Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Xã hội học đại cương đề tài bất bình đẳng trong xã hội việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.49 KB, 17 trang )

lOMoARcPSD|38837747

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
MÔN: XÃ HỘI HỌC ĐẠI CƯƠNG

ĐỀ TÀI: BẤT BÌNH ĐẲNG TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM

Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc Anh 2156031082
Giảng viên phụ trách: PGS.TS Nguyễn Thị Hồng Xoan

TP HỒ CHÍ MINH, THÁNG 7 NĂM 2022

Downloaded by Yen Nguyen ()

lOMoARcPSD|38837747

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 3
1. Đặt vấn đề: ................................................................................................................. 3
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................................. 3
3. Ý nghĩa đề tài.............................................................................................................. 3
4. Kết cấu tiểu luận ......................................................................................................... 3

NỘI DUNG............................................................................................................................ 3
PHẦN 1: THỰC TRẠNG BẤT BÌNH ĐẲNG VỀ KINH TẾ VÀ GIÁO DỤC GIỮA NÔNG


THÔN VÀ THÀNH THỊ, GIỮA NGƯỜI GIỮA VÀ NHÓM NGHÈO Ở VIỆT NAM. .......... 3
1. Bất bình đẳng về kinh tế .......................................................................................... 3
2. Bất bình đẳng về giáo dục ............................................................................................ 5
PHẦN 2: NHỮNG TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHÈO Ở KHU VỰC NÔNG
THÔN................................................................................................................................ 8
PHẦN 3: CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ ................... 9
1. Chính sách an sinh xã hội tại Việt Nam..................................................................... 9
Thành tựu trong chính sách an sinh xã hội tại Việt Nam ................................................ 10
2. Hạn chế về chính sách an sinh xã hội ...................................................................... 12
Kiến nghị...................................................................................................................... 12

KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 13
Tài liệu tham khảo ............................................................................................................... 14

Downloaded by Yen Nguyen ()

lOMoARcPSD|38837747

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề:
Tình trạng bất bình đẳng về kinh tế, giáo dục trong xã hội nước ta từ lâu đã là một vấn
đề quan trọng cần quan tâm. Để giải quyết vấn đề đó, cần có sự phân tích, làm rõ cùng
nhận định và kiến nghị để hệ thống An sinh xã hội được hoàn thiện.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Người nghèo thuộc khu vực nông thôn
Phạm vi: Việt Nam

3. Ý nghĩa đề tài

Góp phần bổ sung, hoàn thiện về lý thuyết hệ thống An sinh xã hội. Đồng thời, tiểu luận
góp phần nêu lên những tiêu cực bởi quá trình bất bình đẳng ở người nghèo thuộc khu
vực nông thôn.

4. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận có nội dung gồm
3 phần:

- Thực trạng bất bình đẳng về kinh tế và giáo dục giữa nơng thôn và thành thị,
giữa người giàu và nhóm nghèo.

- Những tác động tiêu cực của bất bình đẳng đối với người nghèo ở khu vực nông
thôn

- Các chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam và kiến nghị

NỘI DUNG

PHẦN 1: THỰC TRẠNG BẤT BÌNH ĐẲNG VỀ KINH TẾ VÀ GIÁO DỤC
GIỮA NÔNG THÔN VÀ THÀNH THỊ, GIỮA NGƯỜI GIỮA VÀ NHÓM
NGHÈO Ở VIỆT NAM.

1. Bất bình đẳng về kinh tế

A. Giữa nông thôn với thành thị:
Khu vực nông thôn và thành thị ở Việt Nam có tỉ lệ bất bình đẳng về thu nhập
khơng nhỏ. Theo Tổng cục thống kê, bình quân mỗi năm trong thời kỳ 2016-2020, thu
nhập bình quân đầu người 1 tháng chung cả nước tăng bình qn 8,2%. Trong đó, thu
nhập bình quân 1 người 1 tháng năm 2020 ở khu vực thành thị đạt 5,6 triệu đồng, khu
vực nông thôn đạt 3,5 triệu đồng. Tức, thu nhập bình quân khu vực thành thị cao hơn

gấp 1.6 lần khu vực nông thôn.

Downloaded by Yen Nguyen ()

lOMoARcPSD|38837747

Ngồi bất bình đẳng về thu nhập, giữa khu vực thành thị và nông thôn cũng có
sự chênh lệch về mức chi tiêu bình qn. Về hạng mục này, Tổng cục thống kê cho biết
các hộ gia đình thành thị có mức chi tiêu bình quân đầu người/tháng xấp xỉ 3,8 triệu
đồng trong khi các hộ nông thôn chỉ ở mức 2,4 triệu đồng, chênh lệch giữa hai khu vực
là 1,6 lần. (Bảng 1)

Bảng 1: Mức chi tiêu của các hộ dân thuộc khu vực thành thị và nông thôn từ 2010 - 2020
(Nguồn: Tổng cục thống kê)

B. Giữa nhóm giàu và người nghèo:
Việt Nam là nước có sự chênh lệch đáng kể về thu nhập bình quân đầu người
giữa nhóm giàu và nhóm nghèo. Cũng số liệu từ Tổng cục thống kê, nhóm hộ giàu nhất
(nhóm gồm 20% dân số giàu nhất – nhóm 5) có thu nhập bình quân 1 người 1 tháng
năm 2020 đạt 9,1 triệu đồng. Nhóm hộ nghèo nhất (nhóm gồm 20% dân số nghèo nhất
– nhóm 1) mức thu nhập đạt 1,1 triệu đồng. Tức, nhóm hộ giàu nhất có thu nhập bình
qn cao gấp 8 lần nhóm hộ nghèo nhất.

Downloaded by Yen Nguyen ()

lOMoARcPSD|38837747

Bảng 2: Chênh lệch giữa nhóm thu nhập thấp nhất và nhóm thu nhập cao nhất giai đoạn 2016
- 2020 (Nguồn: Tổng cục thống kê).


Xét về mức chi tiêu, sự bất bình đẳng trong chi tiêu theo bình qn đầu người
giữa nhóm giàu nhất và nhóm nghèo nhất cũng khá rõ rệt: 3,5 lần. Trong đó, mức chi
của nhóm giàu nhất xấp xỉ 4,8 triệu đồng/người/tháng. Nhóm nghèo nhất chi gần 1,4
triệu đồng/người/tháng.

