
Cảm ơn bạn Lê Thị Thiện đã luôn quan tâm, ủng hộ tinh thần và góp ý cho khóa
luận của tơi được hồn thiện nhất.
Khóa luận này sẽ là kỉ vật lưu giữ kiến thức cũng như công sức của cuộc đời
sinh viên. Một lần nữa xin gởi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy cô và bạn bè của tôi.
Xin chân thành cảm ơn!
Quảng Nam, tháng 5 năm 2016
Tác giả khóa luận
TỐNG THỊ HUỆ
MỤC LỤC
Phần 1. MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................................ 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 2
2.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................. 2
2.2. Phạm vi nghiên cứu................................................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................. 2
4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 2
5. Lịch sử nghiên cứu .................................................................................................... 2
5.1. Vấn đề nghiên cứu về lí thuyết về giới trong ngơn ngữ ........................................ 3
5.2. Vấn đề vận dụng lí thuyết về kì thị giới trong ngôn ngữ vào nghiên cứu văn học
......................................................................................................................................... 3
5.3. Vấn đề nghiên cứu về giới trong ca dao Việt Nam ................................................ 5
6. Đóng góp của đề tài ................................................................................................... 5
6.1. Về phương diện lí thuyết ......................................................................................... 5
6.2. Về phương diện thực tiễn........................................................................................ 6
7. Cấu trúc của khóa luận ............................................................................................. 6
Phần 2. NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
Chương 1. GIỚI THUYẾT VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI .... 7
1.1. Vài nét về trường từ vựng ....................................................................................... 7
1.1.1. Một số khái niệm về trường từ vựng ................................................................... 7
1.1.2. Các loại trường từ vựng - ngữ nghĩa................................................................... 7
1.1.2.1. Trường nghĩa biểu vật ........................................................................................ 8
1.1.2.2. Trường nghĩa biểu niệm ..................................................................................... 8
1.1.2.3. Trường nghĩa tuyến tính ..................................................................................... 9
1.1.2.4. Trường liên tưởng............................................................................................... 9
1.1.3. Giá trị biểu đạt của trường từ vựng - ngữ nghĩa ................................................ 9
1.1.3.1. Giá trị biểu đạt hiện thực khách quan................................................................ 9
1.1.3.2. Giá trị biểu đạt tư tưởng, tình cảm của chủ thể sáng tạo ................................ 10
1.2. Vài nét về motif ...................................................................................................... 11
1.3. Phong cách ngôn ngữ ........................................................................................... 12
1.3.1. Một số khái niệm về phong cách ......................................................................... 12
1.3.2. Phong cách ngôn ngữ của mỗi giới..................................................................... 13
1.4. Sự thể hiện ngơn ngữ giới tính trong ca dao ....................................................... 13
1.4.1. Đối với nữ giới..................................................................................................... 13
1.4.2. Đối với nam giới .................................................................................................. 14
Chương 2. HÌNH THỨC NGƠN NGỮ THỂ HIỆN SỰ KÌ THỊ GIỚI.................. 16
TRONG CA DAO VIỆT NAM .................................................................................. 16
2.1. Sự kì thị giới tính trong cách sử dụng trường từ vựng cho mỗi giới ............... 16
2.1.1. Trường từ vựng định danh cho mỗi giới........................................................... 16
2.1.1.1. Đối với nữ giới.................................................................................................. 17
2.1.1.2. Đối với nam giới ............................................................................................... 18
2.1.1.3. Sự kì thị giới qua trường từ vựng định danh cho cả hai giới ........................... 18
2.1.2. Trường từ vựng xưng hô sử dụng cho mỗi giới ............................................... 22
2.1.2.1. Trường từ vựng xưng hô sử dụng cho nữ giới.................................................. 23
2.1.2.2. Trường từ vựng xưng hô sử dụng cho nam giới ............................................... 23
2.1.2.3. Trường từ vựng xưng hơ cả hai giới sử dụng................................................... 24
2.1.2.4. Sự kì thị giới thông qua trường từ vựng xưng hô ............................................ 25
2.1.3. Trường từ vựng chỉ trang phục, đồ dùng.......................................................... 27
2.1.3.1. Sử dụng cho nữ giới.......................................................................................... 27
2.1.3.2. Sử dụng cho nam giới ....................................................................................... 28
2.1.3.3. Sự kì thị giới thể hiện qua trang phục, vật dụng của mỗi giới ......................... 29
2.1.4. Trường từ vựng chỉ hình thức ........................................................................... 33
2.1.4.1. Sử dụng cho nữ giới.......................................................................................... 33
2.1.4.2. Sử dụng cho nam giới ....................................................................................... 34
2.1.4.3. Sự kì thị giới thơng qua trường từ vựng chỉ hình thức. .................................... 35
2.1.5. Trường từ vựng chỉ tính cách ............................................................................ 38
2.1.5.2. Sử dụng cho nam giới ....................................................................................... 39
2.1.5.3. Sự kì thị giới qua trường từ vựng chỉ tính cách của mỗi giới .......................... 39
2.1.6. Trường từ vựng chỉ hành động ......................................................................... 42
2.1.6.1. Sử dụng cho nữ giới.......................................................................................... 42
2.1.6.2. Sử dụng cho nam giới ....................................................................................... 44
2.1.6.3 Sự kì thị giới thể hiện qua nội dung phản ánh của trường từ vựng chỉ hành động .. 46
2.2. Sự kì thị giới thể hiện qua việc sử dụng motif ngôn ngữ cho mỗi giới................. 48
2.2.1. Sử dụng motif ngôn ngữ cho nữ giới ................................................................ 48
2.2.2. Sử dụng motif ngôn ngữ cho nam giới.............................................................. 49
2.2.3. Sự kì thị giới qua việc sử dụng motif ngơn ngữ cho mỗi giới .......................... 49
2.3. Sự kì thị giới thể hiện qua nét khác biệt trong phong cách ngôn ngữ của mỗi
giới................................................................................................................................. 52
2.3.1. Sự khác biệt trong phong cách ngôn ngữ mỗi giới thể hiện qua lối nói ......... 52
2.3.3. Sự khác biệt trong phong cách ngơn ngữ mỗi giới thể hiện trong việc dùng
thán từ, tình thái từ của hai giới.................................................................................. 55
Phần 3. KẾT LUẬN .................................................................................................... 59
Phần 4. TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 60
1
Phần 1. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong xã hội phong kiến Việt Nam, do ảnh hưởng của Nho giáo nên xuất hiện
quan niệm “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vơ” để nói về sự khác nhau trong vị trí
của nam giới và nữ giới trong xã hội. Sự “trọng nam khinh nữ” đó thể hiện ở nhiều mặt
trong cuộc sống. Trong học hành, chỉ có nam giới được tham gia học và thi cử, cịn nữ
giới tuyệt đối khơng. Trong gia đình, người vợ phải qn xuyến cơng việc gia đình để
cho chồng ra ngồi lập cơng danh. Người nữ ln bị gắn chặt với “Tam tịng tứ đức”
khiến cho họ không thể vượt ra khỏi những ràng buộc của định kiến của xã hội. Người
đàn ông cũng bị ràng buộc bởi quan niệm “Tam cương ngũ thường”, nên cũng chịu
nhiều áp lực về trách nhiệm với non sông, đất nước. Đây là những biểu hiện tiêu biểu
cho sự kì thị giới trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Nhưng từ xưa đến nay, vấn đề kì thị giới khơng chỉ xuất hiện trong đời sống xã hội
mà nó cịn được phản ánh trong văn học và đặc biệt là trong ca dao, tục ngữ của người
Việt. Hình ảnh người nữ và nam được tác giả dân gian khắc họa mang đậm tính định
kiến, phụ nữ luôn bị gán ghép với trách nhiệm, bổn phận và chịu đựng sự miệt thị của
dân gian. Họ luôn hiện lên với sự cam chịu, bất lực trong tình cảm vợ chồng: “Trai
năm thê bảy thiếp / Gái chính chuyên một chồng”. Ngược lại, nam giới phải luôn là
“đấng trượng phu”, “sức dài vai rộng” gánh vác giang sơn, đất nước: “Làm trai cho
đáng nên trai / Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng”. Như vậy, cả nam và nữ đều bị
ràng buộc, gán ghép với bổn phận và trách nhiệm riêng, nếu một ai đi ngược lại những
quan niệm đó thì sẽ bị xã hội lên án và chê trách.
