Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Hỗ trợ xóa đói giảm nghèo cho người nghèo tại huyện tứ kỳ tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.09 KB, 29 trang )

LÝ DO CHỌN CHỦ ĐỀ

Công tác xã hội có lịch sử lâu dài trong q trình hỗ trợ giải quyết nghèo đói ở
các cấp độ khác nhau từ việc hỗ trợ cá nhân người nghèo đến phát triển thay đổi cộng
đồng nghèo và các chính sách, chương trình xã hội xố đói giảm nghèo của quốc gia.
Cơng tác xã hội tham gia vào lĩnh vực này với ý nghĩa hết sức quan trọng và mang
tính nhân văn sâu sắc được dựa trên nghiên tác đạo đức nghề nghiệp. Đó là phấn đấu
cho sự cơng bằng xã hội. Và nghèo đói được xem là vấn đề chính gây cản trở công
bằng xã hội.

Giảm nghèo là địi hỏi cấp bách của tồn nhân loại.. Ở nước ta, giảm nghèo là
một chủ trương, một quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước, giảm nghèo là một cuộc
cách mạng xã hội sâu sắc, là phong trào của quần chúng, nhất là ở địa phương. Để
thực hiện giảm nghèo, bên cạnh hệ thống các chính sách, vấn đề xây dựng nguồn lực,
trong đó có nguồn nhân lực, từ Trung ương đến địa phương, từ các nhà hoạch định
chính sách đến những người tổ chức thực hiện các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở, là một
việc làm hết sức quan trọng.

Tại Hải Dương, các cơng tác xóa đói giảm nghèo như hỗ trợ vốn, mở làng nghề
giải quyết việc làm chưa thật hiệu quả, cùng với đó việc chăm lo, kết nối công tác đào
tạo nghề và giải quyết việc làm, đặc biệt là với lao động nghèo trở thành nhiệm vụ cấp
bách cần đc giải quyết.

Chính vì vậy, em xin lựa chọn chủ đề “Hỗ trợ xóa đói giảm nghèo cho người
nghèo tại huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương” nhằm đánh giá việc thực hiện công tác đào
tạo nghề cho hộ nghèo tại địa bàn và hỗ trợ kết nối, đề xuất giải pháp thực hiện hiệu
quả chúng.

NỘI DUNG

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN


1. Khái niệm và các thuật ngữ có liên quan
1.1. Đói nghèo

Đói nghèo là vấn đề mang tính tồn cầu và tồn tại ở nhiều thời đại. Mỗi quốc
gia, mỗi thời đại lại có những cách lý giải về quan niệm, nguyên nhân, cách giải
quyết khác nhau đối với đói nghèo. Mỗi vùng, quốc gia, mỗi thời kỳ lại có
những tiêu chí xác định đói nghèo khác nhau cho phù hợp với hồn cảnh. Vì
vậy, có thể nói đói nghèo mang tính thời gian và khơng gian. Hiện nay có nhiều
quan niệm về đói nghèo nhưng về cơ bản là giống nhau. Mỗi quốc gia có thể
đưa ra cho mình một quan niệm riêng, đói nghèo có thể được xem xét trên nhiều
khía cạnh về kinh tế, văn hố, chính trị, xã hội…Có thể hiểu theo nghĩa gói gọn
trong vấn đề thu nhập, chi tiêu, dinh dưỡng, giáo dục…hoặc theo nghĩa rộng
hơn là sự phát triển toàn diện của con người.

Các nước ở vùng châu Á - Thái Bình Dương sử dụng khái niệm đói nghèo do tổ
chức ESCAP đưa ra vào tháng 9 -1993: “Nghèo đói là tình trạng của một bộ
phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con
người đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và
phong tục tập quán của các địa phương”.

Đây chỉ là một định nghĩa do một tổ chức khu vực châu Á-Thái Bình Dương
đưa ra nhưng có thể xem đây là một định nghĩa chung nhất về đói nghèo, một
định nghĩa có tính chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận diện nét cơ
bản, phổ biến về đói nghèo. Các tiêu chí và chuẩn mực đánh giá cịn để ngỏ về
mặt lượng, bởi nó chưa tính đến những khác biệt và độ chênh lệch giữa các
vùng, các điều kiện lịch sử cụ thể quy định trình độ phát triển ở mỗi nơi. Điều

đó có nghĩa là định nghĩa này đã chú trọng tới tính thời gian và khơng gian của
nghèo đói. Định nghĩa này có thể áp dụng cho nhiều vùng, nhiều quốc gia, nhiều
thời đại, từ đó mỗi vùng, mỗi quốc gia có thể tự đưa ra tiêu chí xác định đói

nghèo phù hợp với mình trong từng hồn cảnh cụ thể. Quan niệm hạt nhân có
trong định nghĩa này là nhu cầu cơ bản của con người. Căn cứ xác định đói hay
nghèo là ở chỗ đối với những nhu cầu cơ bản ấy con người không được hưởng
và thoả mãn. Nhu cầu cơ bản ở đây chính là cái thiết yếu, tối thiểu để duy trì sự
tồn tại của con người như ăn, mặc, ở.

Còn theo Ngân hàng phát triển Châu Á thì: “Nghèo là tình trạng thiếu những tài
sản cơ bản và cơ hội mà mỗi con người có quyền được hưởng. Mọi người cần
được tiếp cận với giáo dục cở sở và dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ bản”.

Có thể nói các quan niệm này khơng có sự khác biệt đáng kể, tiêu chí để xác
định đều dựa trên mức chi tiêu để thoả mãn nhu cầu cơ bản của con người. Sự
khác biệt ở đây là mức độ thoả mãn các nhu cầu này là khác nhau giữa các khu
vực.

