Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM NHỮNG NẦM ĐAU THẾ KY XXI: DIỆN MẠO VÃ TÁC ĐỘNG TRẦN NGỌC HIẾU ĐIỂM CAO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 15 trang )

CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
NHỮNG NẦM ĐAU THẾ KY XXI: DIỆN MẠO VÃ TÁC ĐỘNG

TRẦN NGỌC HIẾU**’

Tóm tắt: Trong bài viết này, chúng tôi nghiên cứu sự du hành của chủ nghĩa hậu hiện đại vào bối
cảnh của vàn chương Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI. Sự xuất hiện và tác động của chủ nghĩa
hậu hiện đại được phân tích như là những nước đi trong trị chơi ngơn ngữ; đồng thời vừa được hiêu
như là kết quả một quá trình dịch và cải biên văn học. Nó chủ yếu được hiêu như một năng lượng sáng
tạo cần thiết để văn học có những đột phá cần thiết, mờ đường cho khuynh hướng thê nghiệm trong
văn học đương đại. Nó thiết lập một số nền tảng để hoạt động phê bình, nghiên cứu văn học có những
thay đổi đáng kể so với giai đoạn Đổi mới. Bài viết cũng chỉ ra một số giới hạn trong việc tiếp thu chủ
nghĩa hậu hiện đại trong sáng tác và trong đời sông học thuật ở Việt Nam.

Từ khóa: chủ nghĩa hậu hiện đại, tiếp nhận văn học, văn học Đổi mới, văn học Việt Nam đầu thế
kỷ XXI, khuynh hướng thể nghiệm.

Abstract: This article studies the impact of postmodernism on 21st c Vietnamese literature.
Postmodernist strains in contemporary Vietnamese works are seen not only in the language games
but also in the cultural translation and adaptation. Seen from this perspective, the creative energies,
innovations and experimental trends are self-evident in contemporary texts. Postmodernist perspectives
have also established foundations for literary criticism and literary studies that create significant
changes to how the texts are received compared to the Doi moi period. The article also points out some
limitations in the reception of postmodernism in creative and academic writings in Vietnam.

Keywords: postmodernism, literary reception, Doi moi literature, Vietnamese literature in the
early 21st century, experimentalism in literature.

Một trong những phương diện làm Việt Nam. Nhiều từ khóa mới, cách đặt
nên vẻ sống động của bức tranh văn học vấn đề, cách tiệp cận mới đã xuất hiện
Việt Nam*1 hai thập niên đầu thế kỷ XXI trong những nghiên cứu văn học ở Việt


là hoạt động lý luận-phê bình. Giai đoạn Nam giai đoạn này với nhiều quy mô,
này chứng kiến sự sôi nổi trong việc mức độ. Sự thay đổi này, một mặt, vừa
giới thiệu, dịch thuật và vận dụng các lý thích ứng với những vận động của văn
thuyết đương đại vào thực tiễn văn học học Việt Nam trong bối cảnh văn hóa
mới; mặt khác, ít nhiều cũng có những
<*> _ Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. tác động mang tính chất định hướng, gợi
Email: mở cho sáng tạo văn chương.
1 Khái niệm “vãn học Việt Nam” ở giai đoạn này
khơng cịn hồn toàn đồng nhất với văn học trong Lựa chọn một hiện tượng có lẽ đã đủ
nước. Thời đại internet, trên thực tế, đã khiên văn độ lùi để nhìn lại: sự hiện diện của chủ
học ưong nước và văn học hải ngoại khơng cịn có nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt
thể bị phân tách rạch ròi. Nhiều sự kiện văn học ở Nam; bài viết muốn dựng lại diện mạo
giai đoạn này diễn ra đồng thời trên cả hai khu vực. của chủ nghĩa hậu hiện đại khi nó du hành
Trong một số trường hợp, để mô tả thật chặt chẽ đến Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ
diện mạo của văn chương hai thập niên đâu thê kỷ XXI như một tự sự, nhìn nhận việc giới
XXI, có thể dùng khái niệm “Văn học Việt ngữ”.

78 NGHIÊN CỬU VẴN HỌC, SỐ 10-2021

thiệu, dịch thuật và diễn giải chủ nghĩa hậu học trong nước và hải ngoại thì những
hiện đại như một lý thuyết đã đóng vai trị thảo luận về chủ nghĩa hậu hiện đại chính
như một tác nhân dẫn đến những thay đổi là sự kiện đánh dấu việc từ đây nên hình
trong tư duy và thực hành văn chương ở dung về văn học Việt Nam như một thực
Việt Nam như thế nào. thể xuyên quốc gia (transnation).

Bối cảnh của chủ nghĩa hậu hiện đại Những tranh luận về chủ nghĩa hậu
ở Việt Nam hiện đại trong bối cảnh học thuật Việt
Nam, về cơ bản, có thể hệ thống lại thành
Chủ nghĩa hậu hiện đại xuất hiện những vấn đề: 1 - chủ nghĩa hậu hiện đại có
trong diễn ngơn học thuật ở Việt Nam phải là một hiện tượng “chính danh” hay

từ cuối những năm 1980, có lẽ sớm nhất chỉ là một hiện tượng thời thượng, không
bắt đầu từ tiểu luận của Greg Lockhart có triển vọng? 2 - chủ nghĩa hậu hiện đại
về Nguyễn Huy Thiệp được dịch sang phải chăng là định hướng mà văn học Việt
tiếng Việt và công bố trên Tạp chí Vãn Nam nên theo đuổi? 3 - thật sự, nếu chủ
học số 4 năm 1989, trong đó ơng khơng nghĩa hậu hiện đại đã xâm nhập vào đời
ngần ngại nhận diện sáng tác của nhà sống văn học Việt Nam thì nó đã và đang
văn này thuộc khuynh hướng hậu hiện tạo nên những tác động gì?
đại [13], Trong suốt thập niên 1990, trên
Tạp chỉ Văn học, một đôi lần khái niệm Với vấn đề thứ nhất, những người cổ
này được dẫn nhập như một trào lưu văn súy cho chủ nghĩa hậu hiện đại coi đây
học phương Tây qua những bài dịch lấy là bước ngoặt hệ hình trong tư duy nhân
nguồn từ các tác giả nước ngoài. Nhưng loại kế từ sau Thế chiến II, gắn liền với
phải đợi đến năm 2000, nó mới thật sự bước chuyển từ xã hội công nghiệp sang
trở thành sự kiện văn học. Bắt đầu trên xã hội hậu cơng nghiệp, nơi q trình tin
các tạp chí văn học Việt ngữ ở hải ngoại học hóa diễn ra mạnh mẽ trên mọi bình
như Tạp chí Thơ, Việt, chủ nghĩa hậu hiện diện đời sống. Bước ngoặt hệ hình này
đại được trở thành chủ đề được thảo luận đánh dấu sự khủng hoảng của các “siêu
với sự đóng góp của nhiều nhà phê bình, tự sự”, trong đó, “tự sự” - các chuyện
dịch giả. Sự xuất hiện của internet tạo kể - được hiểu như một hình thức của tri
điều kiện thuận lợi để những thảo luận thức và các “siêu tự sự” hay “đại tự sự”
về hậu hiện đại có sự cộng hưởng từ phía được hiểu là các hệ thống tri thức mang
các nhà nghiên cứu trong nước. Tính từ tính bá quyền trong các nền văn hóa, các
2001 đến 2005, những nỗ lực giới thiệu xã hội. Chúng chính là cấu trúc chìm bên
và thảo luận về chủ nghĩa hậu hiện đại dưới ý thức hệ của tính hiện đại, một
diễn ra khá sơi nổi trên cả các báo, tạp chí mặt hợp thức hóa một số cách nghĩ, cách
văn nghệ in ấn chính thống lẫn trên trên hiểu, cách kiến giải, xem đó là những
các diễn đàn mạng - một không gian thay chuẩn mực, chân lý có tính phổ qt, mặt
thế (alternative space) có sức hút khơng khác loại bỏ những khả thể khác của tư
thể phủ nhận đối với các hoạt động văn duy, những dị biệt trong quan niệm về
hóa, văn học ở thời điểm này. Khi khơng giá trị. Động thái chất vấn các đại tự sự

gian mạng với khả năng giải lãnh thổ của này được nêu bật như là đặc trưng quan
nó đã xóa đi tính chất phân giới giữa văn trọng nhất của chủ nghĩa hậu hiện đại.

Chủ nghĩa hậu hiện đại...

