Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tiểu luận kinh tế chính trị Mác Lênin. Phân tích những điều kiện ra đời của nền sản xuất hàng hóa và liên hệ Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.63 KB, 12 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA

KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
----------

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
LỚP HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN_1.1(14.FS).6_LT

NĂM HỌC: 2021 – 2022

ĐỀ TÀI
PHÂN TÍCH NHỮNG ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI CỦA NỀN SẢN XUẤT

HÀNG HÓA VÀ LIÊN HỆ Ở VIỆT NAM
Giảng viên : Đồng Thị Tuyền
Họ và tên: Nguyễn Việt Hoàng
Mã sinh viên: 21010664

Hà Nội, tháng 9 năm 2021

1

Mục Lục
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................3
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN..........................................4
II. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI VÀ TỒN TẠI CỦA SẢN XUẤT
HÀNG HÓA..............................................................................4
III. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN...................................7
IV. VẬN DỤNG THỰC TIỄN VÀO VIỆT NAM...................8


1. Trước đổi mới (trước năm 1986).....................................8
2. Từ sau 1986 đến 2019.....................................................10
3. Từ 2020 đến 2021............................................................11
Tài liệu tham khảo...................................................................12

2

LỜI MỞ ĐẦU

Từ thời phong kiến đến khi nước CHXHCN VN ra đời, sản xuất nông
nghiệp, nguyên vật liệu phục vụ đời sống là một trong những vấn đề trọng yếu,
đc quan tâm hàng đầu. Cho đến ngày nay, trong quá trình phát triển, hội nhập
việc sản xuất hàng hóa lại càng cho thấy tầm quan trọng với mỗi quốc gia. Trong
quá trình Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước, q trình phát triển quá độ
của xã hội cùng với những cơng nghệ tiên tiến vượt bậc thì cơng nghệ sản xuất
hàng hóa với chất lượng và số lượng khơng ngừng được thay đổi. Sản xuất hàng
hóa là một q trình tạo ra sản phẩm hàng hóa nhằm đáp ứng nhu cầu, nhằm làm
thỏa mản nhu cầu nào đó của con người. Chính vì vậy, việc nghiên cứu điều kiện
ra đời của sản xuất hàng hóa là một việc làm giúp ta hiểu sâu hơn về quá trình ra
đời của hàng hóa. Từ đó liên hệ đối với nước ta, nhằm làm cho q trình sản xuất
hàng hóa của nước ta ngày càng phát triển với chất lượng cao hơn.

Trong quá trình làm bài sẽ khó tránh khỏi những thiếu sót, chúng em rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp của cơ và các bạn để bài tiểu luận này
tốt hơn.

Xin trân trọng cảm ơn./.

3


I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN

- Hàng hóa là sản phẩm của lao động mà nó có thể thỏa mãn được nhu cầu
nào đó của con người, và nó được sản xuất ra khơng phải để người sản xuất ra nó
tiêu dùng mà để bán

- Sản xuất hàng hóa là một kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản
xuất ra để bán trên thị trường. Trong kiểu tổ chức kinh tế này, toàn bộ quá trình
sản xuất – phân phối – trao đổi – tiêu dùng; sản xuất ra cái gì, như thế nào và cho
ai đều thông qua việc mua - bán, thông qua hệ thống thị trường và do thị trường
quyết định.

II. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI VÀ TỒN TẠI CỦA SẢN XUẤT HÀNG HÓA

Cơ sở kinh tế - xã hội của sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa là phân
cơng lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa người sản xuất này với
người sản xuất khác do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy
định.

Thứ nhất, phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là cơ sở,
tiền để của sản xuất và trao đổi hàng hóa, là sự chun mơn hóa sản xuất. Phân
công lao động xã hội phân chia lao động xã hội vào các ngành, các lĩnh vực sản
xuất khác nhau của xã hội. Sự phân công lao động xã hội khiến cho việc trao đổi
hàng hóa trở nên tất yếu. Vì khi đó, mỗi người sẽ chỉ sản xuất một hoặc một vài
sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu cuộc sống đòi hỏi họ phải sử dụng nhiều loại

4

sản phẩm khác nhau. Dẫn tới họ cần sản phẩm của nhau và tất yếu dẫn đến việc
trao đổi, mua bán.


Mặt khác, phân công lao động xã hội, chun mơn hóa sản xuất sẽ làm cho
năng suất lao động tăng lên, sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều nên càng thúc
đẩy sự trao đổi sản phẩm.