Tóm lại, nghèo đói là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức thu nhập thấp
bằng hoặc thấp hơn mức tối thiểu để duy trì một cuộc sống ở một khu vực, tại
một thời điểm nhất định.

1.2. Khái niệm đói

Đói là tình trạng thu nhập không đủ chi dùng cho nhu cầu ăn. Sự nghèo khổ
tuyệt đối, sự bần cùng được biểu hiện là đói, là tình trạng con người khơng có
ăn, ăn khơng đủ lượng dinh dưỡng tối thiểu cần thiết, sự đứt đoạn trong nhu cầu
ăn. Đói là một khái niệm biểu đạt tình trạng con người ăn khơng đủ no, khơng
đủ năng lượng tối cần thiết để duy trì sự sống hàng ngày và không đủ sức để lao
động, để tái sản xuất sức lao động. Đây là trường hợp đói gay gắt kinh niên, là

tình trạng thiếu ăn thường xun. Cịn nếu con người trong những hoàn cảnh đột
xuất, bất ngờ do thiên tai bão lũ, mất mùa, bệnh tật, rơi vào cùng cực, khơng có

lương thực, thực phẩm để ăn, có thể dẫn tới cái chết thì đó là trường hợp đói gay
gắt cấp tính, phải cứu trợ khẩn cấp. Dù ở dạng nào thì đói đều đi liền với thiếu
dinh dưỡng, suy dinh dưỡng. Biểu hiện của đói là: thất thường về lượng, đứt
bữa, đứt bữa kéo dài. Về mặt năng lượng nếu trong một ngày con người chỉ
được thoả mãn mức 1500calo/ngày thì đó là thiếu đói, dưới mức đó là đói gay
gắt.

1.3. Khái niệm nghèo

Nghèo: Là tình trạng một bộ phận dân cư vẫn cịn thiếu ăn, nhưng khơng đứt
bữa, mặc không đủ ấm, nhà ở chủ yếu là tranh tre, khơng có hoặc khơng đủ các
điều kiện để phát triển sản xuất, tăng thu nhập và đáp ứng các nhu cầu về học
tập, chữa bệnh cũng như các nhu cầu xã hội khác.

Quan niệm về nghèo đói hay nhận dạng về nghèo đói của từng quốc gia hay
từng vùng, từng nhóm dân cư, nhìn chung khơng có sự khác biệt đáng kể, tiêu
chí chung nhất để xác định nghèo đói vẫn là mức thu nhập hay chỉ tiêu để thỏa
mãn những nhu cầu cơ bản của con người về: ăn, mặc, ở, gia đình, y tế, văn
hóa,để lại và giao tiếp xã hội. Sự khác nhau chung nhất là thỏa mãn ở mức cao
hay thấp mà thôi, điều này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội
cũng như phong tục tập quán của từng vùng từng quốc gia.

Các quan niệm trên phản ánh ba khía cạnh chủ yếu của người nghèo:

+ Không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con
người.

+ Có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư.

+ Thiếu cơ hội lựa chọn, tham gia vào quá trình phát triển cộng đồng.


Về mặt kinh tế nghèo đồng nghĩa với nghèo khổ, nghèo túng, túng thiếu. Trong
hoàn cảnh nghèo thì người nghèo và hộ nghèo cũng vẫn chỉ vật lộn với những
mưu sinh hàng ngày về kinh tế vật chất, biểu hiện trực tiếp nhất là ở bữa ăn. Họ
không thể vươn tới các nhu cầu về văn hoá - tinh thần hoặc những nhu cầu này
phải cắt giảm tới mức tối thiểu nhất, gần như khơng có. Điều này đặc biệt rõ ở
nông thôn với hiện tượng trẻ em thất học, bỏ học, các hộ nông dân nghèo khơng
có khả năng để hưởng thụ văn hố, y tế, không đủ hoặc không thể mua sắm
thêm quần áo cho nhu cầu mặc, sửa chữa nhà cửa cho nhu cầu ở… Nghèo là
khái niệm chỉ tình trạng mà thu nhập thực tế của người dân chỉ dành chi hầu
như tồn bộ cho ăn, thậm chí cịn khơng đủ chi cho ăn, phần tích luỹ hầu như
khơng có. Các nhu cầu tối thiểu khác như ăn, mặc, văn hoá, y tế, giáo dục, đi
lại, giao tiếp chỉ đáp ứng một phần rất ít ỏi, khơng đáng kể.

Có hai dạng nghèo là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối:

Nghèo tuyệt đối là tình trạng của một bộ phận dân cư khơng có khả năng thoả
mãn các nhu cầu tối thiểu để duy trì cuộc sống.

Nghèo tương đối là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức
trung bình của cộng đồng tại địa phương.

1.4. Các khái niệm có liên quan về nghèo

Người ta cũng định nghĩa về người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo và quốc gia
nghèo như sau:

Hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới ngưỡng
nghèo. Theo dự thảo Quyết định về việc ban hành tiêu chí và mức chuẩn nghèo


theo phương pháp tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 – 2020, hộ gia
đình nghèo là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí:

+ Có thu nhập bình qn đầu người/tháng từ chuẩn nghèo chính sách trở xuống
(Từ 1 triệu đồng/người/tháng trở xuống tại thành thị và 800.000 đồng/người/
tháng trở xuống tại nơng thơn)

+ Có thu nhập bình qn đầu người/tháng cao hơn chuẩn nghèo chính sách (Từ
1 triệu đồng/người/tháng trở xuống tại thành thị và 800.000 đồng/người/ tháng
trở xuống tại nông thôn) đến chuẩn mức sống tối thiểu (từ 1.3 triệu
đồng/người/tháng trở xuống ở thành thị và 1 triệu đồng/người/ tháng tại nông
thôn) và từ 1/3 tổng số điểm thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên
về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, tiếp cận thông tin.

