Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

KỸ THUẬT ĐÚC TRỐNG ĐÔNG SƠN: LƯỢC SỬ NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG KHÁM PHÁ MỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.17 MB, 16 trang )

Kỹ thuật
ĐÚC TRỐNG ĐÔNG SƠN

Lược sử nghiên cứu và
những khám phá mới

TRƯƠNG ĐẮC CHIẾN
(Bảo tàng Lịch sử Quốc gia)

Dẫn nhập công, và do đó, khơng giúp gì nhiều trong việc trả lời
câu hỏi trống Đông Sơn được đúc như thế nào.
Lịch sử nghiên cứu trống Đông Sơn - hay trống
Heger I theo cách phân loại của học giả người Áo Trong bối cảnh đó, việc các nhà khảo cổ của
Franz Heger - tính đến nay đã hơn một thế kỷ. Nhiều Bảo tàng Lịch sử Quốc gia phát hiện hàng trăm
chủ đề nghiên cứu xoay quanh trống Đông Sơn đã mảnh khuôn đúc trống Đông Sơn ở di tích thành
được đặt ra và ít nhiều đã được giải quyết, ví dụ như cổ Luy Lâu đã gây tiếng vang lớn trong học giới.
địa bàn phân bố, nguồn gốc, niên đại, diễn biến trong Phát hiện này góp phần chứng minh tính bản địa
khơng gian và thời gian, các đồ án trang trí hoa văn và của trống Đơng Sơn và mở ra cánh cửa để tìm
ý nghĩa của nó... Tuy nhiên, một trong các khía cạnh hiểu một cách thấu đáo về quy trình đúc trống
nghiên cứu liên quan đến trống Đơng Sơn đến nay của người Việt cổ. Những thông tin chi tiết về sưu
vẫn cịn bỏ ngỏ chưa có lời giải, đó là vấn đề phương tập mảnh khuôn đúc vô giá này đã được chúng
pháp đúc trống. Cho đến nay, đây là một chủ đề thu tôi công bố trên tạp chí Khảo cổ học, số 3/2020
hút nhiều thời gian và tâm sức nhất của giới nghiên (Trương Đắc Chiến 2020: 42 - 55). Trong bài viết
cứu và vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Những tranh này, trên cơ sở lược thuật tình hình nghiên cứu
luận về phương pháp đúc trống diễn ra khơng có hồi kỹ thuật đúc trống Đông Sơn, chúng tôi sẽ đưa
kết, bởi những ý kiến đưa ra chỉ dựa vào suy luận từ ra một số nhận xét về ý nghĩa của việc phát hiện
dấu vết còn lại trên thân trống và tài liệu dân tộc học những mảnh khuôn đúc trống đồng trong địa
mà không hề có tài liệu trực tiếp là những hiện vật liên tầng khảo cổ học ở thành cổ Luy Lâu - một trong
quan đến quy trình đúc trống. Hoạt động đúc thực những phát hiện lớn nhất của khảo cổ học Việt
nghiệm cũng đã diễn ra khá sôi nổi vào những thập kỷ
60-70 của thế kỷ XX, nhưng hầu hết đều không thành Nam trong những năm gần đây.



71

Museum Bulletin

Hình 1. Khơng ảnh thành cổ Luy Lâu và vị trí phát hiện khn đúc trống
(Nguồn: Đồn nghiên cứu Việt - Nhật 2015)

I. Lược sử nghiên cứu 1.1. Quan điểm trống đồng Heger I được đúc
bằng phương pháp sáp chảy
Có thể nói, câu hỏi trống Đơng Sơn (cịn được
gọi là Heger I) được đúc như thế nào là đề tài thu Đại diện cho quan điểm này, có lẽ phải kể đến
hút sự quan tâm nghiên cứu của học giới trong và trước hết là H. Parmentier (1918), với cơng trình
ngồi nước từ rất sớm. Điểm qua các tài liệu về chủ Anciens tambours de bronze đăng trên BEFEO,
đề này từ trước tới nay, chúng tôi thấy các nghiên tập 18. Khi đề cập đến kỹ thuật đúc trống loại I
cứu tập trung chủ yếu xoay quanh những vấn đề Heger, ông cho rằng đây là công việc đầy hứng thú
sau: (i) phương pháp đúc trống; (ii) thành phần hợp và nó góp phần cho ta hiểu biết về trình độ văn
kim của trống; (iii) hoạt động đúc thực nghiệm. minh của chủ nhân trống đồng. Nghiên cứu các
dấu vết còn lại trên trống đồng, Parmentier cho
1. Các phương pháp đúc trống rằng trống được đúc 1 lần, nguyên khối chứ không
phải hàn ghép từng phần. Ông cũng đặc biệt chú
Từ đầu thế kỷ XX cho tới nay, câu hỏi trống ý tới những ơ hình chữ nhật cách đều nhau 7 - 10
đồng được đúc bằng phương pháp sáp chảy (lost- cm ở mặt ngoài của trống và cho rằng đây không
wax method) hay phương pháp ghép khuôn nhiều phải hiện tượng ngẫu nhiên mà chính là dấu vết
mang (piece-mould method) luôn là đề tài tranh của những con kê giữ khoảng cách giữa các mảnh
luận của các nhà nghiên cứu. Dưới đây là một số khuôn sau khi sáp nóng chảy. Tiếp đó, ơng cho rằng
ý kiến của các học giả liên quan tới hai phương phần quai được gắn vào thân trống từ trước khi
pháp đúc trống này.

72


Thông báo khoa hoc

tạo hoa văn, bởi không thấy dấu vết hoa văn ở dỡ khn (cả khn ngồi và khn trong) để lấy
phía dưới quai trống. Tuy chưa chỉ ra cụ thể quy trống thành phẩm (Kempers B. 1988: 185 - 190).
trình đúc trống như thế nào, nhưng qua những
gì Parmentier mơ tả, ta có thể nhận thấy ông coi Bên cạnh việc đưa ra quy trình đúc như trên,
trống loại I được đúc bằng phương pháp sáp chảy Kempers cịn lí giải cho việc xuất hiện đường gờ
(cire perdue/lost-wax) (Parmentier H. 1918: 15 - 16). (ridge) dọc thân trống. Theo ông, nhiều khả năng
đây là dấu vết để lại của việc sử dụng khuôn in
A.J. Bernet Kempers (1988), nhà dân tộc học (printing mould). Những phần khuôn in này để lại
nổi tiếng người Hà Lan, trong cơng trình đồ sộ đường gờ khi in hoa văn trên sáp, và hệ quả là sẽ
The Kettledrums of Southeast Asia: A Bronze Age xuất hiện trên thân trống sau khi đúc (Kempers
world and its aftermath, đã mô tả khá chi tiết B. 1988: 191). Ông cũng đưa ra giả thiết về cách
quy trình đúc trống đồng bằng phương pháp sáp đúc quai trống và tượng cóc. Theo Kempers,
chảy. Quy trình này gồm các bước sau: (1) tạo có hai phương án để thực hiện. Phương án thứ
phôi (core) hay khuôn trong (inner mould). Phôi nhất là quai và tượng cóc được tạo mẫu bằng sáp
được làm bằng đất sét và có hình dáng như một trước, sau đó gắn lên lớp sáp trên thân trống. Tuy
chiếc trống hoàn chỉnh, gồm 3 mặt, rỗng ruột nhiên, về phương diện kỹ thuật, ơng cho rằng có
và được làm trên bàn xoay, với sự hỗ trợ của một số khó khăn nhất định. Đối với quai trống, vì
một cơng cụ như dưỡng gạt (profile-gauge); (2) làm bằng sáp nên sẽ rất mỏng manh, dễ gãy vỡ
phủ bên ngồi phơi đất sét một lớp sáp. Độ dày khi đắp khn ngồi. Cịn đối với tượng cóc thì
của lớp sáp này tương ứng với độ dày của trống. có vẻ khả thi hơn nhưng sẽ nảy sinh vấn đề trong
Bề mặt của sáp phải đủ mềm để khắc hoa văn q trình đúc bởi vị trí gắn trên mặt của nó sẽ
bằng bút nhọn hoặc in hoa văn bằng khuôn in phải chống đỡ cho toàn bộ mặt trống khi đặt sấp
đất nung; (3) gắn con kê và đinh chốt bằng kim để rót đồng. Phương án thứ hai là quai và tượng
loại lên bề mặt lớp sáp để cố định khuôn lõi và cóc sẽ được đúc trước, sau đó sẽ được gắn vào
xác định độ dày của trống; (4) đắp đất bên ngoài phần khn sáp của trống. Tiếp đó người ta sẽ
lớp sáp để tạo khn ngồi (outer mould); (5) sấy phủ lên tồn bộ khn trong lớp sét và đất để tạo
khuôn cho lớp sáp chảy; (6) rót đồng nóng chảy khn ngồi. Các cơng đoạn tiếp theo vẫn diễn

