Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Chủ trương ngoại giao “vừa đánh vừa đàm” trong kháng chiến chống Mỹ và bài học cho ngoại giao Việt Nam thời hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.68 KB, 12 trang )

Đề 7: Chủ trương ngoại giao “vừa đánh vừa đàm” trong kháng chiến chống Mỹ
và bài học cho ngoại giao Việt Nam thời hội nhập

Mục Lục

trang
A. Mở đầu:...................................................................................................................1
B. Cơ sở lý luận:..........................................................................................................3

1. Làm rõ đánh và đàm, biểu hiện:.............................................................................3
2. Bước chuyển biến của ngoại giao VN:..................................................................4
C. Vận dụng:................................................................................................................5
1. Chủ trương “ vừa đánh vừa đàm” trong cuộc kháng chiến chống Mỹ :................5
2. Bài học kinh nghiệm dành cho Việt Nam trong thời kỳ hội nhập:........................8
3. Cơ hội và thách thức của ngoại giao Việt Nam ngày nay:.....................................9
D. Kết luận:................................................................................................................11
E. Tài liệu tham khảo:..............................................................................................12

A. Mở đầu:

Trong thời đại đầy biến động hiện nay, vai trò của ngoại giao trở nên ngày càng
quan trọng, đặc biệt là khi các quốc gia phải đối mặt với những thách thức toàn cầu.
Trên hành trình lịch sử của mình, Việt Nam đã chứng minh sự quan trọng của chiến
lược "vừa đánh vừa đàm" trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Chủ trương ngoại
giao "vừa đánh vừa đàm" khơng chỉ là một di tích lịch sử, mà còn là bức tranh tuyệt
vời về sự linh hoạt, sáng tạo và khả năng đối mặt với những thử thách đầy tính biến
động.

Chúng ta sẽ bắt đầu hành trình của mình bằng việc khám phá nguồn gốc của chủ
trương này, từ những ngày đầu đấu tranh cho tự do cho đến những thời kỳ khó khăn
nhất trong lịch sử dân tộc. Qua đó, chúng ta sẽ nhìn rõ hơn vào bối cảnh xã hội và


tình hình thế giới đã tạo ra một chiến lược đặc biệt, nơi mà quân sự và đàm phán
không chỉ là cách đối mặt với kẻ thù, mà còn là cách kiến tạo và duy trì mối quan hệ
quốc tế.

Tiếp theo, chúng ta sẽ tìm hiểu về những bài học mà ngoại giao Việt Nam có thể
rút ra từ quãng thời gian khó khăn này và cách chúng có thể được áp dụng trong bối
cảnh toàn cầu hóa và sự đa dạng hóa ngày nay. Chủ trương "vừa đánh vừa đàm"
không chỉ là một công cụ quyết định trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, mà còn là
một nguồn động viên để tạo ra sự cân bằng tối ưu giữa quốc gia và cộng đồng quốc
tế.

Ngày nay, một trật tự thế giới mới đang được hình thành, mối quan hệ quốc tế
chồng chéo, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trở nên phức tạp, trong đó có việc tranh
chấp ở biển Đơng liên quan đến quyền lợi của Việt Nam. Những tình thế thay đổi,
những mối quan hệ mới, và những đối tác đa dạng đều tạo nên một bức tranh phức
tạp đòi hỏi sự sáng tạo và linh hoạt khơng ngừng từ phía ngoại giao Việt Nam. Vì
vậy, hoạt động ngoại giao ở các quốc gia trên thế giới nói chung, hoạt động ngoại
giao của Việt Nam nói riêng ngày càng giữ vai trị quan trọng.

Để phát huy tối đa sức mạnh và vai trị của cơng tác ngoại giao trong tình hình
mới, việc nghiên cứu về ngoại giao và học hỏi kinh nghiệm trong đấu tranh ngoại
giao của các nước trên thế giới cũng như của lịch sử dân tộc là việc làm hết sức cần
thiết. Đây chính là lý do em chọn đề tài tiểu luận “ Chủ trương ngoại giao “vừa đánh
vừa đàm” trong kháng chiến chống Mỹ và bài học cho ngoại giao Việt Nam thời hội
nhập”.