Người nghèo là những người nằm trong hộ nghèo, tuy nhiên cách nhìn nhận
rộng hơn của cộng đồng quốc tế là những người thiếu một cách trầm trọng cơ
hội lựa chọn và khả năng tham gia vào cuộc sống kinh tế xã hội của đất nước.

Xã nghèo là xã có tỷ lệ hộ nghèo cao và thiếu các cơ sở hạ tầng thiết yếu phục
vụ sản xuất và đời sống.

Một quốc gia được coi là nghèo khi thu nhập thực tế bình qn đầu người cịn
thấp, nguồn lực cực kỳ hạn hẹp, cơ sở hạ tầng và môi trường yếu kém, có vị trí
khơng thuận lợi trong giao lưu với cộng đồng quốc tế.

1.5. Mối quan hệ giữa đói và nghèo

Đói và nghèo vừa có mối quan hệ với nhau, lại vừa có sự khác biệt về mức độ
và cấp độ. Đã lâm vào tình trạng đói thì đương nhiên là nghèo. Theo tư duy của
người Việt Nam, chúng ta thường nhận diện đói ở hai dạng đói kinh niên và đói

gay gắt. Đây thuần tuý vẫn là đói ăn, nằm trọn trong phạm trù kinh tế - vật chất.

Nó khác với đói thơng tin, đói thụ hưởng văn hóa thuộc phạm trù đời sống văn
hóa tinh thần. Quan niệm về nghèo thì có thể có nghèo tuyệt đối và nghèo tương
đối, tất nhiên dù ở dạng nào thì nghèo vẫn có quan hệ mật thiết với đói. Nghèo
là một kiểu đói tiềm tàng và đói là tình trạng hiển nhiên của nghèo. Sự nghèo và
nghèo khổ kéo dài, nếu khơng ra khỏi cái vịng luẩn quẩn của cảnh trì trệ, túng
thiếu thì chỉ cần xảy ra những biến cố đột xuất của hoàn cảnh là con người ta dễ
dàng rơi vào cảnh đói.

Chúng ta có thể xố được đói là do nhu cầu ăn của con người có giới hạn nên có
thể phấn đấu xố đói. Nhưng chúng ta chỉ có thể giảm nghèo là vì trong từng
giai đoạn mức thu nhập và chi dùng tối thiểu là khác nhau và ngày càng cao vì
vậy bao giờ cũng có một bộ phận dân cư rơi vào tình trạng nghèo.

2. Công tác xã hội với người nghèo
2.1. Phương pháp tiếp cận CTXH với người nghèo

Hiện nay, có bốn phương pháp tiếp cận phổ biến trong việc giúp đỡ người
nghèo:

Thứ nhất là cách tiếp cận đảm bảo quyền con người. Phương pháp này nhấn
mạnh đến quyền được tồn tại, quyền được an toàn về vật chất, sức khỏe và được
phát triển tồn diện và bình đẳng.

Thứ hai là cách tiếp cận đáp ứng các nhu cầu cơ bản. Cách tiếp cận này là cách
giúp người nghèo đảm bảo quyền con người để họ có điều kiện để phát triển
mọi mặt thể chất, tinh thần, tình cảm.

Thứ ba là cách tiếp cận chia sẻ trách nhiệm xã hội. Cách tiếp cận này nhần

mạnh đến nguyên lý mỗi cá nhân đề có yếu tố cá thể và tập thể. Bên cạnh đó
phương pháp này cũng nhấn mạnh đến sự tương hỗ, chia sẻ để người nghèo có

thể vươn lên trong cuộc sống.

Thứ tư là cách tiếp cận đảm bảo sự công bằng trong xã hội. Cách tiếp cận này

chú trọng vào việc đảm bảo tạo ra môi trường thuận lợi tiếp cận các cơ hội vật

chất, giáo dục, y tế, văn hóa và xã hội cho mọi người phát triển và quan tâm đến

nhóm các đối tượng yếu thế.

2.2. Kỹ năng CTXH với người nghèo
- Kỹ năng tuyên truyền vận động
- Kỹ năng tập huấn
- Kỹ năng biện hộ
- Kỹ năng huy động nguồn lực
- Kỹ năng tham vấn

CTXH là một lĩnh vực hoạt động chuyên mơn phức tạp. Vì vậy, khi làm
việc với người nghèo nhân viên CTXH cần chú ý một số vấn đề sau:
- Hiểu rõ đặc điểm và nhu cầu của người nghèo
- Tôn trọng và hiểu những phong tục tập quán của họ
- Thực hiện 3 cùng với người nghèo
- Khuyến khích người nghèo bày tỏ quan điểm của mình và lắng nghe họ
(Nhân viên xã hội chỉ là xúc tác)
- Động viên khuyến khích họ tích cực học hỏi nâng cao năng lực
- Tất cả các ý kiến của NVXH mang tính tham vấn, quyền tự quyết thuộc
về người nghèo


Như vậy, làm việc với người nghèo, trước hết phải giúp họ nâng cao được năng
lực để thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi. Việc làm này không phải cho cá
nhân một người nghèo mà cho cả cộng đồng nghèo và chính quyền địa phương
nhằm tạo ra sự đồng bộ trong trong sự thay đổi, dần đáp ứng các nhu cầu thiết
thực của họ.để cùng phát triển. Trong CTXH với người nghèo đặc biệt chú ý
đến việc khơi dậy tiềm năng/ nguồn lực thực có của họ, đồng thời tạo mơi
trường cho họ được tham gia tích cực vào q trình đó.