Trong ngôn ngữ, hiện tượng kì thị giới được biểu hiện ở nhiều mặt: cách sử dụng
trường từ vựng, motif và phong cách ngôn ngữ… Tất cả đều bộc lộ sự kì thị cho cả hai
giới nam và nữ. Sự kì thị trong ngơn ngữ qua thời gian ăn sâu vào tiềm thức của con
người và tạo nên trong xã hội những định kiến, quan niệm sai lầm cho cả nam và nữ.
Như vậy, dù sự sự kì thị thể hiện ở mặt nào thì cũng gây ra những hệ lụy không hề nhỏ
đến vị trí và vai trị của cả nam và nữ trong xã hội.
1.2. Kho tàng ca dao Việt Nam vơ cùng phong phú, đa dạng. Nó là một bộ phận của
văn học dân gian, là dòng sữa ngọt nuôi dưỡng tâm hồn người Việt qua bao thế hệ. Đó
có thể là nơi con người gởi gắm tình u đất nước, lứa đơi, nhưng cũng có khi là nơi để
bộc lộ nỗi lịng cay đắng, những bất cơng ngang trái của cuộc đời. Chính vì thế, ca dao
ln là đề tài hấp dẫn và lôi cuốn với độc giả và các nhà nghiên cứu. Đã có nhiều cơng
trình nghiên cứu ca dao ở nhiều góc độ trong đó có vấn đề kì thị giới ở mặt nội dung
phản ánh. Qua tìm hiểu ca dao, chúng tơi nhận thấy vấn đề kì thị giới trong ca dao khá
đậm nét.
2
Thực hiện khóa luận này người viết muốn đi sâu làm rõ vấn đề kì thị giới được thể
hiện qua hình thức trong ca dao, từ đó người viết có thể hiểu rõ hơn một thể loại văn
học dân tộc dưới góc nhìn mới mẻ. Vì những lí do trên người viết đã chọn đề tài Hình
thức ngơn ngữ thể hiện sự kì thị giới trong ca dao Việt Nam để làm đề tài nghiên cứu.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài khảo sát và phân tích vấn đề kì thị giới thể hiện qua hình thức ngơn ngữ
trong ca dao Việt Nam.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Để có một cái nhìn bao qt, chúng tơi tập trung tìm hiểu ở 2 tập ca dao: Nguyễn
Cừ chủ biên (2001), Tuyển tập tục ngữ - ca dao Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội và
Vũ Ngọc Phan (2004), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, NXB Văn học.
3. Mục đích nghiên cứu
- Khảo sát, thống kê và chỉ ra được sự kì thị giới trong ca dao.
- Tìm hiểu những khía cạnh về hình thức ngôn ngữ: trường từ vựng, motif, phong
cách ngôn ngữ thể hiện sự kì thị giới.
- Có một cái nhìn rõ hơn về tư tưởng, tình cảm và quan niệm của nhân dân ta về
nam giới và nữ giới trong ca dao Việt Nam
4. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê: Phương pháp này được vận dụng vào việc thống kê các
hình thức ngơn ngữ trong ca dao Việt Nam.
- Phương pháp phân loại: Nhằm phân loại cách sử dụng hình thức ngơn ngữ mang
sự kì thị đối nam và nữ trong ca dao: trường từ vựng, motif, phong cách.
- Phương pháp phân tích: Phương pháp này được vận dụng để phân tích sự kì thị
giới trong ca dao thơng qua việc dẫn chứng tư liệu. Phương pháp này giúp người viết
hiểu rõ hơn các quan niệm xưa của nhân dân trong ca dao.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp này được vận dụng vào việc so sánh những
điểm tương đồng và khác biệt của khóa luận với các cơng trình nghiên cứu khác.
- Phương pháp tổng hợp: Đây là phương pháp chúng tôi dùng để khái quát những
vấn đề nghiên cứu sau q trình thống kê, phân tích, so sánh.
5. Lịch sử nghiên cứu
Vấn đề kì thị giới đã được nghiên cứu từ rất lâu trong các lĩnh vực như sử học, xã
hội học, văn học nhưng gần đây thì sự kì thị giới trong hình thức ngôn ngữ mới được
nghiên cứu một cách cụ thể và đi sâu vào nhiều khía cạnh. Chúng ta có thể nhìn nhận
lại một số cơng trình nghiên cứu về giới có giá trị.
3
5.1. Vấn đề nghiên cứu về lí thuyết về giới trong ngôn ngữ
Đầu tiên phải kể đến cơng trình“Ngơn ngữ học xã hội những vấn đề cơ bản” của
Nguyễn Văn Khang. Đây là một trong những cơng trình đưa ra lí thuyết về vấn đề giới
trong cấu tạo từ và giao tiếp ngôn ngữ, từ đó tác giả đã đưa ra một số nguyên nhân dẫn
đến sự khác biệt trong ngôn ngữ mỗi giới. Tuy nhiên, tác giả chỉ mới khai thác việc sử
dụng ngơn ngữ mỗi giới cơ bản dừng lại ở khía cạnh ngữ âm và xã hội. [14]
Tác giả Quang Minh với cơng trình nghiên cứu “Thêm một cách nhìn nhận về một
số biểu hiện của sự kì thị giới tính trong việc sử dụng tiếng Việt” đã đưa ra một cách
nhìn mới mẻ về sự giống và khác nhau trong cách dùng từ cho mỗi giới giữa Tây và
Ta. Tác giả đã đưa ra được những quan điểm để cho người đọc thấy rằng, ở nước ta sự
kì thị giới vẫn chưa thật sự sâu sắc như các nước khác trên thế giới. [18]
Thạc sĩ Nguyễn Thị Hồng Sanh với cơng trình nghiên cứu “Sự phân biệt đối xử về
giới tính trong ngôn ngữ” đã đưa ra được những biểu hiện về sự phân biệt giới tính
trong ngơn ngữ: cấu tạo từ, dùng đại từ nhân xưng… Từ đó tác giả đã đưa ra một số
nguyên nhân và giải pháp khắc phục hiện tượng phân biệt giới trong ngôn ngữ. [25]
Thạc sĩ Lương Thị Hiền với cơng trình nghiên cứu “Giá trị văn hóa – quyền lực
được đánh giá qua hành động cầu khiến trong giao tiếp gia đình người Việt”, Tạp chí
Ngơn ngữ đã đưa ra những số liệu và cấu trúc câu cầu khiến, mệnh lệnh trong gia đình,
từ đó thấy được sự bất bình đẳng trong giao tiếp giữa vợ và chồng trong gia đình. [10]
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đã có những đóng góp nhất định cho
việc nghiên cứu về giới trong ngôn ngữ học tiếng Việt. Và các cơng trình trên đã trở
thành những tiền đề cơ sở lí luận để người viết đi vào nghiên cứu sự bất bình đẳng giới
trong ca dao Việt Nam.