Ở Việt Nam hiện nay, phân công lao động xã hội đã phân chia lao động xã
hội ra thành rất nhiều nhóm ngành kinh tế lớn: ngành nông nghiệp, công nghiệp,
thương nghiệp, giao thơng vận tải, giáo dục đào tạo, văn hóa nghệ thuật,…Trong
các nhóm ngành này cịn có sự phân cơng đặc thù riêng và phân công lao động
xã hội cá biệt. Hai yếu tố này góp phần liên kết chặt chẽ các lĩnh vực sản xuất lại
với nhau, phụ thuộc chặt chẽ với nhau nhằm thúc đẩy mạnh mẽ sự trao đổi, mua
bán sản phẩm ở Việt Nam chúng ta.

Tuy nhiên, phân công lao động xã hội mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa
đủ để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại. C.Mác viết: "Trong công xã Ấn Độ
thời cổ đại, lao động đã có sự phân cơng xã hội, nhưng các sản phẩm lao động
khơng trở thành hàng hóa... Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập
và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa".
Nếu sản phẩm là của chung và được phân phối trực tiếp cho các thành viên thì
khơng cần có sự mua – bán, tức là khơng có hàng hóa. Vậy để sản xuất hàng hóa
ra đời và phát triển phải có điều kiện thứ hai nữa.

Thứ hai, sự tách biệt tương đối về kinh tế giữa những người sản xuất. Sự
tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất có thể hiểu là
những người sản xuất trở thành những chủ thể có sự độc lập nhất định với nhau.

5

Sự tách biệt này do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định. Trong chế độ
này, tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của mỗi cá nhân và kết quả là sản phẩm làm ra

thuộc quyền sở hữu của họ.

Như vậy, chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đã làm cho những người sản
xuất độc lập, đối lập với nhau nhưng họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu
dùng, do họ nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội. Thế nên, người này
muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua việc mua – bán hàng
hóa.

Khi sản phẩm lao động trở thành hàng hóa thì người sản xuất trở thành
người sản xuất hàng hóa; sự lao động của họ vừa có tính chất xã hội, vừa có tính
chất tư nhân, cá biệt. Tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa thể hiện ở
sự phân công lao động xã hội, dẫn tới sản phẩm của người này trở thành cần thiết
cho người khác, cho xã hội. Cịn tính chất tư nhân, cá biệt thể hiện ở việc sản
xuất cái gì, bằng cơng cụ nào, phân phối cho ai,…là công việc của cá nhân các
chủ sở hữu về tư liệu sản xuất, do họ định đoạt.

Đây là hai điều kiện cần và đủ cho sự ra đời của nền sản xuất hàng hóa,
thiếu bất kì một điều kiện nào cũng sẽ khơng thể hình thành nên nền sản xuất
hàng hóa. Hai điều kiện trên khẳng định: phân công lao động xã hội làm cho
những người sản xuất phụ thuộc vào nhau, còn sự tách biệt tương đối về mặt
kinh tế giữa những người sản xuất lại chia rẽ họ, làm cho họ độc lập với nhau.
Đây là sự mâu thuẫn giữa tính chất xã hội và tính chất tư nhân, cá biệt của lao
động sản xuất hành hóa là sự mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa.

Mâu thuẫn này sẽ được giải quyết trên thị trường thông qua trao đổi, mua
bán sản phẩm của nhau. Đồng thời, nó được tái tạo một cách thường xuyên với
tư cách là mâu thuẫn của nền kinh tế hàng hóa nói chung. Hiện nay, sản xuất

6


hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội phổ biến để phát triển kinh tế của các
quốc gia.

III. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN

 Sản xuất hàng hóa ra đời và phát triển là một quá trình lịch sử lâu dài. Đầu
tiên là sản xuất hàng hóa giản đơn. Sản xuất hàng hóa giản đơn là sản xuất hàng
hóa của nơng dân, thợ thủ công dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sức
lao động của bản thân họ. Sản xuất hàng hóa giản đơn ra đời trong thời kỳ công
xã nguyên thủy tan rã. Trong xã hội chiếm hữu nơ lệ và phong kiến, nó đóng vai
trị phụ thuộc bổ sung trong trật tự kinh tế tự nhiên. Đây là kiểu sản xuất hàng
hóa nhỏ, dựa trên kỹ thuật thủ công và lạc hậu. Khi lực lượng sản xuất phát triển
cao hơn, sản xuất hàng hóa giản đơn chuyển thành sản xuất hàng hóa quy mơ
lớn. Q trình này diễn ra trong thời kỳ quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội
tư bản.