2.3. Các dịch vụ cơng tác xã hội với giảm nghèo
Trên thế giới, các dịch vụ công tác xã hội đối với vấn đề giảm nghèo

được tổng hợp theo hai hình thức tiếp cận. Thứ nhất là theo hình thức cung cấp
các dịch vụ trực tiếp hỗ trợ cá nhân, gia đình và cộng đồng. Thứ hai là hình thức
tập trung vào mảnh đưa ra các chính sách, chương trình giải quyết vấn đề
nghèo.
- Các dịch vụ công tác xã hội trực tiếp
Các dịch vụ công tác xã hội trực tiếp nhằm mục đích hỗ trợ đáp ứng các nhu cầu
trực tiếp của người nghèo.

Đối với cá nhân người nghèo, công tác xã hội cung cấp các dịch vụ cung
cấp thức ăn, áo ấm, tìm kiếm chỗ ở an tồn, kết nối tới chăm sóc sức khoẻ thể
chất và tinh thần, học tập, học nghề, tìm kiếm việc làm và khuyến khích tham
gia các hoạt động xã hội... Đơn cử như tại Canađa, nhiều ngân hàng thức ăn
(food bank) được lập ra để cung cấp thức ăn miễn phí cho những người nghèo,
người hưởng trợ cấp. Hay việc tìm kiếm chỗ ở an tồn cho người nghèo khơng
nơi nương tựa trong các trung tâm, cơ sở xã hội. Bên cạnh đó, người nghèo
được nhân viên xã hội kết nối tới các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ khi bị ốm đau.
Nhân viên xã hội cũng cung cấp các dịch vụ tham vấn cho những người nghèo
có vấn đề về tâm lý xã hội. Quan trọng hơn nữa, nhân viên xã hội là người biện


hộ, khích lệ đề người nghèo được tham gia các hoạt động xã hội bình đẳng như
các thành viên khác trong xã hội.

Đối với gia đình nghèo, nhân viên xã hội cung cấp các dịch vụ tham vấn,
kết nối gia đình nghèo tới các dịch vụ chương trình tài chính, chăm sóc sức
khoẻ... Ví dụ như các chương trình hướng dẫn hộ gia đình vay vốn, tạo việc
làm, để từ đó gia đình có thể cải thiện tình hình kinh tế gia đình.

Đối với cộng đồng, công tác xã hội đưa ra các dịch vụ phát triển cộng
đồng, nâng cao nhận thức của người dân về vấn đề nghèo và khuyến khích sự
tương trợ, hỗ trợ của cộng đồng với người nghèo và gia đình họ.
- Các dịch vụ công tác xã hội liên quan đến chính sách, chương trình xã hội
hỗ trợ người nghèo.

Công tác xã hội đã và đang tham gia rất tích cực vào việc xây dựng các
chính sách, các chương trình xã hội hỗ trợ người nghèo ở nhiều nước trên thế
giới. Nhân viên xã hội là người hỗ trợ chính phủ tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng,
nhu cầu của người nghèo từ đó đề xuất với cơ quan cấp trên để nghiên cứu đưa
ra các chính sách, chương trình xã hội hỗ trợ người nghèo. Ví dụ như nếu việc
đưa ra nhu cầu được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ miễn phí. Hay các
chương trình hỗ trợ giảm nghèo thơng qua phát triển cộng đồng...

II. THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH HỖ TRỢ TRONG XÓA ĐÓI

GIẢM NGHÈO TẠI HUYỆN TỨ KỲ TỈNH HẢI DƯƠNG

1. Khái quát chung về nghèo tại thế giới và Việt Nam

1.1. Tình trạng nghèo trên thế giới


Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB), năm 1981, trên thế giới có
1,5 tỉ người nghèo tương ứng với 40% dân số thế giới, năm 1993, số người
nghèo là 1,314 tỉ người tương ứng với 29% dân số thế giới, đến 2001 có 1,1 tỷ
người (tương ứng với 21% dân số thế giới) có thu nhập ít hơn 1 đơ la Mỹ tính

theo sức mua địa phương và vì thế được xem là rất nghèo. Phần lớn những
người nghèo này sống tại Châu Phi, Châu á. Nếu như đặt ranh giới nghèo là 2
đơ la Mỹ mỗi ngày thì có tổng cộng là 2,7 tỉ người nghèo, gần một nửa dân số
thế giới.

Nhưng trong năm 2008, năm đầu tiên của cuộc khủng hoảng tài chính và lương
thực trên thế giới thì cả số lượng và tỷ lệ người có mức sống dưới 1,25
USD/ngày (mức được xếp loại nghèo đói theo chuẩn giá cả năm 2005) đã giảm
trên mọi khu vực của thế giới. Theo WB ước tính năm 2010, tình trạng nghèo
đói toàn cầu chỉ bằng 1/2 mức năm 1990. Như vậy, thế giới đã đạt “mục tiêu
phát triển thiên niên kỷ "của LHQ là giảm tình trạng đói nghèo trên thế giới
xuống còn một nửa từ năm 1990 đến 2015- sớm hơn 5 năm. Điều này cho thấy,
mặc dù cuộc khủng hoảng kép, tốc độ giảm nghèo dài hạn vẫn được duy trì ở
mức trên 1% trong giai đoạn 2008-2010.

Theo báo cáo mới nhất vừa được Liên Hiệp quốc (LHQ) đưa ra, số người đói
nghèo trên khắp thế giới đã tăng trở lại lần đầu tiên trong hơn một thập kỷ qua
trong đó xung đột bạo lực và biến đổi khí hậu dược coi là những nguyên nhân
chính.

Báo cáo vừa được đưa ra ở Rome là đánh giá toàn cầu đầu tiên về an ninh lương
thực và dinh dưỡng của LHQ sau khi thơng qua Chương trình Nghị sự 2030 về
Phát triển Bền vững, trong đó chấm dứt nạn đói và tất cả các dạng suy dinh
dưỡng vào năm 2030 là ưu tiên hàng đầu.