2. Bất bình đẳng về giáo dục

A. Giữa nông thôn và thành thị:

Tìm hiểu sự bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục theo khu vực, tác giả Dương
Chí Thiện (Tiến sĩ, Viện Xã hội học) đã mô tả những nét cơ bản về sự bất bình đẳng
giữa nơng thơn và thành thị ở Việt Nam hiện nay: Khu vực đơ thị có mức chi tiêu cho
giáo dục cao hơn nhiều lần so với khu vực nông thôn và mức chi này càng ngày càng
gia tăng theo các bậc học từ thấp đến cao ở cả hai khu vực. Tình trạng bất bình đẳng về
giáo dục còn khá phổ biến về tỷ lệ biết đọc, biết viết và trình độ học vấn giữa các vùng
miền, giữa các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh, giáo dục ở khu vực nơng thơn cịn tụt
hậu so với khu vực thành thị.

Đề cập đến giáo dục, mức chi tiêu và khả năng chi trả cho giáo dục có lẽ là yếu
tố quan trọng hàng đầu. Bởi, việc tham gia hoạt động học tập phụ thuộc rất nhiều vào
học phí, các khoản đóng góp cho nhà trường và lớp, mua sách vở và đồ dùng học tập,
mua quần áo đồng phục học sinh, chi phí đi học thêm và các khoản khác liên
quan...Thơng thường, với mức sống (thu nhập bình qn đầu người) thấp hơn thì sẽ có
nhiều hạn chế và khó khăn hơn trong việc tham gia học tập.

Cụ thể, kết quả một cuộc khảo sát về mức sống dân cư Việt Nam (đồ thị 3) cho
thấy rằng, mức chi tiêu bình quân cho 1 người đi học trong 1 năm ở Việt Nam ngày
càng tăng nhanh, tăng từ 627.000đ năm 2002 lên đến 3.028.000đ vào năm 2010. Kết
quả cũng chỉ ra rằng, mức chi này ở khu vực đô thị thường cao hơn ở khu vực nông
thôn gấp hơn 2 lần (năm 2010 ở khu vực đô thị là 5.253.000đ so với nông thôn là

2.064.000đ).

Đồ thị 3. Chi tiêu bình quân đầu người cho giáo dục trong

từng năm theo ĐT - NT (1.000đ)

6000 Đô thị
5000 Nông thôn
4000
3000
2000
1000

0

2002 2004 2006 2008 2010

Downloaded by Yen Nguyen ()

lOMoARcPSD|38837747

So sánh giữa khu vực đô thị - nông thôn theo các chỉ báo về chi tiêu bình quân
cho giáo dục trong từng năm, chia theo cấp học. Kết quả cho thấy, mức chi giáo dục
càng ngày càng gia tăng theo các bậc học từ thấp đến cao, song lại giảm dần về khoảng
cách chênh lệch. Cụ thể, năm 2010, mức chi tiêu bình quân cho 1 người đi học trong 1
năm qua như sau: Bậc tiểu học tại đơ thị là 2.533.000đ/ người/năm, cịn tại nơng thơn
chỉ có 636.000đ/ người/năm (chênh lệch khoảng gần 4 lần). Bậc THPT tại đơ thị là
4.838.000đ/ người/năm cịn tại nơng thơn chỉ có 2.011.000 đ/người/năm (chênh lệch
khoảng 2,3 lần). Bậc đại học/cao đẳng trở lên tại đô thị là 12.753.000đ/người/ năm cịn
tại nơng thơn chỉ có 8.100.000đ/ người/năm (gấp khoảng 1,5 lần).


Cơ sở vật chất phục vụ cho giáo dục giữa thành thị và nơng thơn Việt Nam cũng
có sự khác biệt. Cụ thể, theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (Đồ thị 4): Việt Nam đang
có sự chênh lệch rõ nét giữa khu vực thành thị - nông thơn về cơ sở vật chất, trang thiết
bị trung bình của các trường học phổ thông. Trên tất cả 7 vùng của Việt Nam, khu vực
đô thị bao giờ cũng có chỉ số trung bình về cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục cao
hơn so với khu vực nơng thơn. Vùng có sự chênh lệch đơ thị - nông thôn nhiều nhất là
vùng Tây Nguyên (3,0 điểm) và vùng Tây Bắc (2,8 điểm). Đặc biệt là, vùng Đồng bằng
sơng Hồng có mức chênh lệch thấp nhất (1,1 điểm). Các vùng cịn lại đều có mức chênh
lệch từ 1,8-2,0 điểm.

Điều đó chứng tỏ rằng, ở khu vực nông thôn - thành thị Việt Nam đang tồn tại
một khoảng cách chênh lệch khá rõ nét về cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục. Đó là
một yếu tố khơng nhỏ dẫn đến sự bất bình đẳng về cung cấp các điều kiện và cơ hội cho
người dân tiếp cận đến hệ thống giáo dục ở mỗi khu vực. Có nghĩa là, người dân ở nơng
thơn vẫn đang có ít điều kiện và cơ hội hơn so với người dân ở đô thị trong việc tiếp
cận các cơ sở giáo dục. Lý do cơ bản của tình trạng này, là ở chỗ trường học ở khu vực
đô thị cố gắng thu hút được nhiều khoản đóng góp hơn, trong khi đó hầu hết các trường
nông thôn, vùng sâu vùng xa gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động các khoản tiền
bổ sung; trường thành phố có khả năng chi tiêu nhiều hơn và trường ở nơng thơn thì
đang nghèo khó hơn.

Đồ thị 4. So sánh điểm trung bình về cơ sở vật chất giữa các vùng/miền
theo đô thị - nông thôn

Downloaded by Yen Nguyen ()

lOMoARcPSD|38837747

Từ những điều trên, có thể nói rằng người dân khu vực thành thị, do có điều kiện

kinh tế cùng cơ sở vật chất tốt hơn nên được tiếp cận với các dịch vụ giáo dục có chất
lượng cao hơn so với người dân ở nơng thơn. Hay nói cách khác, người dân ở khu vực
thành thị được tiếp cận với giáo dục nhiều và toàn diện hơn ở nông thôn ở tất cả cấp
bậc, được quan tâm nhiều hơn về vấn đề học tập. Về cơ sở hạ tầng, ở thành thị có nhiều
trường tư thục, trường quốc tế phục vụ cho người dân. Tuy nhiên, điều này dễ hiểu bở
khả năng chi trả cho giáo dục của người dân ở thành thị cao hơn người dân ở nông thôn
rất nhiều. Thống kê cho thấy số tiền vay mà gia đình ở nơng thơn phải trả cho cho việc
học tập của con cái là 17.689.000đ, trong khi ở thành thị là 13.252.000đ. Và số lượng
hộ gia đình phải vay tiền để cho con đi học ở nông thôn cao gần gấp 2 lần ở đô thị (60
hộ gia đình ở nơng thơn so với 33 hộ gia đình ở đô thị). (Số liệu năm 2012 của Viện Xã
Hội học).