Trên bình diện tư tưởng, chủ nghĩa hậu đa dạng và nhiều khi mâu thuẫn với nhau.
hiện đại gắn liền với những động hướng Việc quy tất cả các khuynh hướng tư tưởng
của chủ nghĩa hậu cấu trúc nhằm thoát và thực hành nghệ thuật đa dạng này vào
khỏi logic nhị nguyên mang tính nhân ơ “hậu hiện đại” có nguy cơ làm nhịa mờ
tạo và tôn ti của cấu trúc luận để tư duy đi sự độc đáo, riêng biệt trong khía cạnh
chính trị và thi pháp của từng hiện tượng
đa nguyên, đa thanh hơn. Bởi vậy, không ấy. Đó là một lý do quan trọng khiến nhiều
phải ngẫu nhiên khi trên bình diện chính nhà văn, nhà tư tưởng mặc dù có thể được
trị, xã hội, chủ nghĩa hậu hiện đại lại song các nhà phê bình gán nhãn “hậu hiện đại”
hành cùng với những phong trào như giải nhưng lại không thoải mái, thậm chí từ chối
thực dân, nữ quyền, cơng cuộc địi bình nhận mình thuộc về khung phân loại này.
đẳng cho những người da màu, hay gần Nhà nghiên cứu Thụy Khuê thì đặt ra một
đây hơn là phong trào của cộng đồng hoài nghi: nếu chủ nghĩa hậu hiện đại cố
LGBT, của người khuyết tật. Ở mức độ xúy cho việc phá vỡ các đại tự sự, vậy thì,
nào đó, chủ nghĩa hậu hiện đại là nền tảng phải chăng chính nó cũng đang trở thành
về mặt tư tưởng của những phong trào một đại tự sự? [12], Trong khi đó, Nguyễn
xã hội này. Trên bình diện văn học nghệ Văn Dân lại cho rằng chủ nghĩa hậu hiện
thuật, chủ nghĩa hậu hiện đại được xem đại là một hiện tượng “chồng chéo về mặt
là đã định hình một số đặc điểm về thi khái niệm” bởi nhiều đặc điểm được xem
pháp, phân biệt với nghệ thuật hiện đại là nổi bật của nghệ thuật hậu hiện đại hoàn
chủ nghĩa vốn được coi là một trào lưu toàn đã được định hình trong nghệ thuật
đã kết thúc khi thế giới ra khỏi Thế chiến hiện đại chủ nghĩa. Bởi vậy, ông cho rằng
II và nếm trải những khủng hoảng của thuật ngữ “hậu hiện đại” trong diễn ngơn
tính hiện đại. Những đặc điểm thường lý luận phê bình ở Việt Nam đang bị lạm
được khái quát là: sự nhòa mờ lằn ranh dụng và có tính chất thời thượng nhiều

thể loại, tính phân mảnh như là đặc trưng hơn [2],
thế giới quan và nguyên tắc tổ chức văn
bản nghệ thuật, tính giễu nhại như một ý Sự hoài nghi của Thụy Khuê và
niệm, lối viết siêu truyện/siêu tiếu thuyết Nguyễn Văn Dân là có cơ sở nhưng cũng
(metìction), sự lai ghép giữa nghệ thuật chưa đủ để phủ nhận việc chủ nghĩa hậu
đặc tuyển và nghệ thuật đại chúng [11], hiện đại đã trở thành một từ khóa quan
[13], [26]... Văn học nghệ thuật hậu hiện trọng trong những thảo luận về tư tưởng
đại đã kết tinh được những điển phạm và nghệ thuật trên phạm vi thế giới. Có
và nhiều gương mặt quan trọng của văn một thực tế là nhiều nhà nghiên cứu ở
học thế giới đương đại đồng thời cũng Việt Nam ít quan tâm đến việc các nhà
được xem là đại diện tiêu biểu của trào tư tưởng hậu hiện đại phê phán tính hiện
lưu hậu hiện đại đang diễn ra trên phạm đại từ góc độ tri thức luận trong khi đó
vi toàn cầu. lại chấp nhận khá cởi mở những khả thể
mà hậu hiện đại mở ra, đặc biệt trong
Những người ngờ vực tính chính danh địa hạt nghệ thuật. Nhà nghiên cứu Bùi
của chủ nghĩa hậu hiện đại không phải Vãn Nam Sơn trong lời giới thiệu bản
khơng có lý khi nhận thấy với tư cách là dịch Hoàn cảnh hậu hiện đại của Jean
một thuật ngữ, tên gọi này bao chứa trong - Franẹois Lyotard đã đưa ra một lưu ý
nó nhiều khuynh hướng, nhiều hiện tượng

80 NGHIÊN CỬU VÃN HỌC, SỐ 10-2021

rất quan trọng về mối quan hệ giữa triết của Lyotard thường được trích dẫn nhiều
học hậu hiện đại và nghệ thuật hiện đại nhất trong các tiểu luận của các học giả
chủ nghĩa, theo đó, “chính triết học hậu - Việt Nam khi bàn về hậu hiện đại có thể
hiện đại thốt thai từ tinh thần của nghệ xem như một tuyên ngôn về quyền năng
thuật hiện đại”: “Triết học học hậu hiện sáng tạo của nghệ sĩ: “Nghệ sĩ hay nhà văn
đại diễn đạt một cách suy lý những gì hậu hiện đại ở trong vị thế một triết gia:
nghệ thuật hiện đại đã thể nghiệm bằng vãn bản y viết hay tác phẩm y sáng tạo, về
phương tiện nghệ thuật” [21, tr. 17]. Sự nguyên tắc, không bị chi phối bởi những

khác biệt lớn nhất giữa nghệ thuật hiện luật lệ tiền lập và có thể bị phán xét theo
đại và nghệ thuật hậu hiện đại, theo những chuẩn mực đã xác định, bằng việc
Lyotard, nằm ở khía cạnh tâm thức: nghệ áp những phạm trù sẵn có vào văn bản hay
thuật hiện đại chủ nghĩa than khóc cho tác phẩm ấy” [15, tr. 15]. Sáng tạo, theo
sự mất mát, tan rã của một hiện thực duy tinh thần của hậu hiện đại, là thể nghiệm
nhất, thống nhất mọi sự đối lập và dị biệt không giới hạn, là phiêu lưu vơ định, là
thì nghệ thuật hậu hiện đại, hay rộng hơn, việc khai phóng các khả thể của nghệ thuật
tâm thức hậu hiện đại lại reo vui trước chứ không chỉ dừng lại ở việc tạo ra tác
tình trạng này bởi sự giải thể thứ hiện phẩm nghệ thuật. Tuy nhiên, những người
thực duy nhất này gắn liền với “sự trỗi cổ xúy cho chủ nghĩa hậu hiện đại xâm
dậy của vô vàn khả thể cho việc tìm tịi nhập vào cảnh quan văn học nghệ thuật
những luật chơi mới, những phương thức ở Việt Nam cũng vấp phải bài tốn khó.
nghệ thuật mới mang tính thể nghiệm” Nghệ thuật hậu hiện đại trong văn học
[dẫn theo 21, tr.21]. Tuy nhiên, phải thấy Âu-Mỹ hình thành sau khi nghệ thuật hiện
rằng sự “reo vui” của tâm thức hậu hiện đại chủ nghĩa phát triển đến trình độ điển
đại có tiền đề từ sự tự ý thức sâu sắc vì phạm, do đó, nó vừa là sự nối tiếp, vừa là
sao sự mất mát trạng thái toàn nguyên, sự thách thức lại những kinh nghiệm thẩm
thống nhất của thế giới lại khiến người ta mỹ hiện đại chủ nghĩa. Trong khi đó, chủ
muốn “than khóc”. Nói một cách khác, nghĩa hiện đại trong nghệ thuật Việt Nam
khó có thể có một tâm thức hậu hiện hiện lại chưa trở thành một dòng mạch định
đại thật sự nếu không trải nghiệm sự hình, lịch sử của nó là một lịch sử bị gián
khủng hoảng của tính hiện đại. đoạn bởi nhiều tác nhân. Chủ nghĩa hậu
hiện đại khi dẫn nhập vào nghệ thuật Việt
Ở vấn đề thứ hai, đối với những người Nam đương đại liệu có thể phát triển khi
chủ trương đón nhận chủ nghĩa hậu hiện nó thiếu một nền tảng của chủ nghĩa hiện
đại vào trong văn học nghệ thuật Việt Nam, đại để kế thừa và đối lập? Liệu trong nghệ
ý niệm hậu hiện đại có lẽ được quan niệm thuật, việc “đi tắt đón đầu” cũng có thể
rộng hơn một trào lưu, một xu thế văn học. chấp nhận được?
Nó được hiểu như là thứ năng lượng sáng
tạo triệt để nhất, phá cách nhất cần thiết Đối diện với câu hỏi này, những học

để văn học Việt Nam (bao gồm cả văn học giả Việt Nam đã thực hiện những nước đi
trong nước và hải ngoại) có những đột phá, có hiệu quả trong “ưị chơi ngơn ngữ” - để
thốt khỏi những sức ì mang tính truyền dùng lại khái niệm của Ludwig Wittgenstein
thống đã biến thành quy phạm ngấm sâu mà bản thân Lyotard đã khai thác như là
vào trong vô thức của nghệ sĩ. Nhận định phương thức tiếp cận các hình thức “hợp