B. Cơ sở lý luận:
1. Làm rõ đánh và đàm, biểu hiện:

"Vừa đánh vừa đàm" là một chiến lược ngoại giao đặc trưng của Việt Nam trong

thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Chiến lược này có thể hiện thực hóa tinh thần linh
hoạt và sáng tạo bằng cách tiếp cận đối tác quốc tế, đặc biệt là trong bối cảnh chiến
tranh

Chủ trương ngoại giao "vừa đánh vừa đàm" thường là chiến lược linh hoạt và toàn
diện mà một quốc gia sử dụng để bảo vệ và đạt được lợi ích chính trị, kinh tế, cũng
như đảm bảo an ninh quốc gia. Ở mức độ "đánh," quốc gia này sẵn sàng sử dụng sức
mạnh quân sự để giải quyết mọi vấn đề an ninh và bảo vệ lợi ích cơ bản. Tuy nhiên,
đồng thời, ở mức độ "đàm," quốc gia này cũng tập trung vào các biện pháp ngoại
giao như đàm phán, hòa giải, và hợp tác quốc tế để giải quyết mâu thuẫn một cách
hịa bình.

Chiến lược này bao gồm sự kết hợp linh hoạt giữa sức mạnh quân sự và sự thông
qua ngoại giao. Quân sự được sử dụng một cách linh hoạt, tùy thuộc vào tình hình cụ
thể, với mục tiêu chính là đảm bảo an ninh và lợi ích quốc gia. Trong khi đó, ngoại
giao là cơng cụ chủ chốt để tìm kiếm giải pháp hịa bình, xây dựng quan hệ quốc tế
tích cực, và tối đa hóa lợi ích từ hợp tác quốc tế. Chủ trương này thể hiện sự sáng tạo
trong quản lý mối quan hệ quốc tế và thích ứng linh hoạt với biến động của thế giới.

* Biểu hiện:

Trong Hiệp định Paris 1973, chiến lược "vừa đánh vừa đàm" của Việt Nam có thể
làm rõ thơng tin qua sự hoạt động và phi quan trong quá trình đàm phán. Đạt được sự
đồng ý này không chỉ là kết quả của sức mạnh quân sự mà còn là sản phẩm khả năng
quản lý mối mối quan hệ quốc tế và tìm kiếm giải pháp hịa bình.

Đầu tiên, qút định bắn súng có thể thực hiện "vừa chiến đấu" bằng cách giảm
nhẹ gánh nặng của cuộc chiến tranh, mở đường cho cuộc nói chuyện. Việc này khơng
chỉ là biểu hiện của sự tự chủ mà còn là sự khẳng định rõ ràng về sự kiểm soát của
Việt Nam đối với quá trình đàm phán hịa bình.


Làm thế nào Việt Nam duy trì được lập trường hiển quyết cũng là một điểm quan
trọng. Trong khi đã chấp nhận cú bắn, Việt Nam vẫn giữ vững môi trường về quyền
tự quyết và tự giác trong quốc tế. Điều này khơng chỉ là sự qút định mà cịn là cách
Việt Nam khéo léo giữ vững quyền lợi của mình trong quá trình đàm phán.

Một khía cạnh khác của chiến lược này là lựa chọn thơng minh giữa chiến tranh và
hịa bình. Việc tham gia vào cuộc đàm phán khơng chỉ giúp giảm bớt nỗi đau của
cuộc tranh chấp mà còn tạo cơ hội để kiểm soát quyết định và tìm kiếm giải pháp hịa
bình. Điều này có thể hiện thực hóa thơng minh trong cơng việc quản lý mối quan hệ
quốc tế và thích hợp với tình hình biến động.

Bảo vệ quyền lợi quốc tế và nội địa là một mặt khác của "vừa chiến vừa đàm."
Việc đàm phán giúp Việt Nam nắm giữ cách tư vấn và lựa chọn tương lai một cách tự
chủ. Điều này có thể nâng cao tầm quan trọng của cơng việc duy trì sự hoạt động và
khả năng thích ứng trong quá trình xây dựng hịa bình.

2. Bước chủn biến của ngoại giao VN:

Bước chuyển biến của ngoại giao Việt Nam từ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đến
thời kỳ hội nhập được định hình chủ yếu bởi những chủ trương và đường lối mà
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra. Nhưng chủ yếu tập trung vào chủ trương "vừa
đánh vừa đàm." Đảng đã xác định những nguyên tắc và hướng đi quan trọng, mà đến
nay, vẫn là nguồn cảm hứng cho ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.