B. Giữa nhóm giàu và nhóm nghèo:
Nghiên cứu của Lê Ngọc Hùng (2016) cho biết: Bất bình đẳng về tỉ lệ đi học
đúng tuổi đại học giữa nhóm 20% giàu nhất và nhóm 20% nghèo nhất nước ta lên tới
88 lần: tỷ lệ nhập học đúng tuổi của nhóm giàu là 26,3% so với tỷ lệ nhập học đúng tuổi
của nhóm nghèo là 0,3%. Điều này có nghĩa, cứ 1 người xuất thân từ nhóm 20% nghèo
nhất có cơ hội đến trường đại học thì có 87-88 người xuất thân từ nhóm 20% giàu nhất
được học đại học.

So sánh mức chi cho giáo dục bình quân 1 người đi học trong 1 năm theo 5 nhóm
thu nhập (Đồ thị 2), có thể thấy mức chi cho giáo dục càng ngày càng có sự tăng trưởng.
Tuy nhiên ở các nhóm nghèo, mức chi ln thấp hơn so với nhóm giàu.

Đồ thị 5. Chi giáo dục, đào tạo bình quân cho 1 người đi học trong từng năm theo
5 nhóm thu nhập và 5 nhóm chi tiêu. (1.000đ)

Nguồn: Tổng cục thống kê

Tóm lại, sự bất bình đẳng về giáo dữa khu vực thành thị và nơng thơn, giữa nhóm

giàu và nhóm nghèo là một sự thật đáng buồn của giáo dục Việt Nam hiện tại. Bởi, thực
tế cho thấy người nghèo và người sống ở vùng nơng thơn đang gặp khó khăn trong việc
tiếp cận với giáo dục. Điều đó thể hiện qua sự chênh lệch về số lượng trường học, các
loại trường học ở địa phương, về chất lượng giảng dạy cũng như cơ sở hạ tầng. Đặc biệt
là người nghèo ở vùng sâu vùng xa vơ cùng khó khăn với việc đến trường khơng chỉ vì
điều kiện kinh tế mà cịn do trở ngại địa lý, thiếu nguồn nhân lực trong giáo dục.

Downloaded by Yen Nguyen ()

lOMoARcPSD|38837747

PHẦN 2: NHỮNG TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHÈO Ở KHU
VỰC NÔNG THÔN.

Như đã nêu ở phần 1, tác động của việc bất bình đẳng kinh tế đối với người
nghèo ở khu vực nông thôn đang diễn ra hết sức rõ ràng. Việc bất bình đẳng về thu nhập
và mức chi tiêu bình quân đầu người làm người nghèo có mức sống thấp, ít được tiếp
cận với các hoạt động văn hóa, giải trí. Tuy nhiên, phần 2 sẽ nhấn mạnh nhiều hơn đến
việc người nghèo chịu những tác động tiêu cực khi chưa được đáp ứng các nhu cầu về
y tế, giáo dục, những dịch vụ công - điều mà người giàu, người ở khu vực thành thị có
phần được ưu tiên hơn.

Thứ nhất, người nghèo ở nơng thơn ít có cơ hội tiếp cận với nền giáo dục. Cụ
thể, người nghèo khơng có đủ khả năng chi trả cho giáo dục khi chi phí học tập cao và
càng tăng theo từng cấp học. Việc tiếp cận với các trường tư thục lại càng không thể đối
với người nghèo, đặc biệt là khu vực nông thôn. Bởi theo kết quả khảo sát mức sống
dân cư năm 2020 của Tổng cục thống kê, các hộ gia đình thuộc nhóm thu nhập cao có
xu hướng cho con học tại các trường dân lập, tư thục cao hơn nhiều các hộ thuộc nhóm
thu nhập thấp (12,3% so với 1,3%). Với vùng sâu vùng xa, miền núi, vùng có dân tộc ít
người, việc học bị ngăn trở bởi khoảng cách địa lý, khó khăn trong việc khơng có giáo

viên càng làm cho nhu cầu học của người dân không thể được đáp ứng. Kết quả Điều
tra thu thập thông tin Tổng cục Thống kê thực hiện tại hơn 56,4 nghìn thơn thuộc các
xã vùng dân tộc thiểu số trên tồn quốc tính đến ngày 1/10/2019 cho biết, tỷ lệ trẻ em
dân tộc thiểu số trong độ tuổi đi học phổ thông nhưng không đi học là 15,5 - một con
số đáng kể. Trong bối cảnh kinh tế xã hội hiện tại, việc trẻ em nói chung và trẻ em thuộc
nhóm nghèo ở nơng thơn nói riêng khơng được tiếp cận với nền giáo dục có chất lượng
cũng đồng nghĩa với việc tước đoạt tiềm năng tương lai của đất nước, tước đoạt quyền
học tập mà cá nhân họ đáng được hưởng.

Về y tế, rõ ràng người nghèo, đặc biệt là người nghèo ở nơng thơn có ít cơ hội
tiếp cận với y tế hơn người dân thành thị. Cụ thể hơn, các bệnh viện ở địa phương như
bệnh viện thuộc tỉnh huyện, trung tâm y tế xã, tuy phân bố dày đặc nhưng chất lượng
thấp hơn rất nhiều các bệnh viện tuyến trên thuộc thành phố, không thể thực hiện các
hoạt động chữa bệnh khi bệnh có tính nghiêm trọng. Điều đó đồng nghĩa với việc cơ
hội chữa bệnh của người nghèo ở nông thôn thấp hơn người ở thành thị, chưa phải so
sánh đến người thuộc nhóm giàu. Tuy việc người dân sử dụng bảo hiểm y tế đã gia tăng
nhanh chóng trong nhiều năm gần đây, nhưng rõ ràng 50 phần trăm viện phí vẫn phải
được đóng. Điều này đẩy hàng triệu người dân vì chữa bệnh lại trở về đói nghèo (trung
bình hơn 600.000 hộ gia đình mỗi năm). Một nghiên cứu năm 2017 với 1.042 bệnh nhân
đã chỉ ra rằng khoảng 70% người bệnh phải đối mặt với nguy cơ bị đẩy vào cảnh cùng
cực do chi phí điều trị quá cao, bao gồm trang thiết bị, thuốc thang, chăm sóc và phịng
bệnh.