điền vào khoảng trống do lớp sáp để lại; (7) phá như quy trình đã nêu (Kempers B. 1988: 192).

Hình 2. Quy trình đúc trống bằng phương pháp sáp chảy
A, B. Tạo phôi trống bằng đất sét; C, D. Đổ sáp chảy vào khuôn đất sét có trang trí hoa văn; E. Dán các phiến sáp lấy từ khuôn
lên phôi trống; F. Ghép các mang khuôn lại với nhau, rồi phủ tiếp đất sét lên để tạo khn ngồi; G. Rót đồng
(Higham C. 1996: 131)

73

Museum Bulletin

Cùng quan điểm với B. Kempers, trong công khi đắp lên phơi trống hình trụ thì sẽ bị kênh ở
trình The Bronze Age of Southeast Asia, Charles chỗ nối. Do đó, muốn cho lớp sáp khơng bị hở
Higham (1996) cũng đưa ra quy trình đúc trống cơ thì ở vị trí nối người ta thường cho sáp chồng
bản như trên, chỉ có khác biệt ở khâu tạo hoa văn. lên nhau. Bà cũng cho rằng mặt trong của trống
khơng có vết nối, vì khi sáp chảy hết chỉ cịn lõi
Theo Higham, để tạo hoa văn, trước hết người đất sét nên sẽ không bao giờ có đường chỉ ở phía
ta phải chuẩn bị một loạt khuôn bằng đất sét, trong cả (Bennett A. 2006: 268 - 271).
khuôn hình trịn dùng cho mặt trống, khn hình
chữ nhật dùng cho thân trống. Trên bề mặt của Ambra Calo (2014), trong cơng trình tổng
các khn đất sét này, người thợ sẽ dùng bút để hợp về trống đồng Đông Nam Á Trails of Bronze
khắc hoặc dùng các mẫu có sẵn in lên để tạo ra Drums Across Early Southest Asia, cũng nghiêng
các mơ-típ hoa văn theo ý muốn. Sau đó, sáp lỏng về giả thuyết trống đồng được đúc bằng phương
sẽ được đổ vào các khuôn đất sét đã được tạo hoa pháp sáp chảy. Quy trình mà A.Calo đưa ra về
văn này để sao lại các họa tiết. Tiếp đó, những cơ bản gần như giống với quy trình mà Higham
phiến sáp này sẽ được gỡ ra và dán lên trên phôi đã nêu. Tuy nhiên, đối với việc đúc quai trống và
trống bằng đất đã được chuẩn bị từ trước. Lúc tượng cóc thì học giả này lại có những kiến giải
này việc chỉnh sửa hoa văn vẫn có thể được thực khác. Theo A. Calo, phần quai trống được làm
hiện nếu muốn. Sau khi gắn con kê bằng đồng bằng khuôn sáp và gắn trực tiếp vào thân trống
lên bề mặt sáp, người ta phủ một lớp sét cực mịn rồi được đúc bình thường. Cịn đối với tượng cóc,

lên tồn bộ phần khn sáp, tiếp đến là lớp sét thì bà cho rằng cũng được làm bằng khn sáp
trộn phụ gia để tạo khn ngồi. Bên cạnh đó, nhưng được đúc riêng biệt và gắn vào mặt trống
trong quy trình này, Higham cũng thể hiện rõ là sau khi đúc bằng kỹ thuật hàn (Calo A. 2014: 50).
trống được đặt ngửa và nước đồng được rót từ
chân trống xuống. Higham cũng cho rằng việc Trên đây là ý kiến của một số học giả nước
đúc trống đòi hỏi đảm bảo yêu cầu về thẩm mỹ và ngoài ủng hộ quan điểm trống đồng được đúc
kỹ thuật ở mức độ rất cao, và không ai khác ngoài bằng phương pháp sáp chảy. Đối với giới nghiên
những người thợ chuyên nghiệp toàn thời gian cứu trong nước, ngay từ năm 1974, khi nghiên
(full-time specialists) mới có thể thực hiện công cứu những dấu vết trên trống Ngọc Lũ, Hà Văn
việc này (Higham C. 1996: 130 - 131). Tấn và Hoàng Văn Khoán (1974) đã đưa ra giả
thiết trống được đúc bằng phương pháp sáp
Một trong những học giả ủng hộ quan điểm chảy. Theo các tác giả, vật mẫu nhiều khả năng
trống đúc bằng phương pháp sáp chảy nhiệt tình được làm bằng sáp ong, bởi đây là nguyên liệu
nhất là Anna Bennet. Trong bài viết “Lost-Wax có nhiều ở nước ta, lại có thể dùng được nhiều
or Piece-Mould Casting” đăng trên tập san Arts lần, trang trí trên sáp cũng dễ thực hiện hơn,
& Cultures năm 2006, bà đã đưa ra những lập và việc tu sửa những chỗ bị hỏng cũng không
luận chứng minh cho việc trống đồng phải được ảnh hưởng đến toàn vật mẫu. Về trang trí hoa
đúc bằng khn sáp chứ khơng phải khuôn ba văn, các tác giả cho rằng, đối với trống Ngọc Lũ,
mang. Trước hết, A.Bennet cho rằng nếu trống người xưa đã khắc trực tiếp cả hoa văn hình học
đồng được đúc bằng khn ba mang thì đường và hoa văn tả thực lên mẫu sáp. Tuy nhiên, các
chỉ đúc trên thân trống phải thẳng và liên tục. tác giả cũng lưu ý rằng trên trống Viên, một số
Tuy nhiên, qua quan sát dưới kính hiển vi, đường băng hoa văn tả thực được tạo bằng cách dùng
thẳng của vết ráp khuôn đôi khi lại thiếu, nhất từng đoạn con dấu ấn vào khn sáp. Về quai
là chỗ khơng có hoa văn. Theo Bennett, đường trống, Hà Văn Tấn và Hồng Văn Khốn cho
gờ nổi ở thân trống là do các phiến sáp ghép lại, rằng chúng được gắn liền vào vật mẫu từ trước
nhưng do phiến sáp có mặt phẳng (do được in khi trang trí hoa văn và được đúc liền thân. Về
khn chữ nhật như Higham đã trình bày), nên cách thức tạo khn ngồi và khuôn trong, các