Khi chủ trương mở mặt trận đấu tranh ngoại giao, Đảng ta đã khẳng định: “ Đấu
tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng
lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta chỉ
có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta đã giành được trên chiến
trường. Tuy nhiên đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh

trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế hiện nay, đối với tính chất cuộc đấu
tranh giữa ta và địch, cuộc đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực
và chủ động ”. Thực tế cuộc kháng chiến cho thấy, quân và dân ta từ sau tổng tiến
công và nổi dậy Mậu thân 1968 nhờ phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa hoạt động
quân sự và đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, kết hợp với cuộc chiến đấu
trên chiến trường với cuộc đấu tranh trên trường quốc tế và trong lòng nước Mỹ.
Quân và dân ta đa từng bước giành được thắng lợi to lớn buộc quân Mỹ phải xuống
thang chiến tranh ở miền Nam từng bước rút quân chiến đấu về nước, chấm dứt ném
bom miền Bắc.

Cơ chế và cục diện “ vừa đánh vừa đàm”, được mở ra từ sau hội nghị Paris nhóm
họp, chính là sự phản ánh sinh động phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu
tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao, đã phát huy cao độ sức mạnh của dân tộc và sức
mạnh của thời đại, đã từng bước đánh thắng địch, buộc chúng phải xuống thang chiến
tranh, chấp nhận thương lượng và ký kết theo những điều kiện của ta. Mỹ đã thất bại

trong mưu đồ đàm phán trên thế mạnh không ép buộc được ta phải chấp nhận những
điều kiện do Mỹ đặt ra mặc dù chúng có sức mạnh quân sự vượt trội. Vì thế việc phải
đặt bút ký vào hiệp định Paris phải rút hết quân về nước, trong khi đó lực lượng bộ
đội miền Bắc vẫn ở lại miền Nam sau hiệp định có hiệu lực là một thất bại lớn Mỹ.
Thể hiện một cách rõ rệt nhất thất bại của Mỹ trên chiến trường hai miền Nam, Bắc
Việt Nam.

Chủ trương "vừa đánh vừa đàm" phản ánh sự linh hoạt và sáng tạo của Đảng trong
chiến lược ngoại giao. Thay vì tập trung hoàn toàn vào quân sự, Việt Nam lựa chọn
sự kết hợp giữa chiến tranh và đàm phán hịa bình. Điều này thể hiện sự nhận thức
rằng giải pháp quân sự không thể hoàn toàn giải quyết mọi vấn đề và cần có các
phương tiện đàm phán để đạt được hịa bình. Đảng đã chủ động tham gia vào các nỗ
lực đàm phán quốc tế, như cuộc hội đàm Paris, để tìm kiếm giải pháp hịa bình. Bằng
cách này, Việt Nam khơng chỉ chứng minh sự qút tâm đạt được hịa bình mà cịn

tạo dựng hình ảnh tích cực trên trường quốc tế. Chủ trương này cũng nhấn mạnh sự
quan tâm đối với việc bảo vệ quyền lợi của Việt Nam không chỉ trên đấu trường quốc
tế mà còn trong nội địa. Điều này đồng nghĩa với việc đảm bảo sự tự chủ và quyền tự
quyết của Việt Nam trước các áp lực ngoại vi và nội bộ.

C. Vận dụng:
1. Chủ trương “ vừa đánh vừa đàm” trong cuộc kháng chiến chống Mỹ :

Chủ trương ngoại giao "vừa đánh vừa đàm" trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
đã chứng minh rằng sự linh hoạt và sáng tạo trong chiến lược ngoại giao có thể đem
lại những kết quả tích cực trong bối cảnh khó khăn nhất. Trong việc chống lại cuộc
xâm lược của Mỹ, Việt Nam không chỉ dựa vào sức mạnh quân sự mà còn tận dụng
khéo léo những biện pháp ngoại giao để tạo ra sự ủng hộ và hiểu biết từ cộng đồng
quốc tế.

Bài học quan trọng từ chủ trương "vừa đánh vừa đàm" là khả năng tích hợp giữa
chiến lược quân sự và ngoại giao. Trong thời kỳ đối mặt với sự khắc nghiệt của cuộc
chiến tranh, Việt Nam đã thấy rõ sự quan trọng của việc duy trì sức mạnh quân sự để
bảo vệ quyền lợi quốc gia. Tuy nhiên, đồng thời, thông qua các biện pháp ngoại giao,
Việt Nam đã nỗ lực tìm kiếm sự hỗ trợ và thấu hiểu từ cộng đồng quốc tế. Điều này
đã tạo nên một chiến lược toàn diện, đồng bộ và linh hoạt.