Downloaded by Yen Nguyen ()

lOMoARcPSD|38837747

Người nghèo ở nông thôn chưa được tiếp cận được với các dịch vụ công cần
thiết. Thứ nhất, thực tế cho thấy, nhiều người nghèo ở Việt Nam vẫn chưa được tiếp cận
các dịch vụ tài chính một cách bền vững, cho dù đó là các dịch vụ cơ bản như tiết kiệm,

tín dụng hay bảo hiểm. Khơng có q nhiều các địa điểm giao dịch, ngân hàng ở nông
thôn, nhất là vùng sâu vùng xa. Thứ hai, mạng lưới điện cả nước tuy đã coi như hồn
thiện nhưng vẫn cịn nhiều hộ gia đình khơng có điện, nhiều địa phương, đặc biệt vùng
hải đảo chưa tiếp cận được mạng lưới điện hoặc có hệ thống điện mang tính tạm bợ.
Theo Thứ trưởng Cơng Thương Đặng Hồng An, hiện vẫn cịn khoảng 154 nghìn hộ
dân chưa có điện, khoảng 717 nghìn hộ dân có điện nhưng không ổn định. Mặt khác,
một số đảo như Cồn Cỏ (Quảng Trị); Thổ Chu, An Sơn và Nam Du (Kiên Giang); Côn
Ðảo (Bà Rịa - Vũng Tàu); các thôn đảo Ninh Tân, Ninh Ðảo, Ðiệp Sơn, Bích Ðầm ở
Khánh Hịa,... cũng chưa có điện lưới. Theo số liệu của tổng cục thống kê năm 2019,
trong các vùng sinh sống của dân tộc ít người ở Việt Nam, 1,4% trong tổng số thơn
khơng có điện lưới quốc gia. Thứ ba, hệ thống giao thông thuộc vùng nông thôn, tuy
trải qua q trình xây dựng Nơng thơn mới có nhiều hiệu quả, nhưng vẫn còn nhiều
tuyến đường đất chưa xây dựng gây khó khăn cho người nghèo trong việc đi lại, vận
chuyển nơng sản. Đường giao thơng ở nơng thơn nhìn chung không được quan tâm và
chậm trễ hơn đường ở đơ thị trong cơng tác bảo trì, chi phí dành ra trong cơng tác bảo
trì cũng thấp hơn. Điều này là trở ngại lớn khi nông sản phải chịu mức giá cao hơn do
chi phí vận chuyển, người dân cũng ít tiếp cận với các hoạt động có liên quan như tham
gia học tập, làm việc.

Sự bất bình đẳng cịn thể hiện qua việc người nghèo ở nông thôn không thực sự
hiểu rõ quyền lợi của bản thân, ít tiếp cận với thông tin (cũng như không dễ phân biệt
tin giả với tin thật). Điều này làm người nghèo phần nào mất đi quyền cơ bản của công
dân như quyền bầu cử ứng cử. Sự bất bình đẳng này cịn làm tăng sự bất bình đẳng về
giới ở nhóm nghèo thuộc khu vực nơng thơn, khi tình trạng phụ nữ bị xem nhẹ, chỉ ở
nhà làm công việc nội trợ hoặc không được tiếp cận với giáo dục như nam giới vẫn cịn
tồn tại.

Ngồi ra, tình trạng phân hóa giàu nghèo diễn ra nhanh một phần đẩy người
nghèo vào lối sống ích kỷ, coi trọng vật chất mà xem thường đạo đức, tham gia các hoạt
động trộm cắp, gây rối trật tự an ninh xã hội. Không thể đánh đồng tất cả người nghèo,

tuy nhiên đây là vấn đề cần được nêu lên như một luận cứ cho sự tiêu cực do bất bình
đẳng mang lại.

PHẦN 3: CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ

1. Chính sách an sinh xã hội tại Việt Nam
An sinh xã hội là hệ thống các chính sách và chương trình do Nhà nước và các

lực lượng xã hội thực hiện nhằm đảm bảo người dân ít nhất có được mức tối thiểu về
thu nhập, có cơ hội tiếp cận ở mức tối thiểu về các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu, như
giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin,... thông qua việc nâng cao năng lực tự an
sinh của người dân và sự trợ giúp của Nhà nước.

Downloaded by Yen Nguyen ()

lOMoARcPSD|38837747

Theo quan niệm của Liên hợp quốc, hệ thống ASXH bao gồm: Hệ thống bảo
hiểm xã hội (hưu trí, bảo hiểm y tế, chế độ trợ cấp, BHXH ngắn hạn), hệ thống trợ giúp
xã hội (trợ cấp xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ xã hội nhóm yếu thế…), hệ thống trợ cấp xã
hội chung (trợ cấp gia đình, dịch vụ y tế cơng cộng, trợ cấp người cao tuổi…), hệ thống
trợ cấp tư nhân.

Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, toàn diện, từng bước mở rộng diện
bao phủ, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư
trong một thế hệ và giữa các thế hệ đang là đích đến của các quốc gia trên thế giới. Theo
đó, chính sách an sinh xã hội cần tập trung vào 4 nội dung chính: Một là, tăng cường cơ
hội có việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu và giảm nghèo bền vững cho người lao động
yếu thế thông qua hỗ trợ cá nhân và hộ gia đình phát triển sản xuất, hỗ trợ tín dụng, giải
quyết việc làm và kết nối thông tin thị trường lao động. Hai là, mở rộng cơ hội cho

người lao động tham gia hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp để
chủ động đối phó khi thu nhập bị suy giảm hoặc bị mất do các rủi ro, ốm đau, tai nạn
lao động, tuổi già. Ba là, hỗ trợ thường xun đối với người có hồn cảnh đặc thù và hỗ
trợ đột xuất cho người dân khi gặp các rủi ro không lường trước hoặc vượt quá khả năng
kiểm sốt (mất mùa, thiên tai, động đất, chiến tranh, đói nghèo,...) thông qua các khoản
tiền mặt và hiện vật do ngân sách nhà nước bảo đảm. Bốn là, tăng cường tiếp cận của
người dân đến hệ thống dịch vụ xã hội cơ bản, như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và
vệ sinh môi trường, thông tin.