74


Thông báo khoa hoc

tác giả cũng có chung quan điểm với Kempers thuật, trống đồng Đông Sơn đã được đúc theo
và Higham, chỉ có điều ở đây các tác giả nhấn phương pháp sáp chảy bởi Cao Lỗ, người lo việc
mạnh rằng khuôn đúc trống không phải chỉ được đúc trống đồng cho An Dương Vương là người
hơ nóng trước khi đúc mà thực sự đã được nung Dạ Lang gốc Sở, nơi thợ đúc đồng dùng phương
với nhiệt độ không dưới 1.000°C. Về vấn đề pháp sáp chảy sớm và thạo hơn các nơi khác (Tạ
ghép khuôn và rót đồng, Hà Văn Tấn và Hồng Đức 2017: 171, 182).
Văn Khoán cho rằng để giữ khoảng cách giữa
khn ngồi và khn trong, người xưa phải sử Trên đây là các ý kiến của những học giả ủng
dụng hệ thống con kê. Tuy nhiên trong khi đa số hộ quan điểm trống đồng Đông Sơn được đúc
các học giả cho rằng con kê được làm bằng kim bằng phương pháp sáp chảy. Trong các trống
loại, thì ở đây hai tác giả cho rằng con kê phải Đông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam cho tới nay,
được làm bằng một loại đất chịu lửa như đất làm tuy cịn ít ỏi, những cũng đã có một số trống
khuôn. Các tác giả cũng cho rằng khi đúc, trống mang dấu vết cho thấy chúng đã thực sự được
được đặt ngửa và đồng nóng chảy được rót từ đúc bằng phương pháp này.
chân xuống mặt trống (Hà Văn Tấn, Hoàng Văn
Khoán 1974: 37 - 43). Hình 3. Dấu vết “ghép khn giả” trên trống ST.2008 của
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
Mười năm sau cơng trình này, trong bài viết (Ảnh: Trương Đắc Chiến)
“Bàn về kỹ thuật đúc trống Đông Sơn” đăng trên
Thông báo Khoa học của Viện Bảo tàng Lịch sử,
Hồng Văn Khốn một lần nữa khẳng định quan
điểm nói trên của mình và Hà Văn Tấn (Hồng
Văn Khốn 1985: 148 - 153).

Một nhà khảo cổ người Việt khác cũng ủng
hộ phương pháp sáp chảy là Nguyễn Việt. Trong
bài viết “Bronze Situlas of Dong Son” đăng trên
tập san Arts & Cultures năm 2006, Nguyễn Việt

một mặt khơng phủ nhận vai trị của phương
pháp đúc bằng khuôn ba mang, nhưng ông cho
rằng để đúc các bộ phận như quai trống hay các
tượng trang trí trên mặt trống thì người xưa đã
sử dụng kỹ thuật lõi sáp ong (Nguyen Viet 2006:
234 - 263).

Có cùng quan điểm với các học giả nói trên,
nhà dân tộc học Tạ Đức (2017), trong chuyên
khảo công phu Nguồn gốc và sự phát triển của
trống đồng Đông Sơn, cũng cho rằng trống Đông
Sơn được đúc bằng phương pháp sáp chảy.
Trong cơng trình này, Tạ Đức có cách tiếp cận
khá mới lạ so với truyền thống. Trước hết, ông
cho rằng những trống đồng Đông Sơn ở Bắc Bộ
Việt Nam có niên đại từ thế kỷ 3 BC là do An
Dương Vương cho đúc để ban phát cho các thủ
lĩnh địa phương, như một biểu tượng của vương
quyền Âu Lạc. Vì vậy, Tạ Đức tin rằng, về mặt kỹ

75

Museum Bulletin

Năm 2008, trong một công bố về sưu tập đúc ở thân thì có 3 mang khn, những trống có 4
trống đồng tìm thấy ở tỉnh Bình Định đăng trên đường chỉ đúc ở thân thì có 5 mang khn. Heger
Journal of East Asian Cultural Interaction Studies, cho rằng chỉ có trống loại III là đúc bằng phương
các tác giả Nishimura Masanari và Phạm Minh pháp sáp chảy, bởi trên thân trống khơng có đường
Huyền đã lưu ý về một chiếc trống được đúc bằng chỉ đúc và mặt trong của các trống này thường có
phương pháp sáp chảy, đó là trống Gị Rộng. Khi dấu vết chỉnh sửa (Heger F. 1902: 134 - 144).

nghiên cứu trống Gò Rộng, các tác giả Nishimura
và Phạm Minh Huyền nhận thấy chiếc trống này Hình 4. Dấu vết ghép khn ba mang trên trống đồng
khơng có đường chỉ đúc - dấu vết của việc ghép Hồng Hạ
khn - như các trống khác. Thay vào đó, trên (Ảnh: Trương Đắc Chiến)
thân trống này có một đường chỉ đúc giả (pseudo-
fin), và trên toàn bộ mặt trong của trống vẫn còn Sau Heger, nhiều học giả cũng cho rằng
dấu vết hoa văn trang trí được in lại từ khuôn sáp trống đồng, nhất là trống loại I, được đúc bằng
(Nishimura M., Pham Minh Huyen 2008: 214). phương pháp ghép khuôn nhiều mang. Pieter
Meyers, một nhà kỹ thuật học, cũng ủng hộ
Tiếp đó, vào năm 2014, trong Kỷ yếu Hội thảo quan điểm trống Đông Sơn phải được đúc bằng
90 năm phát hiện và nghiên cứu văn hóa Đơng Sơn, khuôn 3 mang. Trong bài nghiên cứu về kỹ thuật
các tác giả Ngô Thế Phong và Chu Mạnh Quyền đúc đồng Đơng Sơn trên tạp chí Arts & Cultures
đã có bài viết cơng bố 23 chiếc trống mới được năm 2006, ông cho rằng vì trống được đúc bằng
sưu tầm về Bảo tàng Lịch sử Việt Nam trong khuôn 3 mang nên không thể nào tránh được
khoảng thời gian từ 2004 - 2014. Đáng chú ý vết nối trên thân trống. Hơn nữa, nếu đúc trống
là trong bài viết này, các tác giả cho rằng có 2 bằng khuôn sáp tại sao không chỉnh sửa để bỏ
trống được đúc bằng phương pháp sáp chảy, đó vết nối trước khi đúc, bởi đây là việc quá đơn giản
là trống ST.9196-2008 và ST.10818-2013. Điểm như đã thấy khi đúc các tượng khối. Và nếu trống
đặc biệt của hai chiếc trống này là ở đường ghép được đúc bằng khn sáp thì tại sao chỉ có đường
khn dọc thân lại nổi lên băng hoa văn vòng nối ở mặt ngồi mà khơng có ở mặt trong. Ơng
trịn chấm giữa tiếp tuyến, điều đó khiến các tác cũng lưu ý rằng vì trống được đúc bằng khn 3
giả nghĩ rằng đây chính là vết “ghép khuôn giả”, mang nên quai trống không thể đặt ở giữa thân
và hai chiếc trống này đã được đúc bằng phương
pháp sáp chảy (Ngô Thế Phong, Chu Mạnh
Quyền 2014: 196 - 197).