Việc tận dụng sự đồng lịng quốc tế thơng qua các biện pháp ngoại giao đã giúp
Việt Nam xây dựng hình ảnh tích cực và tạo lịng tin từ cộng đồng quốc tế. Ngoại

giao không chỉ là một công cụ để giảm thiểu áp lực quân sự mà còn là cầu nối để kết
nối với các quốc gia khác và tìm kiếm hỗ trợ chung. Điều này đã đặt nền móng cho
sự hiểu biết và đồng cảm quốc tế đối với cuộc chiến tranh của Việt Nam.

"Vừa đánh vừa đàm" khơng chỉ là chiến lược qn sự mà cịn là cơng cụ quảng bá

chính sách. Nó có thể hiện thực hóa cơng việc giới thiệu, bảo vệ và đưa ra các trường
quốc tế của Việt Nam. Việc thực hiện chiến lược này cũng đưa ra thông điệp cho
cộng đồng quốc tế rằng Việt Nam là một quốc gia đáng tin cậy và khơng ngừng tìm
kiếm giải pháp hịa bình. "Vừa chiến vừa đàm" thích ứng linh hoạt với tình hình biến
động của chiến trường và đồng thời cũng phản ánh ánh sáng vào công việc quản lý
mối quan hệ quốc tế. Sự đa dạng trong chiến lược này cho phép Việt Nam tận dụng
tất cả các nguồn lực và cơ hội để đạt được mục tiêu quốc tế của mình.

Chủ trương "vừa đánh vừa đàm" trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam
là một chiến lược độc đáo, tập trung vào việc sử dụng cả sức mạnh quân sự và ngoại
giao để đạt được mục tiêu cuối cùng là giành độc lập và tự do quốc gia. Cuộc đàm
phán giữa ông Lê Đức Thọ và ông Henry Kissinger tại Paris từ tháng 5 năm 1968 đến
tháng 1 năm 1973 là một biểu hiện điển hình của chiến lược này.

Trong bối cảnh căng thẳng của chiến tranh, Việt Nam không chỉ chọn lựa sự chủ
động trong chiến trường mà cịn tận dụng tình hình để mở ra cánh cửa đàm phán.
Cuộc đàm phán không chỉ là cơ hội để giảm căng thẳng và chấm dứt cuộc chiến
tranh, mà cịn là một cơng cụ ngoại giao linh hoạt để Việt Nam tìm kiếm sự hiểu biết
và hỗ trợ từ cộng đồng quốc tế, giảm thiểu thiệt hại và đạt được giải pháp tốt nhất
cho cả hai bên. Trong khi duy trì sự kiên nhẫn và sự chủ động trong cuộc đàm phán,
ông Lê Đức Thọ đã thể hiện rõ tư duy chiến lược và sự quyết liệt trong việc bảo vệ
quyền lợi quốc gia.

Chính sách đa hướng của Việt Nam trong quan hệ quốc tế được thể hiện rõ trong
cuộc đàm phán này. Bằng cách tích hợp sự ủng hộ từ nhiều đối tác quốc tế, Việt Nam
đã xây dựng một cộng đồng quốc tế ủng hộ mục tiêu hịa bình và tự do của mình, làm
tăng cường uy tín và ảnh hưởng quốc tế.

Mọi người chắc hẳn ai cũng đã từng nghe qua cái tên Henry Kissinger. Ông được
mệnh danh là cây đại vĩ cầm về địa chính trị của nước Mỹ. Tầm ảnh hưởng của ông

lớn đến nỗi sau khi nhận chức cựu tổng thống Mỹ Donald Trump đã phải nhờ tới cựu
ngoại trưởng Henry Kissinger tham vấn về vấn đề ngoại giao. Khi nhắc đến Việt
Nam Kissinger đã nói với Donald Trump rằng: “ Với người Mỹ nói riêng và thế giới
nói chung dân tộc Việt Nam là một dân tộc đặc biệt. Việt Nam là một dân tộc nhỏ bé,
nghèo nàn nhưng lại có một lịch sử chiến đấu chống ngoại xâm mà bất kể một dân

tộc nào trên thế giới cũng chưa từng phải trải qua. Kiên cường, bất khuất, thông
minh, cần cù, gan dạ, anh dũng, và nhân đạo là tất những gì có ở dân tộc này..... Với
vị thế và đường lối ngoại giao đặc thù như quốc gia này họ không liên minh tạo phe
phái gây bất lợi cho chúng ta”. Lời khuyên của Kissinger dành cho Donald Trump
cho ta thấy được vị thế của Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế lớn như thế nào.