Chủ nghĩa hậu hiện đại... 81

thức hóa” hậu hiện đại1. Thứ nhất, họ thông hiện tượng, trào lưu văn hóa nghệ thuật
diễn lại định nghĩa của Lyotard mà ở trên đã toàn cầu. về phương diện này, trong quan
dẫn để từ đó cho thấy “hậu hiện đại” không
phải là một phạm trù thuần túy về mặt lịch sát của Inrasara, chủ nghĩa hậu hiện đại đã
sử. Xét về phương diện tinh thần, “hậu hiện được hưởng ứng và tiếp biến một cách sống
đại” được diễn dịch thành ý thức cách tân, ý động qua nhiều hiện tượng thơ ca Việt ngữ
thức thể nghiệm vốn luôn cần được khuyến
đương đại, trong đó có những hiện tượng
khích trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật, không hiện diện trong đời sống văn hóa
do vậy, tinh thần “hậu hiện đại” có thể còn chính mạch [10], Lã Nguyên chứng minh
xuất hiện trước cả nghệ thuật hiện đại chủ sáng tác Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị
nghĩa, như chính cách Lyotard coi tiểu luận Hồi có nhiều đặc điểm gặp gỡ với tư duy
của Montaigne là tác phẩm hậu hiện đại nghệ thuật hậu hiện đại [17]. Trong khi đó,
vậy [15, tr.15]. Thứ hai, nếu tâm thức hậu trong quan sát của Lê Huy Bắc, dấu ấn của
hiện đại có thể hiểu là tinh thần giải phóng chủ nghĩa hậu hiện đại có thể được nhận
con người khỏi các đại tự sự để hướng tới thấy ở hầu hết các hiện tượng văn học nổi
sự đa nguyên trong thế giới quan và các bật từ Đổi mới đến nay, kể cả từ Lưu Quang
thực hành vi chính trị của cá nhân và các Vũ hay Nguyễn Minh Châu [1]. Thứ ba,
nhóm thiểu số thì chủ nghĩa hậu hiện đại cũng bởi chủ nghĩa hậu hiện đại là một chủ
hồn tồn có thể rơi trúng tầm đón nhận trương giải phóng khỏi sự bao trùm của
của nghệ sĩ Việt Nam ở những năm đầu thế các đại tự sự, do đó, chủ nghĩa hậu hiện
kỷ XXI, khi nghệ thuật Việt Nam kể từ giai đại trong văn học Việt Nam có thể là một

đoạn Đổi mới đã có dấu hiệu phát triển đa mơ hình đặc thù, khơng nhất thiết phải lấy
dạng, mang tính cá nhân, tiệm cận những khuôn mẫu của văn học phương Tây làm
quy chiếu. Nguyễn Hung Quốc đã đề xuất
1 Theo phương pháp của Lyotard, có thể hình dung một dự phóng cho chủ nghĩa hậu hiện đại
văn hóa bao gồm nhiều trị chơi ngơn ngữ khác trong văn học Việt Nam, mà ông gọi là chủ
nhau, với các luật chơi, các quy tắc của mình. Một nghĩa hậu hiện đại mang tính ngun họp:
phát ngơn, một tri thức sẽ khơng được hợp thức hóa “Nói cách khác, chủ nghĩa hậu hiện đại Việt
nếu nó không được xem là tuân thủ các luật chơi. Nam, nếu có, chỉ là một kết hợp cùng lúc
Chủ nghĩa hậu hiện đại vào Việt Nam có thể xem
như một sự kiện hợp thời bởi mạng internet đã giúp giữa chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu
những người cổ xúy cho nó, trong đó trước hết là hiện đại, trong đó, các yếu tố mang tính hậu
các nhà phê bình hải ngoại, có một “sân chơi” mới, hiện đại được đẩy lên thành những yếu tố
thu hút nhiều “người chơi” (bao gồm nhà văn, nhà chủ đạo. Nó là hiện đại khi cố gắng cắt bỏ
phê bình, người đọc), thoát ra khỏi những giới hạn tính chất nghiệp dư, tính chất quy phạm và
mà thời đại in ấn và những rào cản văn hóa chính tính chất giáo điều của chủ nghĩa cổ điển.
mạch không cho phép. Trên “sân chơi” này, họ Nó cũng là hiện đại khi cổ xuý cho tính chất
thực hiện các “nước đi” như bài báo này phân tích duy lý, tính chất đặc tuyển và tính chất cá
đế từ đó thuyết phục người sáng tác và cơng chúng
nói chung về sự cần thiết của hậu hiện đại cho văn nhân chủ nghĩa trong văn học. Nó là hậu
hóa nghệ thuật của Việt Nam. Nói theo tinh thần hiện đại khi cố gắng vượt qua tất cả những
của Lyotard, các “nước đi” này là chiến lược để giá trị hiện đại chủ nghĩa vừa nêu và khi
hậu hiện đại giành được “phần thắng” cho mình mà tổng hợp mọi thành tựu nghệ thuật trên nền
theo chúng tôi, trước tiên, phần thắng ấy là việc nó tảng một hệ mỹ học mới. Đó là lý do chính
trở thành sự kiện học thuật và sáng tác kết nối cả khiến tôi thích dùng chữ chủ nghĩa h(ậu h)
giới phê bình và nghệ sĩ trong nước và hải ngoại.

82 NGHIÊN CỬU VĂN HỌC, SỐ 10-2021

iện đại: trong cách viết ấy, chủ nghĩa hiện tôi, xu hướng coi hậu hiện đại như một từ
đại và chủ nghĩa hậu hiện đại hoà quyện đồng nghĩa với “cách tân”, “đổi mới”, “cấp

vào nhau, trùng lấp lên nhau. Tơi cho đó là tiến” có thể có mặt chấp nhận được nhưng
lý tưởng cao nhất và thực tế nhất mà trong điều này cũng đơn giản hóa khái niệm này
tình hình hiện nay giới cầm bút Việt Nam có và phần nào phản ánh nhiệt tình của các nhà
thể vươn tới” [19, tr.327]. Thứ tư, để kiến phê bình nghiên cứu nhiều hơn. Điều này
tạo truyền thống cho dự phóng này, một số đã dẫn đến những phản ứng trước những
học giả người Việt đã tìm cách khơi phục tìm tịi được xem là q khích, thiên về
một dịng mạch văn chương mang tính thể gây hấn trong sáng tác nhưng nhận được
nghiệm trong lịch sử văn học bằng cách đưa sự cổ xúy từ một số nhà phê bình. Phan
ra những diễn giải mới, những biện luận có Nhiên Hạo trong bài viết “Mới - Cũ trong
tính thách thức. Nguyễn Hưng Quốc biện hộ thơ và Hậu hiện đại” đã thẳng thắn cho
cho những tìm tịi của Nguyễn Vỹ, Hoàng rằng việc tiếp nhận chủ nghĩa hậu hiện đại
Tích Chu, Xuân Thu Nhã Tập [19, tr.301 - trong sáng tác và phê bình trong văn học
304], thậm chí qua việc chứng minh bài thơ Việt ngữ đang cịn ở trong tình trạng “thơ
con cóc được truyền tụng trong dân gian là sơ và đơn tuyến” và điều này trên thực tế
một bài thơ hay... nhằm cổ vũ cho tinh thần còn đi ngược lại với tinh thần cởi mở của
dám khiêu khích, dám thí nghiệm, sẵn sàng hậu hiện đại [5]. Trong tiểu luận cơng phu
phá vỡ tầm đón nhận của công chúng trong “Trang tôn kinh huyền hoặc hậu hiện đại”,
sáng tạo nghệ thuật [18, tr.39-53]. Như Huy Trần Vũ đã nhìn lại một chặng đường của
thì chứng minh ngay trong Mùa sạch của văn chương Việt ngữ qua một tiêu điểm -
Trần Dần (1963), nhà thơ đã xây dựng một tạp chí Hợp lưu, tạp chí văn chương hải
tác phẩm thơ ca mà mỹ học của nó tương ngoại có sự cộng tác của nhiều cây viết
ứng với nghệ thuật ý niệm - một trào lưu trong nước, qua đó, cũng khơng ngần ngại
thường được xếp vào dòng mạch nghệ thuật chỉ ra Hậu hiện đại chính là tầng trệt của
hậu hiện đại trên thế giới vốn cũng bắt đầu
hình thành từ giữa thập niên 1960 [9]. Cùng tòa tháp Babylone đang quy tụ đông đảo
với việc diễn dịch lại các hiện tượng văn nhưng lại đang loay hoay không biết phải
học trong quá khứ để tạo thành bệ đỡ cho đi tiếp đến đâu bởi “khơng biết mình muốn
dự phóng hậu hiện đại ở thế kỷ XXI, hoạt gì, tìm gì và cần gì ở nhân loại nên thất lạc,
động dịch thuật cũng cần phải được nhắc đưa đến chốn vắng tư duy trong sáng tác”
đến như một nỗ lực nhằm kiến tạo truyền [27], Theo Trần Vũ, chính “chốn vắng tư