1.2. Quan điểm trống đồng Heger I được đúc
trực tiếp bằng cách ghép khuôn nhiều mang

Đại diện cho quan điểm này, người đầu tiên

chúng ta cần nhắc tới, khơng ai khác chính là
Franz Heger, tác giả của cơng trình kinh điển Alte
Metalltrommenl aus Südost-Asien (1902). Khi bàn về
kĩ thuật chế tác (Technische Herstellung/technical
manufacturing), Heger cho rằng điều thú vị là
những chiếc trống đồng này được chế tác bởi hai
kỹ thuật đúc khác nhau. Theo Heger, tất cả các
trống loại I, loại II, phần lớn trống loại IV và loại
trung gian đều được đúng bằng phương pháp ghép
khuôn nhiều mang. Những trống có 2 đường chỉ

76

Thơng báo khoa hoc

mà luôn đặt lệch sang một bên, nếu đúc bằng sớm hơn thế kỷ 4 BC, và chỉ được áp dụng vào
phương pháp khn sáp thì sẽ khơng có hiện việc đúc những hiện vật nhỏ hoặc các bộ phận
tượng này (Meyers P. 2006: 264 - 267). của một hiện vật nào đó. Đồ đồng ở Vân Nam,
trong đó có trống đồng, về cơ bản được đúc bởi
Robert E. Murowchick (2001), trong một kỹ thuật ghép khuôn đất nung ba mang (Chiou-
nghiên cứu về đồ đồng ở Vân Nam, đã cho rằng Peng TzeHuey 2011: 17 - 26).
hầu hết các đồ đồng trong văn hóa Điền, từ
đồ nghi lễ, nhạc khí hay các vật dụng khác đều Đa số các học giả Trung Quốc đều ủng hộ
được đúc bằng phương pháp ghép khuôn. Theo quan điểm trống đồng được đúc bằng phương
ông, các trống đồng sớm thuộc loại Pre-Heger pháp ghép khuôn. Gần đây, các tác giả Wu
I hay cịn gọi là loại hình Vạn Gia Bá, đều được Chongji, Luo Kunxin, Cai Rong (2018), trong
đúc bằng phương pháp ghép khuôn nhiều mang cơng trình Decoration Art of Ancient Bronze
(Murowchick R.E. 2001: 148). Drums, đã khẳng định lại điều này. Các tác giả
cho rằng người xưa đã sửa dụng khuôn đất nung
Chiou-Peng, khi nghiên cứu đồ đồng Vân nhiều mang để đúc trống, giống với phương

Nam, cũng có chung nhận định như Murowchick. pháp đúc chuông và đỉnh của giai đoạn sớm. Chỉ
Trong bài nghiên cứu The Technical History of có loại trống Tây Minh (Ximeng), tức trống loại
Early Asian Kettledrums, lịch sử luyện kim Vân III ở Myanmar là đúc bằng phương pháp sáp chảy
Nam đã được Chiou-Peng phân chia ra 3 giai (Wu Chongji, Luo Kunxin, Cai Rong 2018: 12).
đoạn, với sự liên quan mật thiết tới kĩ thuật đúc
trống. (1) Giai đoạn sơ khởi (Initial Phase), có niên Đối với các học giả trong nước, ngay từ năm
đại thế kỉ 13 - 8 BC, là giai đoạn mà kĩ thuật đúc 1975, trong cuốn sách Những trống đồng Đông
bằng khuôn hở và khuôn hai mang chiếm ưu thế. Sơn đã phát hiện ở Việt Nam, các tác giả Nguyễn
Sản phẩm đúc của giai đoạn này chủ yếu là các vật Văn Huyên, Hoàng Vinh đã đưa ra ý kiến rằng
dụng cỡ nhỏ và đơn giản. (2) Giai đoạn hình thành trống Đông Sơn được đúc bằng cách ghép khuôn
(Formative Phase), có niên đại thế kỉ 7 - 4 BC, với nhiều mang, và dấu con kê ở rìa mặt trống là để
sự tiến bộ của kĩ thuật luyện kim và sự xuất hiện thốt hơi trên khn đúc (Nguyễn Văn Hun,
của kĩ thuật ghép khuôn đất nung nhiều mang. Hoàng Vinh 1975: 130).
Các hiện vật cỡ lớn bắt đầu được đúc, điển hình
là trống đồng Vạn Gia Bá. Đồ đồng nói chung và Sau đó, Trịnh Sinh cũng cho rằng trống đồng
trống đồng nói riêng trong giai đoạn này hầu hết được đúc bằng khuôn đất nung nhiều mang.
được đúc bằng phương pháp ghép khuôn nhiều Theo ông, khuôn đất nung là hoàn toàn phù hợp
mang (piece-mould casting). Chiou-Peng cũng để đúc các hiện vật có thể khối lớn, với hoa văn
lưu ý là để đúc trống người xưa đã sử dụng những trang trí phức tạp như trống đồng. Để đúc trống,
con kê (spacer) bằng kim loại để giữ khoảng cách người xưa sử dụng khuôn 3 mang với hệ thống
giữa khn ngồi và khn trong. (3) Giai đoạn con kê để định vị trong q trình rót đồng. Các
phát triển (Florescent Stage), có niên đại từ 350 con kê này làm bằng kim loại, nhiều khả năng là
BC tới 50 AD, phương pháp đúc bằng khuôn đất đồng đỏ (Trịnh Sinh 1996: 50), được đặt cách
nung nhiều mang vẫn thịnh hành, tuy nhiên đã có đều nhau trên mặt, tang, lưng và chân trống. Các
sự xuất hiện của các kĩ thuật tạo hoa văn mới, đặc hoa văn trang trí được khắc trực tiếp lên khuôn
biệt là kĩ thuật sáp chảy. Các hiện vật lớn, như đất trước khi nung. Về vị trí rót đồng, dựa trên
trống đồng chẳng hạn, vẫn được đúc bằng khuôn kinh nghiệm quan sát một số trống loại II, Trịnh
ba mang, kĩ thuật sáp chảy chỉ dùng để đúc Sinh đưa ra gợi ý rằng có thể đồng được rót ở rìa
những hiện vật nhỏ hoặc những tấm phù điêu có mặt trống hoặc ở thân trống (Trịnh Sinh 2012:
hoa văn trổ thủng. Tóm lại, theo TzeHuey Chiou- 161 - 162).

Peng, kĩ thuật sáp chảy có mặt ở Vân Nam khơng
Gần đây, Kiều Quang Chẩn, một nhà nghiên
cứu và cũng là nhà sưu tập say mê văn hóa Đơng

77

Museum Bulletin

Sơn, đã công bố cuốn sách Vang vọng từ trống trống Quảng Xương II, trống Đắc Glao, trống
Đông Sơn (2018). Trong cuốn sách này, ông đã Đồng Văn I hợp kim chủ yếu vẫn là đồng - chì -
dành hẳn 1 chương (chương III) để tìm hiểu về thiếc (dẫn theo Trịnh Sinh 1996: 47).
kỹ thuật đúc trống Đông Sơn. Sau khi điểm lại
một số nghiên cứu có liên quan đến chủ đề này, Năm 1981, Diệp Đình Hoa đã phân tích thành
ơng đã trực tiếp đến các lị đúc thủ cơng ở Thanh phần hóa học của 6 trống Đơng Sơn. Qua kết
Hóa, Nam Định để nghiên cứu kỹ thuật đúc trống quả phân tích, cho thấy hợp kim là đồng - chì,
hiện nay. Tại các lị đúc này, ông đã quan sát các hoặc đồng - chì - thiếc, tuy nhiên tỉ lệ thiếc khá
kíp thợ đúc trống bằng cả hai phương pháp ghép thấp (0,4 - 8,77%) trong khi tỉ lệ chì lại rất cao
khn 3 mang và khn sáp. Từ những khảo (1,35 - 25,6%). Diệp Đình Hoa cũng lưu ý rằng
chứng dân tộc học này, cùng với tri thức của bản những chiếc trống này đều thuộc loại hợp kim
thân sau nhiều năm nghiên cứu trống Đông Sơn, đồng thau có kẽm, và cho rằng đứng dưới góc độ
Kiều Quang Chẩn cho rằng cách đúc trống bằng kỹ thuật, đồng thau có kẽm là loại đồng thau tốt
khuôn 3 mang đơn giản hơn, sản phẩm giống với nhất, đặc biệt là đối với các loại nhạc khí (Diệp
trống cổ hơn, tuy mất thời gian hơn so với đúc Đình Hoa 1981: 166 - 168).
bằng khn sáp. Từ đó, ơng cho rằng trống đồng
Đơng Sơn cũng được đúc bằng phương pháp Bernet Kempers cũng công bố thành phần
ghép khuôn đất nung nhiều mang, giống với hóa học của 33 mẫu trống loại I ở Đông Nam Á,
những trống phát hiện ở Hoa Nam (Kiều Quang kết quả cho thấy hợp kim chủ yếu gồm 3 thành
Chẩn 2018: 27 - 35). phần: đồng (42,20 - 84,04%), thiếc (4,40 -
26,09%), chì (1,22 - 27,80%) (Kempers B. 1988:
Trên đây là ý kiến của các nhà nghiên cứu 200 - 201).