 Do sự phân công lao động xã hội nên việc trao đổi sản phẩm trở thành tất
yếu. Khi có phân công lao động xã hội, mỗi người chỉ sản xuất một hoặc một vài
thứ sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của cuộc sống địi hỏi họ phải có nhiều
loại sản phẩm khác nhau, vì thế, họ cần đến sản phẩm của nhau, buộc phải trao
đổi với nhau. Phân công lao động xã hội, chun mơn hóa sản xuất đồng thời làm
cho năng suất lao động tăng lên, sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều nên càng
thúc đẩy sự trao đổi sản phẩm. Bên cạnh đó, sản xuất hàng hóa khai thác được
những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở sản xuất
cũng như từng vùng, từng địa phương. Sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại có

7

tác động trở lại, thúc đẩy sự phát triển của phân cơng lao động xã hội làm cho
chun mơn hóa lao động ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng

ngày càng trở lên mở rộng, sâu sắc. Từ đó phá vỡ tính tự cấp tự túc, bảo thủ, trì
trệ, lạc hậu của mỗi ngành, mỗi địa phương làm cho năng suất lao động xã hội
tăng lên nhanh chóng.

 Ngày nay, quy mơ sản xuất khơng cịn bị giới hạn bởi nhu cầu và nguồn
lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi vùng, mỗi địa
phương, mà nó được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực của xã hội.
Dưới sự tác động của quy luật giá trị, cung – cầu, cạnh tranh, … buộc người sản
xuất hàng hóa phải ln ln năng động, nhạy bén, biết tính tốn, cải tiến kỹ
thuật, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả
kinh tế, cải tiến hình thức, quy cách và chủng loại hàng hóa, …Có thể nói, sản
xuất hàng hóa ra đời là bước ngoặc căn bản trong lịch sử phát triển của xã hội
loài người, đưa loài người thốt khỏi tình trạng “mơng muội”, xóa bỏ nền kinh tế
tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế
của xã hội.

IV. VẬN DỤNG THỰC TIỄN VÀO VIỆT NAM
1.Trước đổi mới (trước năm 1986)

Do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, chúng ta xem kế
hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, phân bổ
mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu; coi thị trường chỉ là một công cụ thứ
yếu bổ sung cho kế hoạch. Không thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nền kinh
tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, lấy kinh tế quốc doanh, và tập thể là

8

chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể, tư nhân. Nền
kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.


Giáo sư Trần Văn Thọ viết về tình trạng kinh tế 10 năm đầu sau chiến tranh:
"Mười năm sau 1975 là một trong những giai đoạn tối tăm nhất trong lịch sử
Việt Nam. Chỉ nói về mặt kinh tế, là một nước nông nghiệp (năm 1980, 80% dân
số sống ở nông thôn và 70% lao động là nông dân) nhưng Việt Nam thiếu ăn,
nhiều người phải ăn bo bo trong thời gian dài.

Lượng lương thực tính trên đầu người giảm liên tục từ năm 1976 đến 1979,
sau đó tăng trở lại nhưng cho đến năm 1981 vẫn không hồi phục lại mức năm
1976. Công thương nghiệp cũng đình trệ, sản xuất đình đốn, vật dụng hằng ngày
thiếu thốn, cuộc sống của người dân vô cùng khốn khó. Ngồi những khó khăn
của một đất nước sau chiến tranh và tình hình quốc tế bất lợi, ngun nhân chính
của tình trạng nói trên là do sai lầm trong chính sách, chiến lược phát triển, trong
đó nổi bật nhất là sự nóng vội trong việc áp dụng mơ hình xã hội chủ nghĩa trong
kinh tế ở miền Nam...

Nguy cơ thiếu ăn kéo dài và những khó khăn cùng cực khác làm phát sinh
hiện tượng "phá rào" trong nông nghiệp, trong mậu dịch và trong việc quyết định
giá cả lương thực đã cải thiện tình hình tại một số địa phương. Nhưng phải đợi
đến đổi mới (tháng 12/1986) mới có biến chuyển thực sự. Do tình trạng đó, tổng
sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam trong 10 năm trước đổi mới chỉ tăng
35%, trong thời gian đó dân số tăng 22%. Như vậy, GDP đầu người trung bình
tăng chỉ độ 1% (mỗi năm). Qua trên ta thấy, các cơ chế chính sách trong thời bao
cấp của Việt Nam không phù hợp với quy luật của sản xuất hàng hóa, thậm chí
đi ngược lại với quy luật của sản xuất hàng hóa.