thống và kênh tham chiếu cần thiết cho các duy” này khiến cho những cách tân về mặt
thể nghiệm văn chương Việt ngữ. Tất cả
những nước đi nói trên trong “trị chơi ngơn kỹ thuật trong văn học Việt ngữ không thật
ngữ” của các nhà phê bình đã xác nhận: hậu sự tạo nên những thành tựu, nếu không
hiện đại là trào lưu tư tưởng và nghệ thuật muốn nói là bế tắc. Phan Nhiên Hạo thông
đáng theo đuổi. qua bản dịch tuyên ngôn nghệ thuật của
nhóm Stuckism - một trường phái nghệ
Tuy nhiên, liệu quy những hiện tượng thuật được lập nên bời hai nghệ sĩ Billy
văn chương đáng kể nhất của văn học Việt Childish và Charles Thomson để cho thấy
Nam đương đại là hậu hiện đại liệu đã bản thân chủ nghĩa hậu hiện đại và nghệ
thuyết phục về mặt biện luận? Theo chúng thuật ý niệm bị thách thức như thế nào
trong môi trường văn hóa phương Tây [6].
Còn theo Hoàng Ngọc Hiển, chủ nghĩa

Chủ nghĩa hậu hiện đại... 83

hậu hiện đại có thể chỉ như một giai đoạn từ thực tiễn văn xuôi Việt Nam đương đại.
quá độ cho một bước phát triển mới của Ở những nghiên cứu thận trọng nhất, hệ
nghệ thuật và tư tưởng mà ông gọi là “chủ quả từ tác động của chủ nghĩa hậu hiện đại
nghĩa cổ điển mới”, khái niệm được ông vào sáng tác được phân tích như là “yếu
tiếp thu từ Frederick Turner, do đó, khơng tố”, “dấu ấn”, “dấu hiệu”... tương đồng
nên tiêu phí năng lượng dành cho nó [8], với những đặc điểm phổ biến của văn học
được gắn nhãn “hậu hiện đại” ở phương
Có thể nói trong thập niên đầu tiên của Tây mà ở trên chúng tôi đã nhắc đến. Tuy
thế kỷ XXI, việc tiếp nhận chủ nghĩa hậu nhiên, chưa có những cơng trình tiếp cận
hiện đại rõ ràng trở thành một chủ đề học văn học Việt ngữ mang dấu ấn hậu hiện
thuật thời sự nhất. Các thảo luận về hậu đại theo hướng văn học so sánh hay văn
hiện đại nhanh chóng trở nên căng thẳng học thế giới (world literature) để xem dưới
nhưng không phải là cái căng thẳng của bề mặt của những tương đồng về thế giới
một tinh thần đối thoại được phát triển quan hay kỹ thuật hình thức kia có những

cao độ. Những phản biện từ những người đặc thù gì về văn hóa, lịch sử hay chính trị.
hồ nghi trước việc dẫn nhập và thực hành
hậu hiện đại ở Việt Nam thường trở nên Bài viết này lựa chọn một cách tiếp
lép vế hon trước khao khát muốn vin vào cận khác: xem xét chủ nghĩa hậu hiện đại
hậu hiện đại như một điểm tựa để khuấy như một hiện tượng dịch và cải biên (thậm
động trạng thái trì đọng của văn hóa nghệ chí chiếm dụng) văn hóa trong bối cảnh
thuật. Bởi vậy, sang đến thập niên thứ hai, Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI, từ
các thảo luận này lắng dần. Chủ nghĩa hậu đó, phân tích tác động của nó vào thực tiễn
hiện đại, theo đó, đã được diễn giải, xoay sáng tác ở giai đoạn này1. Phạm vi khảo
xở, trải qua một quá trình dịch và cải biên sát, do vậy, sẽ thiên về sáng tác ở hai thập
văn hóa để có thể thích nghi với bối cảnh niên đầu thế kỷ mới này, tương ứng với
Việt Nam. Nó khơng còn là một thuật ngữ khoảng thời gian mà chủ nghĩa hậu hiện
lạ lẫm nữa, thậm chí dễ dàng được gán cho đại thực sự trở thành sự kiện của đời sống
rất nhiều sáng tác, bất kể những sáng tác phê bình, học thuật. Chúng tơi sẽ chủ yếu
ấy có kế thừa và thách thức lại mỹ học hiện
đại chủ nghĩa hay không, miễn là trong con 1 Việc coi hậu hiện đại ở Việt Nam như một hiện
mắt nhà nghiên cứu, chúng có một vài dấu tượng dịch và cải biên văn hóa tạm thời khơng tập
hiệu khác biệt với những khuynh hướng trung vào vấn đề thuật ngữ này được hiểu đúng hay
văn học đã định hình như chủ nghĩa lãng sai. Thay vào đó, cách tiếp cận này địi hỏi ta quan
mạn, chủ nghĩa hiện thực hay hiện thực xã tâm hơn đến cách nó đã được hiếu, được diễn giải
hội chủ nghĩa [3], [22]. vấn đề diện mạo như thế nào. Những cách hiểu, cách diễn giải này
của văn học hậu hiện đại Việt Nam là vấn là nước đi chiến lược để hậu hiện đại có thể thích
đề có thể bàn đến và nó xứng đáng được nghi được với ngừ cảnh văn hóa, văn học Việt Nam
tách thành một đề mục riêng. hồi đầu thế kỷ XXI vốn có nhiều khác biệt so với
ngữ cảnh của phương Tây, nơi hậu hiện đại khởi
Một phác thảo về văn học hậu hiện nguồn. Những giới hạn (kể cả những ngụy biện)
đại Việt Nam trong việc diễn giải thuật ngữ “hậu hiện đạị”cũng
đều tác động vào thực tiễn sáng tác và phê bình ở
Trên thực tế, đã có những tiểu luận, Việt Nam. Chẳng hạn, việc nó trờ thành cái nhãn
chuyên luận làm công việc này, đặc biệt là dễ gắn cho nhiều hiện tượng nghệ thuật có lẽ cũng

là nguyên nhân để những thảo luận về hậu hiện đại
ở Việt Nam bị lạc lối.

84 NGHIÊN CỬU VĂN HỌC, SỐ 10-2021

tập trung vào khía cạnh tác động nào thật nghệ thuật thế giới. Có thể nhận thấy một
sự làm sáng tác văn học ở giai đoạn này có sự khác biệt về tinh thần của khởi điểm
những điểm nhấn trong sự so sánh với giai văn học Đổi mới và khởi điểm của văn học
đoạn trước đó, khi khái niệm “hậu hiện Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI: nếu
đại” mới chỉ được hiểu như một thực tiễn như cú hích để văn học Đổi mới khởi sự
bên ngồi khơng gian văn học Việt ngữ. là nhu cầu khẩn thiết về quyền được nói

Như đã nói đến ở trên; trong ngữ cảnh sự thật của vãn chương và do đó, các hiện
Việt Nam, nét nghĩa được tô đậm nhất tượng được xem như cột mốc của văn học
trong nội hàm khái niệm “hậu hiện đại” đổi mới đều hướng tới việc phản ánh thực
khi nó du hành đến Việt Nam và được dẫn tại nhức nhối của xã hội hậu chiến Việt
nhập vào trong đời sống nghệ thuật là một Nam, ngay cả Tướng về hưu của Nguyễn
tinh thần dám thể nghiệm tất cả những gì Huy Thiệp, thì cú hích của văn học Việt
chưa có tiền lệ. Hậu hiện đại không ngần Nam ở thời điểm hiện tại, dưới tác động
ngại trước mọi tìm tịi, đổi mới, phá cách của hậu hiện đại, là nhu cầu được làm khác
dù có khiêu khích đến đâu đi nữa. Khơng đi của văn chương, nhu cầu thay đổi triệt
phải ngẫu nhiên, Nguyễn Hưng Quốc và để cách người ta vốn hình dung và quan
Hồng Ngọc-Tuấn, hai nhà nghiên cứu hải niệm về vãn chương. Cú hích tạo động lực
ngoại nhiệt thành nhất trong việc thúc đẩy để văn học Đổi mới trỗi dậy khiến những
chủ nghĩa hậu hiện đại, đã tích cực biện hộ sáng tác trở thành tâm điểm dư luận của
cho chủ nghĩa Dada - một hiện tượng nghệ phong trào này ở thời kỳ đầu có sự kết nối
thuật, theo họ, vốn bị hiểu nhầm nhiều nhất trở lại với truyền thống của chủ nghĩa hiện
[19, tr.304-307], [23]. Là một trào lưu hiện thực phê phán trước 1945 (không phải
đại chủ nghĩa xét về mặt lịch sử hình thành vơ cớ phóng sự có một khoảng thời gian
nhưng Dada được xem như đã gợi ý những lấy lại địa vị của một thể loại xung kích ở