Ở Việt Nam, ngay từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Đảng và
Nhà nước ta đã có định hướng phát triển hệ thống an sinh xã hội bảo đảm thực hiện
ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của người dân, phù hợp với trình độ phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước và tiếp cận dần với chuẩn mức quốc tế. Từ khi thực hiện đường
lối đổi mới đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng các chính sách an
sinh xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để ổn định chính trị - xã hội, phát
triển bền vững. An sinh xã hội được xác định nằm trong chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước. Bảo đảm an sinh xã hội là điều kiện để bảo đảm định hướng xã hội
chủ nghĩa cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường, phản ánh bản chất tốt đẹp của
chế độ ta.

Thành tựu trong chính sách an sinh xã hội tại Việt Nam
Thứ nhất, bảo đảm an sinh xã hội gắn với tiến bộ và phát triển xã hội, với thành

tựu phát triển kinh tế trong bối cảnh kinh tế thị trường. Đảng và Nhà nước coi trọng
công tác bảo đảm an sinh xã hội, phát triển song song việc thúc đẩy an sinh xã hội với
đầu tư phát triển kinh tế. Quan tâm đầu tư cho vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, các huyện nghèo, xã, thơn, bản đặc biệt khó khăn, xã bãi ngang ven biển, hải đảo,
theo đó nhiều chính sách về an sinh xã hội được ban hành. Nhà nước ban hành nhiều
chương trình xóa đói giảm nghèo, xây dựng Nơng thơn mới thu về được kết quả đáng
kể.


Downloaded by Yen Nguyen ()

lOMoARcPSD|38837747

Thứ hai, hệ thống pháp luật từng bước được hoàn thiện để bảo đảm quyền an
sinh xã hội cho mọi người dân. Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên khẳng định quyền an
sinh xã hội cơ bản cho người dân (Điều 34: “Cơng dân có quyền được bảo đảm an sinh
xã hội”; Điều 59: “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để cơng dân thụ hưởng phúc lợi
xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội”). Bộ Luật Lao động sửa đổi (năm 2012) tiếp
tục phát triển thị trường lao động, tăng cường điều kiện hoạt động của các đối tác tham
gia thị trường lao động (Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức môi giới trung gian và
người lao động); tăng cường hỗ trợ của Nhà nước đối với người lao động yếu thế trên
thị trường thơng qua các chính sách hỗ trợ tạo việc làm. Luật Việc làm (ban hành lần
đầu, năm 2013) lần đầu tiên Việt Nam có Bộ Luật hướng đến khu vực kinh tế phi chính
thức; tiếp tục mở rộng cơ hội cho người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp (mọi
lao động làm việc trong các doanh nghiệp có hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên đều
bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp). Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi (năm 2013) chuyển
từ bao phủ toàn dân sang bảo hiểm y tế bắt buộc đối với toàn bộ dân cư; mở rộng sự
tham gia của người dân vào bảo hiểm y tế; mở rộng đối tượng được Nhà nước bảo hộ
một phần và toàn phần để tham gia bảo hiểm y tế. Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi (năm
2014) mở rộng diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động làm việc
có hợp đồng từ 1 tháng trở lên; tăng cường chế tài đối với việc trốn đóng bảo hiểm xã
hội; hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện theo hướng linh hoạt và phù hợp với
điều kiện về việc làm và thu nhập của lao động trong khu vực phi chính thức; đề xuất
giải pháp khuyến khích người lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã
hội; hiện đại hóa cơng tác quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội.

Thứ ba, đầu tư của Nhà nước cho an sinh xã hội ngày càng tăng. Nếu như năm
2012 tổng chi cho an sinh xã hội bằng 5,88% GDP thì đến năm 2015 con số này tăng

lên khoảng trên 6,6% GDP. Thực hiện hiệu quả các chính sách xã hội từ nhiều nguồn
lực trong đó các nguồn lực chính là nguồn lực nhà nước, nguồn lực từ bên ngồi (như
nguồn ODA, các chương trình viện trợ khơng hồn lại của nước ngồi), nguồn lực xã
hội từ các doanh nghiệp, tổ chức và nguồn lực từ trong nhân dân.

Thứ tư, Việt Nam đã đạt và vượt thời gian hoàn thành nhiều mục tiêu phát triển
Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Đến cuối năm 2014, tỷ lệ nghèo theo chuẩn Quốc gia
còn dưới 6%; đời sống của người dân, nhất là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số
và các đối tượng yếu thế được cải thiện và nâng cao. Đa số người dân có việc làm, tỷ lệ
thất nghiệp thấp, dưới 2%; tỷ lệ người lao động tham gia bảo hiểm xã hội đạt trên 20%,
tham gia bảo hiểm thất nghiệp đạt 17%. Đa số người lao động đã tiếp cận được y tế cơ
sở, tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế trên 71,6%; khoảng 3% người có hồn cảnh đặc biệt
khó khăn được hỗ trợ tiền mặt hằng tháng và các hình thức khác; cơ bản hoàn thành phổ
cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, cấp tiểu học và trung học cơ sở; tình trạng nhà ở,
nước sạch và thơng tin được cải thiện đáng kể.(Số liệu năm 2015).

Thứ năm, những năm gần đây, Nhà Nước đã thực hiện áp dụng chuyển đổi số
trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo
hiểm; bảo đảm việc cập nhật khai thác và kết nối liên thông cơ sở dữ liệu quốc gia với
các bộ, ngành, địa phương để chia sẻ, sử dụng, phục vụ người dân... Bên cạnh đó, việc

Downloaded by Yen Nguyen ()

lOMoARcPSD|38837747

xây dựng, vận hành hệ thống thông tin giám định BHYT không chỉ góp phần nâng cao
hiệu quả, hiệu suất cơng tác giám định BHYT, mà cịn thúc đẩy thay đổi quy trình khám,
chữa bệnh tại cơ sở y tế, mang lại những hiệu quả thiết thực cho người bệnh. Mới đây
nhất, ngành BHXH đã đưa vào triển khai ứng dụng “VssID - BHXH số” trên hệ thống
điện thoại thông minh. Thông qua sản phẩm thuộc hệ sinh thái chuyển đổi số của ngành

BHXH, người dân, người lao động có thể trực tiếp theo dõi, giám sát việc đóng BHXH,
BHYT, bảo hiểm thất nghiệp và được cung cấp nhiều dịch vụ tiện ích, có thể thực hiện
các giao dịch với cơ quan BHXH tại bất cứ đâu và bất kỳ lúc nào.