5.2. Vấn đề vận dụng lí thuyết về kì thị giới trong ngôn ngữ vào nghiên cứu văn học
Nghiên cứu giới trong các sáng tác văn học là một vấn đề còn mới mẻ ở nước ta.
Tuy nhiên, đã có một số cơng trình nghiên cứu có giá trị.
Hồ Khánh Vân có cơng trình nghiên cứu “Ý thức nữ quyền và sự phát triển bước
đầu của văn học nữ Nam Bộ trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc đầu thế kỷ
XX”, Tạp chí Nghiên cứu văn học. Đây là luận văn thạc sĩ đầu tiên nghiên cứu về nữ
quyền trong văn học một một cách sâu sắc. Tác giả đã đưa ra những quan điểm của các
nhà nghiên cứu về văn học nữ nước nhà. Luận văn cũng đã đề ra những nhận định,
kiến giải về việc đưa “ánh sáng nữ quyền” ngày càng được phát triển và lớn mạnh
trong nền văn học Việt Nam. [31, 82]
Tiến sĩ Phan Thị Nhàn với cơng trình “Biểu hiện ý thức về giới phận trong đoạn
trích Thúy Kiều báo ân báo ốn”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, đã khảo sát trong một
đoạn trích thơ để cho người đọc thấy được những giá trị đẹp đẽ của người phụ nữ trong
4
xã hội phong kiến kìm kẹp họ. Những thiên tính nữ và ý thức về vị thế của nhân vật nữ
được bộc lộ rõ trong đoạn trích mà tác giả nghiên cứu. [20 ]
Giáo sư Trần Đình Sử cũng đã có cơng trình nghiên cứu về “Chữ thân và vấn đề
thân phận trong tư tưởng truyện Kiều”, Tạp chí Nghiên cứu văn học đã cho ta thấy
được tư tưởng mới mẻ về ý thức thân phận của người phụ nữ phong kiến. Tác giả đã
đưa ra được sự khác nhau và tiến bộ về “thân” và “phận” của người phụ nữ trong
Truyện Kiều so với thơ thiền và Kim Vân Kiều truyện của Trung Hoa. Bài viết đã đưa
ra những so sánh cụ thể để người đọc dễ dàng nhận thấy được tài tình trong sáng tác
của đại thi hào Nguyễn Du. [26, 4]
Tiến sĩ Trần Ngọc Hiếu với “Dẫn nhập về tự sự học nữ quyền luận”, Tạp chí
Nghiên cứu văn học đã đưa mối quan hệ giữa tự sự học hậu kinh điển và nữ quyền
học. Từ những lí thuyết, người viết đã đưa ra những cơng trình nghiên cứu cụ thể, từ
đó giúp ta có thêm cơ sở để tiếp cận và hiểu sâu hơn về nữ quyền trong văn học thế
giới và nước nhà. [11, 40]
Giáo sư Susan S. Lanser của trường Đại học Brandeis (Hoa Kỳ) cũng đã có cơng
trình nghiên cứu “Hướng tới tự sự học nữ quyền”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, đã
đưa ra những lý thuyết về mối quan hệ và vai trò của tự sự học đối với nữ quyền luận
và ngược lại. Người viết đã đưa ra những ví dụ cụ thể để minh chứng cho ta thấy văn
học viết về phụ nữ và do phụ nữ viết ra đã gặp rất nhiều khó khăn trong một xã hội
trọng nam. Các tác phẩm phải được che đậy dưới một hình thức và giọng điệu riêng.
Tác giả mong muốn con người phải có cách nhìn nhận tầm quan trọng của văn học về
nữ giới trong tổng thể trong nền văn học. [17, 96]
Thạc sĩ Huỳnh Thị Thu Hậu với cơng trình“Vẻ đẹp thiên tính nữ trong Báu vật của
đời của Mạc Ngơn”, in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học – Vấn đề giới trong văn học
và ngôn ngữ, trường Đại học Quảng Nam, 2014 đã phân tích về tiếng nói nữ quyền và
vẻ đẹp thiên tính nữ trong tác phẩm. [33]
Luận văn thạc sĩ ngành Ngôn ngữ học của Nguyễn Thị Hiền “Khảo sát các phát
ngôn hỏi đáp từ góc độ giới tính trên cứ liệu một số tác phẩm văn học trước cách
mạng”, trường Đại học Quốc gia Hà Nội đã đi vào khảo sát và nghiên cứu cụ thể bất
bình đẳng giới trong một giai đoạn văn học cụ thể. [10]
Tiến sĩ Đỗ Thị Kim Liên với bài viết “Trường ngữ nghĩa biểu hiện quan niệm về
nữ giới trong tục ngữ Việt Nam”, Báo Ngôn ngữ và Đời sống đã khảo sát và đưa ra
những định kiến đối với người phụ nữ trong tục ngữ Việt Nam, thể hiện ở nhiều mặt:
hình thức bên ngồi, trách nhiệm trong gia đình, thân phận của người phụ nữ. [16, 25]
Những cơng trình trên đã cung cấp cách tiếp cận, xử lý vấn đề, việc ứng dụng lí
thuyết về giới vào nghiên cứu ca dao một cách khoa học.
5
5.3. Vấn đề nghiên cứu về giới trong ca dao Việt Nam
Ca dao là tấm gương phản ánh hiện thực khách quan của mỗi dân tộc với lối sống,
phong tục tập quán riêng. Ca dao cũng là nơi kết tinh thuần túy những giá trị tinh thần
dân tộc, nơi đó có thể đẹp đẽ sáng ngời, nhưng cũng có khi là những bất cơng đau khổ.
Vì vậy, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về ca dao dưới những góc độ khác nhau:
Vũ Ngọc Phan với cơng trình “Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam” đã nêu ra những
thiệt thòi và đau khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Tác giả cũng đã đưa ra
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất cơng đối với nữ giới. [23]
Phạm Thu Yến với công trình “Những thế giới nghệ thuật của ca dao” đã nêu lên
cảm hứng về thân phận người phụ nữ trong ca dao truyền thống và trong thơ hiện đại.