9

2. Từ sau 1986 đến 2019
Dưới áp lực của tình thế khách quan, nhằm thốt khỏi khủng hoảng kinh tế -


xã hội, tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI, Việt Nam đã quyết định xóa bỏ cơ chế
quản lý cũ, bắt đầu thực hiện phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những
người sản xuất được thể hiện rất rõ trong thời kỳ Việt Nam sau đổi mới. Việt
Nam thừa nhận sự xuất hiện của tư hữu.

Trong nền kinh tế đã và đang tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư
liệu sản xuất và sản phẩm lao động: sở hữu nhà nước, sở hữu toàn dân, sở hữu
tập thể của những người sản xuất hàng hoá nhỏ, sở hữu tư nhân TBCN, sở hữu
hỗn hợp, đồng sở hữu,… tương ứng với nó là các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà
nước, doanh nghiệp tư nhân,… Sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng
trực tiếp tư liệu sản xuất cũng được thể hiện rõ ràng.

Ví dụ về doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước ở Việt Nam, quyền sở hữu là
sở hữu Nhà quy định của pháp luật,… Nhà nước có quyền quyết định “số phận”
của doanh nghiệp: thành lập, giải thể, tổ chức lại, yêu cầu phá sản,…; quyết định
điều lệ, mức vốn đầu tư (điều chỉnh, chuyển nhượng); quyết định cơ cấu tổ chức
quản lý, bộ máy quản lý doanh nghiệp; quyết định chiến lược, kế hoạch sản xuất
kinh doanh, đầu tư phân phối lợi nhuận.

Mặc dù quyền sở hữu là sở hữu Nhà nước, các doanh nghiệp Nhà nước lại
có quyền sử dụng trực tiếp tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, chế độ xã hội hố sản
xuất giữa các ngành, các xí nghiệp trong cùng một hình thức sở hữu vẫn chưa
đều nhau. Sở dĩ như vậy là do cơ cấu kinh tế của ta giờ là cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần, sự tồn tại của các thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan. Ở
nước ta cũng đang tồn tại quan hệ sở hữu đa dạng về tư liệu sản xuất và ứng với

10

nền kinh tế nhiều thành phần. Điều đó tạo nên sự độc lập về mặt kinh tế giữa các

thành viên, doanh nghiệp. Nó cũng có tác dụng làm cho hàng hóa phát triển.
3. Từ 2020 đến 2021

Trong bối cảnh dịch bệnh (Covid-19) hoành hành, nền kinh tế bị ảnh hưởng
nghiêm trọng đặc biệt là sản xuất hàng hóa.

Đối với yếu tố cầu, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong 6 tháng đầu
năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giảm 0,8%
so với cùng kỳ năm 2019 và nếu loại trừ yếu tố giá thì cịn giảm mạnh hơn, ở
mức 5,3% (cùng kỳ năm 2019 tăng 8,5%). Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa
6 tháng đầu năm 2020 tăng 3,4% so với cùng kỳ năm 2019. Những mặt hàng
thiết yếu đối với cuộc sống như lương thực, thực phẩm, đồ dùng, dụng cụ, trang
thiết bị gia đình tăng; nhưng những mặt hàng như may mặc, phương tiện đi lại,
văn hóa phẩm, giáo dục… chịu ảnh hưởng nặng nề bởi các biện pháp giãn cách
xã hội có tốc độ giảm.

Đối với yếu tố cung, đại dịch COVID-19 làm đứt gãy chuỗi cung ứng đầu
vào và lao động làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tốc độ, quy mô sản xuất...

11

Tài liệu tham khảo
1. TS.Đỗ Quang Vinh – PGS,TS Vũ Thanh Sơn, 2014, Kinh tế chính trị Mác

– Lênin, Tập I: Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; Nxb Thông tin và
truyền thông
2. Bài viết: “Bước ngoặc lịch sử năm 1986-2016” /> doc/buoc-ngoat-lich-su-nam-1986-20160203133136483.htm
3. Bài viết: “Tác động kinh tế-xã hội của đại dịch covid-19 tại Việt Nam”
/> covid-19-tai-viet-nam-569640.html
4. Bài viết: “ Chủ sở hữu nhà nước và cơ chế đại diện chủ sở hữu nhà nước”


/> huu-nha-nuoc/
5. “Sản xuất hàng hóa”
/> %C3%A0ng_h%C3%B3a

12


×