2. Hạn chế về chính sách an sinh xã hội
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu, nhưng Đảng và Nhà Nước vẫn cịn nhiều hạn

chế cho chính sách an sinh xã hội ở nước ta, cụ thể:
Thứ nhất, công tác quản lý anh sinh xã hội tại Việt Nam vẫn còn nhiều yếu kém,

chưa toàn diện, chưa bắt kịp với các quốc gia trong khu vực nói riêng và thế giới nói
chung. Quy trình hành chính cịn q phức tạp, nặng nề gây trở ngại cho cả người dân
lẫn cán bộ. Các chủ trương về an sinh xã hội từ Trung ương thì đúng, nhưng đến cấp
địa phương thì khơng đạt u cầu, khơng minh bạch. Nhiều chính sách khơng bám sát
với thực tiễn người dân. Nhà nước chưa có hoạt động khảo sát thực tiễn thay cho các
chương trình khảo sát lấy số liệu thống kê, dẫn đến chưa thực sự nắm bắt được nhu cầu,
mong muốn của dân, nhất là người nghèo ở khu vực nông thôn, miền núi, hải đảo. Một
số văn bản vừa ban hành chưa kịp đi vào thực tiễn đã phải điều chỉnh, bổ sung gây
hoang mang cho người dân, mất thời gian trong việc phổ cập điều luật. Nhà nước định
hướng xem ASXH ngang tầm với phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng nhưng thực tế
chưa thấy được điều đó

Thứ hai, đội ngũ cán bộ lĩnh vực ASXH cịn thiếu sót trong kỹ năng, chun mơn
nghề nghiệp yếu. Nhân lực yếu trong khâu sáng tạo, chất lượng quản lý không theo kịp
với sự phát triển của xã hội. Đặc biệt còn tồn tại những biểu hiện quan liêu, xa dân, làm
việc thiếu minh bạch, còn sai phạm.

Thứ ba, chất lượng của bản thân dịch vụ ASXH chưa cao, nhất là các dịch vụ
bảo hiểm, y tế. Hệ thống ASXH chưa bao phủ toàn diện các lĩnh vực, đối tượng tham
gia còn hẹp. Tỷ lệ lực lượng lao động tham gia BHXH còn thấp do các giải pháp mở

rộng đối tượng chưa thật sự hiệu quả, đặc biệt là đối với các đối tượng lao động ở khu
vực kinh tế phi chính thức. Quỹ BHXH chưa bền vững. Quy mô và chất lượng cung cấp
dịch vụ xã hội cơ bản chưa cao, nhất là tại các vùng nông thôn, miền núi, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số.

Kiến nghị
Đối với việc hoàn thiện chính sách an ninh xã hội, theo em, Đảng và Nhà Nước

có vai trị quan trọng hàng đầu. Đầu tiên, Nhà nước là đầu tàu định hướng phát triển
ASXH, sau là có nhiệm vụ kêu gọi, thực hiện chính sách truyền thông kết nối người
dân, nhất là người nghèo thuộc khu vực nông thôn tham gia vào hệ thống ASXH. Do
đó, em xin đưa ra những kiến nghị sau:

Downloaded by Yen Nguyen ()

lOMoARcPSD|38837747

Thứ nhất, Đảng và Nhà nước cần chuyển đổi từ nhận thức đến hành động ý kiến
“Xem việc thúc đẩy ASXH ngang tầm với phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh quốc
phòng”. Để được như vậy, cần triển khai tốt và nhanh chóng Quyết định số 794/QĐ-
TTg, ngày 3-6-2020 về “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định
hướng đến năm 2030”, nhằm chuyển đổi số thành công trong lĩnh vực y tế; đưa chủ
trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực ASXH
thành chương trình hành động của tất cả các bộ, ngành, địa phương một cách thực chất,
hiệu quả.

Thứ hai, hoàn thiện thể chế ASXH trong kỷ nguyên số nhằm tạo ra mạng lưới
ASXH đa dạng, phong phú, sát hợp thực tiễn, phù hợp thơng lệ quốc tế. Hồn thiện
pháp luật an sinh số, hành lang pháp lý, thúc đẩy mọi tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp
trong và ngoài nước tham gia vào phát triển ASXH. Thúc đẩy sự phát triển của công

nghiệp an sinh hay công nghệ an sinh như một giải pháp để phát triển hệ thống ASXH
hiệu quả.

Thứ ba, thực hiện đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đầu tư cho nhân
lực và hoạt động quản lý chính sách ASXH.

Thứ tư, đẩy mạnh các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm công khai,
minh bạch hoạt động ASXH của những chủ thể có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ được
giao, nhanh chóng phát hiện để kịp thời xử lý và điều chỉnh đúng theo các quy định của
pháp luật.

Thứ năm, Nhà nước cần quan tâm đến cơng tác giáo dục, tun truyền chính sách
ASXH trên các phương tiện truyền thơng đại chúng, trong đó cân nhắc đến yếu tố tác
động của các phương tiện truyền thơng mới. Thực hiện chính sách kêu gọi người dân
nâng cao hiểu biết về chương trình ASXH, nhất là người nghèo thuộc khu vực nông
thôn.

KẾT LUẬN

Để thực hiện giảm thiểu bất bình đẳng giữa người nghèo và nhóm giàu, thành thị và
nơng thơn, chính sách ASXH là yếu tố cần được quan tâm phát triển. Có thể thấy, ASXH
tác động to lớn đến đời sống xã hội của người dân. Với điều kiện phát triển của nước ta
hiện nay, chính sách ASXH cần được chú trọng hơn nữa khơng chỉ trên lý thuyết à còn
trong thực tiễn đời sống. Làm rõ sự bất bình đẳng, những tiêu cực khi chịu sự bất bình
đẳng của người nghèo ở nơng thơn là cách để chúng ta - những người không là cơ quan
có thẩm quyền nhận thức được tầm quan trọng của ASXH. Qua đó, đề xuất cho Đảng
và Nước những biện pháp khắc phục hạn chế trong hệ thống an sinh nước nhà. Và thực
hiện tiểu luận lần này cũng để đi đến kết luận đã nhắc tới trong bài rằng: Để thu hẹp
khoảng cách bất hình đẳng, chúng ta cần hành động thay vì chỉ định hướng chủ trương
“Xem phát triển an sinh xã hội ngang tầm với phát triển kinh tế và an ninh quốc phòng”,

bởi thực tế cuộc sống và những bất công của người nghèo ở khu vực nơng thơn hiện tại
chưa cho thấy điều đó.