Một người tài giỏi như ơng Kissinger nhưng ít ai biết Kissinger đã bị ông Lê Đức
Thọ đè bẹp trên bàn đàm phán kí kết hiệp định Paris năm 1973 như thế nào ? Chính
vào ngày 08/01/1973, sau khi Mỹ mang bom dải thảm trên bầu trời Hà Nội nhưng
thất bại. Điều đó khiến cho tổng thống Mỹ thời bấy giờ và các tướng lĩnh của ông
đành phải xuống nước ngồi vào bàn đàm phán Paris để chính thức rút quân ra khỏi
miền Nam Việt Nam. Bằng chính tài năng ngoại giao của mình, ơng Lê Đức Thọ đã
đưa ra những tun bố hùng hồn khiến cho ông Kissinger ám ảnh để rồi có những
chia sẻ rằng: “ Tơi có thể làm tốt hơn nếu như đối diện với tôi trên bàn đàm phán
không phải là ông Lê Đức Thọ, đàm phán với ông Thọ quá cân não”. Đây có thể coi
là một minh chứng sống cho tài ngoại giao của ông Thọ - một người khơng có tiếng
tăm gì trước khi ngồi vào bàn đàm phán với Kissinger. Để có được sự tự tin đó trên
bàn đàm phán lý do lớn nhất có lẽ đến từ chiến lược ngoại giao đúng đắn mà ta đề ra
từ suốt những năm 1968. Khi đó, đoàn Việt Nam chuẩn bị xuất phát lên đường sang
Paris, bí thư thứ nhất Trung ương Đảng Lê Duẩn đã dặn đồng chí Lê Đức Thọ rằng: “
Anh sang bây giờ sẽ là tư lệnh ở mặt trận ngoại giao. Làm thế nào thì làm, nhưng anh
phải đạt được điều kiện là Mỹ rút ra, quân ta ở lại. Tôi khơng chấp nhận bất cứ một
người lính nào rút ra khỏi miền nam Việt Nam”. Đây có lẽ chính là kim chỉ nam cho
mọi vấn đề để phái đoàn của ta biết cái nào có thể nhân nhượng và cái nào thì khơng.

Mấu chốt trong cuộc đàm phán tại Paris là buộc Mỹ phải chấp nhận sự có mặt của
Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam. Đây là việc chứng tỏ Mỹ đã thừa
nhận một thực tế ở miền nam rằng các tầng lớp nhân dân mà đại diện chân chính duy
nhất là Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam đang đứng lên để đấu tranh
chống lại sự có mặt của Mỹ và chính quyền thân Mỹ. Điều này bác bỏ luận điểm của
Mỹ là miền Bắc xâm lược miền Nam. Có được những thuận lợi như thế nhưng phái
đoàn Việt Nam mình khơng hề chủ quan bất cứ giây phút nào. Đó cũng chính là
những gì có thể giúp ta giành được lợi thế trên bàn đàm phán tại Paris để rồi khiến
nước Mỹ phải cúi đầu rút quân trong sự khâm phục. Và vào ngày 8/2/1973, Kissinger
có sang thăm Hà Nội được ơng Lê Đức Thọ tiếp đón tận tình. Lần này ông Thọ đưa
Kissinger đi thăm bảo tàng lịch sử, khi nghe giới thiệu về dân tộc ta đã từng 3 lần
đánh thắng qn Ngun thì ơng Kissinger đã phải thốt lên rằng: “ Với chúng tôi,
đánh nhau 1 lần với các ông cũng thấy quá đủ rồi”.

2. Bài học kinh nghiệm dành cho Việt Nam trong thời kỳ hội nhập:

Từ tiến trình lịch sử của quá trình kết hợp “vừa đánh, vừa đàm” trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, có thể rút ra một số bài học:

Đầu tiên, vai trị qút định thuộc về người đứng đầu có tư duy chiến lược vượt
trội. Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Lê Duẩn đã có những dự đoán sắc bén, xác
định lộ trình chiến lược đúng đắn, kết hợp phương thức “vừa đánh, vừa đàm” từ
trước khi Mỹ đưa quân vào miền Nam. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã khẳng
định: “Ta có Bác Hồ, có đồng chí Tổng Bí thư, có Bộ Chính trị làm Bộ Tham mưu
tối cao nhất của phong trào miền Nam”.