Từ đó tác giả đã nói lên những nỗi đau khổ và vẻ đẹp tâm hồn của họ. [32]
“Giáo trình văn học dân gian” do Đinh Gia Khánh chủ biên đã góp phần quan
trọng trong việc nghiên cứu văn học dân gian nói chung và ca dao nói riêng. Đặc biệt
là ở chương 3, tác giả đã đề cập đến vấn đề: Ca dao dân ca trữ tình về sinh hoạt gia
đình - Nhân vật chính là người phụ nữ lao động Việt Nam. [15]
Triều Nguyên trong “Tiếp cận ca dao bằng phương pháp xâu chuỗi đã đề cập đến
những vẻ đẹp của phụ nữ thơng qua những mơ hình cấu trúc ca dao. Trong bài “Thử
khảo sát một số bài ca dao theo mơ hình cấu trúc một, hai-mười-thương (u, lo)…
trong cấu trúc này nhóm chủ thể trữ tình là nam giới, họ đã thấy được vẻ đẹp của người
phụ nữ qua những từ ngữ như: duyên dáng, xinh đẹp, lúm đồng tiền… [22]
Triều Ngun trong cơng trình “Bình giảng ca dao” đã bình giảng một số bài cao
dao mở đầu bằng “Thân em như…”, từ đó đã nói lên được nỗi canh cánh về thân phận
của mình, khát khao yêu thương lứa đôi của người phụ nữ. [21]
Luận văn thạc sĩ của Lê Thị Nguyệt “Nét đẹp của người phụ nữ trong ca dao cổ
truyền người Việt” đã nghiên cứu một cách đầy đủ về vẻ đẹp của người phụ nữ: hình
thể, tâm hồn và vị thế của người phụ nữ trong xã hội xưa. [19]
Đề tài nghiên cứu của Nguyễn Hữu Thọ “Nghiên cứu cách diễn đạt giống và
một số biểu hiện của sự kì thị giới tính trong tiếng Pháp và tiếng Việt” đã phân tích
hình ảnh người phụ nữ Việt Nam phản ánh qua ca dao, tục ngữ. Một số biểu hiện sự kì
thị giới tính nữ của người Pháp và người Việt cũng đã được tác giả đề cập.[29]
Tóm lại, vấn đề kì thị giới trong ngôn ngữ và văn học đã được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm từ rất lâu. Những kết quả và hướng tiếp cận trên đã giúp cho chúng tơi
tìm hiểu sâu hơn về vấn đề
6. Đóng góp của đề tài
6.1. Về phương diện lí thuyết
Cơng trình đã hệ thống lại lí thuyết về hình thức ngôn ngữ và đưa ra những dẫn
chứng cụ thể về mặt hình thức ngơn ngữ trong ca dao Việt Nam. Trong chừng mực
6
nhất định, chúng tôi hi vọng đưa ra một vài phát hiện về mặt lí thuyết khi ứng dụng lí
thuyết mới vào nghiên cứu tiếng Việt nói chung và ca dao nói riêng.
6.2. Về phương diện thực tiễn
Cơng trình nghiên cứu góp phần hệ thống, phân loại sự kì thị đối với hai giới về
mặt hình thức ngơn ngữ trong ca dao Việt Nam. Từ đó rút ra những hình thức ngơn
ngữ phản ánh vấn đề kì thị giới trong ca dao.
Đối với bản thân, khi nghiên cứu kì thị giới, người viết nắm vững lí thuyết về ngơn
ngữ nói chung và việc vận dụng vào nghiên cứu ca dao nói riêng. Từ đó có cái nhìn đa
chiều hơn đối với một thể loại văn học dân tộc. Bên cạnh đó người viết cịn có nền
tảng trong việc dạy học ca dao trong chương trình phổ thơng trung học. Ngồi ra, cịn
có thể hiểu sâu sắc hơn về một giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc ta thời xưa.
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và mục lục, phần nội dung của
khóa luận có cấu trúc gồm 2 chương, được triển khai như sau:
Chương 1: Giới thuyết liên quan đến đề tài
Chương 2: Hình thức ngơn ngữ thể hiện sự kì thị giới trong ca dao Việt Nam
7
Phần 2. NỘI DUNG
Chương 1. GIỚI THUYẾT VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Vài nét về trường từ vựng
1.1.1. Một số khái niệm về trường từ vựng
Năm 1896, M.M.Pokrovxkij viết: “Từ và ý nghĩa của chúng không tồn tại tách rời
nhau mà liên kết với nhau trong tư tưởng của chúng ta và độc lập với ý thức chúng ta
thành những nhóm nhất định. Cơ sở để tập hợp những nhóm như vậy là sự đồng nhất
hay trái ngược trực tiếp giữa chúng về ý nghĩa. Chúng ta đã biết một cách tiên nghiệm
rằng các từ như vậy hoặc giống nhau hoặc song hành với nhau trong sự biến đổi ý
nghĩa và trong lịch sử của chúng, chúng ảnh hưởng lẫn nhau. Chúng ta cũng biết rằng
những từ này được dùng trong những tổ hợp cú pháp giống nhau”. [Dẫn theo 4]
Năm 1900, H.Osthoff viết: “Có những hệ thống nhất định ý nghĩa phụ thuộc lẫn
nhau và vị trí ngữ nghĩa của từng yếu tố chỉ có thể được hiểu rõ nhờ vào cấu trúc của
từng hệ thống đó” [Dẫn theo 4]. Nhưng ngun lí của F.de.Saussure mới là bước quyết
định hình thành nên lí thuyết về các trường: “giá trị của bất cứ yếu tố nào cũng do
những yếu tố ở xung quanh quy định” và “chính phải xuất phát từ cái tồn thể làm
thành một khối để phân tích ra những yếu tố mà nó chứa đựng”. [Dẫn theo 4]
Lí thuyết trường chính thức được đưa ra là nhờ công lao của hai nhà ngôn ngữ
người Đức J.Trier và L.Weisgerber. Trier cho rằng trong ngôn ngữ mỗi từ tồn tại trong
một trường, giá trị của nó là do quan hệ với các từ trong trường quyết định, rằng
trường là những hiện thực ngôn ngữ nằm giữa từ (riêng lẻ) với toàn bộ từ vựng, trường
quan hệ với toàn bộ từ vựng cũng như từ quan hệ với trường của mình.
Ở Việt Nam, giáo sư Đỗ Hữu Châu là người nghiên cứu sớm và có nhiều cơng trình
về lí thuyết trường. Định nghĩa trường của ơng được rất nhiều người chấp nhận và sử
dụng phổ biến: Trường từ vựng là một tập hợp các đơn vị từ vựng căn cứ vào một nét
đồng nhất nào đó về ngữ nghĩa. [4]
1.1.2. Các loại trường từ vựng - ngữ nghĩa
Theo Giáo sư Đỗ Hữu Châu, có bốn loại trường nghĩa dựa vào quan hệ ngữ nghĩa
trong lòng mỗi trường và giữa các trường với nhau. Dạng quan hệ ngang (hay quan
hệ h́nh tuyến, quan hệ tuyến tính, quan hệ ngữ đoạn) thì có trường nghĩa ngang với
hai loại là trường nghĩa tuyến tính và trường nghĩa liên tưởng. Dạng quan hệ dọc
(hay quan hệ trực tuyến, quan hệ hệ hình) thì có trường nghĩa dọc với hai loại là
trường nghĩa biểu vật và trường nghĩa biểu niệm. Sau đây là sự trình bày bốn loại
trường từ vựng - ngữ nghĩa lần lượt là trường biểu vật, trường biểu niệm, trường
tuyến tính và trường liên tưởng.
8
1.1.2.1. Trường nghĩa biểu vật
Một trường biểu vật là một tập hợp những từ đồng nghĩa về ý nghĩa biểu vật. Để có
những căn cứ dựa vào đó mà đưa các nghĩa biểu vật của các từ về trường biểu vật thích
hợp, chúng ta chọn các danh từ làm gốc. Các danh từ này phải có tính khái qt cao,
gần như là tên gọi của các phạm trù biểu vật như người, động vật, thực vật, vật thể,
chất liệu,… Các danh từ này cũng là tên gọi các nét nghĩa có tác dụng hạn chế ý nghĩa
của từ về mặt biểu vật, là những nét nghĩa cụ thể, thu hẹp ý nghĩa của từ. Như vậy,
chúng ta sẽ đưa một từ về một trường biểu vật nào đó khi nét nghĩa biểu vật của nó
trùng với tên gọi của danh từ trên. Ví dụ với từ “tóc” ta có trường:
- Bộ phận của tóc: ngọn tóc, chân tóc, sợi tóc, mái tóc, đi tóc,…
- Đặc điểm của tóc: Đặc điểm ngoại hình: bồng bềnh, ngắn, dài, xoăn, thẳng, dễ
tre, tóc tơ, vàng, đen, bạc, trắng, nâu, xanh, đỏ,…; Tình trạng của tóc: chẻ ngọn, khỏe,
mượt, rối, gãy, đứt, khô, sâu,…
Cần chú ý rằng khi phân lập các trường, cần chú ý đến nghĩa biểu vật chứ khơng
chú ý đến từ. Nói rõ hơn phân lập trường không phải là phân loại từ. Khơng phải một
từ đã có ở trường này thì khơng thể có ở trường kia được nữa. Vì từ có tính nhiều
nghĩa biểu vật, do đó từ có thể nằm trong nhiều trường biểu vật khác nhau hay trong
nhiều trường nhỏ khác nhau tùy tùy theo số lượng các ý nghĩa biểu vật của nó.