ủng hộ phương pháp đúc trống bằng cách ghép
khuôn nhiều mang. Trên thực tế, ngồi số ít Trịnh Sinh, trong chuyên khảo về kỹ thuật
những trống được đúc bằng khuôn sáp như đã đúc trống đồng đăng trên tạp chí Khảo cổ học
nói ở phần trên, hầu hết trống đồng Đơng Sơn năm 1996, cũng công bố kết quả phân tích thành
đã phát hiện đều cho thấy chúng được đúc bằng phần hóa học của 6 trống Đơng Sơn. Dựa trên
phương pháp ghép khuôn ba mang. Điều này kết quả phân tích này, ơng cho rằng hợp kim
sẽ được bàn kỹ hơn ở phần sau, khi đề cập tới ý đúc của hầu hết trống Đông Sơn cơ bản gồm
nghĩa của sưu tập khuôn đúc trống Luy Lâu. bốn thành phần là đồng, chì, thiếc và asen. Hàm
lượng chì tập trung trong khoảng 10 - 30%, hàm
2. Thành phần hợp kim lượng thiếc tập trung trong khoảng dưới 10%,
hàm lượng asen là từ 0,1 - 3,1%. Sự có mặt của
Một vấn đề quan trọng khác trong nghiên chì khiến nhiệt độ nóng chảy của hợp kim được
cứu kỹ thuật đúc trống là thành phần hợp kim. hạ thấp, và tính dẻo của chì khiến nước đồng có
Nhìn chung, hầu hết các nghiên cứu về thành thể điền đầy các chi tiết của vật đúc. Sự có mặt
phần hợp kim của trống Đông Sơn đều cho thấy, của thiếc cũng góp phần làm hạ thấp nhiệt độ
hợp kim chủ yếu để đúc trống gồm ba thành nóng chảy của hợp kim. Đáng chú ý là sự có mặt
phần: đồng, chì, thiếc. của asen. Theo Trịnh Sinh, đây không phải là sự
có mặt ngẫu nhiên, mà thực ra có vai trị vơ cùng
Ngay từ năm 1902, Heger đã công bố thành quan trọng. Asen góp phần hạ thấp điểm nóng
phần hợp kim của trống loại I là đồng - chì - chảy của hợp kim và làm tăng độ sáng, đẹp của
thiếc, trong đó đồng chiếm tỉ lệ 60,82 - 71,71%, sản phẩm đúc. Ngồi ra asen cịn là chất dẫn chảy
chì chiếm tỉ lệ 14,25 - 26,69%, thiếc chiếm tỉ lệ rất tốt, chỉ cần một lượng rất ít, chỉ vài phần trăm
4,9 - 10,88% (Heger F. 1902: 143). cũng làm cho khả năng loang rộng và nhanh của
nước đồng, điền kín khn đúc (Trịnh Sinh 1996:
Năm 1954, Malleret cũng đã công bố thành 47 - 48).
phần hợp kim một số trống Đông Sơn, cho thấy

78

Thông báo khoa hoc


3. Hoạt động đúc thực nghiệm trống. Tuy nhiên, vẫn do khn nung q chín,
đất tơi bở nên không chịu nổi áp lực của nước
Một trong những vấn đề rất quan trọng khi đồng, kết quả là trống vẫn dày hơn trống gốc hai,
nghiên cứu kỹ thuật đúc trống đồng, đó là hoạt ba lần, hoa văn bị mờ, nhiều chỗ rạn nứt (Trần
động thực nghiệm. Từ năm 1964 đến năm 1975, Khoa Trinh 1977: 43).
Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam đã phối hợp với
Viện Bảo tàng Mỹ thuật tiến hành đúc thử trống + Lần đúc thứ năm: rút kinh nghiệm của những
Ngọc Lũ năm lần. Quy trình, kết quả và kinh lần đúc thử trước đó, lần đúc thứ năm (1975) đã
nghiệm của các lần đúc thực nghiệm này đã được có kết quả tốt hơn nhiều so với bốn lần đúc trước.
Trần Khoa Trinh (1977, 1985) và Trịnh Sinh (1996) Khuôn được đặt sấp trong một hố sâu 60cm, kê
tổng hợp khá kĩ. Dưới đây chúng tôi xin điểm lại nghiêng khn một góc khoảng 15°, đậu rót mở ở
một số nét chính. trên mặt trống. Đồng rót vào khơng bị vỡ khn,
nước đồng cũng điền đầy khuôn. Tuy nhiên, theo
+ Lần đúc thứ nhất: khuôn trống đặt ngửa, sự đánh giá của các nhà chun mơn thì trống
đậu rót mở ở chân trống. Khi rót đồng vào khn đúc thử mới chỉ đạt khoảng 80% so với trống
thì khn bị vỡ. Nguyên nhân là do khuôn nung gốc. Độ dày của trống vẫn dày hơn trống thật,
quá chín, đất tơi bở, rạn nứt và do chằng buộc hoa văn thân trống thì rõ, nhưng hoa văn trên
khn chưa chắc (Trần Khoa Trinh 1977: 74). mặt thì khơng sắc nét, có chỗ mờ. Về khn đúc,
Trịnh Sinh thì cho rằng vấn đề nằm ở cấu tạo của các thợ đúc cũng gia cố thêm 5 vành đai sắt để
đất khuôn và cách định vị khuôn, khiến khuôn giúp khuôn chịu áp lực của nước đồng - đây là
không chịu nổi áp lực của đồng nóng chảy (Trịnh điều mà người xưa không thể thực hiện (Trần
Sinh 1996: 43). Khoa Trinh 1985: 158), (Trịnh Sinh 1996: 45).

+ Lần đúc thứ hai: khuôn trống cũng đặt ngửa Gần đây, Nguyễn Thơ Đình (Viện Khảo cổ học)
như lần một. Đồng rót vào khn khơng bị vỡ, cũng đã tiến hành tìm hiểu quy trình đúc trống
nhưng đồng lại không điền đầy khuôn, do quanh Đông Sơn theo hướng tiếp cận thực nghiệm
mặt trống khơng có lỗ thơng hơi, khiến giữa mặt dân tộc - khảo cổ học. Nghiên cứu của Nguyễn
trống bị khuyết một mảng lớn (Trần Khoa Trinh Thơ Đình được tiến hành ở làng nghề Chè Đông
1977: 74). Trịnh Sinh cho rằng có khả năng do (xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa).