Theo số liệu của LHQ, trong năm 2017 có khoảng 815 triệu người đói nghèo -
tăng 38 triệu so với một năm trước đó - làm ảnh hưởng tới 11% dân số thế giới.
Châu Á là nơi có số người đói nghèo nhiều nhất - 520 triệu người - và vùng hạ

Sahara ở châu Phi có tỉ lệ đói nghèo cao nhất khi ảnh hưởng đến 20% dân số
của khu vực này.

Theo tổ chức An ninh lương thực và Thực phẩm Thế giới, tỷ lệ cao nhất những
trẻ em bị mất an ninh lương thực và suy dinh dưỡng trên thế giới đang tập trung
ở các vùng xung đột. Hồi đầu năm nay, nạn đói xảy ra ở miền Nam Sudan, và
có nguy cơ xảy ra ở các quốc gia bị ảnh hưởng bởi xung đột như Nigeria,
Somalia và Yemen.

Thậm chí ở các vùng an toàn hơn, hạn hán và lũ lụt liên quan đến hiện tượng
thời tiết El Nino cũng như tình trạng suy thối kinh tế tồn cầu cũng đã gây ra
tình trạng bất an ninh lương thực và suy giảm dinh dưỡng.

Báo cáo này được đưa ra bởi 5 cơ quan - Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp
(FAO), Quỹ Phát triển Nông nghiệp Quốc tế (IFAD), Quỹ Nhi đồng LHQ
(UNICEF), Chương trình Lương thực Thế giới (WFP) và Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO).

1.2. Tình trạng nghèo tại Việt Nam
Đói nghèo ở Việt Nam tiếp tục giảm, đặc biệt là trong các dân tộc thiểu số với
tỷ lệ giảm mạnh tới 13%, mức giảm lớn nhất trong thập niên vừa qua, theo một
báo cáo mới công bố của Ngân hàng Thế giới (NHTG).
Theo báo cáo “Bước tiến mới: Giảm nghèo và thịnh vượng chung tại Việt
Nam”, được NHTG công bố hôm nay, thu nhập từ hoạt động nơng nghiệp tại
vùng cao có thể giúp Việt Nam tiếp tục giảm nghèo, đã giảm khoảng 4% từ năm

2014 xuống còn 9,8% vào năm 2016. Các dân tộc thiểu số (DTTS) - đa số ở
vùng cao - chiếm 72% người nghèo ở Việt Nam, và chính sách khuyến khích
trồng cây cơng nghiệp có giá trị cao có thể nâng cao thu nhập cho các dân tộc
này.

"Việt Nam đã đạt được những kết quả to lớn trong việc giảm nghèo và nâng cao
chất lượng cuộc sống cho hàng triệu người. Tỷ lệ nghèo trong các DTTS tiếp
tục giảm là kết quả rất đáng khích lệ, và những nỗ lực tập trung vào việc tăng
cường thu nhập cho các DTTS có thể gia tăng cơ hội cho những nhóm người
này và giảm sự bất bình đẳng kéo dài", Ông Ousmane Dione, Giám đốc Quốc
gia của NHTG tại Việt Nam, cho biết. "Không thể bỏ qua khát vọng của những
người có ít cơ hội."
Báo cáo tóm tắt các xu hướng và mơ hình đói nghèo trong thời gian gần đây ở
Việt Nam, và nêu ra những giải pháp để thúc đẩy tiềm năng chưa được khai thác
trong lĩnh vực nông nghiệp ở vùng cao, nơi tập trung nhiều người nghèo. Ví dụ
như các quyết định về sử dụng đất và loại cây trồng có tác động mạnh đến
chênh lệch thu nhập trong nông nghiệp giữa các hộ gia đình. Các gia đình có thu
nhập thấp ở vùng cao thường sử dụng đất để trồng những loại cây cơ bản như
lúa hoặc ngơ, thay vì trồng cây có giá trị cao như cà phê, hồ tiêu hay cao su.
Tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng có thể giúp nông dân vùng cao thực hiện
những khoản đầu tư cần thiết vào sản xuất nông nghiệp để đem lại thu nhập cao.
Nâng cao khả năng tạo thu nhập có thể giúp thu hẹp bất bình đẳng giữa các
nhóm dân tộc. Ví dụ, mức tiêu dùng bình qn đầu người của người DTTS chỉ
còn thấp hơn người Kinh và người Hoa khoảng 45%. Hơn nữa, người nghèo
đang phải đối mặt với khoảng cách ngày càng lớn về khả năng tiếp cận giáo dục
trung học phổ thông, cải thiện nước sạch và vệ sinh môi trường.
Đồng thời, báo cáo cũng ghi nhận hiện nay 70% người dân Việt Nam đã được
đảm bảo về mặt kinh tế, trong đó có 13% thuộc tầng lớp trung lưu theo chuẩn
thế giới. Các tầng lớp thu nhập này đang phát triển nhanh chóng, tăng hơn 20%
trong giai đoạn 2010 - 2017. Tính từ năm 2014, trung bình mỗi năm có 1,5 triệu

người Việt Nam gia nhập vào tầng lớp trung lưu toàn cầu, cho thấy các hộ gia
đình đang tiếp tục leo lên bậc thang kinh tế cao hơn sau khi thoát nghèo. Sự gia