Do chỗ có các từ đi vào nhiều trường, cho nên các trường biểu vật có thể “thấm
thấu”, “giao thoa” với nhau. Hai trường biểu vật giao thoa với nhau khi một số từ của
trường này nằm trong trường kia.
1.1.2.2. Trường nghĩa biểu niệm
Một trường biểu niệm là một tập hợp các từ có chung một cấu trúc biểu niệm.
Do có hiện tượng nhiều nghĩa biểu niệm, cho nên một từ có thể đi vào những
trường biểu niệm (hay đi vào những trường nhỏ) khác nhau. Vì vậy, cũng giống như
các trường biểu vật, các trường biểu niệm có thể “giao thoa”, “thẩm thấu” vào nhau.
Dưới đây là ví dụ về trường biểu niệm dẫn theo ví dụ của Đỗ Hữu Châu.
Trường biểu niệm (vật thể nhân tạo)… (thay thế hoặc tăng cường thao tác lao động)
(cầm tay): - Dụng cụ để chia, cắt: dao, cưa, búa, phảng, rìu, liềm, hái,...; - Dụng cụ để
xoi, đục: đục, dùi, chàng, khoan,…; - Dụng cụ để nện, gõ: búa, vồ, dùi đục, dùi cui,…
Sự phân lập từ vựng thành trường biểu vật và trường biểu niệm như đã nói dựa trên
sự phân biệt hai thành phần ngữ nghĩa trong từ. Nó phản ánh cách nhìn từ vựng ở hai
góc độ khác nhau. Tuy nhiên, hai loại trường dọc này có liên hệ với nhau: nếu lấy
những nét nghĩa biểu vật trong cấu trúc biểu niệm làm tiêu chí lớn để tập hợp thì chúng
ta có các trường biểu vật. Nhưng khi cần phân một trường biểu vật thành các trường
nhỏ thì lại phải dựa vào các nét nghĩa khác trong cấu trúc biểu niệm.
9
Trái lại, khi phân lập các trường biểu niệm, cần dựa vào cấu trúc biểu niệm, song
khi phân nhỏ chúng ra, đến một lúc nào đó phải sử dụng đến nét nghĩa biểu vật.
Dựa vào ý nghĩa của từ mà chúng ta phân lập được các trường. Nhưng cũng chính
nhờ các trường, nhờ sự định vị của từng từ một trong trường thích hợp mà chúng ta
hiểu sâu sắc thêm ý nghĩa của từ.
1.1.2.3. Trường nghĩa tuyến tính
Để lập nên các trường nghĩa tuyến tính, chúng ta chọn một từ làm gốc rồi tìm tất cả
những từ có thể kết hợp với nó thành những chuỗi tuyến tính (cụm từ, câu) chấp nhận
được trong ngơn ngữ. Ví dụ trường nghĩa tuyến tính của từ ăn là cơm, cháo, bún,…; ít,
nhiều, nhanh, chậm…; lười, tham,… Trường nghĩa tuyến tính của từ học là chăm, lười
…; giỏi, dốt, kém, tốt, yếu …; tốn, văn, sinh, hóa,…
Cùng với trường nghĩa dọc, trường nghĩa tuyến tính góp phần làm sáng tỏ những
quan hệ và cấu trúc ngữ nghĩa của từ vựng, giúp phát hiện những đặc điểm nội tại và
đặc điểm hoạt động của từ.
1.1.2.4. Trường liên tưởng
Nhà ngôn ngữ học Pháp Ch. Bally là tác giả đầu tiên của khái niệm trường liên
tưởng. Theo ơng, mỗi từ có thể là trung tâm của một trường liên tưởng như từ bò của
tiếng Pháp chẳng hạn, có thể gợi ra liên tưởng: 1. Bò cái, bò mộng, bê, sừng, gặm
cỏ,… 2. Sự cày bừa, cái cày, cái ách,… 3. Những ý niệm về tính thụ động mà chúng ta
gặp trong các lối so sánh trong các thành ngữ Pháp v.v…
Dễ dàng nhận thấy rằng các từ trong một trường liên tưởng là sự hiện thực hóa, sự
cố định từ bằng các ý nghĩa liên hội có thể có của từ trung tâm.
Các trường liên tưởng thường khơng ổn định nên ít có tác dụng phát hiện những
quan hệ cấu trúc về ngữ nghĩa của các từ và từ vựng. Nhưng có tác dụng trong sự giải
thích sự dùng từ của các tác giả.
1.1.3. Giá trị biểu đạt của trường từ vựng - ngữ nghĩa
1.1.3.1. Giá trị biểu đạt hiện thực khách quan
Một trường biểu vật là một tập hợp những từ đồng nghĩa về ý nghĩa biểu vật. Thế
nên, nhờ các nét nghĩa biểu vật chung đấy mà hiện thực khách quan được thể hiện rõ
nhất. Ví dụ khi xác lập trường nghĩa biểu vật “bộ phận cơ thể người” trong tư duy của
ta sẽ phân tách các từ có khả năng vào trường thành các nét nghĩa nhỏ.
Tay: bộ phận cơ thể người/ở phần thân trên/có tác dụng cầm, nắm, ném…
Miệng: bộ phận cơ thể người/ở phần mặt/có tác dụng ăn, nói…
Mắt: bộ phận cơ thể người/ở phần mặt/có tác dụng nhìn
Ta thấy các từ trên có chung một ý nghĩa biểu vật là bộ phận cơ thể người, chính vì
vậy chúng được tập hợp vào trường biểu vật là “bộ phận cơ thể người”.
10
Tuy nhiên, nói như vậy khơng có nghĩa là các trường biểu niệm khơng phản ánh
hiện thực khách quan. Nó cũng phản ánh hiện thực khách quan một cách sâu sắc. Ví
dụ: trường biểu niệm (vật thể nhân tạo)… (phục vụ sinh hoạt)
- Dụng cụ để ngồi, nằm: ghế, giường, phản, đi văng…
- Dụng cụ để mặc, che thân: áo, quần, sơmi, khăn, khố…
Từ các ví dụ trên, có thể khẳng định trường từ vựng - ngữ nghĩa có chức năng biểu
đạt hiện thực khách quan, thông qua sự biểu đạt của các từ trong trường. Các trường từ
là những tập hợp mở, phong phú và đa dạng như sự phong phú, đa dạng của từ ngữ.
Chính vì thế hiện thực khách quan mà nó phản ánh khơng thua kém gì từ, từ bộ phận
cơ thể người, các hiện tượng thiên nhiên cho đến tính chất, trạng thái của sự vật…
1.1.3.2. Giá trị biểu đạt tư tưởng, tình cảm của chủ thể sáng tạo
Chủ thể sáng tạo trong ngôn ngữ học là những người làm ra văn bản ngôn từ: bài
thơ, bài văn, bài báo, bài tiểu luận, báo cáo khoa học… hay đơn thuần chỉ là một văn
bản nói trong giao tiếp hàng ngày.