Thứ hai là, cần bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng trong quá
trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại. Cuộc đàm phán Paris là một cơng
việc quan trọng hàng đầu được Bộ Chính trị chỉ đạo sát sao. Khi cần thiết, đồng chí
lãnh đạo Đoàn đàm phán có thể về nước báo cáo, trình bày ý kiến và tiếp thu ý kiến

chỉ đạo của Bộ Chính trị.

Thứ ba là, phải bám sát thực tiễn trong nước và quốc tế để hoạch định, triển khai
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước một cách hiệu quả. Nghị quyết Hội
nghị Trung ương lần thứ 12 (tháng 12-1965) về quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (tháng 1-1967) về mở mặt trận
ngoại giao kết hợp đánh với đàm đều là thành quả khái quát từ lý luận đến thực tiễn
trong chiến trường cả trên hai miền Nam, Bắc và kinh nghiệm quốc tế.

Thứ tư là, độc lập tự chủ gắn liền với đoàn kết quốc tế là điều kiện tiên quyết để
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Ta đã độc lập tự chủ, chủ động mở
đầu đánh và đàm, và cũng chủ động kết thúc đàm và đánh. Nhờ vậy, đã hình thành
được mặt trận thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ cứu nước, tranh thủ tối đa sự ủng
hộ và giúp đỡ quốc tế, đồng thời phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của đất nước ở
cả hai miền Nam, Bắc. Sự ủng hộ quốc tế luôn là một sức mạnh to lớn để có được
một Việt Nam như ngày hơm nay.

Cuối cùng đó chính là phát huy thực lực ngoại giao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn
dặn, “chiêng có to thì tiếng mới lớn”, có nghĩa rằng, chúng ta phải nỗ lực xây dựng
thực lực vững mạnh toàn diện về kinh tế, quốc phòng, an ninh, khoa học - cơng nghệ
và văn hóa thì mới có thể hỗ trợ mạnh mẽ các hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại
giao nhà nước và đối ngoại nhân dân hiện nay.

Ngoại giao hiện đại không chỉ dựa trên sức mạnh quân sự mà còn phụ thuộc vào
khả năng xây dựng liên minh, tạo ra các cơ chế hợp tác và thương lượng thông qua

các cuộc gặp gỡ, diễn đàn quốc tế. Đồng thời, Việt Nam cũng có thể học hỏi từ
những cuộc kháng chiến thành cơng trong việc duy trì lịng kiên nhẫn, sự kiên trì và
linh hoạt trong chiến lược ngoại giao.


Chủ trương này không chỉ là về việc chấp nhận thực tế chiến tranh mà còn là
hướng tới mục tiêu hịa bình và hội nhập quốc tế. Điều này phản ánh ý chí của Đảng
xây dựng một Việt Nam tham gia tích cực vào cộng đồng quốc tế và hướng tới mối
quan hệ bền vững với các quốc gia trên thế giới.

3. Cơ hội và thách thức của ngoại giao Việt Nam ngày nay:
Ngoại giao Việt Nam ngày nay đối diện với một loạt thách thức và cơ hội đa dạng.

Một trong những thách thức quan trọng nhất là sự phức tạp của mối quan hệ quốc tế,
đặc biệt là trong bối cảnh căng thẳng giữa các cường quốc. Điều này đặt ra áp lực lớn
trong việc duy trì tình hữu nghị và cân nhắc giữa các đối tác lớn. Ngoài ra, thách thức
về biến đổi khí hậu và an ninh lương thực đang là những vấn đề quan trọng, yêu cầu
sự hợp tác quốc tế để tìm kiếm giải pháp bền vững.

Tính đến đại dịch COVID-19 và khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Việt Nam đang
phải đối mặt với khả năng ứng phó với những thách thức này và duy trì mối quan hệ
kinh tế quốc tế. Ngoại cảnh an ninh cũng đặt ra những thách thức đặc biệt, đặc biệt là
trên Biển Đơng, khiến cho việc duy trì chủ quyền và an ninh biển cả trở thành một ưu
tiên quan trọng. Việc này địi hỏi Việt Nam cần phải có sự linh hoạt trong ngoại giao
để có thể giải quyết mọi vấn đề một cách hịa bình khơng dẫn đến những xung đột
giữa các quốc gia.