đường hướng quan trọng nhất cả về tinh giai đoạn đầu Đổi mới với các tác phẩm
thần và thi pháp cho chủ nghĩa hậu hiện của Phùng Gia Lộc, Hoàng Minh Tường,
đại. Nhiệt hứng và những gợi ý của Dada Minh Chuyên...). Cú hích tạo động lực
về cách tồn tại và tác động vào đời sống để văn học Việt Nam ở những thập niên
của nghệ thuật, trên thực tế, đã in dấu vào đầu thế kỷ XXI chuyển mình lại muốn kết
trong thái độ và thực hành sáng tạo của nối lại với những tìm tịi, thể nghiệm theo
nhiều nghệ sĩ Việt Nam ở giai đoạn này. khuynh hướng tiền phong và hiện đại chủ
nghĩa vốn tồn tại trong trạng thái bị phân
Như vậy, chúng tơi cho rằng tính thể mảnh và thường xuyên bị ngoại biên hóa
nghiệm là đặc điểm cần phải được nhẩn trong tiến trinh văn học. Không phải ngẫu
mạnh trong việc mô tả bức tranh văn học nhiên khi sự trỗi dậy của văn học Đổi mới
Việt Nam ở giai đoạn này. Có một sự tương lại diễn ra gần như cùng nhịp với sự quay
ứng, cộng hưởng khá rõ giữa tinh thần thể trở lại đời sống văn hóa chính thống của
nghiệm được dấy lên trong sáng tác văn văn học lãng mạn và một số hiện tượng
học với sự khởi sắc của nhiều thực hành văn học hiện thực từng bị xem là gai góc,
nghệ thuật đương đại như sắp đặt, trình nhạy cảm như Vũ Trọng Phụng, đánh dấu
diễn, video-art, nhiếp ảnh ý niệm... được sự phục hưng của ý thức cá nhân trong xã
đẩy mạnh nhờ sự tiếp xúc gia tăng với hội và nhu cầu được nói lên sự thật ở đời

Chủ nghĩa hậu hiện đại... 85

của văn chương. Trong khi đó, sự trỗi dậy thở, những người ỉạ (Nhã Thuyên, 2015),
của sáng tác mang hơi hướng hậu hiện đại Mát mát lạnh lạnh (Ngọc Bảo An, 2016) là
ở giai đoạn này có lẽ lại có những móc nối những tác phẩm không chỉ mơ hồ về nhan
tương ứng với sự trở về của Trần Dần và đề mà còn mơ hồ về thể loại khi tác giả đều
Bùi Giáng. Trên thực tế, cả hai tác giả này không gắn nhãn cho chúng, cho dù độc giả
đã được xuất bản trở lại từ thập niên 1990 hay các nhà phê bình có quyền gọi đó là
nhưng chỉ đến thời điểm này, sáng tác của
họ mới được thảo luận công khai trên diễn “thơ”, “truyện” hay thậm chí “mảnh vụn”,
đàn mạng và trên báo chí, xuất bản chính tùy theo kinh nghiệm đọc của mồi người.

thống, nhất là họ được nhìn nhận như Nhưng ngay cả ở những tác giả ý thức rất
những tác giả hậu hiện đại sớm nhất. rõ về thể loại mình sáng tác thì “bài thơ”
hay “truyện” mà họ viết ra nhiều khi cũng
Tinh thần thể nghiệm trong sáng tác thách thức những gì vốn đã được hình dung
văn học Việt ngữ giai đoạn này có thể khai về một bài thơ hay một tác phẩm truyện.
quát ở ba biểu hiện nổi bật nhất. Trước hết, Thí dụ, với tập Lời tiên tri của giọt sương
ở những sáng tác táo bạo, thậm chí mang (2011), Nhật Chiêu sáng tạo ra hình thức
tính khiêu khích nhất, nhà vãn Việt Nam ý truyện kể mà ông gọi là “truyện tuyệt ngắn”
thức rằng sáng tạo không chỉ là làm ra một và “truyện một câu”, trong đó, các truyện
tác phẩm mới mà còn phải mở ra những khả kể được rút gọn tới mức cực hạn. Chúng
thể nghệ thuật mới, làm thay đổi cách ta như là biến thể của các công án Thiền, mật
đã từng nghĩ, từng hình dung về tác phẩm ngữ, câu đố - những thể loại lời nói gần với
nghệ thuật và thậm chí về cả cách mà nó thơ hơn là truyện, thậm chí so với ngay cả
được tạo nên. Đấy là cách Marcel Duchamp hình thức truyện rất ngắn vốn đã được phát
- một biểu tượng của chủ nghĩa Dada - lật triển trong thập niên 1990. Lĩnh vực thơ có
nhào mọi định nghĩa đã sẵn có đồng thời lẽ là nơi có thể nhìn thấy rõ hơn những thể
gợi mở rất nhiều ý niệm mới về nghệ thuật nghiệm theo chủ trương rằng viết tức là tạo
và hành vi sáng tạo qua những tác phẩm ra một ý niệm mới về thơ và về cả hành
nằm ngồi tất cả những loại hình và cách động viết thơ. Viết thơ, như cách của Trần
thức thực hành- nghệ thuật đã được thừa
nhận như “Fountain” (1917) - chiếc bồn Nguyễn Anh trong tập Mặc xanh ảo em
tiểu được xem như một nghệ phẩm trong (2010), nói như Đinh Bá Anh, hoàn toàn
một triển lãm mỹ thuật hay “L.H.O.O.Q” có thể bị coi là một hành động “xúc phạm
(1919) - bức tranh ngỗ ngược nơi ông trét thơ” khi nhà thơ không chỉ làm công việc
ria lên bức chân dung nàng La Joconde nối tách nối từ ngữ, sắp đặt chúng theo những
tiếng của Leonard da Vinci và coi đó là liên kết về nhịp điệu, âm điệu hay bố cục
sáng tạo của mình. Nhìn vào những sáng thị giác mà anh còn đưa cả những con số,
tác mang hơi hướng hậu hiện đại, có thể ngôn ngữ chat bị mất dấu, những biển báo
thấy việc không ràng buộc sáng tác của trên đường phố vào trong bài thơ. Viết thơ
mình vào một nhãn thể loại nào là điều trở thành một hành vi tổng lực để khai thác

một số tác giả tự ý thức rất rõ. Họ chủ động những hiệu quả trực tiếp nhất của ngôn
không xác định thể loại cho những gì mình ngữ từ âm thanh đến hình ảnh: bài thơ vừa
viết ra: Thời hơm nay, điên rỏ và khối như một tác phẩm sắp đặt (installation art)
cảm hợp lý (Nguyễn Thúy Hằng, 2006), Từ lại cũng vừa như một kịch bản trình diễn
(performance art). Sự gắn kết thơ với nhiều

86 NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, SỐ 10-2021

loại hình nghệ thuật đương đại, đến lượt ra một cú twist giữa truyện: câu chuyện
về cuộc phiêu lưu bất định của nhân vật
mình, thách thức kinh nghiệm đọc một bài xưng “em” hóa ra là sản phẩm hư cấu của
thơ, trong đó, thứ nói địi khước từ nhiều một nhà văn; mạch truyện chuyển từ câu
nhất là việc đồng nhất thơ với trữ tình, coi chuyện của “em” sang mạch tự chất vấn
bài thơ là sự gói ghém một nội dung cảm của “nhà văn”, cũng là một phụ nữ, về
xúc nào đó. Thay vào đó, nó địi hỏi một những gì mà phụ nữ có thể làm được cho
sự chú ý trước hết vào bề mặt của văn bản nhau bằng chính sự viết của mình. Kiểu
ngơn từ, tri nhận bố cục, sự cộng hưởng âm nhân vật người đọc hay người viết bị ảm
điệu, nhịp điệu, ấn tượng thị giác trong việc ảnh bởi sự đọc hay sự viết chính là phương
ám thị một kinh nghiệm hiện sinh mà ta có tiện nghệ thuật để nhà văn thực hiện hành
thể suy tưởng được về nó nhưng nó lại là động tự chất vấn này. Trong Biên sử nước
thứ khơng thể cho ta nhìn thấy được, diễn (2020), Nguyễn Ngọc Tư xây dựng hai
tả được bằng khái niệm. nhân vật mắc một chứng bệnh giả tưởng
- nghiện ăn chữ trong sách. Chương tiểu
Tinh thần thể nghiệm, như một lẽ tự thuyết gắn với hai nhân vật này lồng trong
nhiên, dẫn đến đặc điểm thứ hai khá nổi đó những bình luận ngầm về nghệ thuật
bật trong các sáng tác mang hơi hướng ngôn từ và đặc biệt là về khả năng hư cấu
hậu hiện đại: viết được coi như một hành của văn chương. Kiểu nhân vật người đọc
vi tự chất vấn về chính nó. Ở giai đoạn hay người viết này cũng hiện diện trong
Đổi mới, văn chương có thể đặt lại vấn sáng tác của những nhà văn trẻ như Đinh
đề về mối quan hệ của nó với hiện thực, Phương, Hiền Trang, Huỳnh Trọng Khang