tăng của lớp người tiêu dùng làm thay đổi nguyện vọng của xã hội, trọng tâm
của chương trình xố đói nghèo và chia sẻ thịnh vượng chuyển từ chống nghèo
cùng cực sang cải thiện mạnh mẽ chất lượng cuộc sống và hỗ trợ sự gia tăng của
tầng lớp trung lưu. Khả năng tạo cơng ăn việc làm nhanh chóng và q trình
chuyển đổi sang việc làm có lương đang thúc đẩy kết quả tích cực của hoạt động
giảm nghèo và chia sẻ thịnh vượng.
Báo cáo đưa ra một số lĩnh vực ưu tiên chiến lược nhằm thúc đẩy giảm nghèo và
tăng cường chia sẻ thịnh vượng chung, bao gồm:
Nâng cao năng suất lao động và đầu tư vào cơ sở hạ tầng để duy trì việc làm và
tăng lương mà không giảm khả năng cạnh tranh.
Thực hiện cải cách giáo dục nhằm đảm bảo sự công bằng trong các cơ hội và
phát triển kỹ năng của lực lượng lao động.
Đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp thông qua thay đổi mơ hình sử dụng
đất nơng nghiệp, tăng cường quyền sử dụng đất, và nâng cao kỹ năng cho nông
dân nghèo.
Mặc dù mục tiêu giảm bất bình đẳng vẫn cịn nhiều khó khăn, báo cáo ghi nhận
số người dễ bị tái nghèo đã giảm xuống chỉ còn 2% trong giai đoạn 2014-2016.
Ngược lại, tầng lớp trung lưu cũng đã tăng thêm hơn 3 triệu người trong giai
đoạn này.

Một trong những lĩnh vực ưu tiên trong Khung đối tác quốc gia của Nhóm
NHTG với Việt Nam giai đoạn 2018-2022 là tăng trưởng bao trùm, với mục tiêu
cụ thể là "hội nhập kinh tế cho nhóm người nghèo và dễ bị tổn thương", theo đó
NHTG sẽ hỗ trợ can thiệp có mục tiêu để tạo cơ hội kinh tế cho người dân ở các
khu vực bị tụt hậu.

1.3 Thực trạng đói nghèo tại huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương

Trên cơ sở bám sát theo tiêu chuẩn nghèo mới nêu trên, Ban chỉ đạo Các xã,
thị trấn đã điều tra hộ nghèo trên toàn huyện. Theo kết quả điều tra hộ nghèo

theo tiêu chuẩn quy định, kết quả giảm nghèo, hộ nghèo, tổng số hộ nghèo trên
địa bàn là 3585 hộ (chiếm 7,44%). Sau 05 năm thực hiện Chương trình giảm
nghèo (2011 -2015), toàn huyện đã giảm 10,39% (4.238 hộ nghèo), số hộ thoát
nghèo đã tăng so tổng số hộ phát sinh mới. Một số xã có tỷ lệ nghèo cao như
Đại Hợp, Hưng Đạo, Minh Đức; một số xã có tỷ lệ nghèo thấp như: Quang
Khải, Hà Kỳ, Đại Đồng, Tái Sơn.

Tỷ lệ hộ nghèo chung năm 2013 của Việt Nam còn 7,6% theo chuẩn nghèo
mới. Tỷ lệ nghèo đói của huyện Tứ Kỳ hiện nay cao so với tỷ lệ nghèo đói
chung của cả nước là 4,1%, trong năm 2013 xã Tân Kỳ đạt tỷ lệ hộ nghèo đưới
7,6%, các xã cịn lại đều có tỷ lệ hộ nghèo lớn hơn 7,6%, như vậy tỷ lệ nghèo
đói cao so cả nước.

So sánh tỷ lệ đói nghèo chung huyện Tứ Kỳ với các huyện cùng tỉnh, Huyện
Tứ Kỳ trong là huyện có số hộ nghèo nhiều nhất so với các huyện trong tỉnh.
Bằng nhiều chính sách, dự án của huyện nhằm giảm các hộ nghèo đói trong năm
2015 huyện Tứ Kỳ đã giảm cịn 3.585 hộ là huyện có số hộ giảm nghèo nhiều
nhất trong các huyện, tuy nhiên số hộ phát sinh nghèo của huyện Tứ Kỳ theo
điều tra chuẩn nghèo mới là huyện nhiều nhất trong các huyện trong tỉnh.

Về chỉ tiêu xóa hộ chính sách nghèo: Qua rà sốt thống kê có 434 hộ thốt
nghèo, 56 hộ mới phát sinh: tồn tỉnh cịn 390 hộ nghèo chính sách nghèo, giảm
378 hộ, đạt 49,2% chỉ tiêu kế hoạch. Như vậy, so với hộ nghèo tồn tỉnh Hải
Dương thì hộ nghèo huyện Tứ Kỳ cao hơn là 2,4%, là huyện có hộ nghèo cao
nhất tỉnh Hải Dương, là huyện thuần nông nên hộ nghèo chiếm tỷ lệ cao, với
chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước thì những năm gần đây lãnh đạo
tỉnh Hải Dương đã quan tâm nhiều việc xóa đói giảm nghèo ở huyện Tứ Kỳ, tập

trung việc tạo công ăn việc làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang chủ yếu sản
xuất công nghiệp tăng cao thu nhập người dân đặc biệt là hộ nghèo.

2. Mô tả về địa bàn

Tứ Kỳ là 1 trong 12 đơn vị hành chính của tỉnh Hải Dương, từ 106015’ đến
106027’ kinh độ Đông và 21048’ đến 21055’ vĩ độ Bắc, phía Bắc giáp thành
phố Hải Dương, phía Tây giáp huyện Gia Lộc, phía Đơng và Đơng Bắc giáp
huyện Thanh Hà, phía Tây Nam giáp huyện Ninh Giang, phía Nam giáp huyện
Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng.