“nước đồng” có q trình dẫn chảy kém, chưa Dưới đây là một số nét chính trong báo cáo của
điền đầy đã đơng đặc, do đó phải xem lại bản Nguyễn Thơ Đình (2017: 47 - 48):
thân thành phần hợp kim của đồng (Trịnh Sinh
1996: 43). + Bộ khuôn đúc trống hoàn chỉnh làm bằng
đất nung, gồm 2 mang khuôn thân, 1 mang khuôn
+ Lần đúc thứ ba: khuôn được đặt nghiêng, mặt và khuôn lõi. Mặt trong của khn mặt và
đậu rót đặt ở rìa thấp dưới tang và quai. Khi rót hai mang thân được khắc hoa văn trực tiếp bằng
đồng vào khuôn cũng không bị vỡ, nhưng kết quả cách đục thủ cơng sau đó cạo sửa lại. Khi đúc
vẫn không như ý. Trống bị thủng lớn ở tang và ra hoa văn rất sắc nét. Trong khi đó, những thử
khuyết hai quai, vị trí khn ruột bị xơ lệch, làm nghiệm khn sáp cho hoa văn bị mờ, vì vậy việc
cho thân trống dày mỏng không đều, hoa văn bị khắc hoa văn trên khuôn đất tối ưu hơn.
mờ (Trần Khoa Trinh 1977: 74). Rõ ràng, nguyên
nhân của lần thất bại này vẫn nằm ở chỗ người + Khn đúc được nung chín cho thốt hết hơi
thợ đúc chưa tính được vấn đề áp lực của nước nước trước khi rót đồng (khn được nung 2 lần, lần
đồng, vấn đề hợp kim và vị trí đặt đậu rót (Trịnh 1 khoảng 900°C, lần 2 khoảng 1.000°C - 1.100°C).
Sinh 1996: 43).
+ Đậu rót được mở ngay chính tâm trống hoặc
+ Lần đúc thứ tư: lần này làm thành hai khuôn ở tang trống. Với sản phẩm đúc lớn như trống
và đúc riêng từng bộ phận: thân trống và mặt đồng, việc mở đậu rót ở chính tâm là phương
trống. Sau khi đúc xong thì hàn lại thành chiếc pháp tối ưu.

79

Museum Bulletin

+ Để định vị khuôn trống, người thợ dùng các sao, cũng không cho chúng ta chút manh mối
con kê bằng hợp kim đồng (lấy từ những trống đã nào về phương pháp đúc trống của họ.
đúc hỏng) và không đặt con kê trên mặt trống.
Hoạt động đúc thực nghiệm cũng đã được đầu
+ Hợp kim dùng để đúc trống cũng là đồng - tư nhiều tâm sức, với hy vọng tìm hiểu đơi điều

thiếc - chì. về quy trình đúc trống của người xưa. Những lần
đúc thực nghiệm trống đồng đều do tập thể cán
Trống thành phẩm được đúc ra khá đẹp, sáng bộ có kỹ thuật đào tạo bài bản, có trình độ kỹ sư,
bóng, hoa văn sắc nét. Tuy đây chỉ là đúc thực phối hợp với những nghệ nhân có kinh nghiệm
nghiệm dưới dạng đặt hàng một trống mới, và đúc đồng lâu năm thực hiện. Tuy vậy, kết quả đạt
những gì mà Nguyễn Thơ Đình ghi lại chỉ đơn được qua mỗi lần đúc thử đều không thành cơng,
thuần là mơ tả lại một quy trình đúc trống đang nếu khơng muốn nói là thất bại, cho dù đó chỉ là
được thực hiện tại một làng nghề cụ thể, nhưng đúc phục chế chứ không phải sáng tạo ra vật mẫu.
nó cũng đóng góp phần nào cho nhận thức của
chúng ta về kỹ thuật đúc trống của người xưa. Sở dĩ như vậy là vì, trong những lần đúc thực
nghiệm trống đồng đó, nhà nghiên cứu chủ yếu
Tóm lại, các lần đúc thực nghiệm trống Đông dựa trên tài liệu dân tộc học, kết hợp với suy đốn
Sơn là vơ cùng q giá, song bí mật của việc đúc từ những dấu vết cịn lại trên thân trống. Dù có
trống đồng xưa vẫn là câu hỏi khơng dễ gì giải thể hình dung cơ bản ra các bước phải trải qua
đáp được, đúng như Trần Khoa Trinh đã nhận xét: của quy trình đúc trống, nhưng để đúc được một
“về mặt khoa học thì chúng ta chưa thể nói đã ít chiếc trống Đơng Sơn hoàn hảo như các trống đã
nhiều trả lời được câu hỏi: người thời các vua Hùng phát hiện, thì vẫn còn một khoảng cách khá xa.
đã dùng phương pháp nào để đúc nên những trống Sau mỗi lần đúc thử, các tác giả đều đã rút kinh
đồng to đẹp như trống Ngọc Lũ?” (dẫn theo Trịnh nghiệm, và nguyên nhân thất bại cơ bản là ở khâu
Sinh 1996: 45). làm đất tạo khuôn, khâu nung khuôn, tư thế đặt
khuôn và thành phần hợp kim.
II. Những khám phá mới – phát hiện
khuôn đúc tại thành cổ Luy Lâu Có thể thấy, trong các nguyên nhân cơ bản
lí giải cho việc thất bại của hoạt động đúc thực
1. Từ những gì vừa trình bày trên đây, ta thấy nghiệm, thì có đến 3/4 ngun nhân là liên quan
rằng câu hỏi trống đồng Đông Sơn được đúc như đến khuôn trống. Nếu như thông tin về thành
thế nào vẫn là trăn trở của học giới cả trong và phần hợp kim hồn tồn có thể được thu thập
ngoài nước. thơng qua các phân tích các trống Đông Sơn
để tìm hiểu tỉ lệ các kim loại được dùng để đúc
Cuộc tranh luận trống được đúc bằng phương trống, thì thơng tin về mảnh khuôn đúc trống

pháp ghép khuôn (piece-mold method) hay sáp lại hầu như vắng bóng. Trong các cuộc khai quật
chảy (lost-wax method) đã kéo dài cả thế kỷ, và khảo cổ học, nhà khảo cổ vẫn thường tìm được
cho tới nay vẫn chưa ngã ngũ. Những lập luận của các di tích, di vật như lị nấu, xỉ quặng, khn đúc
cả hai trường phái đều tỏ ra có lí, nhưng xét cho của các loại rìu, giáo, dao găm..., nhưng lại không
cùng, không đủ sức thuyết phục phe đối diện với hề tìm thấy khuôn đúc trống. Rõ ràng, sự thiếu
cơ sở khoa học mong manh như thế. Lập luận của vắng nguồn tư liệu trực tiếp này là một trở ngại
hai bên chủ yếu dựa trên quan sát dân tộc học to lớn trong việc nghiên cứu quy trình đúc trống
và suy đốn từ dấu vết cịn lại trên thân trống. của người xưa. Không có tài liệu trực tiếp, việc
Sự thiếu vắng nguồn tư liệu trực tiếp liên quan nghiên cứu thực nghiệm chỉ hoàn toàn dựa trên
đến quy trình đúc trống chính là ngun nhân quan sát dân tộc học và kinh nghiệm dân gian,
của cuộc tranh luận khơng có hồi kết này. cho nên dễ hiểu tại sao việc đúc trống không thể
thành công như mong đợi.
Những phân tích về thành phần hợp kim,
ngoài việc cho biết người xưa đã dùng hợp kim
đồng thau gồm những thành phần nào, tỉ lệ ra

80

Thông báo khoa hoc

2. Trong bối cảnh đó, việc phát hiện hàng và khuôn trong, với các vị trí mặt, tang, lưng và
trăm mảnh khn đúc trống trong tầng văn hóa chân trống (Bảng 1). Cùng với đó là các hiện vật
ở thành cổ Luy Lâu vào năm 2014 - 2015 có ý liên quan đến hoạt động đúc trống như: mảnh
nghĩa cực kì quan trọng. Những mảnh khn này nồi nấu/rót đồng, phễu rót đồng, ắc bàn xoay,
được phát hiện nằm nguyên vị trong địa tầng mảnh đáy lò, xỉ quặng… Dựa trên nguồn tư liệu
khảo cổ học, khơng hề có sự xáo trộn. Hiện vật trực tiếp này, các nhà khảo cổ của Bảo tàng Lịch
đi kèm là vật liệu kiến trúc và đồ gốm sứ có niên sử Quốc gia đã bước đầu giải đáp được những vấn
đại từ Đông Hán muộn đến Lục Triều. Sưu tập đề liên quan đến kỹ thuật đúc trống Đông Sơn
hiện vật này gồm đủ cả các mảnh khn ngồi (Trương Đắc Chiến 2020: 49 - 52).