về chức năng và ý nghĩa của nó trong xã cho thấy văn học đang hình thành một lớp
hội và thường các nhà văn sẽ dùng thể loại các tác giả có trải nghiệm đọc phong phú,
tiểu luận để bày tỏ một cách rõ ràng hơn sâu rộng. Nhưng có lẽ quan trọng hơn thế,
quan điểm của mình như cách Nguyễn điều này phản ánh trạng thái tự ý thức của
Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm nhiều nhà văn Việt Nam về cơng việc của
Thị Hồi đã làm. Ở những năm đầu thế kỷ mình khi với họ, câu chuyện quan trọng
XXI, bản thân suy tư về sự viết trở thành nhất của văn chương cuối cùng vẫn là câu
một đề tài của các sáng tác hư cấu. Hình chuyện về chính nó.
thức metafiction (siêu truyện/siêu tiểu
thuyết) được khai thác trong sáng tác của Tương tự, có thể nói tới một hình thức
nhiều nhà văn. Trong nhiều tiểu thuyết của được gọi là “metapoem” - mượn khái niệm
Thuận, suy tư về thể loại này, đặc biệt là mà nhà thơ Phan Quỳnh Trâm sáng tạo để
những khuôn mẫu dễ bị thương mại hóa gọi những sáng tác của mình, những sáng
và cơng cụ hóa của nó, trở thành một chủ tác trong khi vừa là “bài thơ”, lại vừa hồ
đề ám ảnh. Không phải ngẫu nhiên, tiểu nghi những gì được làm thành một “bài
thuyết của Thuận thường có một bè ngầm thơ”; chúng vừa phê bình những khả thể
mỉa mai những lối viết chiều chuộng, vuốt đã được chấp nhận của thơ đồng thời lại
ve công chúng, đem đến những trấn an về vừa gợi ý rằng thơ có thể được hình dung
đạo đức, trong khi tinh thần của tiểu thuyết, khác hon những gì đã được chấp nhận. Tập
theo chị, là phải gây bất an. Nguyễn Ngọc Thơ hỏi thở (2009) của Lê Vĩnh Tài cũng
Tư trong truyện ngắn Chóp mắt mịt mù in có thế xem thuộc về dịng mạch metapoem
trong tập Cố định một đám mây (2018) tạo

Chủ nghĩa hậu hiện đại... 87

này khi ngay nhan đề của nó đã hàm chứa nhất ở sự phổ biến của hình thức giễu nhại
trong đó sự chất vấn. Thậm chí, chỉ khi trong những sáng tác mang dấu ấn hậu hiện
biết tự chất vấn, “thơ” mới có thể “thở”, đại. Khơng đơn thuần là một thủ pháp tu
tức có sức sống thực sự, bởi bằng hành từ, giễu nhại ở các sáng tác này mang tính
động ấy, thơ mới có khả năng thoát khỏi ý niệm nhiều hơn khi đối tượng mà chúng

những khuôn sáo dễ lơi kéo nó. Mối quan nhắm đến là các phong cách thời thượng và
hệ giữa nhà thơ và ngôn ngữ trở thành nhất là các điển phạm nghệ thuật. Nhại thế
nỗi băn khoăn của nhiều nhà thơ. Khác loại, nhại phong cách,... là hiện tượng có
với những hiện tượng thơ từng gây tranh thể quan sát rõ ở cả trong thơ và văn xuôi.
cãi ở thập niên 1990 như Lê Đạt, Dương Không chỉ đùa giỡn với các phép tắc, chuẩn
Tường, những người nối tiếp truyền thống mực, khn mẫu đã có, đã được cấp cho
tượng trưng chủ nghĩa khi đầu tư cho việc giá trị trung tâm, các sáng tác này nhiều khi
khơi gợi sự mê hoặc của ngôn ngữ, một cịn sẵn sàng đi về phía đối cực, trở thành
số nhà thơ gây chú ý ở giai đoạn này lại những hiện tượng phản tiểu thuyết, phản
đẩy ngôn ngữ về trạng thái trượt nghĩa và thơ. Những nhãn dán như thế này không
rỗng nghĩa. Họ ngờ vực trước các quy tắc, chỉ là thứ mà các nhà phê bình và bộ phận
thiết chế tạo nghĩa cho lời, họ nhìn thấy công chúng áp đặt lên những sáng tác khiêu
đằng sau cái có nghĩa và cái vơ nghĩa, cái khích những hình dung và quan niệm về
được coi là nên thơ và cái bị xem là phi thơ giá trị của họ; nó cịn là cái nhãn mà nhiều
của ngơn ngữ là một mối quan hệ quyền tác giả chủ động nhận về cho sáng tác của
lực và làm thơ là cách để họ tra vấn quan mình. Theo đó, phản thơ hay phản tiểu
hệ quyền lực ấy. Nói như Đinh Linh trong thuyết là dấu hiệu của một thái độ cương
một bài thơ: Hom nữa, một từ nhỏ nhất/ quyết không thỏa hiệp với các định nghĩa
Một quán từ chẳng hạn/ Con hay cải, cũng tiền lập về nghệ thuật. Ta có thể thấy điều
đã tích cóp/ Cả ngàn quan hệ từ ngàn năm này qua một số hiện tượng như Lý Đợi, Bùi
(“Một bài thơ hồn tồn vơ nghĩa”). Có thể Chát, Đinh Linh, Phan Bá Thọ,... trong
ghi nhận một cách ứng xử đối với ngôn thơ; Đặng Thân, Lê Minh Phong, Lê Anh
ngữ theo tinh thần Dada trong một số thực Hồi,... trong tiểu thuyết. Có thể khó chịu
hành thơ đương đại, dù chúng có thể cực trước những sáng tác cực đoan như thế này
đoan, khiêu khích. Nhưng cái vơ nghĩa nhưng cũng cần nghĩ lại rằng ít nhất trong
mà thơ Dada từng trình hiện, trên thực tế, tiến trình văn học hiện đại, những bài Thơ
lại gợi ý cho nhiều thể nghiệm thơ ca thế mới đầu tiên, trong con mắt của nhiều độc
giới sau đó và điều này đã chứng minh qua giả vốn quen với những hình dung truyền
nhiều nghiên cứu có uy tín ([4], [7]). thống về thơ, cũng là những bài phản thơ
và phi thơ. Hoài Thanh trong Thi nhân Việt

Để các thể nghiệm văn chương được Nam thậm chí cịn nêu lên trường hợp tập
đẩy đến cùng, cần có một thái độ thích hợp: Thơ buông của Lê Khánh Đồng vốn bị đánh
biết bông đùa. Biết bông đùa tức là biết chơi giá rất thấp như “một trò cười” lại chứa
với những quy phạm tiền lập chứ không đựng trong đó những nhân tổ chuẩn bị cho
phải chỉ rập khuôn theo chúng, thậm chí có Thơ mới [21, tr.19].
thể giải thiêng những chuẩn mực quyền uy,
để nghệ thuật có thể tự do hơn, cá nhân hơn. Ba đặc điểm trên có lẽ chưa bao quát
Đặc điểm thứ ba này được thể hiện rõ nét được hết thực tiễn đa dạng và sống động

88 NGHIÊN CỬU VẰN HỌC, SỐ 10-2021

của những sáng tác theo tinh thần hậu hiện phản ánh, gợi mở cách nghĩ khác về quan
đại nhưng theo chúng tơi, đó là những đặc hệ giữa văn học và hiện thực, theo đó, tính
điểm phân biệt văn học giai đoạn này với tích cực chủ quan của nhà văn được nhấn
giai đoạn Đổi mới. Điều này cho thấy đã mạnh, chiều kích của hiện thực được mở
đến lúc cần phải nghiên cứu tiến trình văn mang cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Các
học Việt Nam từ 1986 theo từng chặng và nghiên cứu thi pháp học xóa bỏ định kiến
hai thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI chính về hình thức nghệ thuật vốn từng bị quan
là một mốc mới của văn học đương đại. niệm như là vỏ bọc của nội dung và chứng
minh tính tích cực sáng tạo của nghệ sĩ
Chủ nghĩa hậu hiện đại và tư duy nằm ở phương diện hình thức. Lý thuyết
phê bình vẫn học của Bakhtin giúp công chúng hiểu thêm về
tư duy tiểu thuyết, về cấu trúc đa thanh và
Sẽ là thiếu thỏa đáng khi phân tích tác xu hướng carnival trong văn học, từ đó,
động của việc dẫn nhập chủ nghĩa hậu hiện khiến người viết và người đọc tương tác
đại vào đời sống văn học đương đại mà với nhau theo mối quan hệ dân chủ hơn.
không bàn đến những ảnh hưởng của nó Nhiều hiện tượng văn học đã được hiểu
đối với tư duy phê bình văn học. Ở đây lại đúng về giá trị hơn nhờ những đột phá này
cần thiết phải đối sánh giữa những chuyển trong tư duy lý luận phê bình.
động trong tư duy phê bình văn học ở thời