Tuy nhiên khi nghiên cứu tác phẩm văn học theo hướng ngôn ngữ học, ta cũng cần
phải hiểu thêm rằng, chủ thể sáng tạo hay còn gọi là tác giả văn học, ngồi việc tạo ra
văn bản ngơn từ cịn là “người có ý kiến riêng về đời sống và thời cuộc. Đó là người
phát biểu một tư tưởng mới, quan niệm mới, một cách hiểu mới về các hiện tượng đời
sống, bày tỏ một lập trường xã hội và công dân nhất định. Xét về đặc trưng, tác giả văn
học là người xây dựng thành cơng các hình tượng nghệ thuật độc đáo, sống động, có
khả năng tồn tại được trong sự cảm thụ thích thú của người đọc.
Có thể hiểu rằng, khơng một chủ thể sáng tạo nào sáng tạo ra văn bản ngôn từ mà
khơng hướng đến một mục đích nào đó, có thể là giao tiếp, báo cáo, tư duy, trình bày
quan điểm. Đối với các nhà văn, nhà báo thì nhu cầu thể hiện tâm tư tình cảm của họ
cao hơn hẳn người làm các ngành nghề khác nên việc tạo ra văn bản ngôn từ phần lớn
là để phục vụ nhu cầu này.
Từ vựng là một trong những phương tiện đắc lực giúp nhà văn thể hiện rõ ý đồ của
mình. Hệ thống từ vựng trong tác phẩm, hay nhiều tác phẩm của một tác giả giúp ta
thấy được phong cách và tình cảm của nhà văn. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này thông qua
việc xác lập và giải nghĩa các trường từ vựng - ngữ nghĩa trong tác phẩm.
Ví dụ trong tác phẩm Bác ơi của nhà thơ Tố Hữu, ta sẽ thấy trường từ nói về những
sự vật quen thuộc gắn liền với Bác: vườn cau, gốc dừa, lối sỏi, thang gác, chng nhỏ,
phịng lặng, rèm bng, trái bưởi, hoa nhài… Trường từ đó gợi lên sự nhớ thương, đau
xót đối với những sự vật gắn với hình ảnh Bác của nhà thơ.
Sở dĩ trường từ có chức năng biểu đạt tư tưởng, tình cảm của chủ thể sáng tạo là do
trong quá trình sáng tác, tác giả đã rất cân nhắc trong việc sử dụng từ ngữ để phục vụ
cho ý đồ của mình. Các từ này, tập hợp với nhau bởi các nét nghĩa chung thành một
11
trường nên cũng biểu hiện ý đồ đó. Tuy nhiên, khi xếp từ thành các trường ta sẽ thấy rõ
hơn, tập trung hơn điều tác giả muốn gửi gắm bằng việc sử dụng các từ ngữ đó.
Từ giá trị biểu đạt tư tưởng tình cảm của chủ thể sáng tạo của các trường từ vựng -
ngữ nghĩa, ta càng thấy rõ hơn vai trò của việc nghiên cứu từ vựng theo hệ thống, tức
là xếp chúng thành các trường.
1.2. Vài nét về motif
Motif là thuật ngữ được phiên âm từ tiếng Pháp (motif), đôi khi được dịch sang
tiếng Việt là “mẫu đề”, dùng để chỉ những yếu tố đơn giản nhất có ý nghĩa trong cấu
tạo đề tài cốt truyện của tác phẩm nghệ thuật. Thuật ngữ motif thường được dùng trong
các khuynh hướng nghiên cứu, phê bình văn học hình thức chủ nghĩa, để phân tích tác
phẩm văn học.
Motif được dùng nhiều hơn cả là trong lĩnh vực nghiên cứu văn học dân gian, chủ
yếu là đối với các thể loại tự sự dân gian. Trong lĩnh vực này, thường thấy có hai cách
dùng thuật ngữ ngữ motif. Ở cách dùng thứ nhất, motif thường được dùng theo nghĩa
là “hạt nhân của cốt truyện” là cái “cơng thức” từ đó cốt truyện được triển khai. Ví dụ
motif “dũng sĩ diệt đại bàng cứu người đẹp” là hạt nhân của cốt truyện Thạch Sanh. Ở
cách dùng thứ hai motif thường được hiểu theo nghĩa là “yếu tố hợp thành” của cốt
truyện ví dụ như motif “người đội lốt vật”, “sự thụ thai”. Thuật ngữ motif trong trường
hợp này thường được dùng để nghiên cứu về lịch sử của các cốt truyện. Với mặt thời
gian, rất nhiều motif văn học dân gian được hình thành từ thời cơng xã nguyên thủy.
Về mặt không gian, rất nhiều motif giống nhau xuất hiện ở các dân tộc khác nhau.
Trong thơ ca bác học, motif là biểu tượng mang giá trị tượng trưng. Chẳng hạn, các
motif Đường thi như: “phong, hoa, tuyết, nguyệt…” từ đó đánh dấu một thời đại ở cảm
hứng và mức độ xuất hiện dày đặt của chúng.
Trong ca dao Việt Nam, motif về thiên nhiên cũng được để xây dựng hình tượng.
(“Trên trời có đám mây xanh…”, “Trên trời có bảy vì sao…”, “Trời mưa nước chảy
qua sân…”, “Trời mưa bong bóng phập phồng…”). [2, 465]. Lối nói ẩn dụ trong ca
dao cũng là một motif được sử dụng phổ biến như “Bến, thuyền”, “Bến đợi thuyền”,
“Dải yếm”, “Vườn hồng”, “Vào vườn hồng”… Đó là những hình tượng được hình
thành trên cơ sở những quan niệm chung và phổ biến về hiện tượng tiêu biểu trong
cuộc sống của nhân dân và dân tộc. Ví dụ motif “Con thuyền”, motif “Dịng sơng”,
motif “Thân em”…
Với các cách dùng như trên, khái niệm motif có thể được hiểu là sự khái quát nghệ
thuật nguyên sơ, phản ánh những ấn tượng quan trọng nhất và có tính chất lặp đi lặp lại
mà con người tiếp nhận được trong quá trình quan sát và nhận thức cuộc sống. Việc sử
dụng khái niệm motif trong nghiên cứu văn học dân gian của ý nghĩa quan trọng, vì nó
khơng những chỉ giúp ta phát hiện và giải quyết được những quy luật di chuyển đề tài
12
và cốt truyện mà con giúp ta phát hiện được những quy luật của sự hình thành và phát
triển lịch sử trong nội bộ tác phẩm và thể loại văn học dân gian.
1.3. Phong cách ngôn ngữ
1.3.1. Một số khái niệm về phong cách
Thuật ngữ phong cách có thể hiểu theo nhiều nghĩa do những quan điểm và những
trường phái khác nhau. Hiện nay có đến hàng trăm định nghĩa, mỗi định nghĩa phản
ánh một cách nhìn khác, một hướng tiếp cận khác.
Theo từ nguyên, từ “phong cách” do tiếng Hi Lạp stilos, là cái que một đầu nhọn và
để viết trên sáp, đầu tù dùng để xóa những chữ viết sai, nó là cái bút viết khi chưa có
giấy mực như bây giờ. Về sau được chuyển thành “cách viết”, “lối viết” và cuối cũng
có nghĩa tương đương với “bút pháp”, “phong cách” như ta dùng hiện nay.