Downloaded by Yen Nguyen ()

lOMoARcPSD|38837747

Tài liệu tham khảo
1. Trang Thông tin điện tử Tổng cục Thống kê, Xu hướng bất bình đẳng trong
phân phối thu nhập ở Việt Nam giai đoạn 2016-2020. Truy cập ngày 14/7/2022
tại www.gso.gov.vn
2. Trang Thông tin điện tử Tổng cục Thống kê, Chi tiêu cho giáo dục, đào tạo
của các hộ gia đình ở Việt Nam trong những năm gần đây, truy cập ngày
14/7/2022 tại www.gso.gov.vn
3. Bộ lao động - thương binh và xã hội (2013), Hồn thiện chính sách an sinh xã
hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, truy cập
ngày 15/07/2022 tại i/VHLFg
4. Oxfam International, Thu hẹp khoảng cách: Cùng giảm bất bình đẳng ở Việt
(Slide 12.24.27), truy cập ngày 15/07/2022 tại i/ocPUZ
5. Nguyễn Tiến Hùng (2022), An sinh xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi
số, Tạp chí Cộng Sản, truy cập ngày 16/7/2022 tại
/> /2018/824971/an-sinh-xa-hoi-o-viet-nam-trong-thoi-ky-chuyen-doi-so.aspx
6. Dương Chí Thiện (2014), Bất bình đẳng giữa đơ thị và nông thôn trong tiếp
cận giáo dục ở Việt Nam, truy cập gày 16/7/2022 tại
/>
Downloaded by Yen Nguyen ()

lOMoARcPSD|38837747

Câu 3: Phân tích chính sách về an sinh xã hội ở Việt Nam và kiến nghị:

Chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam:

Downloaded by Yen Nguyen ()

lOMoARcPSD|38837747

Kiến nghị

Kinh nghiệm thế giới cho thấy, tăng trưởng nhanh không nhất thiết phải bất bình đẳng
lớn; ngược lại, tăng trưởng và cơng bằng có thể đi cùng với nhau. Thực tế là nhiều nước đã có
thể duy trì tăng trưởng cao mà khơng làm tăng bất bình đẳng quá lớn như Nhật Bản, Đài Loan
và Hàn Quốc. Các chính sách và giải pháp không những chỉ hướng tới việc phân phối lại thu
nhập và của cải, mà xa hơn là mở rộng khả năng tiếp cận cho những nhóm người tụt lại phía
sau đến với các cơ hội và nguồn lực phát triển để giúp họ tạo công ăn việc làm và thu nhập.
Tuy nhiên, những giải pháp có thể tạo ra những xung đột và thường có những tác động tiêu
cực. Việt Nam cần nghiên cứu kỹ lưỡng tính ưu việt của mỗi phương án và điều chỉnh, thiết kế
chính sách sao cho phù hợp với hồn cảnh riêng của mình. Thứ nhất, cần xây dựng và thực
hiện mơ hình tăng trưởng cơng bằng và vì người nghèo. Mơ hình này phải đảm bảo thu nhập
của người nghèo tăng nhanh hơn so với thu nhập trung bình của xã hội và góp phần giảm nhanh
tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn quy định. Trong mơ hình này cần phát huy vai trị của khu vực tư
nhân trong đầu tư tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động, tạo việc làm và mở rộng sự tham
gia của các đối tác xã hội vào công cuộc xóa đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, mơ hình tăng trưởng
phải vừa đảm bảo duy trì tốc độ tăng trưởng cao, ổn định, vừa phải đạt được trên diện rộng có
lợi cho người nghèo. Hơn nữa, trong q trình tăng trưởng kinh tế, cần kiểm soát thường xuyên,
chặt chẽ các chỉ tiêu phát triển xã hội, trong đó trọng tâm là xố đói giảm nghèo và giảm bất
bình đẳng, và nhấn mạnh ngày càng nhiều hơn đến yêu cầu giải quyết các nội dung này trong
các chính sách và giải pháp tăng trưởng. Thứ hai, các chính sách của Nhà nước phải hướng vào
việc khuyến khích và tạo cơ hội để người nghèo và các nhóm yếu thế tham gia hưởng lợi từ
tăng trưởng kinh tế. Điều này có thể thực hiện qua các chính sách trợ giúp về phát triển cơ sở
hạ tầng phục vụ sản xuất, đất đai, vốn tín dụng, khuyến nơng, tiêu thụ sản phẩm. Người nghèo

và các nhóm yếu thế cũng cần được tạo cơ hội được tham gia và có tiếng nói của mình đối với
các hoạt động lập kế hoạch phát triển kinh tế, giảm nghèo cho bản thân và địa phương. Cải
cách thị trường lao động và chính sách tạo việc làm theo hướng linh động theo ngành và địa lý
để tăng cơ hội cho người nghèo và nhóm yếu thế từ những tỉnh nghèo, vùng nghèo tham gia
vào thị trường lao động. Trong thời gian tới, nông thôn vẫn tiếp tục là nơi sinh sống của đại bộ
phận người dân Việt Nam, đặc biệt là người nghèo. Vì vậy khu vực nơng thơn cần được đầu tư
thích đáng về cơ sở hạ tầng để người nơng dân có thể tăng được năng suất và giá trị cho các
sản phẩm nông nghiệp. Những biện pháp bao gồm việc đầu tư và nâng cấp hệ thống giao thông,
liên lạc, bảo quản, chế biến sau thu hoạch để kết nối khu vục nông thôn với thị trường rộng lớn
hơn. Nhà nước cần phải khuyến khích phát triển ngành cơng nghiệp, dịch vụ và các doanh
nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn để tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho nông dân. Thứ ba,
đảm bảo người dân được chia sẻ thành quả của sự phát triển bằng cách quan tâm tới ba lĩnh
vực trọng yếu: giáo dục, y tế và lưới an sinh xã hội. Đối với vấn đề giáo dục, Nhà nước đảm
bảo cho tất cả mọi Chương 2: Bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam và các khuyến nghị chính
sách - 62 - người dân tiếp cận đối với giáo dục có chất lượng. Với cấu trúc dân số như hiện
nay, lượng học sinh đến tuổi đi học ở các cấp trong thời gian tới sẽ tương đối ổn định nên hệ
thống giáo dục có cơ hội để tăng cường chất lượng mà không phải chịu sức ép quá tải. Bên
cạnh đó, hệ thống giáo dục - đào tạo cần chú trọng tới hoạt động dạy nghề và rèn luyện kỹ năng
để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp và tạo công ăn việc làm cho người dân. Đối với vấn
đề y tế, hệ thống y tế với chi phí vừa phải sẽ giúp nhiều gia đình tránh được “bẫy nghèo” do
chi phí y tế quá cao và mất thu nhập khi gia đình có người ốm. Nhà nước phải dành ưu tiên cao
nhất cho việc cung cấp đủ y, bác sĩ, các thiết bị y tế và nguồn tài chính cần thiết cho các trung
tâm y tế ở cấp cơ sở. Các bệnh viện và phòng khám phải được theo dõi và điều tiết bởi cả nhà
nước và các hiệp hội nghề nghiệp. Cung cấp lưới an sinh xã hội cho người nghèo và những đối
tượng dễ bị tổn thương bởi các cú sốc hay thăng trầm của nền kinh tế là điều kiện cần thiết để
đảm bảo mọi người dân được chia sẻ thành quả của phát triển, đồng thời cũng giúp cho sự phát
triển trở nên hài hòa và bền vững hơn. Do vậy, nhà nước cần cải cách chế độ bảo hiểm cho