điếm này với giai đoạn đầu Đổi mới. Như đã nói ở trên, sang đến đầu thế
kỷ XXI, việc dẫn nhập chủ nghĩa hậu hiện
Sự sôi động của cảnh quan văn học đại trở thành sự kiện học thuật mới. Do
Đổi mới không chỉ được tạo nên bởi những việc dịch, diễn giải về chủ nghĩa hậu hiện
sáng tác đột phá của Nguyễn Minh Châu, đại tập trung vào sự khai thông rộng rãi
Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị chưa từng có của nó đối với hoạt động thể
Hồi mà cịn bởi những thảo luận về những nghiệm, nên phê bình văn học thường tập
vấn đề lý luận và sự ra đời của những công trung vào các phương diện hình thức, kỹ
trình học thuật đánh dấu bước ngoặt trong thuật của sáng tác. Cách đọc, như đã nói,
tư duy nghiên cứu. Theo quan sát của có thể kiến tạo cách viết. Việc diễn giải chủ
chúng tơi, có ba cột mốc cần phải đặc biệt nghĩa hậu hiện đại đã dẫn đến việc nhiều
chú ý khi nghiên cứu về sự chuyển mình nghệ sĩ Việt Nam đón nhận nó với tinh
trong tư duy phê bình lý luận văn học thời thần: với hậu hiện đại, mọi thứ đều được
Đổi mới: 1- cuộc tranh luận về mối quan phép, trước hết là các phát kiến về hình
hệ giữa văn học và hiện thực; 2 - việc giới thức và thể loại. Tuy nhiên, sự dẫn nhập
thiệu và được đón nhận rộng rãi của thi chủ nghĩa hậu hiện đại đã tạo ra điều kiện
pháp học, gắn liền với người khởi xướng khả thể để một số thuật ngữ, ý niệm mới
- Trần Đình Sừ; 3 - việc dịch và giới thiệu xuất hiện, được vận dụng và đang chứng
các cơng trình nghiên cứu của Mikhail minh phần nào hiệu năng của chúng trong
Bakhtin. Ba cột mốc này đều tạo ra những thực tiễn lí luận, phê bình. Thí dụ, cặp
đổi mới quan trọng trong cách đọc văn và khái niệm “trung tâm’7 “ngoại biên” vốn
cách đọc mới có khả năng thúc đẩy cách hầu như không xuất hiện trong diễn ngôn
viết mới. Các nhà lý luận phê bình thơng lý luận, phê bình những năm 1990 nay
qua các thảo luận và nghiên cứu của mình lại được vận dụng nhiều trong việc mô tả
đã đòi hỏi một sự nhận thức lại về lý thuyết

Chủ nghĩa hậu hiện đại... 89

trường văn học; theo đó, trung tâm là các xu hướng giải trừ tính đặc tuyển về đối
hiện tượng, các giá trị văn hóa được cấp tượng trong nghiên cứu văn học hiện nay.

cho vị trí đặc quyền trong hệ thống văn hóa Mặt khác, cũng phải từ nền tảng của việc
dẫn nhập chủ nghĩa hậu hiện đại, một số
còn ngoại biên là các hiện tượng, giá trị bị trào lưu lý thuyết đương đại mới thật sự
dồn nén, loại trừ bởi trung tâm. Hướng tới bắt đầu được quan tâm và thể nghiệm trên
cái ngoại biên trở thành mối quan tâm của thực tiễn văn học và văn hóa Việt Nam.
nhiều nhà phê bình khi họ nhận thấy đây Chẳng hạn, cơng trình Orientalism của
chính là khu vực văn học năng động nhất, Edward Said đã được dịch và xuất bản
có khả năng làm rạn nứt nhiều quy phạm ở Việt Nam từ 1994 với tên gọi Đông
kiên cố nhất. Một khái niệm khác chỉ khi phương học. Thế nhưng phải đến những
chủ nghĩa hậu hiện đại được dẫn nhập mới năm đầu thế kỷ XXI, lý thuyết hậu thuộc
thực sự vận hành trong diễn ngơn lí luận, địa mới thật sự thành cú chạm tư duy đối
phê bình ở Việt Nam là “diễn ngơn”. Cách với giới nghiên cứu, bởi một trong những
tiếp cận văn học từ góc độ diễn ngơn trên đại tự sự mà hậu hiện đại muốn thách thức
thực tế thuộc về một hệ hình tư duy mới nhất chính là tính chất bá quyền của văn
thốt khỏi khung của các lý thuyết phản hóa phương Tây được xác lập và củng cố
ánh, hình thức luận, cấu trúc luận, theo đó, thơng qua q trình thuộc địa hóa các nền
văn học được hiểu như một quá trình tạo văn hóa ngồi phương Tây. Rộng hơn, lý
nghĩa và thương thỏa để nghĩa này được thuyết hậu thuộc địa cho phép nhìn lại mối
hiểu, được chấp nhận trong đời sống xã quan hệ bất cân xứng giữa các nền văn
hội, từ đó đi đến chất vấn các cơ chế quyền hóa trung tâm và ngoại vi, từ đó, thúc đẩy
lực ẩn chìm cho phép những khả thể tạo một cái nhìn phức tạp hơn, sâu sắc hơn
về những mối tiếp xúc, tương tác văn học,
nghĩa nào được hợp thức hóa trong khi lại văn hóa trong lịch sử Việt Nam. Tương tự,
trấn áp, loại trừ những khả thể khác. Cùng sự trỗi dậy của những mối quan tâm về lý
với khái niệm “diễn ngôn”, giai đoạn này thuyết giới như nữ quyền luận, đồng tính
chứng kiến mối quan tâm đến khu vực luận được tạo đà bởi sự thức nhận về tính
văn học mà ở thập niên 1990, chúng hầu cần thiết của việc chất vấn các đại tự sự
như nằm ngồi vùng phủ sóng của hoạt vốn thường đặt các giá trị văn hóa gắn với
động lí luận, phê bình văn học: văn hóa/ nam giới vào trung tâm.
văn học đại chúng. Chủ nghĩa hậu hiện

đại chủ trương xóa bỏ lằn ranh giữa văn Nhưng cũng chính ở đây, phải nhìn
hóa đặc tuyển và văn hóa đại chúng, bởi ra được giới hạn lớn nhất trong cách tiếp
ngay cả thực hành của văn hóa đại chúng thu chủ nghĩa hậu hiện đại ở Việt Nam
cũng tham gia vào kiến tạo mạng lưới ý giai đoạn này. Trong khi nó được diễn
nghĩa của đời sống. Khơng chỉ các hình dịch chủ yếu như một nhiệt tình, một
thức văn hóa mới xuất hiện của thời đại số nguồn cảm hứng cần thiết để kích thích
như văn học mạng mà cả một số thế loại ở sáng tạo, cách tân văn học thì nó lại ít
giai đoạn trước đó cịn bị xem là thể loại được nhấn mạnh như một phương pháp
bình dân, ít giá trị văn học như tiểu thuyết tư duy phê phán. Chính phương pháp tư
trinh thám, truyện tranh, văn chương ngôn duy phê phán này mới là mặt quan niệm
tình cũng trở thành đối tượng của nhiều của những cách tân của nghệ thuật hậu
thảo luận học thuật. Có thể nói đến một