Khi ngôn ngữ học chưa phát triển, văn ngữ bất phân, “phong cách” vừa có nghĩa
đặc trưng của ngơn ngữ thuộc một loại nhất định (phong cách cao quý, phong cách
trung bình, phong cách hạ lưu) vừa là cảm nhận màu sắc sáng tạo nghệ thuật. Đến thế
kỉ XVII, khái niệm “phong cách” là đặc trưng sáng tạo, cá tính sáng tạo nghệ thuật,
phong cách đồng nhất với các khái niệm trên: “Phong cách chính là con người”. Quan
niệm này chỉ là cách phát triển khác: “Lời nói chính là diện mạo của tâm hồn”, “Tính
cách thế nào thì phong cách thế ấy”.
Cho đến nay trong lĩnh vực lí thuyết sáng tạo nghệ thuật vẫn chưa rời bỏ được công
thức: phong cách = con người, hoặc là tính cách, hoặc là tâm hồn, hoặc tư tưởng, hoặc
tổng hợp cả ba: cá tính sáng tạo, tư tưởng nghệ thuật trong mối quan hệ với trào lưu tư
tưởng xã hội và trào lưu nghệ thuật. Nhìn một cách tổng quát, từ phong cách được hiểu
theo ba nghĩa: 1) đối với một số người là nghệ thuật viết văn, 2) với một số người khác
thì chính là bản chất con người, “một phẩm chất tự nhiên chẳng khác nào âm thanh của
giọng nói” 3) với số cịn lại là lẫn lộn hai ý nghĩa trên.
Có một khái niệm phong cách ngơn ngữ gắn với trường phái F.de Saussure mà
Ch.Bally là tiêu biểu tương đương với “tinh thần ngôn ngữ dân tộc” bao hàm tất cả các
“sự kiện được biểu đạt với màu sắc biểu cảm”.
Có một khái niệm phong cách ngôn ngữ gắn với trường phái ngôn ngữ học Đức,
xem xét lời nói như là một sự kiện phong cách, mà ta gộp chung là phong cách lời nói.
Chiều hướng này đi sâu vào phong cách cá nhân, trong đó có có sự lẫn lộn giữa ngơn
ngữ và văn học, giữa con người và tư tưởng, giữa sự diễn đạt và nghệ thuật diễn đạt…
Khái niệm “phong cách’’ được các nhà Ngôn ngữ học Xô viết hiểu giới hạn trong
“phong cách chức năng” như là hệ thống phân loại các lớp ngơn ngữ trong lịng ngơn
ngữ dân tộc bao gồm các phong cách khẩu ngữ, phong cách khoa học, phong cách
hành chính, phong cách nghệ thuật… trong đó phong cách ngơn ngữ cá nhân chỉ được
xem là một phần nhỏ trong lời nói nghệ thuật và là đối tượng của Thi pháp học.
13
Đặc trưng cơ bản nhất của khái niệm “phong cách” đó là: 1) Thuộc tính của hoạt
động ngôn ngữ; 2) Lặp đi lặp lại trong biểu đạt ở một cá nhân, tập thể hay cộng đồng;
3) Có khả năng khu biệt với cá nhân khác, tập thể khác hay một cộng đồng khác.
Vì vậy, theo cách hiểu khái quát: phong cách là “những đặc trưng hoạt động bằng
lời nói được lặp đi lặp lại ở một người nào đó, ở một mơi trường ngơn ngữ hay một
cộng đồng nào đó, có khả năng khu biệt với những kiểu biểu đạt ngôn ngữ khác; nói
cách khác, nó là tổng số những dấu hiệu khu biệt của các sự kiện lời nói trong giao
tiếp, phản ánh một cấu trúc bên trong và một cơ chế hoạt động ngôn ngữ”. [12, 179]
1.3.2. Phong cách ngôn ngữ của mỗi giới
Khi giao tiếp, mỗi người sẽ vận dụng vốn ngôn ngữ đã có trong kí ức của mình để
tạo ra phát ngơn, người nói ln phải tn theo một chuẩn mực, khn mẫu trong lời
nói để được người khác cơng nhận. Từ lúc còn nhỏ, bé gái và bé trai đã được cha mẹ,
thầy cô định hướng phong cách ngôn ngữ khác nhau, vơ hình đã tạo nên “ranh giới”,
sự phân biệt trong những phát ngôn của mỗi giới. Cùng một vấn đề nhưng cách diễn
đạt của nam giới mạnh mẽ hơn cách diễn đạt của nữ giới, khi trả lời nam giới thường
sử dụng cách nói khẳng định / phủ định một cách dứt khoát.
Trong đời sống hằng ngày, nữ giới thường do dự trong lời nói của mình: “Tơi nghĩ
cơng việc đó cũng được. Tơi sẽ thử sức mình xem thế nào.” Nam giới thì ngược lại, họ
ln thẳng thắn bộc lộ quan điểm của mình: “Tơi sẽ làm tốt cơng việc đó.” Khi giao
tiếp, nữ giới thường dùng cách nói lịch sự, rườm rà hơn nam giới.
Có thể đi đến kết luận rằng, yếu tố giới tính ln tồn tại trong phong cách ngơn ngữ
mỗi giới. Nó tác động đến cách lựa chọn ngôn ngữ và cách thể hiện phát ngôn của họ.
1.4. Sự thể hiện ngơn ngữ giới tính trong ca dao
1.4.1. Đối với nữ giới
Trong thời phong kiến, người phụ nữ phải chịu áp bức, bóc lột, tương lai số phận
phải chịu sự “gả bán” trong việc hôn nhân, đặt người phụ nữ vào cương vị của kẻ vị
thành niên suốt đời. Cuộc đời có khi như một món hàng: “Thân em như miếng trầu khô
/ Kẻ thanh tham mỏng, người thô tham dày”; “Đường đi những lách cùng lau / Cha
mẹ ham giàu ép uổng duyên con”… Người phụ nữ bị đặt lên bàn cân của người sở hữu
và được đánh giá, xem xét dựa trên giá trị sử dụng như những món hàng, vật dụng tầm
thường khác. Cuộc đời bị đẩy đưa một cách vơ định ngồi tầm tay với của họ. Cịn nỗi
đau nào hơn nỗi đau không làm chủ được số phận của mình?
Khơng chỉ trong quan hệ xã hội người phụ nữ mới bị xem thường mà ngay trong
tình u, hơn nhân, vị trí và giá trị của họ cũng không được đề cao. Người con gái ln
tự xem mình là “bến nước”, “cây đa” kiên định đợi chờ, thủy chung, son sắt. Cũng
chính vì thế, phụ nữ dễ rơi vào cảnh bị phụ bạc, bị bỏ rơi và phụ nữ luôn là người gánh
chịu mọi khổ đau khi tình u, hơn nhân tan vỡ. Có thể nói, ca dao đã thể hiện một
14
cách chân thực và sâu sắc những bi kịch lỡ duyên của người phụ nữ: “Từ ngày tôi ở
với anh / Anh đánh, anh chửi, anh tình phụ tơi…”
Cuộc đời phụ nữ đâu chỉ phải gánh chịu những bất hạnh trong tình yêu, khi đã tìm
được bến đỗ của cuộc đời, cứ ngỡ rằng họ sẽ hạnh phúc, thế nhưng họ cũng phải đối
mặt với vô vàn những trái ngang, nghịch cảnh. Nổi bật lên trong ca dao xưa là nỗi đau
của những thân gái phải chịu kiếp “chồng chung”. Người đời thường nói: “đàn ông yêu
bằng mắt”. Bởi vậy, những người vợ cả thường là những kẻ yếu thế trong cuộc cạnh
tranh khốc liệt giữa chốn tình trường. Nhưng xét cho cùng, sự phai tàn xuân sắc của họ
là kết quả của những tháng năm dài hi sinh vì chồng con, ấy vậy mà đáp lại mong ước
giản dị của họ là sự phụ bạc phũ phàng của những ơng chồng gió trăng: “Gió đưa bụi
chuối sau hè / Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ”.