Huyện nằm dọc theo trục tỉnh lộ 391, nối quốc lộ 5 và quốc lộ 10 đi Hải Phịng,
Thái Bình. Bên cạnh đó cịn có các tuyến đường huyện (192, 391D, 391E,
391N, ...) và hệ thống các tuyến đường liên xã, liên thôn, tạo mạng lưới giao
thông thuận tiện cho giao lưu, phát triển kinh tế, văn hoá xã hội trên địa bàn.
Huyện được bao bọc bởi 2 con sơng (sơng Thái Bình - đoạn qua địa bàn huyện
dài 28,5 km và sông Luộc - đoạn qua địa bàn huyện dài 20 km) và hệ thống
sông trục Bắc Hưng Hải dài 57,5km (gồm sông Tứ Kỳ và sông Cầu Xe), tạo
mạng lưới giao thông thuỷ thuận tiện, bảo đảm cung cấp nước tưới, bồi đắp phù
sa cho một bộ phận diện tích đất nông nghiệp hàng năm.

Trong những năm gần đây, huyện Tứ Kỳ đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh.
Tốc độ tăng trưởng (GDP) bình quân giai đoạn 2006 - 2010 là 11,1% (giai đoạn
2001 - 2005 là 9,5%). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng
nơng nghiệp - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ năm 2013 đạt 38,5% - 31,5% -
30%. Nông nghiệp phát triển tương đối ổn định. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản
xuất nơng nghiệp bình qn 3,1%/năm (mục tiêu 4%/năm). Cơ cấu giá trị sản
xuất nông nghiệp: trồng trọt - chăn nuôi, thủy sản - dịch vụ năm 2013 là 52% -
35% - 13% (mục tiêu: 50% - 43% - 7%).


Huyện đã tập trung chỉ đạo sản xuất nông nghiệp với các giải pháp nâng cao
năng suất, chất lượng lúa, tăng diện tích lúa lai, lúa chất lượng cao, rau màu và

cây công nghiệp ngắn ngày. Đến nay giá trị sản xuất bình qn đất nơng nghiệp
đạt trên 100 triệu đồng/ha/năm; trong đó có 195 cánh đồng, khu đồng với diện
tích 2.700 ha cho giá trị sản xuất cao, tập trung ở các xã Hưng Đạo, Ngọc Kỳ,
Tân Kỳ, Tái Sơn, Nguyên Giáp…

Bên cạnh những kết quả đạt được là cơ bản, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
huyện Tứ Kỳ cũng cịn một số hạn chế như: cơng tác giải phóng mặt bằng của
một số dự án chậm; đa số các dự án có quy mơ nhỏ, trang thiết bị chưa hiện đại
(trừ các doanh nghiệp nước ngoài), thiếu lao động có tay nghề, chun mơn cao
và các nhà quản lý doanh nghiệp giỏi, việc đào tạo nghề cho người lao động
trong các cụm cơng nghiệp, làng nghề cịn hạn chế.

3. Thực trạng các hoạt động hỗ trợ trong xóa đói giảm nghèo cho người
nghèo tại huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương

Qua hơn 8 năm thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, được sự đầu tư của
Trung ương và của tỉnh, với sự cố gắng của các tổ chức chính trị- xã hội, huyện
Tứ Kỳ đã đạt được những kết quả quan trọng. Các chỉ tiêu về phát triển và tăng
trưởng kinh tế trên địa bàn ổn định. Quản lý và sử dụng các nguồn vồn đầu tư
cho xóa đói giảm nghèo đúng mục đích, đúng đối tượng, hợp lịng dân ít thất
thốt và có hiệu quả. trình độ dân trí và đời sống của nhân dân ngày càng được
nâng lên, bộ mặt nông thôn ngày càng được đổi mới.

Các hoạt động hỗ trợ trong xóa đói giảm nghèo cho người nghèo tại huyện Tứ
Kỳ được thực hiện qua các hoạt động: hỗ trợ người nghèo về giáo dục, hỗ trợ
người nghèo về y tế, hỗ trợ qua chính sách cứu trợ thường xuyên, trợ giúp hộ
nghèo chưa có nhà ở, điện, nước sinh hoạt để ổn định đời sống, hỗ trợ pháp lý

miễn phí cho người nghèo,thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo,

thực hiện các dự án hỗ trợ dạy nghề và xuất khẩu lao động, nâng cao kiến thức
khuyến nông và hỗ trợ phát triển sản xuất.

Tuy nhiên trong khuôn khổ bài viết này em xin đề cập đến hoạt động hỗ trợ về
giáo dục, hỗ trợ y tế, hỗ trợ đào tạo dạy nghề và xuất khẩu lao động, nâng cao
kiến thức khuyến nông và hỗ trợ phát triển sản xuất để phân tích sâu hơn các
hoạt động đã và đang được thực hiện, kết quả đạt được, hạn chế và các yếu tố
tác động đến các hoạt động này nhằm hỗ trợ xóa đói giảm nghèo cho người
nghèo tại địa phương.

3.1. Hỗ trợ về giáo dục trong xóa đói giảm nghèo

Chất lượng giáo dục chính là một trong những yếu tố quan trọng nhất giúp cho
người nghèo thoát nghèo bền vững. Nhận thức được tầm quan trọng của giáo
dục, Đảng và Nhà nước ln có các chính sách hỗ trợ về giáo dục cho người
nghèo, đặc biệt là trẻ em nghèo. Tại huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương cũng vậy,
thực hiện theo chủ trương và chính sách của nhà nước, hằng năm tại địa phương
luôn triển khai sự hỗ trợ về giáo dục cho các đối tượng thuộc nghèo theo đúng
quy định. Ngồi ra cịn có sự vận động các nguồn lực để có thêm kinh phí hoạt
động cho các sự hỗ trợ này từ các cá nhân và tổ chức khác. Các hoạt động bao
gồm: thu thập thông tin và điều tra về các hộ nghèo, cận nghèo tại địa phương,
từ đó có sự hỗ trợ học phí qua hình thức giảm học phí cho đối tượng theo khung
tham chiếu hộ nghèo và hộ cận nghèo đã được quy định. Ngồi ra địa phương
cịn tổ chức các chương trình tặng sách giáo khoa cho học sinh nghèo theo đợt,
bao gồm cả sách cũ và sách mới. Trong đó sách vở mới được mua từ nguồn quỹ
huy động từ địa phương và các cá nhân tổ chức ủng hộ cho quỹ khuyến học ở
từng đơn vị địa phương từ thấp tới cao. Bên cạnh đó cịn có các chương trình
qun góp và thu gom sách giáo khoa cũ trong các trường ở các cấp tiểu học,