90 NGHIÊN CỬU VĂN HỌC, SỐ 10-2021

hiện đại và có lẽ sự thiếu vắng chiều kích cấu trúc và các hoạt động cấu trúc hóa.
này trong văn học Việt ngữ đương đại là Điều này cũng khơng có nghĩa phủ nhận
điều mà Trần Vũ gọi ra một cách hình ảnh cấu trúc, khơng cần cấu trúc mà là để ý
- “chốn vắng tư duy”. thức rằng ngay cả cấu trúc cũng có những
lỗ hổng, những mâu thuẫn. Có thể là khắt
Cơng trình kinh điển về lý luận hiếm khe nhưng cũng không hẳn quá lời khi nói
hoi được dịch sang tiếng Việt là Hồn cảnh rằng các thực hành phê bình văn học Việt
hậu hiện đại của Lyotard và ông cũng là Nam, ngay kể cả khi chúng ủng hộ các thể
học giả hậu hiện đại được trích dẫn trong nghiệm mang tinh thần hậu hiện đại, cũng
hầu hết các chuyên luận, chuyên khảo rơi vào “chốn vắng tư duy”.
về văn học hậu hiện đại bằng tiếng Việt.
Nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam trong Những giới hạn trong việc tiếp thu
khi thường dẫn định nghĩa của Lyotard chủ nghĩa hậu hiện đại trên cả bình diện
về tâm thức hậu hiện đại như là sự hoài sáng tác và lí luận phê bình mà bài viết
nghi các đại tự sự thì lại ít quan tâm đến đã chỉ ra không đồng nghĩa với việc quy

phương pháp mà ông khai triển để phê kết rằng đây là một thực trạng ngộ nhận
phán các đại tự sự này. Đối tượng của tư về lý thuyết, đáng báo động. Ngược lại,
duy phê phán trong cuốn sách ra đời vào việc dẫn nhập chủ nghĩa hậu hiện đại vào
năm 1979 là hoàn cảnh của tri thức trong Việt Nam thời gian qua đã đóng vai trị xúc
mối quan hệ với các tự sự/ các chuyện kể tác hiệu quả trong việc tạo ra những thay
vốn được xem như hệ quy chiếu lớn nhất đổi quan trọng trong cảnh quan văn học
để họp thức hóa một nhận thức. Sự hợp nghệ thuật. Đe có những điều chỉnh hợp lý
thức hóa một tri thức, xét đến cùng, là hợp hơn, cần phải thúc đấy các cơng việc dịch
thức hóa một luật chơi và việc phát ngôn thuật cũng như mở ra những không gian
được coi như là một nước đi trong trò chơi, rộng rãi hơn cho các thảo luận lí luận, phê
do đó, các phát ngơn ln sống trong tình bình. Nói một cách khác, cần phải gia tăng
trạng ganh đùa, đấu tranh, đối chọi. Một ý thức chất vấn hơn nữa trong việc tiếp thu
phát ngơn thắng thế ln bị điều kiện hóa và thực hành hậu hiện đại ở Việt Nam. Và
bởi các bối cảnh, do đó, phê bình tri thức đây chính là khía cạnh quan trọng nhất của
chính phơi bày được các cơ chế điều kiện tâm thức hậu hiện đại.
hóa nhiều khi rất bất cơng này. Đó là lý do
tại sao phương pháp của giải cấu trúc lại Tài liệu tham khảo
thường đi liền với tư duy hậu hiện đại. Nó [1] Lê Huy Bắc (2015), Văn học hậu hiện đại -
bóc trần những nghịch lý ngay trong tính Lý thuyết và tiếp nhận, Nxb. Đại học Sư phạm,
mạch lạc của hệ thống, những dị biệt bị Hà Nội.
làm cho vơ hình, vắng mặt trong cấu trúc [2] Nguyễn Văn Dân (2005), “Chủ nghĩa hậu hiện
của văn hóa, nó phát lộ những bất cơng, đại hay là hiện tượng chồng chéo khái niệm”, in
thiên lệch trong các thiết chế đang tồn tại, trong Văn học hậu hiện đại thế giới - Những vấn
đang được duy trì để cấp đặc quyền cho đề lý thuyết, Trung tâm Ngôn ngữ - Văn hóa Đơng
một bộ phận nào đó. Giải cấu trúc, vì thế, Tây & Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.
khơng phải là giải thích cấu trúc như đã [3] Nguyễn Hồng Dũng (2016), Ảnh hưởng của
thể hiện trong một số thực hành phê bình chủ nghĩa hậu hiện đại đối với tiểu thuyết Việt
ở Việt Nam thời gian qua, mà là phê bình Nam từ 1986 đến 2010, Luận án Tiến sĩ ngữ văn,
Đại học Khoa học Huế.


Chủ nghĩa hậu hiện đại... 91

[4] Stephen Forcer (2015), “The Importance of [16] Jean - Franpois Lyotard (2007), Hoàn cảnh
Talking Nonsense: Tzara, Ideology, and Dada hậu hiện đại (Ngân Xuyên dịch, Bùi Văn Nam
in the 21st Century”, in trong Dada and Beyond, Sơn hiệu đính), Nxb. Tri thức, Hà Nội.
Elza Adamowicz & Eric Robertson (chủ biên), [17] Lã Nguyên (2018), “Những dấu hiệu của
Brill Publishing. chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam
qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm
[5] Phan Nhiên Hạo (2004), “Mới-Cũ trong thơ Thị Hồi”, in trong Phê bình văn học - Đọc văn
và Hậu hiện đại”, nguồn: awas. như là hành trình tải thiết ngôn ngữ, Nxb. Phụ
org/talaDB/showFile.php?res=1634&rb=0101. nữ, Hà Nội.
[6] Phan Nhiên Hạo (2008), “Stuckism chống [18] Nguyễn Hưng Quốc (1996), Thơ, v.v &
Nghệ thuật Ý niệm và Hậu hiện đại”, nguồn: v.v..., Văn nghệ, Hoa Kỳ.
[19] Nguyễn Hưng Quốc (2007), “Chủ nghĩa
=14610&rb=0106. h(ậu h)iện đại và văn học Việt Nam”, in trong
Tuyển tập Tiền Vệ 1, Nguyễn Hưng Quốc &
[7] O.B.Jr. Hardison (1984), “Dada, The Poetiy Hoàng Ngọc -Tuấn chủ biên, Australia: Tiền Vệ.
of Nothing, and the Modem World”, The
Sewanee Review, Vol.92, No. 3. [20] Nguyễn Hưng Quốc (2010), Văn học Việt
[8] Hoàng Ngọc Hiến (2004), “Thế kỷ XX: Nam thời tồn cầu hóa, Văn Mới, Hoa Kỳ.
Từ chủ nghĩa hiện đại đến chủ nghĩa cổ điển
mới”, nguồn: [21] Bùi Văn Nam Sơn (2007), “Lyotard với tâm
showFile.php?res=3384&rb=0106. thức và hoàn cảnh hậu - hiện đại”, in trong: Jean
[9] Như Huy (2008), “Tác phẩm Mùa sạch qua - Franẹois Lyotard, Hoàn cảnh hậu hiện đại,
góc nhìn của nghệ thuật khái niệm”, in trong Nxb. Tri thức, Hà Nội.
Trần Dần - Thơ, Vũ Văn Kha biên soạn, Nhã
Nam & Nxb. Đà Nằng. [22] Hoài Thanh (1995), Thi nhân Việt Nam, Tái
[10] Inrasara (2019), Thơ Việt - từ Hiện đại đến bản, Nxb. Văn học, Hà Nội.
Hậu hiện đại, Lotus Media. [24] Phùng Gia Thế (2016), Những dấu hiệu của
chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn xuôi Việt Nam

[ 11 ] I.p. Hin (2005), “Chủ nghĩa hậu hiện đại - một đương đại (Giai đoạn 1986-2012), Nxb. Đại học
số khái niệm và thuật ngữ” (Đào Tuấn Ảnh dịch), Quốc gia, Hà Nội.
in trong Văn học hậu hiện đại thế giới - Những
vấn đề lý thuyết, Trung tâm Ngơn ngữ - Văn hóa [25] Hoàng Ngọc- Tuấn (2003), “Stefan Wolpe
Đông Tây & Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội. và bài giảng ứng khẩu về Dada”, nguồn: http://
tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?
[12] Thụy Khuê (2018), “Hậu hiện đại: Thực action=viewArtwork&artworkld= 1072.
chất và ảo tượng”, in trong: Thụy Khuê, Phê [26] Hoàng Ngọc- Tuấn (2005), “Viết: từ hiện
bình văn học thế kỷ XX, Nhã Nam & Nxb. Hội đại đến hậu hiện đại”, in trong Văn học hậu hiện
Nhà văn, Hà Nội. đại thế giới - Những vấn đề lý thuyết, Trung tâm
Ngơn ngữ - Văn hóa Đơng Tây & Nxb. Hội Nhà
[13] Barry Lewis (2005), “Chủ nghĩa hậu hiện văn, Hà Nội.
đại và văn chương” (Hoàng Ngọc -Tuấn dịch), [27] Trần Vũ (2002), “Hợp Lưu 12 năm - Trang
in trong Văn học hậu hiện đại thế giới - Những tôn kinh huyền hoặc hậu hiện đại”, nguồn:
vấn đề lý thuyết, Trung tâm Ngơn ngữ - Vãn hóa />Đông Tây & Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội. res= 1295&rb=o 102.

[14] Greg Lockhart (1989), “Tại sao tôi dịch
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ra riếng Anh?”,
Tạp chí Văn học, số 4,

[15] Jean - Franqois Lyotard (1993), “An Answer
to the Question, What is Postmodem?”, in trong
The Postmodern Explained, Correspondence
1982-1985, Mineapolis & London: University
of Minnesota Press.


×