Người phụ nữ trong chế độ phong kiến dù có lao động tạo ra của cải thì cũng là của
cha, của chồng, khơng được hưởng thụ:
“Giàu thì chia bảy chia ba
Em là phận gái được là bao nhiêu”.
Đồng thời, phải theo đạo “tam tòng” lệ thuộc vào cha, chồng hay con. Khi chồng
chết phải thủ tiết thờ chồng, nuôi con: “Lênh đênh như bách giữa đồng / Thương thân
góa bụa phịng khơng lỡ thì »
Trong xã hội xưa, người phụ nữ phải có nghĩa vụ lo cơng việc gia đình, chăm con,
làm đồng án cịn chồng thì dùi mài kinh sử. Như vậy ta thấy, trong ca dao có sự phân
biệt cơng việc giữa nam và nữ có một sự bất cơng: “Thương chồng nên phải lầm than /
Xưa nay ai bắt việc quan đàn bà”; “Quả cau nhỏ cái vỏ vân vân / Nay anh học gần
mai anh học xa / Tiền gạo thì của mẹ cha / Cái nghiên cái bút thực là của em”.
Hay người phụ nữ thường bị gán ghép với những thói hư tật xấu: “Đàn bà yếu
chân mềm tay / Làm ăn chẳng được lại hay nỏ mồm”.
Có thể nói rằng, ca dao đã phản ánh một cách sinh động quan niệm “trọng nam
khinh nữ” trên tất cả các phương diện từ quan niệm về hình thức, quan niệm về xã hội
đến quan niệm về thân phận.
1.4.2. Đối với nam giới
Trong ca dao, hình thức người đàn ơng rất ít được bàn đến, chỉ điểm qua vài chi
tiết: “Chẳng tham ruộng cả ao liền
Tham vì anh tú rậm râu mà hiền”.
Sự biểu hiện về bất bình đẳng giữa nam và nữ được phản ánh một cách sinh động
trong ca dao. Người phụ nữ luôn chịu sự kỳ thị nhiều hơn nam giới trong xã hội cũ.
Đây cũng là một cách nhìn nhận một hiện thưc xã hội được phản ánh trong ca dao.
Trong ngôn ngữ, nam giới thường bộc lộ trực tiếp, thẳng thắn:
15
“Dẫu rằng da trắng tóc mây
Đẹp thì đẹp vậy dạ này không ưa
Vợ ta dù có quê mùa
Thì ta vẫn cứa sớm trưa vui cùng”
Trong quan niệm về trách nhiệm đối với gia đình và xã hội, người đàn ông vẫn phải
mang nhiều trọng trách, nhất là việc đèn sách, khoa cử:
“Trai thì đọc sách ngâm thơ
Dùi mài kinh sử cho chờ kịp khoa
Mai sau nối được nghiệp nhà
Trước là đẹp mặt sau là ấm thân”.
Đối với nam giới, họ phải biết “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Cho nên
phải có chí khí: “Làm trai quyết chí lập thân / Cương thường giữ lấy có phần hiển
vinh”.
Bên cạnh đó, trong ca dao nam giới cũng bị gắn với nhiềm điểm xấu, tật xấu:
“Chồng người đi ngược về xuôi / Chồng em nằm bếp sờ đuôi con mèo”; “Học hành ba
chữ lem nhem / Thấy gái thì thèm như chửa thèm chua”.
* Tiểu kết
Trong chương một, chúng tôi đã đi vào khái quát những vấn đề về lí thuyết liên
quan đến việc nghiên cứu đề tài về các mặt như trường từ vựng, motif, phong cách
ngôn ngữ và vài nét về sự kì thì giới tính trong ca dao. Để tìm hiểu rõ hơn về hình thức
ngơn ngữ thể hiện sự kì thị giới, trong chương hai chúng tơi sẽ đi vào thống kê, phân
tích những câu ca dao thể hiện sự kì thị giới dựa trên những lí thuyết nền tảng đã
nghiên cứu trong chương này.
16
Chương 2. HÌNH THỨC NGƠN NGỮ THỂ HIỆN SỰ KÌ THỊ GIỚI
TRONG CA DAO VIỆT NAM
Để có cái nhìn thấu đáo và thuyết phục về hình thức ngơn ngữ thể hiện sự kì thị giới
trong ca dao, chúng tôi sẽ đi vào khảo sát và thống kê ca dao ở các mảng sau: (1) Cách sử
dụng trường từ vựng cho mỗi giới; (2) Cách sử dụng motif ngôn ngữ cho mỗi giới; (3)
Phong cách ngôn ngữ của mỗi giới. Ở mỗi mảng, người viết đi vào sự đối sánh qua lại giữ
ngơn ngữ thể hiện sự kì thị đối với nữ giới và sự kì thị đối với nam giới.
2.1. Sự kì thị giới tính trong cách sử dụng trường từ vựng cho mỗi giới
Đối với cách sử dụng trường từ vựng chúng ta có bảng thống kê sau:
STT Cách sử dụng trường từ vựng dành cho mỗi giới Số lượng Tỉ lệ %
1
2 Trường từ vựng định danh cho mỗi giới 53 từ 15,5%
3
4 Trường từ vựng xưng hô cho mỗi giới 20 từ 5,9%
5
6 Trường từ vựng chỉ trang phục, đồ dùng cho mỗi giới 51 từ 15%
Tổng Trường từ vựng chỉ hình thức cho mỗi giới 55 từ 16%
Trường từ vựng chỉ tính cách cho mỗi giới 23 từ 6,74%
Trường từ vựng chỉ hành động cho mỗi giới 139 từ 40,8%
341 từ 100%
Bảng 1. Bảng thống kê cách sử dụng trường từ vựng cho mỗi giới
Sau khi thống kê và phân loại các trường từ vựng nói về sự kì thị giới chúng tơi có
một vài nhận xét như sau: Số lượng trường từ vựng khảo sát được tương đối nhiều.
Trong đó trường từ vựng chỉ hành động cho mỗi giới xuất hiện với tần số cao nhất với
139 từ chiếm 40,8 %. Tiếp theo là trường từ vựng chỉ hình thức với 55 từ chiếm 16 %;
Trường từ vựng chúng tôi khảo sát được đa số đều có sự kì thị đối với nữ giới và nam
giới. Các trường từ vựng trên chủ yếu là danh từ chỉ người, chỉ đồ vật, đồ dùng, lớp từ
xưng hơ, các tính từ chỉ hình thức và động từ chỉ hành động của con người. Sau đây
chúng tơi sẽ đi vào phân tích cụ thể từng trường:
2.1.1. Trường từ vựng định danh cho mỗi giới
Trong ca dao Việt Nam, nam giới và nữ giới được nhắc đến dưới nhiều tên gọi
khác nhau. Qua quá trình khảo sát, chúng tơi nhận thấy trường từ vựng định danh
tương đối nhiều (55 từ), trong đó dành cho nữ là 28 từ, chiếm 51% và nam 27 từ,
chiếm 49%, trường từ vựng định danh cho nam và nữ tương đối ngang nhau về số
lượng. Để tìm hiểu rõ hơn về sự kì thị trong việc định danh cho mỗi giới chúng tơi đi
vào phân tích cụ thể.