Tuy nhiên, cũng có những cơ hội đáng kể cho ngoại giao Việt Nam. Qua việc tham
gia vào các hiệp định thương mại đa phương như CPTPP và RCEP, Việt Nam có cơ
hội mở rộng hợp tác kinh tế với các đối tác mới và củng cố mối quan hệ thương mại
truyền thống. Việc này có thể giúp cho nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển
hơn. Bên cạnh đó, xuất khẩu các loại hàng hóa của Việt Nam đến các thị trường khó
tính như EU,... cũng trở nên có tiềm năng hơn. Ngoài ra, vai trị tích cực trong các tổ
chức quốc tế như ASEAN mang lại cơ hội để đề xuất giải pháp hịa bình và an ninh
trong khu vực.


Để đối mặt với những thách thức và tận dụng cơ hội, ngoại giao Việt Nam cần
phát triển chiến lược linh hoạt và sáng tạo, đồng thời tận dụng mối quan hệ quốc tế
để bảo vệ lợi ích quốc gia và đóng góp tích cực vào hịa bình và phát triển toàn cầu.

Trong ngữ cảnh hiện nay, ngoại giao Việt Nam có thể học từ bài học của kỳ khang
chiến chống Mỹ và áp dụng chiến lược "vừa đánh vừa đàm" vào các thách thức và cơ

hội đương đại. Bằng cách duy trì sự linh hoạt, tích hợp chiến lược quân sự và ngoại
giao, Việt Nam có thể xây dựng mối quan hệ quốc tế tích cực, giữ vững chủ quyền
quốc gia và đóng góp vào hịa bình và sự ổn định toàn cầu.

D. Kết luận:

Chủ trương ngoại giao "vừa đánh vừa đàm" đã đóng vai trị quan trọng trong chiến
lược kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam. Phương pháp này không chỉ giúp đất
nước giữ vững trong cuộc chiến tranh khốc liệt mà còn mở ra những cơ hội đối thoại
và hịa giải. Việc duy trì sự cân bằng giữa quân sự và ngoại giao đã thể hiện sự linh
hoạt và chiến lược thông minh của Việt Nam trong việc đối phó với thách thức lớn từ
Mỹ.

Bài học quan trọng nhất mà ngoại giao Việt Nam có thể rút ra từ kinh nghiệm này
là tầm quan trọng của sự sáng tạo và linh hoạt trong xây dựng chiến lược ngoại giao.
Việc kết hợp giữa quân sự và ngoại giao khơng chỉ tăng cường khả năng phịng ngự
mà cịn tạo ra khơng gian cho đối thoại và đàm phán. Sự hiểu biết sâu rộng về các
quy tắc và nguyên tắc quốc tế, cùng với khả năng tìm kiếm giải pháp hịa bình, là
chìa khóa để xây dựng và duy trì mối quan hệ quốc tế tích cực.

Thời kỳ hội nhập đòi hỏi Việt Nam phải hiểu rõ và sử dụng linh hoạt các phương
pháp ngoại giao để bảo vệ và thúc đẩy lợi ích quốc gia. Chủ trương "vừa đánh vừa

đàm" cũng là một minh chứng cho sự cần thiết của việc phát triển mối quan hệ đa
dạng với các đối tác chiến lược để tạo ra môi trường ổn định và thuận lợi cho sự phát
triển bền vững của đất nước. Chủ trương "vừa đánh vừa đàm" cung cấp bài học quý
báu cho ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ hội nhập. Sự linh hoạt, đa dạng, và khả
năng thích ứng với mơi trường quốc tế thay đổi nhanh chóng được coi là chìa khóa
để đối mặt với thách thức và tận dụng cơ hội trong thời kỳ hội nhập kinh tế.

Tóm lại, chủ trương ngoại giao "vừa đánh vừa đàm" trong kháng chiến chống Mỹ
không chỉ là một chiến lược thành cơng mà cịn là nguồn lực q báu để ngoại giao
Việt Nam học hỏi và phát triển trong thời hội nhập quốc tế. Sự linh hoạt, sáng tạo, và
khả năng đối thoại đều là những yếu tố quan trọng giúp đất nước xây dựng và duy trì
mối quan hệ quốc tế tích cực, đồng thời bảo vệ hiệu quả lợi ích quốc gia.

E. Tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam – Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo

2. “Vừa đánh vừa đàm” – Tạp chí cộng sản


×