Bảng 1: Bảng phân loại mảnh khuôn đúc trống Luy Lâu

Loại hình Khn ngồi Khuôn trong Không
Vị trí xác định
Mặt Tang Lưng Chân Mặt Tang Lưng Chân Tổng
Số lượng 610 923
Tổng 37 17 27 2 47 75 56 52 610

83 230

a b c

d e f

Hình 5. Mảnh khn ngồi, phần mặt trống
(Ảnh: Trương Đắc Chiến)

81

Museum Bulletin

- Trước hết, về câu hỏi trống Đông Sơn được bằng kim loại, có thể là đồng đỏ vì có độ nóng
đúc bằng phương pháp ghép khuôn (piece-mould chảy cao hơn đồng thau (Trịnh Sinh 1996: 50 -
method) hay phương pháp sáp chảy (lost-wax 51). Tuy nhiên, việc phát hiện con kê bằng gốm
method), phát hiện khuôn đúc trống ở Luy Lâu còn dính lại trên một mảnh khn trong đã góp
cho thấy chắc chắn trống Đông Sơn được đúc phần khẳng định ý kiến của các tác giả Hồng
bằng phương pháp ghép khn nhiều mang bằng Văn Khoán và Hà Văn Tấn khi cho rằng người Việt
đất nung. cổ đã sử dụng con kê bằng đất chịu lửa tương tự
như đất làm khn (Hồng Văn Khoán, Hà Văn
- Về chất liệu và độ nung khn: tuy chưa có Tấn 1974: 41).

các phân tích thạch học và nhiệt vi sai, nhưng
bằng mắt thường có thể nhận thấy khn đúc a
Luy Lâu có hai lớp, lớp trong là sét mịn, lớp ngoài
là sét trộn vỏ trấu hoặc bã thực vật, phần mặt b
đúc phủ lớp áo mịn; khn đúc có khả năng chỉ
được sấy khơ, nếu có được nung cũng khơng q
500°C.

- Về cách tạo hoa văn: các nghiên cứu thực
nghiệm trước đây đều cho rằng hoa văn được tạo
trên trống mẫu (có thể bằng đất hoặc sáp ong),
sau đó mới đắp đất lên trống mẫu để tạo khn
ngồi. Từ mảnh khn Luy Lâu có thể thấy rằng,
người xưa đã tạo trực tiếp hoa văn trên khn
ngồi bằng hai phương pháp là khắc và in, trong
đó những hoa văn hình học như vòng tròn tiếp
tuyến, vạch ngắn song song, chữ N ngược hay
văn bơng lúa được tạo bởi phương pháp khắc,
cịn hoa văn hình người hóa trang lơng chim thì
tạo bởi phương pháp in. Điều này góp phần lí giải
tại sao hoa văn trên trống lại có những mảng
chìm nổi xen kẽ hài hòa như vậy.

- Về việc sử dụng con kê: phần lớn các nhà
nghiên cứu đều cho rằng người xưa dùng con kê

c d e

Hình 6. Mảnh khn ngồi, phần thân trống
(Ảnh: Trương Đắc Chiến)


82

Thông báo khoa hoc

a d

b

c - Về vị trí rót đồng: hiện nay, giới nghiên cứu
chủ yếu nghiêng về khả năng trống đồng được
Hình 7. Mảnh khn trong: đặt ngửa khi rót đồng, và đậu rót thường mở
a. Phần mặt trống; b. Phần tang trống; c. Phần tang trống có ở phần chân trống. Tuy nhiên, qua nghiên cứu
dính con kê đất nung; d. Phần chân trống những mảnh khuôn đúc Luy Lâu, theo chúng tôi
(Ảnh: Trương Đắc Chiến) vị trí đặt đậu rót là giữa ngơi sao trung tâm. Quan
sát một số trống đồng hiện đang lưu giữ tại Bảo
tàng Lịch sử Quốc gia, chúng tôi cũng thấy có
dấu vết đậu rót ở giữa mặt trống, điển hình là
trên trống Đắc Glao (Kon Tum) hay trống Phú
Duy (Mỹ Đức, Hà Tây cũ).

- Về niên đại: đã có hai mẫu than của hai mảnh
khn trong được gửi đi phân tích C14 tại CHLB
Đức, kết quả như sau: mẫu 1 có niên đại 357 - 167
BC, mẫu 2 có niên đại 1.401 - 1.268 BC. Như vậy,
cả hai mẫu than có niên đại rất khác nhau. Trong
khi mẫu 1 nằm trong khung niên đại của trống
Đơng Sơn, thì mẫu 2 lại cho niên đại quá sớm,
tương đương giai đoạn Phùng Nguyên - Đồng
Đậu, khi mà trống Đông Sơn chưa ra đời. Để định

niên đại cho sưu tập khuôn đúc nêu trên, chúng
tôi phải dựa vào các hiện vật đi kèm trong lớp 3b,
nhất là vật liệu kiến trúc và gốm sứ, vốn là vật chỉ
thị niên đại. Những gạch, ngói và gốm sứ trong
lớp 3b chủ yếu nằm trong khung niên đại Đông
Hán muộn - Lục Triều, tức là trong khoảng thế kỷ

83

Museum Bulletin

III - VI. Niên đại của lớp 3b cũng phù hợp với địa Kết luận
tầng các hố khai quật khác và địa tầng chung của
Luy Lâu. Từ đó, có thể yên tâm khẳng định niên Từ những gì vừa trình bày, có thể thấy rằng,
đại của sưu tập khn đúc là thế kỷ III - VI. với sưu tập khuôn đúc Luy Lâu, chúng ta đã có
thể giải đáp một cách cơ bản những vấn đề liên
- Về loại trống và mối quan hệ: trống đúc quan đến phương pháp và kỹ thuật đúc trống
từ khuôn Luy Lâu là trống Heger I - nhóm C, Đông Sơn. Dưới ánh sáng của nguồn tài liệu mới,
thuộc dòng trống lưng thẳng, đi kèm với hoa những câu hỏi hóc búa tưởng như khơng có lời
văn răng lược và vòng tròn kép, giống với các giải hàng thập kỷ, đến nay đã có thể được trả lời
trống Đắc Glao (Kon Tum), Thôn Mống (Ninh một cách thấu đáo. Bên cạnh ý nghĩa to lớn về
Bình), Thơn Bùi (Thanh Hóa) và Phú Phương I mặt khoa học - kỹ thuật đó, dưới góc độ lịch sử
(Hà Nội). Trong hệ thống phân loại ở Việt Nam, và văn hóa, những mảnh khn đúc trống đồng
các trống nhóm C được xếp trong khung niên ở thành cổ Luy Lâu còn là bằng chứng cho thấy
đại từ thế kỷ III BC đến thế kỷ I. Tuy nhiên, việc tính bản địa của trống Đơng Sơn ở miền Bắc Việt
phát hiện khuôn đúc ở Luy Lâu trong lớp đất Nam cũng như sức sống mạnh mẽ của văn hóa
thời Lục Triều khiến chúng ta phải xem xét lại Đơng Sơn trong dịng chảy lịch sử. Với ý nghĩa
việc phân chia khung niên đại cho các nhóm đó, hy vọng rằng, trong tương lai không xa, sưu
trống Đông Sơn đã biết. Căn cứ vào phát hiện ở tập hiện vật quý giá này sẽ được công nhận là
Luy Lâu, có thể thấy rằng, ít nhất là khung niên Bảo vật quốc gia, với tư cách là một phần quan

đại của trống nhóm C cịn kéo dài tới khoảng trọng của di sản văn hóa Đơng Sơn - đỉnh cao của
thế kỷ III - VI. văn minh Việt cổ.