trung học cơ sở và trung học phổ thông để có nguồn sách ủng hộ cho các học
sinh nghèo. Ngồi các hoạt động hỗ trợ theo quy định của nhà nước, sự hỗ trợ từ
cộng đồng cho các học sinh có hồn cảnh khó khăn, địa phương cịn xây dựng
được các quỹ học bổng để trao cho học sinh nghèo vượt khó có thành tích xuất
sắc trong học tập. Đây khơng chỉ là nguồn động viên mà cịn là sự hỗ trợ có ý
nghĩa trực tiếp đối với việc duy trì và phát triển học tập của các em.

Kết quả thực hiện trong 5 năm qua cho thấy, trung bình mỗi năm địa phương đã
miễn giảm học phí cho 4.428 học sinh con hộ nghèo, hộ cận nghèo tại các
trường tiểu học và trung học cơ sở, miễn các khoản đóng góp cho 100% học
sinh con hộ nghèo, thực hiện tốt cơng tác xã hội hố giáo dục, nâng cao chất
lượng giáo dục tồn diện ở các xã khó khăn, có các chính sách trợ cấp khuyến
khích những học sinh con hộ nghèo học giỏi, vượt khó. Hỗ trợ sách giáo khoa
cho học sinh ở các xã đặc biệt khó khăn 36.328 quyển trị giá 228,886 triệu
đồng; hỗ trợ vở viết 132.570 trị giá 222,426 triệu đồng. Tặng quà cho học sinh
có hồn cảnh đặc biệt khó khăn, học sinh nghèo vượt khó 90 xuất trị giá 9 triệu
đồng.

Tuy nhiên ngồi kết quả đạt được cũng có nhiều yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp
với việc thực hiện những sự hỗ trợ này cho học sinh nghèo. Dù đã có nhiều sự
hỗ trợ và sự tiếp cận giáo dục của người nghèo đang dần được cải thiện nhưng
vẫn xuất hiện các hiện tượng khơng đảm bảo sự bao phủ hồn tồn về giáo dục.
Có nhiều ngun nhân cũng như yếu tố tác động đến như nguồn kinh phí, tổ
chức thực hiện chính sách trợ giúp,… Về nguồn kinh phí, hỗ trợ cho người
nghèo dưới các hình thức như miễn giảm học phí cấp sách giáo khoa, ….cần
đến một nguồn lực khơng nhỏ. Tuy nhiên nguồn lực này cịn khá khiêm tốn nên
mức hỗ trợ bình quân cho một học sinh cịn thấp. Điều này khiến cho việc hỗ trợ
đó về cơ bản chưa giảm được nhiều về gánh nặng chi phí giáo dục cho người


nghèo. Thêm vào đó, nguồn lực thực hiện một phần là huy động từ địa phương
nhưng do các địa phương có điều kiện kinh tế khác nhau dẫn đến sự khác biệt
về mức hõ trợ cho người nghèo. Mức hỗ trợ thấp và không giống nhau ở các địa
phương đang là một rào cản đối với hoạt động hỗ trợ giáo dục.

3.2. Hỗ trợ về y tế trong xóa đói giảm nghèo

Trong chính sách hỗ trợ xóa đói giảm nghèo nói chung và hỗ trợ về y tế cho
người nghèo nói riêng, có thể nói địa phương đã có nhiều thành tích đối với sự
hỗ trợ này, đặc biệt là bảo hiểm y tế - một trong những chính sách rất ưu việt
của Đảng và Nhà nước ta đã chỉ đạo, và Tứ Kỳ cũng đã thực hiện rất tốt. Hướng
tới BHYT toàn dân, để người dân được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe cơ bản, huyện Tứ Kỳ đã có nhiều chế độ, chính sách hỗ trợ, khuyến khích
người dân mua BHYT. Trong đó, chính sách hỗ trợ người nghèo, cận nghèo
mua BHYT đã và đang được các cấp, các ngành liên quan đẩy mạnh thực hiện.
Việc cấp phát thẻ BHYT kịp thời, đầy đủ cho các hộ nghèo, cận nghèo là nội
dung quan trọng trong công tác giảm nghèo và bảo trợ xã hội. Bởi khơng chỉ
giúp các hộ nghèo, cận nghèo trong kinh phí khám, chữa bệnh, giúp giảm bớt
gánh nặng chi phí y tế, việc hỗ trợ mua BHYT và tăng mức hưởng BHYT còn
giúp nâng cao nhận thức, thay đổi ý thức về khám, chữa bệnh cho người dân của
các hộ nghèo, cận nghèo, giúp các đối tượng này có điều kiện tiếp cận với các
dịch vụ y tế hiện đại, đảm bảo. Thời gian tới, các cấp, ngành và các địa phương
sẽ tiếp tục việc rà soát các hộ nghèo, cận nghèo, qua đó, lập danh sách đề nghị
và cấp thẻ BHYT mới cho người nghèo, cận nghèo chưa có thẻ. Ngồi việc cấp
thẻ BHYT, tại huyện Tứ Kỳ cịn có các hoạt động hỗ trợ qua cứu trợ xã hội
thường xuyên về y tế cho các đối tượng thuộc nghèo, đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất hạ tầng cho y tế, cũng như đầu tư chất lượng khám chữa bệnh cho người
nghèo qua đội ngũ y, bác sĩ có trình độ.



×