Downloaded by Yen Nguyen ()


lOMoARcPSD|38837747

những người nghèo ở cả nông thôn và thành thị thông qua tài trợ bằng thu nhập từ thuế đánh
vào các nguồn tài sản như bất động sản, chứng khoán. Thực tế, khi mối quan hệ giữa tăng
trưởng và bất bình đẳng càng gắn kết thì vai trị của an sinh xã hội đối với quá trình tăng trưởng
và giảm bất bình đẳng cần đặc biệt chú trọng hơn. Thứ tư, cần có những chính sách cho vấn đề
di dân. Việc di dân từ nông thôn ra thành thị để cải thiện thu nhập là vấn đề phổ biến không chỉ
ở Việt Nam mà còn ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên cần phải nhìn nhận rằng vấn đề này
có cả mặt tích cực và tiêu cực. Do vậy, chính phủ cần phải thực hiện những chính sách có mục
tiêu dài hạn để hạn chế những mặt tiêu cực và bảo vệ những người di cư từ những rủi ro. Việt
Nam cần phải xóa bỏ những hạn chế tiếp cận dịch vụ cơng chính đáng của người nhập cư như
chế độ hộ khẩu vì chế độ này khơng cịn phục vụ các chức năng kinh tế hay xã hội như trước
đây nữa, mà trái lại đã trở thành một công cụ “hành dân”. Nhà nước cần nhanh chóng có giải
pháp cho tình trạng giá nhà đất cao một cách phi lý ở các đô thị. Giá nhà đất quá sức chịu đựng
sẽ khiến dân di cư đổ dồn về các khu nhà ổ chuột, chấp nhận chịu cảnh lụt lội, mất vệ sinh, ô
nhiễm và kém an ninh. Điều này tất yếu dẫn tới sự gia tăng bất mãn về mặt tinh thần và bệnh
tật về mặt thể chất. Do hầu hết lượng tăng dân số xuất hiện ở khu vực Chương 2: Bất bình đẳng
thu nhập ở Việt Nam và các khuyến nghị chính sách - 63 - đơ thị hay ven đô nên để đảm bảo
sự công bằng cho những người dân di cư này, chính phủ cần tạo cho họ có cơ hội được hưởng
một cuộc sống chấp nhận được. Thứ năm, để những kết quả phát triển kinh tế đi vào giải quyết
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, cần đầu tư nhiều hơn nữa và coi trọng hiệu quả cho phát
triển kinh tế và xã hội cho dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, nhằm tạo
điều kiện cho các vùng này phát triển, sớm giảm khoảng cách tụt hậu so với các vùng khác
trong cả nước. Đồng thời, phải thực hiện chương trình xố đói giảm nghèo riêng, có ưu tiên
trọng tâm, trọng điểm để giúp người dân tộc thiểu số và các đối tượng xã hội yếu thế sớm hoà
nhập vào cuộc sống chung của cộng đồng và tiến trình phát triển chung của đất nước. Thứ sáu,
Việt Nam cần phải cải cách chính sách phân phối tài sản, thu nhập và cơ hội phát triển trong
nền kinh tế theo hướng phải đảm bảo công bằng và hướng đến người nghèo. Đối với tiếp cận
nguồn lực cho phát triển kinh tế, cần sớm khắc phục tình trạng thiếu cơng bằng trong việc tiếp
cận và sử dụng nguồn lực, đặc biệt là các tập đồn kinh tế, các tổng cơng ty nhà nước đang dễ

tiếp cận và trên thực tế đang nắm giữ và sử dụng khối lượng nguồn lực rất lớn, nhưng kết quả
hoạt động đem lại không ngang tầm, thậm chí hiệu quả đang thấp nhất so với các loại hình
doanh nghiệp khác. Thực hiện tốt những điều chỉnh quyết liệt, cơng khai minh bạch đối với
“nhóm lợi ích” này là biện pháp hữu hiệu để sớm tạo ra sự bình đẳng thực sự giữa các chủ thể
kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực tế cho thấy, sự bình đẳng về cơ hội quan
trọng hơn sự bình đẳng về thu nhập nên Nhà nước cần bảo vệ các quyền đảm bảo cho mọi
người có cơ hội như nhau trong việc sử dụng cơ hội phát triển và đạt được thành công. Một khi
những quy tắc này được thiết lập, Nhà nước sẽ ít phải can thiệp để thay đổi kết quả phân phối
thu nhập. Bên cạnh đó, Nhà nước cần đưa ra và áp dụng các biện pháp để hạn chế tình trạng
bất bình đẳng tài sản từ những hoạt động không phải từ sản xuất kinh doanh như: thực hiện bắt
buộc việc kê khai tài sản đối với cán bộ công chức; nghiên cứu và áp dụng các loại thuế thừa
kế, thuế tài sản, thuế đầu tư… trong thời gian tới. Cuối cùng, để thực hiện được tăng trưởng
kinh tế đi đôi với bảo đảm công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường, vai trị quản lý và
điều tiết vĩ mơ của Nhà nước là hết sức quan trọng. Nhà nước phải biết tận Chương 2: Bất bình
đẳng thu nhập ở Việt Nam và các khuyến nghị chính sách - 64 - dụng mặt mạnh của cơ chế thị
trường để giải phóng, phát triển sản xuất và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, Nhà nước
phải kết hợp sử dụng có hiệu quả các công cụ pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và
sức mạnh của khu vực kinh tế nhà nước để khắc phục những thất bại của cơ chế thị trường
nhằm thúc đẩy kinh tế tăng trưởng bền vững, bảo đảm công bằng xã hội và bảo vệ lợi ích chính
đáng của mọi tầng lớp nhân dân.

Downloaded by Yen Nguyen ()


×