Tài liệu tham khảo

Bennett A. 2006. Lost-Wax or Piece-Mould Casting?. Arts & Cultures: Antiquity, Africa, Oceania, Asia, Americas, pp. 268 - 271.
Calo A. 2014. Trails of Bronze Drums across Early Southeast Asia. Singapore: ISEAS Publishing.
Kiều Quang Chẩn 2018. Vang vọng từ trống Đông Sơn, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
Lê Văn Chiến, Đinh Thị Lệ Huyền, Đinh Văn Mạnh, Hoài Anh, Nguyễn Văn Thủy, Nguyễn Hồng Tính 2016. Báo cáo kết quả khai

quật di tích thành cổ Luy Lâu (Bắc Ninh) năm 2015, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Hà Nội.
Trương Đắc Chiến 2020. Về những mảnh khuôn đúc trống đồng phát hiện tại thành cổ Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh). Khảo

cổ học, số 3, tr. 42 - 55.
Trương Đắc Chiến, Đinh Thị Lệ Huyền, Chu Mạnh Quyền, Hồi Anh, Nguyễn Hồng Tính 2015. Báo cáo kết quả khai quật di tích

thành cổ Luy Lâu (Bắc Ninh) năm 2014, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Hà Nội.
Chiou-Peng TzeHuey 2011. The Technical History of Early Asian Kettldrums. Khmer Bronzes: New Interpretations of the Past,

edited by Emma C. Bunker and Douglas Latchford. Chicago: Art Media Resources, pp. 17 - 26.
Nguyễn Thơ Đình 2017. Quy trình đúc trống Đơng Sơn từ cách tiếp cận thực nghiệm dân tộc - khảo cổ học. Khảo cổ học, số 1,

tr. 44 - 55.
Diệp Đình Hoa 1981. Qua thành phần hóa học của những chiếc trống đồng cổ Việt Nam. Những phát hiện mới về khảo cổ học

1981, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 166 - 168.
Diệp Đình Hoa 1983. Thử tìm hiểu thành phần hóa học của một vài chiếc trống đồng cổ. Những phát hiện mới về khảo cổ học 1983,

Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 141 - 142.
Heger F. 1902. Alte Metalltromeln aus Südost-Asien, Leipzig.

Higham C. 1996. The Bronze Age of Southeast Asia, Cambridge University Press, UK.
Hồng Văn Khốn 1985. Bàn về kỹ thuật đúc trống đồng Đông Sơn. Thông báo Khoa học Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, tr.

148 - 153.

84

Thông báo khoa hoc

Hồng Văn Khốn, Hà Văn Tấn 1974. Tìm hiểu kỹ thuật đúc trống đồng Ngọc Lũ. Khảo cổ học, số 14, tr. 37 - 42.
Kempers B. 1988. The Kettledrums of Southeast Asia - A Bronze Age world and its aftermath, A.A.Balkema Publishers, Rotterdam.
Meyers P. 2006. A Commentary on the Technology of Dong Son Vessels. Arts & Cultures: Antiquity, Africa, Oceania, Asia, Ame-

ricas, No.7, pp. 264 - 267.
Murowchick E.R. 2001. The Political and Ritual Significance of Bronze Production and Use in Ancient Yunnan. Journal of East

Asian Archaeology, Volume 3, Issue 1, pp. 133 - 192.
Ngô Thế Phong, Chu Mạnh Quyền 2014. Những chiếc trống đồng Đông Sơn (HI) sưu tầm gần đây tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.

Kỷ yếu Hội thảo 90 năm phát hiện và nghiên cứu văn hóa Đơng Sơn, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, tr. 192 - 205.
Nguyễn Duy Hinh 2001. Trống đồng - Quốc bảo Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Văn Hun, Hồng Vinh 1975. Những trống đồng Đơng Sơn đã phát hiện ở Việt Nam, Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam

xuất bản, Hà Nội.
Nishimura M., Nishino N., Phạm Minh Huyền, Hán Văn Khẩn 2002. Báo cáo kết quả khai quật năm 2001 tại thành cổ Lũng Khê

(tiếp theo). Những phát hiện mới về khảo cổ học 2001, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 545 - 559.
Nishimura M., Pham Minh Huyen 2008. Consideration of the bronze drums discovered in Binh Dinh province of central Viet-

nam and its cultural context. Journal of East Asian cultural interaction studies, Kansai University, pp. 187 - 219.

Parmentier H. 1918. Anciens tambours de bronze. BEFEO, tome 18, pp. 1 - 30.
Tạ Đức 2017. Nguồn gốc và sự phát triển của trống đồng Đông Sơn, Nxb. Tri thức, Hà Nội.
Trần Khoa Trinh 1977. Đúc lại trống đồng Ngọc Lũ. Tạp chí Khảo cổ học, số 2, tr. 68 - 75.
Trần Khoa Trinh 1985. Trở lại việc đúc thử trống đồng Ngọc Lũ. Thông báo Khoa học Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, tr. 154 - 158.
Trịnh Sinh 1996. Qua những lần thực nghiệm đúc trống đồng. Khảo cổ học, số 2, tr. 42 - 52.
Trinh Sinh 2012. Casting of Ancient Drums in North Vietnam. Scientific Research on Ancient Asian Metallurgy, Archetype Publi-

cations, London, pp. 154 - 163.
Wu Chongji, Luo Kunxin, Cai Rong 2018. Decoration Art of Ancient Bronze Drums, Guangxi Museum of Nationalities, Chinese

Ancient Bronze Drum Research Association, Heritage Press, Beijing.
Nguyen Viet 2006. Bronze Situlas of Dong Son. Arts & Cultures: Antiquity, Africa, Oceania, Asia, Americas, pp. 234 - 263.

85

Museum Bulletin

DONG SON DRUM CASTING TECHNIQUES:
RESEARCH HISTORY AND NEW DISCOVERIES

From 2014 to 2019, the Vietnam National Museum of History, in collaboration
with Japanese researchers, carried out several surveys and excavations at the
ancient citadel of Luy Lau, which was considered as one of the earliest and
largest metropolises in Northern Vietnam during the first ten centuries AD.
It is noteworthy that during the excavations in 2014 and 2015, archaeologists
discovered hundreds of fragments of terracotta moulds for bronze drum casting
that laying in situ in the culture layer. This discovery provides compelling evidence
that the Dong Son drums were made in the central region of Northern Vietnam
and opens the door for us to thoroughly understand the ancient Viet people's
drum casting process. The significance of this discovery becomes even clearer

in the context of the research history of the Dong Son drum casting technology.
Therefore, in this article, we will review the research history of the Dong Son
drum casting technique, which revolves around three main subjects: (i) methods
of drum casting; (ii) alloy composition; and (iii) experimental research. Based on
the research background, we will draw some remarks on the significance of the
discovery of bronze drum casting moulds within the archaeological stratigraphy
of the ancient Luy Lau citadel - one of the greatest archaeological discoveries in
recent years of Vietnam.

86

Thông báo khoa hoc


×